Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên – Huế và thực trạng khai thác du lịch trong những năm gần đây (2010- 2018) dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
1. Làng tranh Sình
1.1. Lịch sử hình thành làng tranh Sình
Từ trung tâm thành phố Huế, xuôi theo dòng sông Hương khoảng 9km là địa bàn xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, ôm gọn 7 ngôi làng với thế đắc địa, trù phú. Phía Đông và Bắc tựa lưng vào làng Phổ Lợi (xã Phú Dương) và làng Vĩnh Đại (xã Phú Thanh), Phía Tây và Nam quay mặt ra sông Hương, nơi có làng Lại Ân với nghề làm tranh dân gian nổi tiếng.
Theo truyền thuyết kể lại, thời Trịnh – Nguyễn, trong đoàn người tìm vào đất Thuận Hóa định cư, ông Kỳ Hữu Hòa, mang theo nghề làm tranh giấy mộc bản của làng quê mình để mưu sinh, tranh làng Sình ra đời từ đó. Chính vì đặc điểm này mà tranh làng Sình có cơ sở để phát triển lâu dài. Sự tồn tại của làng nghề Sình trải qua nhiều giai đoạn biến đổi khác nhau. Phát triển nhất là thời điểm trước năm 1945, lúc ấy nhà ai cũng làm tranh. Rồi từ những năm 1970-1975, nghề bắt đầu lụi tàn do chiến tranh. Sau năm 1975, tình hình kinh tế đất nước khó khăn, vẽ tranh bị cho là lãng phí và mê tín dị đoan [10].
Đến nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, đất nước đổi mới, mở cửa, người dân lao vào vòng xoáy mưu sinh, cũng không mấy người còn giữ tục lệ thờ cúng với tranh làng Sình, vậy nên chẳng mấy ai dùng tranh làng Sình nữa. Không chịu để mất nghề, ông Kỳ Hữu Phước đã bọc ni lông tất cả những bản khắc quý rồi chôn giấu kỹ. Sau này, ông mới đào những bản khắc lên, rồi ngày ngày ngồi vẽ, kiên trì đi đến từng nhà mời họ mua tranh. Ông Kỳ Hữu Phước là nghệ nhân đời thứ 9 trong dòng họ Kỳ theo nghiệp làm tranh dân gian làng Sình. Ông chính là người có công lớn trong việc khôi phục lại dòng tranh dân gian truyền thống này [10]. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Đến năm 1996, Nhà nước có chủ trương khôi phục lại những làng nghề truyền thống, trong đó có tranh làng Sình. Tuy nhiên nghề làm tranh chỉ còn duy nhất ông Kỳ Hữu Phước nắm rõ, với quyết tâm lớn, ông đến từng nhà vận động người dân tham gia. Ông mất nhiều công sức để làm khuôn nhưng sẵn sàng cho bà con mượn dùng, có khi còn tặng luôn. Suy nghĩ đơn giản mà đậm chất nhân văn của ông có thể khiến nhiều người cảm phục bởi ông chỉ có một mong muốn phổ biến nghề làm tranh truyền thống của làng ra rộng khắp để nghề truyền thống của ông cha được duy trì tới muôn đời sau.
Ngày nay, cuộc sống thay đổi, ý thức con người cũng thay đổi, muốn tìm về những giá trị tinh thần đã nhạt phai. Năm 2007, tranh làng Sình được tôn vinh như một di sản văn hóa của dân tộc cần được gìn giữ, bảo tồn [10]. Cùng với sự quan tâm của Nhà nước và sự phát triển của loại hình du lịch làng nghề, đã tạo điều kiện hồi sinh cho tranh cổ Làng Sình. Tranh Làng Sình đã dần lấy lại được hình ảnh và vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, xã hội của một làng tranh truyền thống. Nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều nghệ nhân cũng đã khẳng định giá trị nghệ thuật và giá trị văn hóa của tranh làng Sình trong đời sống, đặc biệt là những giá trị trong đời sống tâm linh.
