Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên – Huế phục vụ phát triển du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ với nhiều ngành dịch vụ phong phú, trong đó, du lịch làng nghề truyền thống đang trở thành hướng đi mới đầy triển vọng. Là một nước có nền văn hóa nông nghiệp gắn liền với các làng nghề truyền thống, với những hình ảnh mang đậm bản sắc về đất nước và con người Việt Nam. Du lịch làng nghề truyền thống là một phương hướng hoạt động hợp lý với tiềm năng sẵn có ở nước ta. Phát triển du lịch làng nghề truyền thống không những góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; quảng bá và giới thiệu hình ảnh cuộc sống và con người Việt Nam với các nước trên thế giới; mà đó, cũng chính là cách để mỗi làng nghề trên mọi miền đất nước giữ gìn được bản sắc truyền thống mà cha ông để lại.
Theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, các làng nghề truyền thống của Việt Nam chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng, vốn là cái nôi của nền tảng văn hóa dân tộc. Hiện nay, theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, cả nước có 5.411 làng nghề và làng có nghề trong đó có gần 2000 làng nghề đã được công nhận theo tiêu chí làng nghề hiện nay của Chính phủ, trên 400 làng nghề truyền thống với hơn 53 nhóm nghề, trong đó số lượng làng nghề truyền thống của miền Trung chiếm khoảng 30% trong tổng số làng nghề truyền thống của cả nước [16]. Tuy số lượng các làng nghề truyền thống ở Trung bộ khá khiêm tốn, nhưng các làng nghề ở đây có những nét độc đáo riêng, tạo nên sức hấp dẫn để thu hút khách du lịch và tỉnh Thừa Thiên – Huế chính là nơi có nhiều tiềm năng thuận lợi để phát triển loại hình du lịch này.
Thừa Thiên – Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước, có điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái vô cùng đa dạng, phong phú, với rất nhiều thắng cảnh nổi tiếng. Huế còn là cố đô duy nhất của nước ta còn giữ lại gần như nguyên vẹn một tổng thể kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng, với hàng loạt các công trình kiến trúc độc đáo được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Với những ưu ái được ban tặng như trên thì du lịch đang ngày càng trở thành ngành kinh tế mũi nhọ của tỉnh. Vì vậy, trong những năm gần đây loại hình du lịch làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế đang có sức hút đối với du khách cả ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên, việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh hiện nay chưa được chú trọng và khai thác tương xứng với tiềm năng vốn có nhằm đưa vào phục vụ du lịch.
Trước thực tế trên, với mong muốn tìm hiểu về một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế và từ đó đưa ra một số giải pháp giúp phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch tại tỉnh, người viết đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên – Huế phục vụ phát triển du lịch” cho khóa luận của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Về mục đích nghiên cứu, người viết lựa chọn xây dựng đề tài này nhằm tôn vinh những giá trị và vai trò, đóng góp của những làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế. Qua việc phản ánh chân thực, khách quan thực trạng khai thác du lịch tại đây, khóa luận sẽ cố gắng tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế phục vụ du lịch trong thời gian tới. Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Tổng quan những vấn đề về làng nghề, làng nghề truyền thống, loại hình du lịch làng nghề ở nước ta và kinh nghiệm khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở một số tỉnh, thành phố trong nước cũng như ở các quốc gia láng giềng.
- Giới thiệu khái quát về tỉnh Thừa Thiên – Huế cũng như các làng nghề truyền thống và đi sâu tìm hiểu thực trạng du lịch tại một số làng nghề tiêu biểu trên địa bàn tỉnh hiện nay trong bối cảnh phát triển du lịch chung của tỉnh.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả khai thác các làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế phục vụ du lịch.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu đối tượng là một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế như: làng tranh Sình, làng nghề nón lá Thủy Thanh, làng đúc đồng ở Phường Đúc và làng gốm Phước Tích
Trong phạm vi nghiên cứu, về không gian: Khóa luận nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế nơi có điều kiện thuận lợi, phù hợp khai thác loại hình du lịch làng nghề. Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu trong gian đoạn từ năm 2010 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Để thực hiện khóa luận, người viết đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin, số liệu: Thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu được thu thập từ việc sưu tầm, thu thập từ sách báo, tạp chí, mạng Internet… có liên quan đến nội dung đề tài. Phương pháp này còn sử dụng để thu thập các nguồn thông tin, tài liệu sẵn có từ các Sở, ban ngành liên quan như: Tài liệu thống kê của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế, Sớ Công thương Tỉnh Thừa Thiên – Huế,… Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, người viết thực hiện chọn lọc thông tin, hệ thống hóa, xử lý để rút ra những nội dung cần thiết đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp thống kê, mô tả: Phương pháp này được sử dụng trong việc thống kê các số liệu của hoạt động du lịch như lượt khách, doanh thu, các chỉ tiêu kinh tế là những số liệu mang tính định lượng. Trên cơ sở khai thác từ những nguồn khác nhau, các số liệu được đưa vào mô tả, xử lý để đúc kết thành những đánh giá, kết luận mang tính thực tiễn cao.
Phương pháp phân tích, so sánh: Các nguồn tin thu thập được trong quá trình viết khóa luận, người viết sẽ phân tích cụ thể từng vấn đề. Bên cạnh đó, đưa ra sự so sánh về thực trạng hay những hiệu quả đạt được giữa các làng nghề truyền thống để người đọc nhận biết sự khác nhau trong quá trình phát triển của các làng nghề phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
5. Kết cấu đề tài Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh ,mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì khóa luận có nội dung chính gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
- Chương 2: Tìm hiểu một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên – Huế và thực trạng khai thác trong những năm gần đây (2010 – 2018)
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác các làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên – Huế phục vụ phát triển du lịch
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về loại hình du lịch làng nghề
1.1.1. Khái niệm về làng nghề truyền thống và loại hình du lịch làng nghề
1.1.1.1. Khái niệm về làng nghề truyền thống
Làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra làng nghề truyền thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa văn hóa, văn nghệ dân gian, được bồi đắp qua nhiều năm và là nơi lưu giữ những giá trị có hàm lượng lịch sử tinh thần đặc sắc của dân tộc. Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội lâu đời. Văn hóa làng nghề luôn gắn với làng quê, các hoạt động lễ hội, phường hội mang đận nét dân gian, chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những làng nghề truyền thống vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay làng minh chứng cho sức sống mãnh liệt của mạch nguồn văn hóa được kết tinh qua mấy ngàn năm.
Từ xa xưa, do đặc thù nền sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có nhiều lao động tham gia đã khiến cư dân Việt cổ sống quần tụ lại với nhau thành từng cụm dân cư đông đúc, dần hình thành nên làng xã. Trong từng làng xã đã có cư dân sản xuất các mặt hàng thủ công, lâu dần lan truyền ra cả làng, xã, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo kiểu nghề nghiệp, tạo thành các phường, hội như: phường gốm, phường đúc đồng, phường dệt vải… Từ đó, các nghề thủ công được lan truyền và phát triển thành làng nghề. Làng nghề truyền thống vốn dĩ là một đề tài rất thú vị, đã có rất nhiều nhà văn hóa nghiên cứu về đề tài này. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Theo Tiến sĩ Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam” [11,tr9] thì làng nghề được định nghĩa như sau: “Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, kỉ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương”.
Làng nghề theo cách phân loại về thời gian gồm có: làng nghề truyền thống và làng nghề mới. Tuy nhiên, khóa luận này chỉ đi sâu tìm hiểu định nghĩa làng nghề truyền thống vì có nhiều ý nghĩa trong phát triển du lịch. Theo thông tư 116/ 2016 TT – BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tiêu chí xác định làng nghề được công nhận bao gồm 3 tiêu chí: Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước [18]. Cũng trong thông tư 116/ 2016 TT – BNN đề cập đến tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống trong đó, phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống đạt tiêu chí nghề như sau: Thứ nhất, nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận. Thứ hai, nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc. Thứ ba, nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về làng nghề truyền thống. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, ông cho rằng: “Làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương… Song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài” [17].
Như vậy, làng nghề ở đây không nhất thiết là tất cả mọi người dân trong làng đều sản xuất thủ công, người thợ thủ công cũng có thể là người nông dân làm thêm nghề phụ trong lúc nông nhàn. Tuy nhiên do yêu cầu về tính chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ thủ công chuyên nghiệp, chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại quê hương của mình.
