Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

Trong các quy định pháp luật dân sự của nước ta, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định xuất hiện sớm. Tuy nhiên, mãi đến khi Bộ luật Dân sự (1995) được ban hành, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mới bắt đầu được xây dựng theo hệ thống chi tiết, công phu và từ đó có thể điều chỉnh được đa số các vướng mắc được đưa ra trong vấn đề giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng kể từ ngày 01/07/1996.

Sau 10 năm kể từ năm 1995, Bộ luật dân sự 2005 ra đời và đã có nhiều điểm mới, các điều được sửa đổi, bổ sung, và một trong những điểm sáng mới đó chính là chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 604 đến Điều 630). Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những loại trách nhiệm gây nhiều tranh cãi nhất về căn chứ phát sinh mức bồi thường. Hơn nữa quy định của pháp luật về vấn đề này còn có một số quy định mang tính “định tính” mà không “định lượng” nên gây khó khăn rất nhiều cho công tác áp dụng pháp luật.

Do đó, cho tới năm 2015, Bộ luật dân sự 2015 đã được ban hành để thay thế cho Bộ luật Dân sự 2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, Bộ luật dân sự 2015 đã có nhiều đột phá trong tư duy pháp lý và trong tạo lập cơ chế pháp lý đồng bộ, thống nhất về điều chỉnh quan hệ dân sự, về địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân trong đời sống dân sự; ghi nhận, bảo vệ tốt hơn các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của người dân; qua đó bảo đảm hướng tới sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước, song thực tiễn áp dụng lại không nhiều vì đây là bộ luật nguyên tắc chung của hầu hết các luật chuyên ngành. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Vì vậy, vẫn còn nhiều điểm bất cập, vướng mắc về quy định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba), xác định hợp đồng vô hiệu trong trường hợp đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch, … Vì vậy, em xin lựa chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình với mong muốn làm rõ hơn những quy định của pháp luật về vấn đề có ý nghĩa, giá trị thực tiễn sâu sắc này.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Khóa Luận Ngành Luật

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

1.1.1. Lịch sử hình thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Để bảo đảm quyền con người không chỉ là sự ghi nhận và cho phép mỗi công dân được tự do thực hiện các hành vi pháp luật không cấm, mà cùng với đó còn là việc xây dựng các thiết chế nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền tự do và bảo vệ quyền, cũng như lợi ích hợp pháp của mỗi chủ thể trước những sự vi phạm pháp luật. Qua nhiều thời kỳ và thế hệ, việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người là một trong những cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát triển của các chế định pháp luật, trong đó có chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các chế định pháp luật có thể thấy chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định có lịch sử hình thành và phát triển sớm trong các chế định pháp luật dân sự.

Trên thế giới, quá trình hình thành và phát triển của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có hai giai đoạn điển hình đó là:

  • Giai đoạn bồi thường dựa trên chế độ tư nhân phục cừu;
  • Bồi thường dựa trên chế độ thục kim.

Việt Nam, trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hình thành và phát triển cũng chịu ảnh hưởng của các tư tưởng pháp luật của các quốc gia trên thế giới trong từng thời kỳ khác nhau. Do đó, quan điểm về bồi thường thiệt hại trong các thời kỳ khác nhau cũng có sự thay đổi rõ rệt.

Trong thời kì phong kiến, chế định trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng “được quy định sơ sài và tản mát, các quy định này không phân biệt rõ trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự”. Tức là trong thời kỳ này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thể hiện trong các văn bản pháp luật về hình sự và người gây thiệt hại thường phải chịu cả trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự. Các quy định pháp luật đều nhằm hướng tới bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị chứ không chú trọng vào việc bảo vệ quyền con người trong xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội và công cuộc đấu tranh giành độc lập, các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng cũng có những thay đổi cho phù họp với thực tế đời sống xã hội. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Trong giai đoạn hiện nay, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dựa trên nền tảng của các quy định mang tính nguyên tắc của trách nhiệm dân sự. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người phải bồi thường với người được bồi thường. Các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hướng tới bảo vệ quyền lợi của những người bị thiệt hại, và sâu xa hơn là nhằm hướng tới bảo vệ quyền con người và các quyền cơ bản của công dân.