Mặc dù dòng tranh này đang được phục hồi, song nó vẫn chịu ảnh hưởng không nhỏ từ câu chuyện hội nhập của nước ta. Tranh dân gian làng Sình thời hiện đại không còn giữ nguyên được bản chất truyền thống, bởi lẽ từ nguyên vật liệu đã được thay bằng những nguyên vật liệu công nghiệp, tiện lợi hơn gấp nhiều lần. Chính vì vậy, để có thể bảo tồn và phát huy hết giá trị của tranh dân gian làng Sình không phải là chuyện một sớm một chiều có thể làm được.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
1.2. Đặc điểm sản phẩm của làng nghề
Tranh làng Sình đã mang lại những đặc trưng tiêu biểu cho loại hình hội hoạ dân gian của một vùng đất. Vì vậy, nó cũng chứa đựng trong đó những giá trị không thể phủ nhận. Ra đời trong lòng dân gian nên dòng tranh làng Sình chịu ảnh hưởng và mang dáng dấp của tín ngưỡng dân dã riêng biệt cùng đặc thù trong mỗi chất liệu, màu sắc, chủ đề, đường nét, bố cục…
Mỗi bức tranh làng Sình có thể nói là một sự kỳ công trong quá trình tạo tác, tranh làng Sình hoàn toàn được làm thủ công. Để có một bức tranh phải trải qua đủ 7 công đoạn, từ xén giấy, quét điệp, in tranh trên mộc bản, phơi tranh, pha màu, tô màu, cuối cùng là điểm nhãn. Giấy dó được quét điệp cho dai, giữ màu, vỏ điệp được nhập từ phá Tam Giang rồi người làm tranh phải tỉ mẩn ngồi giã, nghiền thật nhỏ, trộn với lớp bột gạo thành một lớp mịn quét đều lên giấy. Gam màu được sử dụng trên tranh làng Sình gần giống với gam màu được sử dụng trên tranh pháp lam tại các kiến trúc kinh thành Huế: hòa sắc giữa vàng với chàm, đỏ với bích ngọc, xanh với hoả hoàng, phỉ thuý với hổ phách. Bức tranh khi hoàn thành sẽ lấp lánh bởi vỏ điệp, nền nã bởi chất màu thô mộc, quyến rũ và quan trọng hơn cả là khi bức tranh đến tay người sử dụng đã ẩn chứa một cái gì đó thiêng liêng của cõi tâm linh. Chẳng riêng quét hồ điệp lên giấy, pha màu tự nhiên cũng đòi hỏi không ít công phu. Tranh làng Sình có đủ các màu xanh, đỏ, tím, vàng, cam, đen… đều được làm từ cây cỏ. Nhưng để cho ra các màu khác nhau lại phải có bí quyết chế tác riêng đòi hỏi sự am hiểu và biết nghề. Ngay đến chiếc bút dùng tô màu tranh cũng được làm từ chính sản vật của quê hương. Rễ cây dứa hoang sẽ được lấy về, phơi khô, lột vỏ chừa phần ruột trong để làm thành chiếc bút lông, vừa giữ màu lại không bị lem. Tùy từng kích cỡ vật liệu khác nhau sẽ cho ra các loại bút to nhỏ khác nhau. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Mỗi bức tranh là một khuôn gỗ hoàn chỉnh, người làm tranh dùng mực màu đen phết lên bản mộc, rồi dùng giấy in thành một bức tranh thô. Đem phơi tranh cho khô mực, rồi tỉ mẩn dùng các loại màu tô lên tranh. Nét độc đáo ở tranh làng Sình là màu sắc, mỗi bức mang một nét riêng. Tông màu chính là xanh, đỏ, đen, vàng, tím. Bố cục màu được quy định chặt chẽ nhưng không hề đơn điệu bởi sắc màu tươi tắn cùng đường nét tự nhiên. Bên cạnh đó, tranh Làng Sình còn thể hiện giá trị ở hệ thống chủ đề tương đối đa dạng. Về chủ đề, có thể chia tranh làng Sình thành ba nhóm chính: tranh nhân vật, tranh súc vật và tranh đồ vật.
Tranh nhân vật: Gồm các loại tượng Bà, tượng Bếp, con ảnh, ông Điệu, ông Đốc… Tượng Bà là những bức tranh thờ trên những chiếc trang bà treo trên xà nhà, gọi là trang bổn mạng. Bà sẽ là người giúp đỡ và giải hạn cho nữ gia chủ, Bà bổn mạng trên tranh Sình thường được thể hiện trong hình tướng của một nữ nhân cưỡi trên lưng voi, ở trong một khung hình chữ nhật, phía sau có hai thị nữ cầm quạt đứng hầu, hoặc chỉ cưỡi voi và có thị nữ hầu cận, hay ngồi trên một đài cao. Tượng Bếp (cũng gọi là tờ Bếp) là những bức tranh in hình ba người ngồi trên trang bếp là bà Thổ Kỳ và hai ông Thổ Công và Thổ Địa; xung quanh là hình các khí dụng, vật phẩm, kẻ hầu người hạ. Con ảnh là những “tờ thế mạng”, gồm ảnh xiêm in hình người đàn ông hoặc đàn bà để cầu đảo để thế mạng cho người lớn, và ảnh phền in hình bé trai hoặc bé gái để thế mạng cho trẻ em. Ngoài ra còn có các bộ tranh thờ thần để cầu an cho người như tiên sư, ông Điệu, ông Đốc, bà Thủy, tam vị Phạm Tinh…
Tranh con vật: Đây là những bức tranh in hình 12 con vật cầm tinh cho thập nhị địa chi trong âm lịch gồm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tranh in hình các loài gia súc trâu, bò, heo, ngựa,… dùng để cúng tế hoặc treo trong các chuồng trại nuôi gia súc để cầu cho vật nuôi tránh được dịch bệnh, phát triển đầy đàn; tranh có hình các linh thú như voi, cọp để dâng cúng nơi các miếu nhằm tỏ lòng thành kính của con người với các loài mãnh thú và cầu mong các mãnh thú này không giáng họa cho người.