Nghiên cứu một làng nghề thủ công truyền thống là phải quan tâm đến nhiều mặt, tính hệ thống, toàn diện của làng nghề thủ công truyền thống đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân của làng, sản phẩm thủ công, thủ pháp kĩ thuật sản xuất và nghệ thuật. Làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính lâu đời, được truyền đi truyền lại qua các thế hệ, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là bán lẻ, họ có cùng tổ nghề, các thành viên luôn có ý thức tuân theo những hương ước, chế độ, gia tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử phát triển đã hình thành nghề ngay trên đơn vị cư vị cư trú của xóm của họ. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Tóm lại, có thể quan niệm đầy đủ về làng nghề truyền thống là: “Những làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hóa trên thị trường” [6, tr.15].
1.1.1.2. Khái niệm về loại hình du lịch làng nghề
Trong bối cảnh hiện nay, du lịch làng nghề được coi như là một trong những loại hình du lịch văn hóa chất lương cao, bởi lẽ, làng nghề truyền thống được xem như một tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa, một bảo tàng sống, nơi lưu giữ kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vừa phong phú, đa dạng, vừa sinh động, cụ thể, góp phần làm nên hệ giá trị của nền văn hóa dân tộc.
Du lịch làng nghề truyền thống được nhiều chuyên gia đánh giá là loại hình du lịch có nhiều tiềm năng ở nước ta. Hình thức du lịch này chứa đựng và truyền tải được cuộc sống lao động, phát triển của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Đến với những sản phẩm du lịch làng nghề, du khách có thể tiếp nhận, thưởng thức từ các chương trình kiến trúc, sản phẩm và công cụ sản xuất. Loại hình du lịch làng nghề thuộc phạm trù của du lịch văn hóa. Do vậy, khi xem xét khái niệm này, cần phải đi từ khái niệm du lịch văn hóa.
Theo Luật du lịch Việt Nam thì: “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [19]. Còn theo Tiến sĩ Trần Nhạn trong cuốn “ Du lịch và kinh doanh du lịch”, ông đưa ra quan điểm về du lịch văn hóa như sau: “Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà du khách muốn thấm nhận bè dày lịch sử, di tích văn hóa, những phong tục tập quán hiện diện bao gồm hệ thống đình, chùa, nhà thờ, lễ hội, các phong tục tập quán về ăn, mặc, ở, giao tiếp” [8]. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Có thể thấy rằng, làng nghề truyền thống là nơi chứa đựng kho tàng kinh nghiệm kỹ thuật, bí quyết nghề thủ công truyền thống từ việc sử dụng nguyên liệu đến cách chế tác để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Đó chính là nét văn hóa phi vật thể của làng nghề truyền thống. Ngoài ra, làng nghề truyền thống còn có những giá trị văn hóa vật thể khác như: đình, chùa, các di tích có liên quan trực tiếp đến làng nghề, các sản phẩm thủ công của làng nghề. Khách du lịch đến đây chính là để tìm hiểu về các giá trị văn hóa đó, vì vậy mà loại hình du lịch làng nghề được xếp vào loại hình du lịch văn hóa.
Từ đó, có thể định nghĩa về loại hình du lịch làng nghề như sau: Du lịch làng nghề là một loại hình du lịch văn hóa mà qua đó du khách được thẩm nhận những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, liên quan mật thiết với một làng nghề nào đó, mang lại lợi ích kinh tế, góp phần tôn vinh và bảo tổn những giá trị ấy.
Như vậy, làng nghề truyền thống ngày nay không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống mà còn là môi trường văn hóa, lưu giữ tinh hoa nghệ thuận, phong tục tập quán của cộng đồng người Việt. Với hệ giá trị này, du khách trong và ngoài nước đến với các làng nghề ngoài mục đích tham quan, họ đến còn để cảm nhận sự bền bỉ, kiên trì, sáng tạo của biết bao thế hệ làm nghề, với bàn tay và khối óc được hun đúc trong các sản phẩm nghề truyền thống.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của làng nghề truyền thống Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
1.1.2.1. Đặc điểm của làng nghề truyền thống
Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề truyền thống Việt Nam là tồn tại nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện trong từng làng xã ở nông thôn sau đó các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản xuất nông nghiệp và sản xuất – kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau. người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân.
Phần đông lao động trong các làng nghề nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia, do trình độ khoa học và công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ công, giản đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ, việc ứng dụng khoa học – công nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt được lượng lao động thủ công, giản đơn. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có một số công đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong các gia đinh từ đời này sang đời khác và chỉ khuôn lại trong từng làng. Sau hòa bình lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dậy nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong phú hơn.
Về hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân. Trong quá khứ cũng như hiện nay, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong các làng nghề là hộ gia đình. Với hình thức này, hầu như tất cả các thành viên trong hộ đều được huy động tham gia các công việc khác nhau trong quá trình sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống. Người chủ gia đình đồng thời là người thợ cả, mà trong số họ, không ít người là những nghệ nhân lâu năm, tùy vào công việc, hộ gia đình có thể thuê mướn thêm những lao động thường xuyên hoặc lao động thời vụ. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Tổ chức kinh doanh theo hộ gia đình đảm bảo được sự gắn bó giữa quyền lợi và trách nhiệm, huy động được mọi lực lượng có khả năng tham gia lao động, tận dụng được thời gian và nhu cầu đầu tư thấp (sử dụng ngay nhà ở làm nơi sản xuât). Đây là hình thức tổ chức sản xuất thích hợp với quy mô nhỏ. Tuy nhiên mô hình này cũng gây ra hạn chế đến khả năng phát triển kinh doanh. Sản xuất theo mô hình nhỏ khó có thể nhận được các hợp đồng đặt hang lớn, không mạnh dạn cải tiến mẫu mã sản phẩm, không đủ tầm nhìn định hướng phát triển hoặc đề ra các chiến lược kinh doanh cho sản phẩm của mình.
Về công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ – kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ, mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hóa và điện khí hóa từng bước trong sản xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều nghề có khả năng cơ giới hóa được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm. Bên cạnh công nghệ sản xuất thô sơ thì đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ. Hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương. Cũng có thể có một số nguyên liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm nhưng không nhiều.
Về các sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thống thì sản phẩm thường mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Các sản phẩm làng nghề truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở nhà nước… Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt được đâu là gốm sứ bát tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Đông Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống đồng và các họa tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các bức thêu… Tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hóa tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề, hầu hết mang tính địa phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của các địa phương. Ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh và một phần cho xuất khẩu.
Như vậy, các sản phẩm thủ công truyền thống của làng nghề Việt Nam vừa mang những nét văn hóa chung của dân tộc, lại vừa có nét độc đáo riêng biệt của làng nghề. Làng nghề truyền thống hiện nay, không chỉ là đơn vị kinh tế, thực hiện sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu mà còn mang rất nhiều điểm đặc sắc, là biểu trưng nền văn hóa cộng đồng của người Việt.
1.1.2.2. Vai trò của làng nghề truyền thống
Các làng nghề truyền thống đang dần khôi phục và phát triển, thể hiện vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế cũng như trong đời sống văn hóa của người Việt. Sau đây, xin được đề cập đến những vai trò chính của làng nghề truyền thống ở nước ta.
Vai trò của làng nghề truyền thống đối với kinh tế – xã hội
Trước tiên, làng nghề truyền thống đóng vai trò nhất định trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành kinh tế phi nông nghiệp trong tỷ trọng kinh tế nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, các làng nghề truyền thống đã góp phần tích cực trong việc làm gia tăng tỷ trọng của nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp, chuyển đổi nguồn lao động nông thôn từ sản xuất nông nghiệp với thu nhập thấp sang sản xuất phi nông nghiệp với thu nhập cao hơn. Sự tác động này tạo ra một nền kinh tế đa dạng ở nông thôn, với sự thay đổi về cơ cấu và phong phú về sản phẩm. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Hàng năm các làng nghề truyền thống sản xuất ra một khối lượng hàng hóa lớn với tốc độ tăng trưởng của làng nghề lên tới 20% một năm [6], điều này đã thúc đậy sản xuất hàng hóa ở nông thôn phát triển. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá trị sản phẩm của một làng nghề truyền thống bình quân hiện nay đạt khoảng 25 – 30 tỷ đồng/ năm. Thực tế cho thấy, địa phương nào cói nhiều làng nghề thì kinh tế hàng hóa phát triển, tạo sự gia tăng giá trị sản phẩm cho địa phương. Hiện nay, có đến 60 – 70% sản phẩm làng nghề tiêu thụ trong nước, 30 – 40% sẩn phẩm xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài [20].
Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở ngành nghề nông thôn bằng – 4 lần so với thu nhập bình quân của lao động nông nghiệp thuần [20]. Ở các làng nghề không còn hộ đói, hộ nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ và hộ giàu ngày càng tăng. Trên cơ sở tạo ra việc làm, tăng thêm thu nhập, nghề truyền thống được coi là động lực để tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao phúc lợi cho người dân.