Trên thế giới, trong khoa học pháp lý, có nhiều học thuyết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hình thành, phát hiển qua nhiều thời kì lịch sử khác nhau. Trong đó có hai học thuyết điển hình vẫn còn tồn tại trong khoa học pháp lý dân sự hiện đại, đó là học thuyết cổ điển (quan điểm cổ điển) và học thuyết trách nhiệm khách quan (quan điểm trách nhiệm khách quan; hay còn gọi là lý thuyết rủi ro). Những quan điểm sau đây về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thể hiện như sau:

  • Thuyết cổ điển.

Những người theo thuyết cổ điển cho rằng, “cần phải có một sự quá thất (có lỗi) mới có trách nhiệm dân sự”.

Theo học thuyết này, người bị thiệt hại muốn được bồi thường thì phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Những tư tưởng trong học thuyết này còn tồn tại cho đến tận ngày nay và được cụ thể hóa trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, trong đó có Việt Nam trước đây. “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại”.

Thực tế cho thấy, học thuyết này chỉ phù họp với trường họp bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra. Tuy nhiên, học thuyết này cũng có những hạn chế mà nếu không khắc phục được sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Bởi vì, trên thực tế, trong nhiều trường hợp, sự kiện gây thiệt hại xảy ra nhưng người bị thiệt hại không thể chứng minh được lỗi của người gây thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra mà không một chủ thể nào có lỗi. Do đó, “nếu buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường của nạn nhân”.

Hiện nay quan điểm lập pháp trong Bộ luật dân sự 2015 dường như chống lại quan điểm cổ điển này.

Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi hay do tài sản gây ra đều không phụ thuộc vào điều kiện lỗi, tức là người bị thiệt hại chỉ cần chứng minh có thiệt hại xảy ra, có nguyên nhân gây thiệt hại và có mối quan hệ nhân quả là đã có thể yêu cầu người gây thiệt hại hoặc người có liên quan phải bồi thường thiệt hại.

  • Quan điểm của người theo học thuyết trách nhiệm khách quan (lý thuyết rủi ro).

Theo quan điểm của những người theo học thuyết trách nhiệm khách quan (lý thuyết rủi ro), trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của bất cứ chủ thể nào. Theo đó, chỉ cần có thiệt hại xảy ra, có hành vi hoặc hoạt động của tài sản gây ra thiệt hại và có mối quan hệ nhân quả thì người bị thiệt hại đã có thể yêu cầu BTTH mà không cần chứng minh lỗi của người phải bồi thường. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Do đó, học thuyết này gắn liền với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Những người ủng hộ cho học thuyết này thường đưa ra nhiều lý do để bảo vệ, và một trong những lý do có tính thuyết phục nhất đó là “lý do công bằng xã hội”.

Đây không phải là học thuyết mới xuất hiện trong pháp luật dân sự hiện đại, mà nó xuất hiện từ thời La Mã cổ đại. Trong thời kỳ La Mã cổ đại, “khi một sự tổn hại đã do một súc vật hay một người nô lệ gây nên, người chủ phải chịu trách nhiệm”. Cho đến ngày nay, học thuyết này vẫn tồn tại và được nhiều luật gia, học giả, nhà nghiên cứu thừa nhận, ủng hộ cho học thuyết này, một số luật gia của Pháp đã căn cứ vào các án lệ của Pháp để khẳng định rằng “trách nhiệm do tác động của các vật vô tri phải là một trách nhiệm khách quan rõ rệt không căn cứ vào quá thất (lỗi)”.

Khi nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, quan điểm của nhiều học giả Việt Nam cũng phù hợp với học thuyết này khi cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không cần điều kiện về lỗi.

Như vậy, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ cần 3 điều kiện sau đây:

  • Có thiệt hại thực tế xảy ra;
  • Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật;
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra.

Quan điểm này không chỉ được thể hiện khi nghiên cứu tổng thể các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, mà khi nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, những người theo quan điểm này cũng khẳng định “trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm không cần điều kiện lỗi”

Trên cơ sở những phân tích ở trên có thể thấy rằng, trong khoa học pháp lý thế giới vẫn còn tồn tại các học thuyết đối lập nhau về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Mặc dù vậy, mỗi học thuyết đều dựa trên nền tảng những lý luận vững chắc và vẫn được áp dụng ở các quốc gia khác nhau cho đến tận ngày này.