Tranh đồ vật: Là những bức tranh in hình các loại áo quần; khí dụng; cung tên;… hoặc các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Ngày nay, với nhu cầu hiện đại, ngoài dòng tranh thờ cúng người ta cũng rất quan tâm đến tranh trang trí, treo tường. Tranh làng Sình giờ đã có thêm các nội dung khác ngoài thờ cúng, những bức tranh trang trí thuộc đề tài dân gian và tranh bát âm ra đời đã làm phong phú thêm cho tranh làng Sình. Dòng sản phẩm này rất được khách du lịch ưa chuộng. Đó có thể là hội vật với các thế vật ngồi, nằm, đứng; hay các trò chơi kéo co nam, nữ, bịt mắt bắt dê…; rồi hình ảnh bát âm gồm nhị, nguyệt, trống, sáo, đàn bầu, tỳ bà, đàn tranh.
Mặc dù, trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế, tranh Sình vẫn có mặt như một phần không thể thiếu, nhưng cái cốt cách xa xưa của một thời thịnh vượng dường như đã không còn nữa. Cùng với sự xuất hiện rất nhiều thứ tranh tượng mới, của các đồ cúng đồ thờ cao cấp Trung Hoa, khiến dòng tranh ngày thêm mai một. Thêm vào đó tính chất nhất thời của các bức tranh làm ra chỉ để hóa mã chứ không phải để treo như lối chơi tranh Tết của Đông Hồ, Hàng Trống, nên càng ngày các nguyên vật liệu làm tranh rẻ càng được ưa chuộng hơn. Điều đó, khiến cho tranh làng Sình đã không còn giữ được cái phong vị vốn có một thời. Vì vậy muốn bảo tồn và phát huy hết giá trị của tranh dân gian làng Sình như một nét đẹp lâu đời của vùng đất kinh kỳ này, làng tranh Sình cần sự quan tâm nhiều hơn từ chính quyền địa phương, cũng cần lắm những người tâm huyết với nghề như nghệ nhân Kỳ Hữu Phước.
2. Làng nón lá Thủy Thanh Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
2.1. Lịch sử hình thành làng nón lá Thủy Thanh
Cách trung tâm thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên – Huế) khoảng 8 km về phía đông nam, làng Thanh Thủy Chánh (xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế) từ lâu đã nổi tiếng là nơi có nhiều công trình kiến trúc cổ, không gian văn hóa mang đậm nét Huế. Thăm nơi này, du khách có những cảm xúc không thể quên về một vùng quê yên bình, hạnh phúc.
Theo sử sách, vào thế kỷ 16, những người dân gốc Thanh Hóa trên đường theo chúa Nguyễn Hoàng (1525- 1613) vào vùng Thuận Hóa (này là 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế) khai hoang lập nghiệp, đã dừng lại tại khu vực làng Thanh Thủy Chánh bây giờ để dựng làng và đặt tên làng là Thanh Toàn. Đến thời Vua Thiệu Trị (1841- 1847), tên Thanh Toàn được đổi thành Thành Thủy. Sau đó, làng được đặt tên chính thức là Thanh Thủy Chánh nhưng người dân nơi đây vẫn quen gọi là Thanh Toàn [29].
Cùng với bước chân Nam tiến, những người dân gốc Thanh Hóa đã mang vào giải đất miền Trung những phong tục tập quán truyền thống đặc sắc, cũng như nền tảng văn hóa của người Kinh. Dần dần, tại ngôi làng nhỏ Thanh Thủy Chánh đã hình thành nên một cộng đồng người Việt với nghề thủ công truyền thống cũng được coi là nghề chính của người dân trong làng, chính là nghề làm nón lá, ra đời cách ngày năm khoảng 500 năm.