Vai trò của làng nghề truyền thống đối với văn hóa – du lịch
Làng nghề truyền thống là môi trường văn hóa tiêu biểu, nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật, bí quyết và công nghệ sản xuất truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Tại đây, nghề truyền thống có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần, tâm tư, tình cảm, cũng như tác động tới phong tục, tập quán của người dân trong làng. Các sản phẩm của làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị truyền thống, văn minh lâu đời. Sản phẩm thủ công của làng nghề truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, mang nét đặc sắc riêng biệt với các dân tộc khác trên thế giới, nó là dấu ấn di sản văn hóa quý báu mà cha ông ta để lại cho thế hệ sau. Với những đặc điểm đặc biệt ấy, chúng không còn là hàng hóa đơn thuần mà đã trở thành sản phẩm văn hóa với tính nghệ thuật cao. Chính vì vậy, làng nghề truyền thống đã góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc trong chính những sản phẩm thủ công truyền thống. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Trong du lịch, làng nghề truyền thống góp phần tạo ra những điểm đến du lịch đặc trưng, mở rộng hình thức liên kết và hợp tác trong phát triển du lịch ở địa phương. Điểm đến du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Tour du lịch làng nghề là dịp được khám phá, tìm hiểu quy trình kỹ thuật của nghề truyền thống, thâm nhập cuộc sống cộng đồng với những phong tục, tập quán và các nghi thức phường, hội riêng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước. làng nghề truyền thống với những đặc điểm đặc trưng, không gian và văn hóa của mình đã góp phần tạo nên những điểm đến du lịch mới, hấp dẫn khách du lịch hơn.
Với vai trò là điểm đến du lịch, làng nghề truyền thống đã mở rộng sự liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch ở địa phương. Trong xu hướng phát triển du lịch hiện đại, các làng nghề truyền thống đã có sự liên kết với nhau để tạo ra một hệ thống làng nghề truyền thống phục vụ du lịch đặc sắc, đặc trưng nổi bật, thu hút khách du lịch; đồng thời đối với các công ty du lịch lữ hành cũng liên kết, hợp tác với các làng nghề truyền thống để thực hiện tour du lịch làng nghề truyền thống cho khách du lịch. Các công ty này có thể là ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Chính điều này, làng nghề truyền thống đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng liên kết, hợp tác vừa ở trong nước, vừa ở nước ngoài, góp phần phát triển du lịch địa phương.
Tóm lại, các làng nghề truyền thống có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa, trong sự nghiệp phát triển du lịch và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, vai trò của làng nghề truyền thống còn ở việc khai thác nguồn nhân lực nông thôn, tạo thêm việc làm và thu hút nguồn lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế cho các hộ sản xuất, làng nghề và địa phương.
1.2. Kinh nghiệm trong việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở các quốc gia và ở trong nước Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
1.2.1. Ở một số quốc gia trong khu vực
1.2.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Oita, Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia có nền công nghiệp tiên tiến nhưng vẫn chú trọng phát triển các ngành nghề truyền thống. Ở Nhật Bản, bên cạnh các ngành công nghiệp hiện đại với quy mô lớn, các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn và các hộ gia đình làm nghề thủ công vẫn được quan tâm phát triển. Nhiều làng nghề ở Nhật Bản với các nghề thủ công truyền thống đa dạng vẫn tồn tại và hoạt động hiệu quả đến nay.
Cuối những năm 70 của thế kỷ 20, khi Nhật Bản đã cơ bản thực hiện xong công cuộc công nghiệp hóa đất nước, các ngành công nghiệp đã được hình thành và phát triển ở khu vực thành phố tạo nên sự thu hút mạnh mẽ về lao động từ các vùng nông thôn, trong đó có tỉnh Oita. Oita là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam Nhật Bản, cách thủ đô Tokyo khoảng 500 km. Thế hệ trẻ ở đây sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề đều không muốn trở về vùng nông thôn nơi họ đã được sinh ra và lớn lên mà muốn ở lại các thành phố và trung tâm công nghiệp.
Đứng trước tình hình đó, đã có nhiều đề xuất một loạt sáng kiến để khôi phục lại kinh tế của Oita, trong đó có phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”. Một loạt những quy định của pháp luật ra đời nhằm khôi phục và phát triển nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống gọi tắt là “Luật nghề truyền thống” [15]. Phong trào được thực hiện theo 3 nguyên tắc cơ bản để phát triển, đó là: Hành động địa phương nhưng suy nghĩ toàn cầu; Tự tin và sáng tạo; Phát triển nguồn nhân lực. Mỗi địa phương, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình lựa chọn ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa phương để phát triển. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Trong phong trào ở tỉnh Oita, người ta có thể tìm ra những sản phẩm rất bình dị trong cuộc sống như nấm Shitake và các sản phẩm từ sữa bò, hàng gỗ mỹ nghệ ở thị trấn Yufuin, cam, cá khô ở làng Yonouzu, chè và măng tre ở làng Natkatsu [15]… Trong 20 năm kể từ năm 1979 – 1999, phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” đã tạo ra được 329 sản phẩm với tổng doanh thu là 141 tỷ yên/ năm (trên 1.1 tỷ USD hay 19.000 tỷ đồng Việt Nam). Bên cạnh đó, việc tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm của các làng nghề truyền thống nơi đây là một vấn đề luôn được quan tâm, bởi vì đó là yêu cầu cơ bản của các quy luật kinh tế thị trường. Tỉnh Oita đã có rất nhiều sáng kiến bán hàng được áp dụng như các sản phẩm của Hợp tác xã nông nghiệp Oyama đã được trưng bày riêng một khu vực gọi là “Konohana Garten” và bán với hình thức các hợp tác xã đưa hàng đến giao cho siêu thị hàng ngày. Với các mặt hàng tươi sống (như rau, nấm, cá), nếu không bán hết và chất lượng có sự suy giảm sẽ được các hợp tác xã thu lại trong những lần đến giao hàng tiếp theo – đảm bảo yêu cầu của thị trường về chất lượng hàng hóa – một yếu tố thành công của việc tiếp thị sản phẩm của phong trào.
Bên cạnh việc giới thiệu nghề truyền thống thông qua báo chí, sách vở, áp phích để thu hút sự quan tâm của khách du lịch về ngành nghề và sản phẩm truyền thống. Chính quyền địa phương ở Oita còn tổ chức triển lãm nghề truyền thống để giới thiệu và quảng cáo làng nghề truyền thống của tỉnh. Tổ chức các hội thi, triển lãm, nhằm khai thác nhu cầu tiềm năng của hàng công nghệ truyền thống. Tổ chức “Tháng công nghệ truyền thống” vào tháng 11 hàng năm [15]. Nhân dịp này tiến hành triển lãm và trưng bày sản phẩm, mở các cuộc thi tài năng, các chiến dịch quảng cáo về nghề truyền thống. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Có thể nói, để tạo ra các sản phẩm chất lượng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người Nhật Bản cũng như của du khách không phải là chuyện đơn giản, chính vì vậy, song hành với việc phát triển mỗi làng một nghề chính là việc phát triển các trung tâm nghiên cứu và đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh. Như vậy, với ý chí vươn lên, tính tổ chức khoa học, việc sử dụng nguồn tài nguyên hết sức hiệu quả của người dân Nhật Bản trong xây dựng và phát triển cộng đồng nói chung và phát triển làng nghề nói riêng, ở tỉnh Oita đã tạo ra được nhiều tiền đề vững chắc để phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch và có nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về phát triển sản phẩm, thị trường, nguồn nhân lực.. cho các tỉnh khác ở Nhật Bản thực hiện, cũng như cho các nước khác vận dụng tùy vào điều kiện cụ thể của mình.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan, việc tổ chức lại các làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước như: góp phần bảo tồn và nâng cao tay nghề các nghệ nhân, gìn giữ giá trị truyền thống của dân tộc, tạo công ăn việc làm ở nông thôn, ngăn chặn làn sóng di cư vào các đô thị lớn, tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm du lịch, phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thái Lan có khoảng 70.000 làng nghề thủ công. Mỗi làng nghề có một hay nhiều sản phẩm, nghĩa là mỗi làng có những đặc trưng riêng về công nghệ sản xuất độc đáo, giá trị truyền thống đặc trưng kết tinh trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ và đã trở thành nét đặc trưng, độc đáo của từng làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó, chính phủ hỗ trợ kết nối địa phương với toàn cầu, thông qua việc hỗ trợ tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hoàn tất đóng gói, tiếp thị, tổ chức kênh phân phối ở nước ngoài [3].