1.1.2. Hình thức bồi thường thiệt hại Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Các bộ luật cổ của Việt Nam cũng quy định về trách nhiệm dân sự theo hình thức tương tự nhưng không quy định riêng về trách nhiệm dân sự. Trong các quy định của luật cổ, quy định về hình phạt của hình sự và phạt mang tính chất dân sự theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại như một khoản bồi thường. Mức độ bồi thường còn phụ thuộc vào nhân thân người bị thiệt hại.

Theo Điều 29 Bộ luật Hồng Đức thì tiền đền mạng được ấn định tuỳ theo phẩm trật của kẻ bị chết như sau: nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000 quan; nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 7.000 quan; tứ phẩm, tòng tứ phẩm 5.000 quan, ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm 2.000 quan, lục phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất phẩm 500 quan; bát phẩm đến cửu phẩm 300 quan, thứ nhân trở xuống 150 quan.

Trong Trường hợp đánh người gây thương tích thì người phạm tội ngoài hình phạt bị đánh roi còn phải bồi thường cho nạn nhân theo mức đã được quy định trong Điều 466 Bộ luật Hồng Đức như sau: “Sưng phù thì phải đền tiền thương tổn 3 tiền, chảy máu thì phải 1 quan, gãy một ngón tay, một răng thì đền 10 quan, đâm chém bị thương thì 15 quan. Đọa thai chưa thành hình thì 30 quan, đã thành hình thì 50 quan, gãy một chân một tay, mù một mắt thì 50 quan, đứt lưỡi và hỏng âm, dương vật thì đền 100 quan, về người quyền quý phải xử khác”. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Riêng trong Bộ luật Gia Long, tiền bồi thường không được đề cập. Trong Bộ luật Gia Long chỉ có Điều 201 quy định về tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân trong trường hợp phạm tội giết người, phạm nhân bị phạm tội chiếu theo điều luật cố ý đả thương nhân thương chí tử nhưng cho chuộc tội. Tiền chuộc thì giao cho gia đình nạn nhân để lo việc chôn cất. Nếu phạm nhân bị phạt tội giảo thì số tiền chuộc là 12 lạng bạc. Đối với người điên giết người số tiền này cũng như vậy.

Nếu kẻ giết người được ân xá, y phải trả cho gia đình nạn nhân 20 lạng bạc. Nếu nghèo túng thì chỉ phải trả nửa số tiền ấy. Đối với trường hợp gây thương tích, Điều 271 Bộ luật Gia Long cũng quy định tỉ mỉ các hình phạt tuỳ theo thương tích từ nhẹ đến nặng nhưng đó là những chế tài về hình sự mà không đề cập bồi thường như trong Điều 466 Bộ luật Hồng Đức. Điều 271 Bộ luật Gia Long dự liệu bồi thường trong các trường hợp nặng nhất như hỏng mắt, gãy tay chân, làm hỏng bộ phận trong cơ thể… thì ngoài hình phạt lưu 300 lí, 100 trượng thì 1/2 tài sản kẻ phạm tội được đền cho nạn nhân để nuôi thân. Bước phát triển tiếp theo của chế định bồi thường thiệt hại đánh dấu sự can thiệp mạnh mẽ hơn của Nhà nước bằng cách dự liệu những chế tài về hình sự để trừng phạt những kẻ nào xâm phạm đến tài sản và nhân thân kẻ khác. Ngoài việc phải chịu hình phạt, kẻ phạm tội còn phải bồi thường cho nạn nhân những thiệt hại mà họ đã gây ra. Vì mang tính chất hình phạt nên số tiền bồi thường được ấn định gấp đôi, gấp ba, gấp bốn lần thiệt hại thực tế đã gây ra.

Do sự phát triển của xã hội, các chế định pháp luật cũng dần thay đổi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không còn được coi là hình phạt mà là nghĩa vụ, bổn phận của người bị thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản của người bị thiệt hại. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật dân sự năm 2015 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật dân sự “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với “nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái pháp luật Điều 584 Bộ luật dân sự đã xác định sự đồng nghĩa này bằng quy định:

“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường…”

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái niệm nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 Bộ luật dân sự năm 2015:

“Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bền có quyền)”.