2.2. Đặc điểm sản phẩm của làng nghề Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Làng nón lá Thủy Thanh hiện có khoảng 3.000 hộ dân, sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Những lúc nông nhàn, người dân địa phương còn làm thêm các nghề phụ như chằm nón, làm bánh, rèn các đồ nông cụ…
Thoạt trông, chiếc nón lá Huế có vẻ đơn giản như bao chiếc nón khác. Tuy nhiên, để làm được một chiếc nón vừa đẹp vừa nhẹ, vừa bền là cả một nghệ thuật đầy công phu của những người thợ. Ở mỗi công đoạn đều có sự chuyên môn hóa cao, từ khâu khai thác vật liệu, gia công lá nón, thiết kế khung, làm vành, sáng tác hoa văn đến khâu nón. Có rất nhiều du khách khi đến Huế tham quan, lúc về đã không quên mang theo những chiến nón Huế làm quà cho người thân và bè bạn. Nguyên liệu để sản xuất nón lá Huế là cây lá nón, được trồng ở huyện A Lưới và huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đây là vùng có lượng mưa lớn, độ ẩm cao nên phù hợp với sự phát triển của cây lá nón. Lá nón được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già – lá thường đang còn búp vừa đủ một tháng tuổi và phát triển hết chiều dài, chiều ngang, chưa chuyển sang màu xanh đậm, các bẹ lá ôm khít với nhau, chưa bung ra, có độ mềm với chiều dài khoảng 40-50cm [12].
Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón sấy đạt yêu cầu phải thỏa các điều kiện là lá chính đều, khô vừa, giữ được sắc xanh nhẹ, chưa hoàn toàn ngả sang màu trắng vàng. Đây là công việc vất vả và khá quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón được tạo ra. Sau khi sấy xong, người thợ sẽ đem lá về rãi sương (giữ độ ẩm), ủi và lựa lá. Họ rất thạo trong việc chọn lá đực, lá cái, mặt phải, mặt trái, cắt và rọc sống. Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn, bài thơ phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái là lớp được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.
Để làm được một chiếc nón Huế, người thợ phải thực hiện rất nhiều công đoạn. Toàn bộ qui trình chủ yếu có 3 nhóm việc chính: Chuẩn bị khung vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện nón. Trước hết là khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 16 thanh gỗ vát mảnh được làm từ thân cây lồ ô ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau, toàn bộ mặt khung hình khum nhẹ. Tùy thuộc vào thợ làm nón đặt loại khung nào thì người thợ sẽ làm loại khung đó. Bộ khung vành quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Có người đã nhận xét: “Nón Huế nhẹ, mềm mỏng, trước hết ở cốt cách của bộ vành.
Ở vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho không gợn chút méo mó ngay cả ở chỗ mắt cây”. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Khâu (chằm) nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm. Khi xây và lợp lá phải thật khéo, nhất là khâu sử dụng lá chêm, tránh việc chồng nhau nhiều lớp để sao cho nón thanh và mỏng, mũi chỉ chằm phải sát để kẽ lá ôm khít lấy nhau. Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân làng nón đã làm được điều đó bằng tài năng và sự khổ luyện của mình, có khi phải chong đèn thâu đêm suốt sáng, miệt mài như không biết mỏi là gì. Khâu xong nón, người thợ chỉ còn việc đánh quai, chải dầu. Lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn làm cho nón thêm sáng, đẹp và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu cuộc hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần xa.
Về mặt hình dáng và công dụng, nón bài thơ xứ Huế của làng Thanh Thủy Chánh cũng giống như nón cùng loại của một số địa phương khác trên cả nước. Tuy nhiên, nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế ở đây chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, bố cục cân đối nằm giữa 2 lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị của nó. Ở Huế, chiếc nón không chỉ để che nắng mưa mà còn là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.
Có thể nói, nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi và ai cũng có thể đội nón Huế, từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài,… Nón lá là sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầu tiên được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào tháng 8/2010 [28]. Đây chính là cơ sở để nghề làm nón ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và ở làng nghề nón lá Thủy Thanh nói riêng ngày càng gia tăng sản lượng các sản phẩm nón, đi cùng với đó là chất lượng các sản phẩm nón lá luôn được đặt lên hàng đầu, để giữ vững thương hiệu riêng của nón Huế.
3. Làng đúc đồng ở Phường Đúc Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
3.1. Lịch sử hình thành làng đúc đồng ở Phường Đúc
Làng Đúc nằm ở ven bờ nam sông Hương, đoạn từ cầu Giã Viên lên phía Long Thọ, cách thành phố Huế khoảng 3km về phía Tây nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Tên gọi của làng gắn liền với nghề đúc đồng – một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam.
Làng đúc đồng ở Huế ra đời có nguồn gốc từ tổ chức của những thợ thuyền cùng nghề đúc thời Chúa Nguyễn, từ đầu thế kỷ 17. Khi xây dựng Huế thành Kinh đô, các chúa Nguyễn đã trưng tập thợ khéo cả nước về đây làm những công trình, vật dụng phục vụ nhu cầu của cung đình. Chúa Nguyễn đã dựng lên một “Công tượng đúc đồng”, những người thợ đến từ nhiều nơi làm việc trong những Công tượng của Chúa ở Trường Đồng, trong đó, hai làng nghề đúc đồng lớn nhất và có danh tiếng nhất là Kinh Nhơn và Bổn Bộ [13].