Từ đó, để thúc đẩy các làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch phát triển, Chính phủ Thái Lan đã phát động phong trào “One Tambon, One Product” hay còn gọi là “Thai Tambon Project” (tiếng Thái “Tambon” nghĩa là “làng”). Phong trào này được giới thiệu tại Thái Lan vào năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 10 năm 2001. Ý tưởng “mỗi làng một sản phẩm” (One Village One Product Movement) viết tắt là OVOP, được khởi xướng và bắt đầu triển khai ở Oita (Nhật Bản) từ năm 1979. Sau đó, một số nước ở Châu Á đã áp dụng mô hình này và được đổi thành OTOP (One Town One Product, hoặc One Tambon One Product), có nghĩa là mỗi thị trấn hay mỗi địa phương một sản phẩm.
Những sản phẩm này dựa vào nguồn nguyên liệu ở địa phương, cộng với kỹ năng, kỹ xảo của các thợ thủ công được truyền từ đời này sang đời khác ở các làng nghề truyền thống ở từng địa phương để làm ra các loại sản phẩm thủ công đặc trưng của từng địa phương như đồ mỹ nghệ, hàng may mặc, đồ gốm, đồ gia dụng, thực phẩm,… phục vụ người tiêu dùng, khách du lịch, kể cả xuất khẩu. Tùy nơi, hàng hóa mang nhãn hiệu OTOP được chính phủ giảm thuế, hoặc miễn thuế. Trong chương trình một tour du lịch hiện đại, việc đưa du khách đến mua sắm ở những cửa hàng OTOP là việc làm cần thiết. Sự phong phú và hấp dẫn của các sản phẩm này đã làm cho du khách không còn thời gian để cân nhắc chi tiêu của mình. Thái Lan là nước phát triển OTOP rất thành công. Với chính sách khuyến khích và hỗ trợ của Chính phủ Thái Lan, hiện nay ở Thái Lan có khoảng 36.000 mô hình OTOP, mỗi mô hình tập hợp từ 30 đến 3.000 thành viên tham gia. Sự phát triển OTOP đã giúp nghề thủ công truyền thống của Thái Lan được duy trì [3]. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Nó đã giúp cho người dân Thái Lan giải quyết được công ăn việc làm, làm ra nhiều sản phẩm đặc sắc của từng địa phương, góp phần tăng thu nhập cho người dân tham gia và điều quan trọng là giữ được giá trị tri thức truyền thống trong văn hóa lâu đời của họ. Trên cơ sở đó, Chính phủ Thái Lan sẽ tiếp tục giúp các cộng đồng địa phương nâng cao chất lượng sản phẩm theo chương trình OTOP để có thể tăng doanh thu thông qua việc chỉ thị cho các trường đại học mở các phòng vi tính tạo phần mềm thiết kế các mẫu sản phẩm OTOP, đồng thời lập ra các trang thông tin nhằm giúp khách hàng nước ngoài có thể đặt mua hàng qua mạng. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã giúp tổ chức các chuyến du lịch tới các làng nghề để du khách nước ngoài có thể tận mắt thấy được các sản phẩm OTOP được sản xuất như thế nào. Số tiền hỗ trợ vào khoảng một triệu Baht mỗi làng và thường được nhắc đến với tên gọi “Chương trình mỗi làng một triệu Baht” nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” đã được đề ra.
Trong tháng 6 năm 2002, một cuộc triển lãm bước đầu các sản phẩm của phong trào (chủ yếu là tô đồng, khăn trải bàn, vải tơ tằm dệt tay, tượng gỗ, rổ mây) đã được tổ chức tại tỉnh Nonthaburi và Chính phủ Thái Lan cho biết chỉ trong 4 tháng đầu năm 2002 chương trình này đã đem lại 3,66 tỷ Baht (84,2 triệu USD) lợi nhuận cho nông dân. Các làng nghề truyền thống được tổ chức tốt và được đưa vào các chương trình tour du lịch của Thái Lan bằng nhiều hình thức, điển hình như tờ rơi giới thiệu chương trình OTOP du lịch [3].
Tóm lại, kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” của Chính phủ Thái Lan đã mang lại nhiều kết quả quan trọng trong quá trình phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch. Bên cạnh đó, dự kiến sản phẩm của các làng này sẽ tham gia xuất khẩu đến thị trường đầu ra của các sản phẩm là Nhật, và những thị trường khác như Ý, Mỹ. Ủy ban điều hành chương trình này đang hợp tác với tổ chức xúc tiến ngoại thương Nhật Bản (JETRO) để giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Thái Lan. Bên cạnh ý nghĩa kinh tế, đặc biệt là trong du lịch thì chương trình này là cách bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên ở địa phương, và giữ gìn tri thức bản địa một cách hiệu quả. Tuy nhiên, ngoài mục đích trên, chương trình cần khuyến khích người dân sử dụng nguồn nguyên liệu có sẵn tại chỗ, dựa vào tri thức truyền thống bản địa để làm ra sản phẩm đặc trưng của địa phương.
1.2.2. Một số tỉnh thành trong cả nước Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
1.2.2.1. Kinh nghiệm của thủ đô Hà Nội
Đến nay với việc tiếp nhận toàn bộ địa bàn tỉnh Hà Tây – vùng đất được mệnh danh là “đất trăm nghề” – Hà Nội đã trở thành nơi hội tụ của sự tài hoa, khéo léo trong ngành thủ công mỹ nghệ cả nước. Những làng nghề truyền thống không chỉ mang lại việc làm cho nhân dân, sản xuất hàng hóa phục vụ xã hội mà còn góp phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế, thay đổi diện mạo nông thôn, đặc biệt đã và đang trở thành những khu, vùng, điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Nhằm khai thác tiềm năng du lịch, dịch vụ của các làng nghề truyền thống, Hà Nội đã xây dựng chương trình phát triển du lịch làng nghề với định hướng đến năm 2020, chỉ tiêu phát triển du lịch sẽ đạt 5 – 5,5 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế chiếm khoảng 5 – 10% với tốc độ tăng bình quân 10%/năm. Phấn đấu doanh thu xã hội về du lịch đến 2020 đạt trên 900 tỷ đồng. Thu hút khoảng 5.000 lao động trực tiếp với 3.200 phòng khách sạn, trong đó sẽ hình thành một số khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên tại các trọng điểm du lịch [20]. Không chỉ vậy, Hà Nội cũng định hướng hình thành mới 6 khu du lịch tổng hợp: khu du lịch sinh thái và vui chơi giải trí Tuần Châu, khu du lịch sinh thái cao cấp An Khánh, hồ Quan Sơn, hồ Đồng Mô, hồ suối Hai – Ba Vì và khu du lịch lịch sử – văn hóa làng cổ Đường Lâm. Song song với việc tiếp tục đẩy mạnh đầu tư khai thác tiềm năng du lịch tại 6 điểm di tích lịch sử – văn hóa, lễ hội là xây dựng một trung tâm dịch vụ du lịch làng nghề truyền thống, đầu tư phát triển ba làng nghề thành các điểm du lịch: nghề tạc tượng ở Sơn Đồng, nghề khảm Chuyên Mỹ và mây tre đan Phú Vinh.
Để hỗ trợ các làng nghề phát triển nhanh, mạnh và bền vững, nhất là khai thác tiềm năng du lịch, dịch vụ, trong những năm gần đây, Sở Công thương Hà Nội đã thực hiện nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ phát triển nghề và làng nghề, điển hình như thực hiện đánh giá thực trạng môi trường làng nghề lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy. Tổ chức thu thập thông tin về các làng nghề để xuất bản sách và sản xuất phim giới thiệu về tiềm năng phát triển nghề và làng nghề… Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Từ nguồn kinh phí khuyến công quốc gia và khuyến công địa phương, Trung tâm Khuyến công Hà Nội đã tổ chức được 45 lớp đào tạo truyền nghề, nhân cấy nghề mây tre đan, thêu ren, sơn mài, dệt khăn, điêu khắc… cho 3.250 học viện, triển khai 7 chương trình lớn tập trung vào công tác truyền nghề, nhân cấy và nâng cao tay nghề, hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các làng nghề, nâng cao kỹ năng quản trị cho các chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất…[20], tổ chức cho doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm làng nghề nhằm quảng bá và xúc tiến đầu tư, liên kết kinh doanh, hợp tác sản xuất giữa các vùng và địa phương, tạo tiền đề quan trọng để các làng nghề bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa ngày càng hiệu quả. Được biết, thời gian qua, Hà Nội đã đưa vào khai thác tour tham quan các làng nghề, song nhìn chung khách đi tour này còn quá ít. Theo đánh giá, hiện việc phát triển các tour du lịch làng nghề trên địa bàn Thủ đô còn nhiều khó khăn, nhất là vấn đề cơ sở hạ tầng, giao thông, phong cách phục vụ thiếu sự chuyên nghiệp…
Có thể khẳng định, tiềm năng du lịch làng nghề của Hà Nội là rất lớn và việc khai thác những tiềm năng, phát huy nội lực của làng nghề sẽ tạo ra món ăn lạ với du khách trong và ngoài nước. Phát triển du lịch làng nghề còn phương thức hữu hiệu để quảng bá văn hóa truyền thống, quảng bá thương hiệu, sản phẩm làng nghề đến người tiêu dùng. Chính vì vậy mà PGS.TS Phạm Trung Lương, Viện nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề cho rằng “Làng nghề truyền thống được xem là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề luôn bao gồm trong nó cả nội dung giá trị vật thể và phi vật thể” [20].