Từ quy định này có thể nêu khái niệm về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại như sau:

Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự, trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Trong quan hệ nghĩa vụ này, chủ thể tham gia có thể là cá nhân, pháp nhân. Chủ thể bị thiệt hại (người có quyền) và chủ thể gây thiệt hại (người có nghĩa vụ) là các bên tham gia vào các quan hệ đó. Bên có quyền cũng như bên có nghĩa vụ có thể có một hoặc nhiều người tham gia. Nghĩa vụ hoặc quyền của họ có thể là liên đới, riêng rẽ hoặc theo phần tuỳ điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị xâm hại.

Khách thể của quan hệ nghĩa vụ này luôn thể hiện dưới dạng ”’hành động” phải thực hiện hành vi “bồi thường” cho người bị thiệt hại. Cơ sở phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” cho các chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thể hiện trong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để phân biệt với trách nhiệm theo hợp đồng. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do pháp luật quy định xuất phát từ những nguyên tắc chung của Hiến pháp (các quy định từ Điều 14 đến Điều 21 Hiến pháp năm 2013) và các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật dân sự (Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015). Khoản 4 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Nguyên tắc được quy định trong điều luật này buộc các chủ thể “không được xâm phạm”, bởi vậy nếu “xâm phạm” sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế với mục đích khắc phục những hậu quả về tài sản cũng như nhân thân do hành vi gây thiệt hại tạo ra.

1.1.3. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Do sự phát triển của xã hội, các chế định pháp luật cũng dần thay đổi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không còn được coi là hình phạt mà là nghĩa vụ, bổn phận của người bị thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản của người bị thiệt hại.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật dân sự năm 2015 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật dân sự “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa ttách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với “nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái pháp luật Điều 584 Bộ luật dân sự đã xác định sự đồng nghĩa này bằng quy định:

“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường…”

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái niệm nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 Bộ luật dân sự năm 2015:

“Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bền có quyền)”. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Từ quy định này có thể nêu khái niệm về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại như sau:

Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự, trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.

Trong quan hệ nghĩa vụ này, chủ thể tham gia có thể là cá nhân, pháp nhân. Chủ thể bị thiệt hại (người có quyền) và chủ thể gây thiệt hại (người có nghĩa vụ) là các bên tham gia vào các quan hệ đó. Bên có quyền cũng như bên có nghĩa vụ có thể có một hoặc nhiều người tham gia. Nghĩa vụ hoặc quyền của họ có thể là liên đới, riêng rẽ hoặc theo phần tuỳ điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị xâm hại.

Khách thể của quan hệ nghĩa vụ này luôn thể hiện dưới dạng ”’hành động” phải thực hiện hành vi “bồi thường” cho người bị thiệt hại. Cơ sở phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” cho các chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thể hiện trong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để phân biệt với trách nhiệm theo hợp đồng. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do pháp luật quy định xuất phát từ những nguyên tắc chung của Hiến pháp (các quy định từ Điều 14 đến Điều 21 Hiến pháp năm 2013) và các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật dân sự (Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015). Khoản 4 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Nguyên tắc được quy định trong điều luật này buộc các chủ thể “không được xâm phạm”, bởi vậy nếu “xâm phạm” sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế với mục đích khắc phục những hậu quả về tài sản cũng như nhân thân do hành vi gây thiệt hại tạo ra.

1.2. Khái niệm về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vô ý) gây hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, gây hại đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác.

Theo điều 604 BLDS năm 2005 quy định:

Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”

Trong điều luật này, chúng ta có thể thấy, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín không thể tự phát sinh những quan hệ xã hội liên quan đến tài sản, mà nó chỉ có thể phát sinh khi những quyền này bị người khác xâm phạm, có gây thiệt hại thực tế về vật chất và tinh thần.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập nhất định, ví dụ như không cụ thể, rõ ràng; không bao quát hết mọi trường hợp xảy ra; đặc biệt là nhiều quy định không còn phù hợp với thực tiễn và từ đó gây khó khăn nhiều cho công tác xét xử của Tòa án. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 24 tháng 12 năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017) (“BLDS 2015”) đã có nhiều sự thay đổi cơ bản liên quan đến chế định BTTH ngoài hợp đồng. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Cụ thể, Điều 584 BLDS 2015 quy định như sau:

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
  2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
  3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

Qua những sự bổ sung và sửa đổi trên, ta thấy BLDS 2015 đã quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho bên bị thiệt hại.