Khi Chúa Trịnh và Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân thì các Công tượng đúc đồng bị tan rã, riêng chỉ có họ Nguyễn ở Kinh Nhơn vẫn tiếp tục nghề đúc của cha ông. Từ những lò đúc của các anh em trong dòng họ Nguyễn, nghề đúc vẫn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.Theo gia phả của dòng họ Nguyễn – Kinh Nhơn, thủy tổ của nghề này là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay), đến các thế hệ sau có rất nhiều người ngoại tộc đã trở thành rể các chủ lò đúc họ Nguyễn và được truyền nghề như họ Tống, họ Lê, họ Huỳnh [13]. Lớp hậu duệ này đã trở thành những truyền nhân xứng đáng, góp phần làm nên nét đẹp của một làng nghề. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Rất nhiều sản phẩm của người thợ đúc đồng Phường Đúc khi xưa đã trở thành những kiệt tác di sản trong kho tàng văn hóa vật thể kinh thành Huế như: Vạc đồng ở Đại Nội (1659-1684), Chuông chùa Thiên Mụ (1710), Cửu Đỉnh đặt trước Thế Miếu (1835-1804), Cửu Vị Thần Công đặt trước Ngọ Môn (1803-1804), Chuông chùa Diệu Đế (1846) và rất nhiều các vật dụng thờ cúng bằng đồng từ “trong cung ra ngoài nội” ở Huế. Các chùa ở Huế cũng có rất nhiều tượng phật bằng đồng với niên đại thuộc đầu thế kỷ XX, gần hơn là tượng danh nhân Phan Bội Châu cao gần 4m đặt ở khu lưu niệm Phan Bội Châu- Huế qua bàn tay tài hoa của những nghệ nhân và người thợ Phường Đúc (1974) [13].
Vào giai đoạn những năm 1965 – 1975, ở Phường Ðúc chỉ có khoảng 40 hộ làm nghề đúc đồng. Trải qua nhiều thăng trầm, song giai đoạn hiện nay vẫn được xem thời kỳ thịnh nhất. Vào thời đó, người thợ đúc qua tầng lớp thương nhân, đã được cung cấp một số lượng lớn từ phế phẩm của chiến tranh, gồm các loại khí cụ, đạn dược bằng nhôm, gang, đồng. Những mặt hàng thường thấy trước đó như soong, nồi, chảo, mâm, thau,… được đúc thay bằng nhôm. Do yếu tố kỹ thuật đúc nhôm đơn giản hơn, khuôn nhôm có thể dùng lại nhiều lần, sản phẩm bằng nhôm nhẹ, đẹp, giá thành thấp, vì thế lượng tiêu thụ ngày càng nhiều.
Từ năm 1975 đến nay, các mặt hàng sản xuất bằng đồng, gang, nhôm ngày càng phong phú, phục vụ trên nhiều lĩnh vực như công nghiệp, hàng tiêu dùng, mỹ nghệ, nghi lễ, phong tục. Chính vì vậy, số lượng các lò đúc ở Phường Đúc từ con số 2 vào năm 1975 đến nay đã có trên 60 lò chuyên sản xuất mặt hàng này. Hiện tại, làng Đúc đồng Huế nằm trên địa bàn Phường Phường Đúc và một phần của Phường Thủy Xuân [13].
3.2. Đặc điểm của sản phẩm làng nghề Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Các nghệ nhân ngày nay ở Phường Đúc sở hữu đôi tay tài hoa và khéo léo đã cho thấy sự phát triển liên tục của làng nghề, cũng như sự liên tục ở đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật của làng đúc đồng Huế. So với các làng nghề truyền thống khác ở Huế, Phường Đúc hiện nay là một trong những nơi sinh hoạt nghề nhộn nhịp nhất. Bởi Phường Ðúc còn nhiều nghệ nhân tâm huyết với nghề và đã được vinh danh như: nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Ðệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn Trường Sơn,… [5]
Các nghệ nhân này đã và đang nỗ lực truyền nghề cho hậu thế, tiêu biểu là nghệ nhân Nguyễn Văn Sính – người con đời thứ 11 của dòng họ Nguyễn – Kinh Nhơn đã kế nghiệp nghề đúc đồng, là một trong những người có công đào tạo được hơn 100 người trưởng thành với nghề đúc đồng và đã có 26 học trò của ông mở lò đúc ngay tại Phường Đúc để duy trì nghề truyền thống. Ông được phong tặng là nghệ nhân dân gian nghề truyền thống đầu tiên ở Huế. Ông Sính còn có hai người con tốt nghiệp đại học, tiếp bước nghề đúc đồng của cha ông, đó là Nguyễn Trường Sơn và Nguyễn Phùng Sơn, chủ hai cơ sở đúc đồng ở Huế và Ðồng Nai [5].