Tuy nhiên, để phát triển du lịch làng nghề ở thủ đô Hà Nội đòi hỏi phải có sự kết nối sâu rộng hơn giữa các làng nghề để khai thác triệt để những tiềm năng còn bỏ ngỏ. Đây còn là phương thức nhân lên sức mạnh thương hiệu, góp phần giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển làng nghề trong hội nhập. Nhưng trên thực tế, những người lao động trong các làng nghề vốn chưa quen làm du lịch, dịch vụ, nên còn hạn chế trong cung cách phục vụ. Do đó, vấn đề cần được quan tâm khi phát triển loại hình du lịch này là cần có định hướng và sự hỗ trợ tích cực từ các cấp, ngành hữu quan.
Đặc biệt là phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, có giải pháp quản lý chất lượng dịch vụ từ các khâu chuyên chở, phục vụ, đón tiếp, hướng dẫn và điều hành, đồng thời có biện pháp hữu hiệu để loại bỏ các tệ nạn trong khu vực di tích, lễ hội, nhằm tạo cảm giác thoải mái và an toàn cho du khách. Bên cạnh đó, xây dựng từng loại hình du lịch phù hợp, tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng, đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng khách du lịch.
1.2.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Nam Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Vào thập niên 70, 80 của thế kỉ trước, Quảng Nam thường được nhắc tới với những sản phẩm độc đáo, nổi tiếng như: lụa Phú Bông, Mã Châu; dâu tằm Đông Yên, Thi Lai; gốm sứ Thanh Hà; đúc đồng Phước Kiều; mộc Kim Bồng; chiếu Triêm Tây… Có những sản phẩm đã đi vào thơ ca: “Quảng Nam có lụa Phú Bông, có khoai Trà Đỏa, có sông Thu Bồn” [21].
Trong quá trình phát triển, người dân các làng nghề trải qua không ít thăng trầm; hàng nghìn người dân không sống được bằng nghề truyền thống đành phải tìm một lối rẽ mới, khiến nhiều làng nghề rơi vào cảnh bế tắc, mai một dần… Mãi đến những năm gần đây, khi có chính sách hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước, các làng nghề truyền thống xứ Quảng mới bắt đầu được khôi phục. Và người dân ở các làng nghề: dệt chiếu, ươm tơ, dệt lụa (Duy Xuyên), đúc đồng Phước Kiều (Điện Bàn), mộc Kim Bồng (Hội An)… mới có điều kiện quay lại với nghề truyền thống của cha ông mình, tiếp tục chặng đường mới.
Thời gian qua tỉnh Quảng Nam đã thực hiện nhiều giài pháp khôi phục, tìm hướng đi mới cho các làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch. Cách làm năng động này đã đạt được những kết quả bước đầu, vừa góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của làng nghề, vừa tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân, thúc đẩy du lịch phát triển bền vững. Tỉnh đã có nhiều chủ trương đầu tư phát triển du lịch dựa trên lợi thế của hai di sản văn hóa thế giới: Phố cổ Hội An và Mỹ Sơn, qua đó đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam ông Hồ Tấn Cường khẳng định: “Quảng Nam đã thử nghiệm thành công việc gắn kết giữa phát triển làng nghề và du lịch cùng với sự tham gia của cộng đồng. Đến nay, toàn tỉnh đã khôi phục và phát triển được 89 làng nghề thủ công truyền thống, chủ yếu tập trung tại thành phố Hội An và các huyện: Duy Xuyên, Điện Bàn, Đông Giang, Nam Giang, Tây Giang” [21]. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Bước đầu, các làng nghề đã thu hút hơn 7.500 hộ tham gia và tạo việc làm cho 16 nghìn lao động tại địa phương. Hiện có 20 làng nghề và 7 cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ gắn với phát triển du lịch đang có nhiều khởi sắc. Thực tế cho thấy, một số sản phẩm tour du lịch như: Một ngày làm cư dân phố cổ, một ngày làm cư dân làng nghề đèn lồng, đêm rằm phố cổ Hội An, phố không có tiếng động cơ, tham quan làng rau Trà Quế, mộc Kim Bồng,… đã thu hút du khách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân. Du khách đến tham quan các làng nghề tăng lên rõ rệt, năm 2013 ước tính khoảng 100 nghìn lượt khách đến các làng nghề; trong đó, khách quốc tế chiếm khoảng 90%. Chỉ tính riêng bảy cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ gắn với phát triển du lịch tại các địa phương, mỗi năm đã mang lại doanh thu gần 200 tỷ đồng, chiếm 10% tổng doanh thu của hoạt động các làng nghề truyền thống toàn tỉnh [21].
Thời gian qua, Hội An đã đầu tư 17,6 tỷ đồng xây dựng hạ tầng giao thông tại các làng nghề truyền thống: Mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, rau Trà Quế, dừa nước Cẩm Thanh, phố đèn lồng Hội An… Tại Duy Xuyên, sau khi tỉnh phê duyệt quy hoạch và dự án đầu tư phát triển làng nghề, huyện đã triển khai xây dựng 5 km đường vào làng nghề và xây dựng cơ sở sinh hoạt làng nghề An Phước, với số tiền gần 10 tỷ đồng. Còn huyện Điện Bàn đã dành nguồn vốn của địa phương kết hợp với chương trình mục tiêu và vốn ODA đầu tư xây dựng nhà trưng bày làng đúc đồng Phước Kiều, đường vào làng nghề Đông Khương, rồi hệ thống đường giao thông, điện tại làng nghề dệt Nông Sơn (xã Điện Phước)… Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Không dừng lại ở đó, Quảng Nam đã chú trọng khôi phục và phát triển làng nghề tại các huyện miền núi như: dệt thổ cẩm, sản xuất rượu cần… Mới đây, huyện Đông Giang đã đầu tư hàng trăm triệu đồng xây dựng nhà Moong để trưng bày sản phẩm tại làng nghề thôn Bhờ Hôồng phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Việc đầu tư kinh phí khôi phục các làng nghề, gắn kết với điểm du lịch sinh thái tại các huyện miền núi như: thác Grăng, di tích đường Hồ Chí Minh để góp phần níu chân du khách.
Có thể nói rằng, chủ trương gắn khôi phục làng nghề với phát triển du lịch
Quảng Nam, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, tuy nhiên trong quá trình phát triển các làng nghề truyền thống gắn với du lịch còn nhiều hạn chế. Hiện tại, cơ chế, chính sách hỗ trợ việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống chưa cụ thể và chưa quan tâm đầu tư các làng nghề thuộc lĩnh vực nông – lâm – thủy sản. Công tác quảng bá và xây dựng thương hiệu làng nghề đã được các ngành liên quan và các địa phương triển khai nhưng hiệu quả chưa cao. Việc xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm làng nghề gắn với du lịch chưa có tiêu chí cụ thể và chồng chéo trong quản lý dẫn đến việc hỗ trợ cho các làng nghề xây dựng và đăng ký thương hiệu còn nhiều khó khăn.
Mong rằng thời gian tới, bên cạnh những chủ trương, nỗ lực và các giải pháp phát triển làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam nói chung và của Hội An nói riêng, tỉnh cũng sẽ khắc phục được những hạn chế, giúp cho các làng nghề truyền thống trên địa bàn được chú trọng phát triển hơn nữa phục vụ cho du lịch.
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Thừa Thiên – Huế trong việc phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch
Trên cơ sở kinh nghiệm của một số tỉnh của Nhật Bản và Thái Lan và một số tỉnh, thành trong cả nước về phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để tỉnh Thừa Thiên – Huế tham khảo và vận dụng trong quá trình phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển ngành du lịch của tỉnh. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Một là, phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch phải gắn với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn, với xu hướng phát triển du lịch hiện đại. Trong các tour du lịch làng nghề thì việc đưa du khách đến để tham quan, mua sắm và trải nghiệm là cần thiết. Trong đó, sự kết hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch và các nhà triển lãm các sản phẩm làng nghề truyền thống cấp quốc gia và địa phương. Khai thác hiệu quả các chương trình kết nối giữa làng nghề với nhau hay giữa làng nghề với các điểm du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Hai là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực có khả năng kế tục phát triển các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch về ý thức, giá trị của việc bảo tồn các làng nghề truyền thống; tạo điều kiện để thế hệ trẻ làm quen các phương pháp, công nghệ sản xuất truyền thống, vật liệu nhằm tạo sự hiểu biết đúng đắn về giá trị của các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trong tương lai. Từ đó, mới tạo được niềm đam mê cho thế hệ trẻ về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống. Có cơ chế phân bổ lợi ích hợp lý giữa các chủ thể tham gia vào công việc phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch.
Ba là, nâng cao vai trò của Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ, giúp đỡ về vốn và các chính sách phù hợp để thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề truyền thống tham gia vào các tour du lịch, người dân được hưởng lợi từ du lịch.
Bốn là, tăng cường sự hợp tác giữa các làng nghề truyền thống với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, để xây dựng, thiết lập và triển khai các chương trình du lịch nhằm thu hút du khách đến với làng nghề. Đồng thời có nhiều hình thức kết hợp hài hòa giữa hoạt động du lịch với các làng nghề truyền thống hiệu quả.
Năm là, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm cho từng làng nghề truyền thống phục vụ du lịch, phát triển các hoạt động quảng bá về làng nghề. Xét duyệt các sản phẩm của làng nghề truyền thống chính xác để công nhận chính thức sản phẩm của làng nghề truyền thống. Xây dựng chiến lược quảng bá lâu dài để đưa hình ảnh làng nghề đến với du khách cả ở trong nước và nước ngoài. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
1.3. Tổng quan về các làng nghề truyền thống tại tỉnh Thừa Thiên – Huế
Thừa Thiên – Huế là một tỉnh giàu đẹp, có nhiều tài nguyên du lịch, phong cảnh hữu tình, con người hiền hòa, mến khách, với bề dày văn hóa truyền thống lâu đời, nhất là được kế thừa di sản Thế giới Cố đô Huế và nhiều di sản văn hóa phi vật thể. Những năm qua, ngành du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế đã phát triển mạnh mẽ, ghi dấu trên bản đồ du lịch cả nước, trở thành điểm đến thân thuộc của du khách bốn phương. Tại địa bàn tỉnh hiện nay, bên cạnh những loại hình du lịch nổi trội, hấp dẫn như du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng thì loại hình du lịch làng nghề truyền thống đang ngày càng thể hiện được sức hút, sự quan tâm của du khách không chỉ ở những sản phẩm thủ công tinh xảo, cầu kỳ mà còn chính sự trải nghiệm đầy lý thú mà du khách sẽ được chiêm nghiệm thông qua chuyến hành trình về các làng nghề truyền thống này.
1.3.1. Các nguồn lực chủ yếu tạo tiền đề để phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế
1.3.1.1. Hệ thống cơ sở hạ tầng Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Những năm qua, xác định được tầm quan trọng của việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho ngành du lịch, đồng thời hướng đến mục tiêu xây dựng tỉnh Thừa Thiên – Huế cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại 1. Tỉnh đã ưu tiên nguồn lực đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng được phát triển mạnh mẽ, đồng bộ. Các ngành giao thông, điện, cấp thoát nước, sân bay, cảng biển… không ngừng phát triển và đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng tốt nhất cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Hạ tầng giao thông: Tỉnh Thừa Thiên – Huế đã quan tâm phát triển giao thông kết nối liên vùng. Đó là đưa vào sử dụng nhiều công trình giao thông mang tầm vóc quốc gia, tạo thành hệ thống liên hoàn giữa các vùng, rút ngắn khoảng cách giữa vùng sâu, vùng xa với các vùng đồng bằng, đô thị. Việc hoàn thành nâng cấp sân bay Phú Bài thành sân bay quốc tế đã đáp ứng việc cất, hạ cánh cho máy bay cỡ lớn, bay cả ban ngày lẫn ban đêm và trong mọi thời tiết, có khả năng đón các chuyến bay từ nước ngoài vào để tạo điều kiện cho khách du lịch nước ngoài bay trực tiếp đến Huế. Đưa vào sử dụng cầu cảng nước sâu Chân Mây với khả năng đón tàu 50 ngàn tấn, mở ra một hướng phát triển mới cho khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô. Bên cạnh đó, thông xe hầm đường bộ Hải Vân, đường Hồ Chí Minh phía Tây đã tháo gở những ách tắc trầm trọng cho việc lưu thông hành khách theo hướng tuyến Bắc – Nam nhất là trong mùa cao điểm. Hạ tầng giao thông nông thôn cũng đã được kiên cố hóa rộng khắp, tuyến đường lên hai huyện miền núi Nam Đông và A Lưới đã được nâng cấp, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Đến nay toàn tỉnh đã nhựa hóa được 80% đường tỉnh, bê tông hóa 70% đường giao thông nông thôn (đường huyện, đường xã), 100% xã có đường ô tô đến trung tâm [25].
Hệ thống cấp nước sinh hoạt trong đô thị Huế và vùng phụ cận được nâng cấp, cải tạo; xây mới hệ thống cấp nước thị trấn Phú Lộc và các xã lân cận, hệ thống cấp nước thị trấn Phong Điền; hoàn thành lắp đặt các tuyến cấp nước tập trung vượt phá Tam Giang- Cầu Hai để cung 388 cấp nước cho nhân dân các xã ven biển; nâng tỷ lệ dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh trên toàn tỉnh lên 93%; trong đó, tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt 72% [25]. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Hệ thống cấp điện: Đến nay, đơn vị đã đưa điện lưới về 152/152 xã, phường trên toàn tỉnh. thôn, bản đã có điện lưới; tỷ lệ hộ sử dụng điện là 99,5%. Tỷ lệ đường phố chính đô thị đã được chiếu sáng 326,24 km trên tổng số 513,67 km, đạt 63,51%; tỷ lệ ngõ hẻm đã có chiếu sáng là 78,86 km trên tổng số 539,2 km đường ngõ hẻm, đạt 14,6 % [25].
Hạ tầng xử lý chất thải: Đã hoàn thành dự án cải thiện môi trường đô thị Lăng Cô; đang triển khai xây mới khu xử lý chất thải phía Nam thành phố Huế; triển khai dự án cải thiện môi trường nước thành phố Huế. Hình thành hệ thống thu gom chất thải rắn ở các huyện, xã; cơ bản hoàn thành các công trình vệ sinh trong trường học và một số nơi công cộng.
Hạ tầng công nghệ thông tin: Được chú trọng đầu tư theo hướng xây dựng Thừa Thiên Huế thành trung tâm công nghệ thông tin mạnh. 100% các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh, Ủy ban Nhân dân các huyện, thị xã, thành phố Huế và xã, phường, thị trấn đã kết nối mạng LAN phục vụ tốt công tác điều hành, quản lý công việc; 90% doanh nghiệp kết nối Internet. Phát triển hệ thống thông tin địa lý tỉnh Thừa Thiên-Huế (GISHue); hoàn thành xây dựng một số cơ sở dữ liệu chuyên để đưa vào khai thác, sử dụng trên nhiều lĩnh vực [25]. Hạ tầng viễn thông và truyền thông được đầu tư theo hướng cáp quang, ngầm hóa và dùng chung hạ tầng mạng vừa đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ ứng dụng có chất lượng cao vừa đảm bảo mỹ quan môi trường đô thị và các khu dân cư; đã hoàn thành ngầm hóa mạng cáp viễn thông và cáp truyền hình tại trung tâm thị xã.
1.3.1.2. Nguồn nhân lực Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Tính đến năm 2017, dân số tỉnh Thừa Thiên – Huế có 1.154.310 người, trong đó: nam có 575.388 người, nữ có 578.922 người. Mật độ dân số là 230 người/ km2. Về phân bố dân cư, có 563.404 người sinh sống ở thành thị và 590.906 người sinh sống ở vùng nông thôn. Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên là 632.086 người (trong đó lao động nữ là 299.037 người) [24].
Các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn của địa bàn tỉnh, có vị trí địa lý gần với trung tâm thành phố, thuận lợi để phát triển theo hướng phục vụ các dịch vụ du lịch cho khách du lịch khi đến Huế, cụ thể: trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế có 2.380 cơ sở sản xuất hoạt động tại 25 làng nghề truyền thống phục vụ du lịch khác nhau, với 5.980 người lao động tham gia lao động thường xuyên và 3.760 người lao động tham gia theo mùa vụ; phân bố chủ yếu ở 3 huyện Quảng Điền, Hương Thủy và Phú Vang với các tỷ lệ lao động tương ứng là 32,3%, 22,5% và 28,2%. Còn ở huyện Phong Điền, huyện Hương Trà và thành phố Huế thì số lượng làng nghề phân bổ ít hơn, với các tỷ lệ lao động tương ứng là 6,2%, 7,1% và 3,7% [9]. Điều này chứng tỏ hoạt động của các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch mang tính thời vụ cao do ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan như thời tiết, điều kiện sản xuất của từng cơ sở, thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, lễ hội.