Nét đáng quý trong sản xuất các sản phẩm ở Phường Đúc là quá trình kỹ thuật truyền thống vẫn được những người thợ gìn giữ gần như nguyên vẹn. Các mặt hàng sản xuất bằng đồng ở Phường Ðúc ngày càng phong phú, song ít có sự can thiệp của kỹ thuật hiện đại. Những nghệ nhân nơi này dựa vào đôi tay khéo léo, kinh nghiệm và những công cụ giản đơn đã làm nên những sản phẩm vô cùng giá trị. Ngoài việc thay chiếc bệ tạo gió thủ công bằng động cơ thổi khi nấu nguyên liệu, sử dụng khuôn đúc cát của các lò đúc ở Nam Trung Bộ để thay thế khuôn đúc truyền thống hay chuyển đổi quy trình từ nấu lò đứng sang lò nằm, nồi gang sang nồi sắt, cải tiến cách lấy lõi khuôn đúc để đúc được nhiều lần trên cùng một khuôn, thì các quy trình còn lại hầu như đều làm bằng tay. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Các quy trình được làm bằng tay bao gồm: Từ động tác sú đất, nặn khuôn, giáp khuôn, chèn khuôn, bố khuôn để đưa vào lò, cho đến công việc nung khuôn pha chế hợp kim – nấu chảy nguyên liệu rồi ra cơi, rót khuôn, làm nguội, đánh bóng, nhuộm sản phẩm [13]. Đó chính là một quá trình đòi hỏi không chỉ lao lực mà còn thử thách trí tuệ và tài năng của người thợ. Sản phẩm hoàn hảo không chỉ mang ý nghĩa lành lặn và giống như đúc với bản mẫu về mặt ngoại hình mà còn phải đáp ứng một số tiêu chuẩn về chất lượng khác.
Ngoài các sản phẩm truyền thống đặc trưng (đồ thờ cúng) như: lư đồng, bát hương, tam sự, ngũ sự, chuông, cồng, chiêng…Các sản phẩm lưu niệm tinh xảo bằng đồng cũng được sản xuất phục vụ người yêu văn hóa trưng bày và khách du lịch như: tượng danh nhân, trống đồng, bình hoa, các biểu tượng văn hóa tiêu biểu của Huế và đất nước. Nổi bật nhất là những tác phẩm nổi tiếng mang đậm tính nghệ thuật, sống mãi với thời gian của lớp hậu duệ sau này như: Tượng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng (Thành phố Nam Định), tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành- Plây Cu (Gia Lai), tượng Bác Hồ đặt tại làng Kim Liên (Nghệ An) và thành phố Huế, tượng Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại An Giang, tác phẩm Trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)…[13]
Đặc biệt trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội vào năm 2010, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính với biệt tài đúc chuông và các học trò của ông đã lập kỷ lục trong nghề đúc đồng từ xưa đến nay ở Việt Nam, khi đúc thành công quả chuông Đại Hồng Chung có kích thước khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng hơn 30 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông – Nam Á. Trong vòng tám tháng, ông đã huy động hơn 60 thợ đúc, nấu và rót liên tục tám nồi đồng (mỗi nồi 2,5 tấn đồng) trong sáu giờ liên tục, bởi chỉ cần một chút sơ sẩy như bị tràn hoặc xì ra ngoài khuôn đúc thì phải hủy bỏ tất cả. Ông Sính cho biết: Khi đúc chuông cần có sự dung hòa giữa tính nghệ sĩ với những tính toán khoa học. Ngoài kinh nghiệm gia truyền, đúc chuông cần phải có cái tâm của người thợ, như thế mới tạo ra những quả chuông có âm thanh hay và có độ ngân vang.
Trải qua hơn 400 năm hình thành và phát triển, làng nghề đúc đồng Huế vẫn tồn tại và phát triển thịnh vượng, tiếng thơm vang xa khắp mọi miền đất nước. Những nghệ nhân Phường Đúc đã biết chắt lọc những bí quyết cổ truyền, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và luôn giữ được cái tâm làm nghề. Nhờ vậy mà những tinh hoa, linh hồn của nghề đúc đồng luôn là một nét đẹp trong văn hóa làng nghề của mảnh đất cố đô. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
4. Làng gốm Phước Tích
4.1. Lịch sử hình thành làng gốm Phước Tích
Làng cổ Phước Tích, tỉnh Thừa Thiên – Huế là ngôi làng cổ thứ hai của Việt Nam. Nếu như làng Việt cổ ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) mang dáng dấp đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, thì làng Phước Tích xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, Thừa Thiên – Huế lại còn khá nguyên vẹn những yếu tố gốc của làng cổ vùng văn hóa Huế và miền Trung. Đây cũng chính là ngôi làng thứ 2 của Việt Nam được Bộ Văn hóa- Thế thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Lễ công bố quyết định quan trọng này diễn ra song song với “Festival nghề truyền thống Huế- 2009” (ngày 13/ 06), mở ra cơ hội phát triển mới cho làng cổ Phước Tích [30].