Tỉnh có một lực lượng lao động có tay nghề cao trong các làng nghề truyền thống với sự kế thừa qua nhiều thế hệ, theo thống kê sơ bộ của Sở Công Thương tỉnh Thừa Thiên – Huế có khoảng 1.000 thợ giỏi bậc cao và nghệ nhân
Lực lượng lao động tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch có độ tuổi khác nhau, với trình độ tay nghề ở các mức độ khác nhau gồm: nghệ nhân, thợ bậc cao, thợ có tay nghề và đang học việc. Lực lượng lao động chủ yếu hiện nay tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế là thợ có tay nghề với độ tuổi phổ biến là từ 18 tuổi đến 49 tuổi [9]. Đây là điều kiện thuận lợi để làng nghề truyền thống phục vụ du lịch gìn giữ được nét độc đáo, riêng có của mình, thể hiện qua bảng như sau. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Bảng 1: Phân loại lao động theo độ tuổi và trình độ tay nghề của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế
Như vậy, đội ngũ thợ có tay nghề tham gia hoạt động sản xuất ở các cơ sở sản xuất phân bố tương đối đồng đều, chiếm tỷ lệ lớn (61,7%), đây là nguồn lực khá dồi dào để phát triển công tác đào tạo nghề tại chỗ và phát triển các hoạt động du lịch tại làng nghề. Trong khi đó, số lượng nghệ nhân chiếm tỷ lệ quá thấp đồng thời lại có độ tuổi cao (trên 50 tuổi), số thợ bậc cao đang ngày càng tăng, hầu hết là các thợ có tay nghề đang tham gia lao động ở làng gốm Phước Tích, làng tranh giấy Sình, các làng nón lá truyền thống…
Là địa phương đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở 100% xã, phường, nhờ vậy mà trình độ văn hóa của người lao động, đặc biệt là lao động trẻ (dưới tuổi) khá cao. Đây là yếu tổ thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các ngành nghề nói chung và nguồn nhân lực cho việc phát triển các làng nghề truyền thống ở tỉnh nói riêng.
Bên cạnh đó, tỉnh Thừa Thiên – Huế có hệ thống đào tạo đại học và trên đại học với quy mô lớn. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 7 trường đại học và 5 trung tâm nghiên cứu khoa học tự nhiên – xã hội. Hệ thống các trường dạy nghề phát triển khá với 5 trường trung học chuyên nghiệp, 70 cơ sở dạy nghề, 14 trung tâm ngoại ngữ, tin học và hơn 100 cơ sở đào tạo ở quy mô nhỏ do tư nhân tự tổ chức [24]. Điển hình là trường Cao đẳng Du lịch đã trở thành nơi đào tạo chính cho nguồn nhân lực du lịch, cung cấp các lao động có tay nghề khá cao không những cho tỉnh mà còn cho khu vực các tỉnh miền Trung. Tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch, lực lượng lao động phải đáp ứng được yêu cầu cụ thể, đặc trưng là: ngoài khả năng và trình độ tay nghề của mình thì đồng thời phải có kỹ năng làm du lịch tại chỗ. Chính vì điều này mà đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện thuần thục các thao tác độc đáo của từng nghề cho du khách xem và hướng dẫn họ làm lại các sản phẩm của làng nghề trong thời gian họ tham quan và trải nghiệm tại làng nghề truyền thống.
Có thể thấy, sự phát triển của các làng nghề truyền thống và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nói chung và của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch nói riêng đã và đang thu hút và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn có việc làm ổn định và tăng thu nhập cho các hộ gia đình ở địa phương.
1.3.1.3. Tài nguyên du lịch Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thừa Thiên – Huế đang gìn giữ kho tàng văn hóa phong phú, đa dạng, đặc sắc trong dòng chảy văn hóa Việt Nam. Với gần 1000 di tích bao gồm di tích lịch sử cách mạng, di tích tôn giáo, di tích lưu niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó, Quần thể Di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Thế giới (năm 1993) [23]. Bên cạnh đó, nơi đây đồng thời là một trung tâm quan trọng của đạo Phật. Ở Huế và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại hàng chục ngôi chùa được xây dựng trên 300 năm và hàng trăm đền, chùa được xây dựng từ đầu thế kỉ 20.
Thừa Thiên – Huế còn là nơi tập trung những di sản văn hóa phi vật thể phong phú và đa dạng, được bảo tồn, khai thác và phát huy. Từ những loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đình bác học, nghệ thuật trang trí đến những phong tục tập quán mang đậm những nét riêng của từng vùng đất. Trong đó, Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn được UNESCO công nhận là kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (tháng 11/ năm 2003) và đang được tích cực gìn giữ và phát huy giá trị [23]. Các loại hình múa hát cung đình, lễ nhạc cung đình, tuồng Huế, ca Huế, ca kịch Huế và các làn điệu dân ca, dân nhạc, dân vũ đã và đang tiếp tục được đầu tư sưu tầm, khôi phục, phát huy và phát triển. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thừa Thiên – Huế có hơn 500 lễ hội bao gồm lễ hội cung đình, lễ hội dân gian truyền thống, lễ hội tôn giáo tồn tại cùng với truyền thống văn hóa lâu đời của mỗi vùng miền. Hiện nay, có hơn 100 lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống và hiện đại đã được các địa phương khôi phục và phát huy, bao gồm: Lễ hội cung đình Huế (lễ tế Đàn Nam Giao, lễ tế Đàn Xã Tắc; lễ hội thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn, Lễ Truyền Lô,..); các lễ hội văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo (lễ hội Điện Huệ Nam, lễ hội Quán Thế Âm, lễ Phật Đản…); lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh, thành hoàng; lễ tưởng niệm các vị tổ sư làng nghề (lễ hội Cầu ngư, Vật võ Làng Sình, vật võ Làng Thủ Lễ, Đu tiên Phong Điền, lễ hội Làng Chuồn, lễ hội đua ghe,…) và nhiều lễ hội khác như: Lễ hội Đền Huyền Trân, Ngày hội Văn hóa, Thể thao, Du lịch đồng bào các dân tộc miền núi Thừa Thiên – Huế, Lăng Cô huyền thoại biển, Festival Thuận An Biển gọi, Ấn tượng Bạch Mã…
Ngoài ra, Thừa Thiên – Huế cũng là vùng đất lưu giữ những giá trị nghệ thuật ẩm thực nổi trội với gần 1.700 món ăn cung đình và dân gian độc đáo, hấp dẫn.
Nhiều làng nghề truyền thống với những sản phẩm kết tinh giá trị văn hóa của một vùng đất đã được bảo tồn, khôi phục và phát huy, tạo sự hấp dẫn khách du lịch như các làng điêu khắc Mỹ Xuyên, gốm Phước Tích, hoa giấy Thanh Tiên, tranh dân gian Làng Sình, tranh thêu cố đô, đan lát Bao La, gót Dã Lê, đúc đồng Phường Đúc, dệt Zèng A Lưới.
Phát huy lợi thế di sản văn hóa Huế – nguồn tài nguyên quý giá, ngành du lịch kết hợp với những tiềm năng khác của tỉnh Thừa Thiên – Huế đã có những bước phát triển khá toàn diện và bền vững, đưa tỉnh trở thành một trong những trung tâm văn hóa – du lịch lớn của cả nước, thực hiện sự liên kết phát triển với các tuyến du lịch của hành lang Đông – Tây và các điểm du lịch Phong Nha – Cố đô Huế – Hội An – Mỹ Sơn, hình thành nên “Con đường di sản miền Trung”. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
1.3.2. Tình hình hoạt động tại các làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế
1.3.2.1. Giới thiệu về các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế
Hiện nay, theo thống kê của Sở Công thương tỉnh Thừa Thiên – Huế trên địa bàn tỉnh hiện nay có 69 làng nghề truyền thống trong đó có 25 làng nghề truyền thống tham gia du lịch.
Bảng 2: Thống kê các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên
Từ bảng thống kê, có thể thấy cụ thể số lượng các làng nghề truyền thống tỉnh Thừa Thiên – Huế khá lớn. Tuy nhiên, trong tổng số các làng nghề truyền thống chỉ mới có 25 làng nghề đang tham gia vào các hoạt động du lịch, đón khách đến tham quan tại làng nghề. Đây là một con số khá khiêm tốn, do đó, trong thời gian tới tỉnh Thừa Thiên – Huế cần xác định việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống là một trong những nội dung quan trọng để hướng đến trọng tâm phát triển các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch, thúc đẩy phát triển nền kinh tế – xã hội ở địa phương.