Làng cổ Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỉ 15, gần với thời gian mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Làng Phước Tích đến nay vẫn còn lưu giữ những di sản vật thể vô giá vừa cổ kính, vừa đồ sộ. Trong tổng số 117 nóc nhà của làng, hiện còn tới 27 ngôi nhà cổ, đa số là nhà rường 3 gian hai chái và 10 nhà thờ họ cổ. Trong đó có 12 nhà rường của các gia đình được xếp vào loại có giá trị đặc biệt. Điều lý thú là các ngôi nhà rường cổ ở Phước Tích liên kết với nhau, chỉ cách nhau một khu vườn rộng với những hàng chè tàu xanh, thẳng. Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ. Đó là cấu trúc mở với những căn nhà trong vườn, nhà vườn. Ở Phước Tích, quỹ kiến trúc cổ và cũ, song cảnh quan và vườn được bao quanh thì lại rất trẻ và tràn đầy sức sống. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Thời trước, ở làng Phước Tích, cả làng có 12 lò suốt ngày đêm đỏ lửa nung, cho ra những sản phẩm gốm bền bỉ và bắt mắt. Sau đó được vận chuyển bằng thuyền từ bến sông Ô Lâu đưa đi bán ở các tỉnh lân cận như Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi… và lan tỏa khắp cả nước. Đặc biệt, làng gốm cổ Phước Tích là nơi sản xuất những chiếc om nấu cơm cho vua ngày xưa. Người thời trước còn có câu thơ gắn với hình ảnh những chiếc om làng Phước Tích: “Om Phước Tích ngon cơm hoàng đế/ Sen Hà Trì quý thế Phú Xuân”. Những kiểu sản phẩm gốm thời xưa cho tới nay vẫn được nhiều người già trong làng lưu lại như trách, chậu, om, niêu, âm, tộ, cối tiêu, bình vôi, chum, ghè,…[30]
Suốt mấy trăm năm tồn tại, nghề gốm đã gắn kết chặt chẽ với cư dân trong làng và trở thành thương hiệu vang tiếng. Nhưng khoảng 1989, nghề gốm làng Phước Tích bắt đầu xuống dốc, và đến 1995 thì lò gốm cuối cùng cũng tắt lửa. Con cháu trong làng phần lớn chọn con đường lập nghiệp phương xa, chỉ còn lại những cụ già và một vài thanh niên làm nghề thủ công, việc vực dậy làng nghề truyền thống ngày càng trở nên khó khăn. Tuy nhiên, làng gốm Phước Tích đã có cơ hội chuyển mình, vực dậy, năm 2007 gốm Phước Tích được đưa vào trưng bày tại Festival Nghề truyền thống Huế và nhận được sự chú ý từ đông đảo khách tham quan và các chuyên gia ngành gốm [30]. Nhờ đó, sau 20 năm tắt lửa, lụi nghề, ngày nay lò gốm Phước Tích đỏ lửa trở lại trong niềm vui của các nghệ nhân và người dân trong làng. Cùng vốn quý nhà cổ, việc phục hồi nghề gốm truyền thống đã khiến Phước Tích được biết đến không chỉ là một làng cổ mà còn là một làng nghề gốm truyền thống của tỉnh Thừa Thiên – Huế.
4.2. Đặc điểm sản phẩm của làng nghề Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Đôi tay của người thợ Phước Tích cho ra đời nhiều sản phẩm từ hàng trăm năm nay có mặt trong mọi gia đình Huế dưới dạng các loại đồ đựng như: lu, hông, ảng, hủ, độc, trình, thống… Cùng với làng gốm truyền thống như: gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu hay gốm Phù Lãng, gốm ở Phước Tích nổi tiếng bởi độ bền, bóng mịn và tinh xảo. Tất cả các sản phẩm gốm đều được làm bằng tay, và đun bằng củi trong các lò sấp, hay tiện lợi hơn, ngày nay người thợ còn sử dụng lò gas.
Nghề gốm trên đất Việt Nam thì có nhiều, nhưng gốm Phước Tích luôn mang một vị trí riêng của mình. Đó là bởi, gốm Phước Tích có nguồn nguyên liệu khác lạ, chất liệu chính của sản phẩm gốm Phước Tích được khai thác ở vùng Diên Khánh (Quảng Trị) là đất sét. Đất sau khi được nung lên dù không tráng men vẫn không bị thẩm thấu, dùng làm vật dụng để nấu ăn rất ngon. Thế nên không phải ngẫu nhiên mà xưa kia, triều đình giao cho làng Phước Tích trách nhiệm phải sản xuất “om ngự” để dùng nấu cơm cho vua ngự thiện. Màu sắc của đất làm gốm Phước Tích cũng là màu sắc tự nhiên, không cần pha chế, nên vô cùng độc đáo [1]. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Đất sau khi lấy về, được cho vào bể đánh tơi ra với nước rồi lọc, lắng, đem phơi khô như kiểu người ta vẫn thường làm bột sắn dây, bột hoàng tinh vậy. Sau đó mới được nhào và nặn hình sản phẩm. Người thợ thường gọi đất sét là các loại kẻ được chia thành nhiều loại: kẻ tốt, kẻ màu. Trong quy trình sản xuất gốm, kẻ tốt được dùng để sản xuất những sản phẩm có thành mỏng, hình khối lớn, kẻ màu dùng làm những đồ vật không yêu cầu về mặt ngoại hình. Đất sẽ được luyện kỹ vừa, có độ dẻo, sau đó đất được nặn thành dây dài to bằng cổ tay, người thợ chuốt ngắt từng đoạn, khoanh trũng giữa bàn xoay, chân phải đạp bàn, hai tay chuốt. Mọi sản phẩm to, nhỏ, dày, mỏng đều do hai bàn tay điều khiển, không có khuôn mẫu nhất định, kích thước từng cỡ do mực mắt, có sai lệch nhưng không đáng kể.
Ở công đoạn tạo hình sản phẩm, có hai cách thức là tạo hình bằng bàn xoay hoặc đổ khuôn. Tạo hình bằng bàn xoay thì thường dùng để sản xuất những sản phẩm gốm có kích thước lớn như: Chum, lọ, bình, âu… Còn tạo hình thông qua việc đổ khuôn thì kỹ thuật này đang được sử dụng phổ biến, vì có thể sản xuất hàng loạt, cho năng suất cao. Việc tạo hình sản phẩm theo khuôn in gồm các khâu đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết để tạo sản phẩm.
Các sản phẩm gốm, sau khi qua các công đoạn làm đất, tạo hình, sẽ được đem phơi khô, để sản phẩm khô, không bị sứt mẻ, không làm thay đổi hình dạng của sản phẩm. Sau khi gốm được phơi khô, khi nào đất se cứng thì tiến hành sửa, gọt, cạo nhẵn…theo đúng ý muốn. Các chi tiết khác như: quai, tai hoặc trang trí các hình động vật nổi, hoa lá… tất cả đều được thực hiện ở giai đoạn này. Khắc vạch là phương pháp trang trí hoa văn chủ yếu. Một số sản phẩm gốm có hoa văn khắc chìm vào xương gốm được thực hiện bằng phương pháp in khuôn. Các sản phẩm gốm men ngọc và gốm men hoa nâu, sẽ được vẽ bằng bút lông vẽ màu để trang trí các loại hoa văn để tăng tính nghệ thuật cho sản phẩm. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
Sản phẩm mộc sau khi trang trí, phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm. Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Phước Tích, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây. Tiếp đó, người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành cắt dò, tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là sửa hàng men.
Và công đoạn cuối cùng, quyết định sự thành bại của một mẻ gốm chính là nung gốm. Bây giờ, người thợ trong làng thường sử dụng lò gas để nung gốm, thời gian nung gốm được rút ngắn chỉ mất khoảng 24 giờ. Tuỳ theo mỗi loại lò và mỗi dạng gốm cụ thể mà thời gian nung và nhiệt độ nung cũng khác nhau: Gốm đất nung ở nhiệt độ từ 6000C – 9000 C, gốm sành nâu từ 11000 C – 12000C, gốm sành trắng từ 12500C -12800C và đồ sứ từ 12800C– 1350 0C [1].
Việc hoàn thành một sản phẩm gốm khá vất vả và kỳ công, vì vậy mà số lượng những người thợ sống bám nghề, theo đuổi với nghề tại làng hiện nay vẫn còn là con số khá khiêm tốn. Hy vọng trong tương lai, với sự đầu tư đúng mực, làng gốm Phước Tích sẽ vươn lên phát triển mạnh mẽ, cho ra lò nhiều sản phẩm gốm mang nét truyền thống, độc đáo riêng biệt. Khóa luận: Tìm hiểu làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Huế.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng các làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Huế
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com