1.3.2.2. Tình hình hoạt động tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế
Về tình hình tiêu thụ sản phẩm tại các làng nghề truyền thống
Trong giai đoạn hiện nay, tùy thuộc vào từng nhóm sản phẩm là mây tre đan, hay là nón lá hoặc là tranh giấy và hoa giấy, hay là gốm nung, mộc mỹ nghệ, hay đúc đồng mà tình hình tiêu thụ của chúng tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế có sự khác nhau. Vào những thời điểm diễn ra các chương trình lễ hội lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến Thừa Thiên – Huế tăng lên đột biến, nhu cầu mua sắm, vui chơi và nghỉ ngơi của người dân trong tỉnh cũng tăng lên đáng kể. Các làng nghề truyền thống được nhiều du khách biết đến hơn thông qua các tour du lịch làng nghề, các chương trình của lễ hội liên quan đến các làng nghề truyền thống, từ đó các sản phẩm thủ công của các làng nghề truyền thống được tiêu thụ nhiều hơn so với thời gian còn lại trong năm. Do đó, tình hình tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch có sự biến động qua các năm, thể hiện cụ thể ở bảng 3 như sau. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Bảng 3: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền thống
Qua bảng 3, có thể nhận thấy tình hình tiêu thụ các sản phẩm thủ công truyền thống của các làng nghề tăng dần qua các năm. Đây là dấu hiệu khả quan nhằm tăng doanh thu cho các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh các sản phẩm nón lá và mây tre đan vốn luôn là sự lựa chọn hàng đầu của du khách, thì các sản phẩm về đúc đồng và mộc mỹ nghệ thường được tiêu thụ bởi nhóm khách là người dân trong tỉnh nên số lượng tiêu thụ không nhiều. Còn đối với nhóm sản phẩm tranh giấy và hoa giấy thì đây là các sản phẩm mang tính thời vụ, chủ yếu phục vụ tín ngưỡng và các ngày lễ hội dân gian trên địa bàn tỉnh, mẫu mã sản phẩm chưa thật sự đa dạng nên chưa được du khách ưa chuộng để lựa chọn mua sản phẩm này.
Về lượt khách du lịch đến với các làng nghề truyền thống
Theo sở Du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế, lượng khách du lịch đến Thừa Thiên – Huế trong 6 tháng đầu năm ước đạt 2.330.000 lượt, tăng 33,4% so với cùng kỳ; trong đó khách quốc tế đạt 1.020.000 lượt, tăng 67,5% so với cùng kỳ; khách nội địa đạt 1.310.000 lượt, tăng 15,2% so với cùng kỳ. Khách lưu trú ước đạt 1.109 triệu lượt, tăng 16,2 %, trong đó khách quốc tế ước đạt 521,875, tăng 26,1%. Doanh thu từ du lịch 6 tháng ước đạt 2.215 tỷ đồng, tăng 28,3% so với cùng kỳ. Doanh thu xã hội từ du lịch đạt 5.537 tỷ đồng. Về thị trường khách quốc tế đến Thừa Thiên – Huế trong các tháng đầu năm 2018, Hàn Quốc tiếp tục dẫn đầu các thị trường khách quốc tế đến Huế, chiếm 33,6%. Một số thị trường khách truyền thống vẫn có mức tăng trưởng ổn định như Pháp (11,1%), Mỹ (6,2%), Đức (5,9%), Anh (5,6%) [26].
Về lượt khách đến tỉnh Thừa Thiên – Huế cho thấy, số lượt khách trong nước chiếm tỷ lệ cao hơn số lượt khách quốc tế. Số liệu này phản ánh thực tế khác với quan niệm thông thường của xã hội: sản phẩm truyền thống chủ yếu phục vụ và hướng tới phục vụ khách quốc tế. Vì vậy, để phát triển hoạt động du lịch tại các làng nghề truyền thống, tỉnh Thừa Thiên – Huế cần phải sản xuất các sản phẩm phù hợp với thị hiếu của cả khách du lịch trong và ngoài nước. Tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, số lượt khách du lịch đều tăng lên, tốc độ tăng trưởng bình quân tăng từ 17,8% đến 49,5%. Trong đó, số khách đến các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch thuộc nhóm sản phẩm gốm nung, mộc mỹ nghệ, đúc đồng chưa nhiều, chỉ chiếm tỷ lệ từ 10 – 15% tổng lượt khách [27]. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Các làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế mà chủ yếu có lượt khách du lịch nội địa đến thăm nhiều hơn so với khách quốc tế bao gồm: các làng nghề truyền thống sản xuất nhóm mây tre đan, nón lá, tranh giấy và hoa giấy, đúc đồng. Hai nhóm làng nghề truyền thống phục vụ du lịch sản xuất các nhóm sản phẩm gốm nung và mộc mỹ nghệ thì có số khách nội địa chiếm tỷ lệ ít trong tổng số khách đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch (4 – 6%) và tốc độ tăng trưởng bình quân (5,7% – 11,8%) [27].
Về doanh thu của làng nghề truyền thống trong quá trình tham gia hoạt động du lịch
Hoạt động sản xuất kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế ngoài bán các sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn có cung cấp các dịch vụ du lịch nên tổng doanh thu của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch được thu từ hai nguồn: doanh thu từ kênh bán sản phẩm thủ công mỹ nghệ (gồm bán buôn và bán lẻ) và doanh thu từ các dịch vụ du lịch của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh thừa thiên – huế (hướng dẫn, tham quan, trải nghiệm…).
Bảng 4: Tổng doanh thu của các làng nghề truyền thống trong 3 năm trở lại đây
Doanh thu thu được từ kênh bán sản phẩm thủ công truyền thống đạt mức cụ thể là: năm 2018 đạt 42,9 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 86,3% tổng doanh thu. Trong khi đó, doanh thu từ các dịch vụ du lịch của các làng nghề truyền thống (hướng dẫn, tham quan, trải nghiệm…) chiếm tỷ lệ thấp trong tổng doanh thu, cụ thể: năm 2016 đạt 5,3 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 15,6% tổng doanh thu, đến năm 2018 đạt 6,8 tỷ đồng, chiếm 13,6% trong tổng doanh thu (xem bảng 4). Từ đó, cũng có thể thấy rằng kênh bán buôn là kênh phân phối chủ yếu của các làng nghề truyền thống tại tỉnh Thừa Thiên – Huế, còn kênh bán lẻ và từ các dịch vụ du lịch của các làng nghề truyền thống này đã có sự tăng trưởng, nhưng vẫn chưa đạt được nguồn thu lớn, chứng tỏ các dịch vụ du lịch tại các làng nghề truyền thống chưa xứng tầm với tiềm năng của các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh.
Tiểu kết chương 1 Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, làng nghề Việt Nam có một sức sống mới, được chú ý về cơ sở hạ tầng, công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển hoạt động du lịch làng nghề, quảng bá thương hiệu sản phẩm, cải tiến mẫu mã… Tại các làng nghề ra đời nhiều công ty mới đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trên thị trường quốc tế. Thị trường trong nước cũng có điều kiện phát triển các mặt hàng nội, ngoại thất, sản phẩm văn hóa tâm linh…
Đáng chú ý, trong xu thế hội nhập quốc tế, làng nghề truyền thống và các làng Việt cổ Việt Nam là nơi hội tụ bản sắc, nét độc đáo riêng, góp phần giới thiệu sinh động về đất nước và con người của mỗi vùng miền, địa phương, phát triển du lịch làng nghề phù hợp với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội đang được nhiều quốc gia quan tâm và đưa ra những chính sách quảng bá để kích thích phát triển loại hình du lịch làng nghề.
Thừa Thiên – Huế là vùng đất văn hóa, lịch sử, có truyền thống hiếu học , là Cố đô của nước ta; sở hữu rất nhiều di sản văn hóa, lịch sử, di sản thiên nhiên nằm trong khu vực miền Trung. Vì vậy, con đường để phát triển đi lên, thịnh vượng chính là con đường lấy du lịch làm nên tảng và động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Mặc dù vậy, để phát triển xứng tầm loại hình du lịch làng nghề truyền thống thì còn rất nhiều việc cần phải làm. Vậy thực trạng hoạt động hiện nay của một số làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên – Huế đang diễn ra như thế nào? Vấn đề này sẽ được trình bày tại Chương 2 với nội dung: Tìm hiểu về một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên – Huế và thực trạng khai thác du lịch trong những năm gần đây. Khóa luận: Một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com