Nếu như trong BLDS 2005, yếu tố lỗi (kể cả lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý) được sử dụng như là căn cứ đầu tiên để xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng thì trong BLDS 2015, căn cứ xác định trách nhiệm BTTH đầu tiên lại là hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại. Theo đó, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Rõ ràng, BLDS 2015 đã thay đổi quy định theo hướng người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại nữa, họ chỉ cần xác định được hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại là đã có thể yêu cầu bồi thường. Trách nhiệm chứng minh lỗi giờ đây sẽ thuộc về người gây thiệt hại trong trường hợp muốn được miễn trách nhiệm BTTH (Khoản 2 Điều 585 BLDS 2015) hoặc được giảm mức bồi thường (Khoản 2, 3 Điều 586 BLDS 2015). Sự thay đổi này, theo chúng tôi là hợp lý hơn và đã giảm bớt được gánh nặng chứng minh cho người bị thiệt hại.

Thứ hai, khi xác định chủ thể được BTTH, BLDS 2015 đã quy định theo hướng khái quát hơn, không còn chia ra trường hợp cá nhân và pháp nhân hoặc chủ thể khác như BLDS 2005 nữa. Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 chỉ quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. “Người khác” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác và như vậy đã bao hàm được tất cả các loại chủ thể được BTTH như quy định tại BLDS 2005 trước đây.

Thứ ba, cùng với việc xác định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH, việc xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH cũng là vấn đề hết sức cần thiết. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Theo nguyên tắc chung, người nào thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này về cơ bản giống với quy định của BLDS 2005. Tuy nhiên, BLDS 2015 lại quy định thêm trường hợp ngoại lệ, đó là “trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Đây là một quy định rất phù hợp, bởi vì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng về nguyên tắc là được đặt ra cho chính chủ thể có hành vi gây thiệt hại, nhưng có khi lại là người khác, ví dụ như Điều 586 về Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân, trong trường hợp này, người gây ra thiệt hại là con nhưng người chịu trách nhiệm bồi thường lại là cha mẹ hay người giám hộ; Điều 598 quy định về BTTH do người thi hành công vụ gây ra, trong trường hợp này, người gây thiệt hại là người thi hành công vụ nhưng người chịu trách nhiệm bồi thường là cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức hay cơ quan tiến hành tố tụng v.v…

Việc BLDS 2015 mở rộng trường hợp làm phát sinh trách nhiệm BTTH do người khác gây ra là nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người bị thiệt hại trong việc đạt được mục đích bồi thường. Điều mà pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng luôn tìm cách hướng tới là tìm được một hay nhiều chủ thể có điều kiện thực hiện trách nhiệm BTTH. Càng có nhiều người chịu trách nhiệm BTTH thì người bị thiệt hại càng có cơ hội được bồi thường tốt hơn.

Tiếp đó, BLDS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là “tài sản gây thiệt hại”. Cụ thể, theo Khoản 3 Điều 584 BLDS 2015, chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra (Ví dụ Điều 605 quy định về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác…”). Đây là một sự bổ sung của BLDS 2015 mà theo tôi đánh giá, phản ánh sát sao thực tế hơn. Bởi lẽ trên thực tế, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng có thể phát sinh khi có sự kiện tài sản gây ra thiệt hại. BLDS 2015 đã khắc phục được sự thiếu rõ ràng của BLDS 2005 về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra thiệt hại, tạo nên sự thống nhất trong quy định về thực tiễn áp dụng pháp luật, góp phần làm ổn định và lành mạnh hóa các quan hệ pháp luật dân sự. Ngoài ra, tại Khoản 3 Điều 584 cũng đã quy định thêm về những trường hợp loại trừ trách nhiệm BTTH để đảm bảo tính thống nhất trong mọi trường hợp khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

1.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh dưới tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật, khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự, gây thiệt hại một cách cố ý hay vô ý cho người khác. Là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngoài và không phụ thuộc vào hợp đồng. Và thiệt hại không chỉ là nền tảng cơ bản mà còn là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Theo Bộ luật dân sự 2015 không quy định cụ thể các Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà chỉ quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Như vậy, theo Bộ luật dân sự 2015 căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Theo quy định trước đây, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng yêu cầu người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc vô ý”.

Với quy định như vậy của Bộ luật trước, ngoài việc chứng minh người gây thiệt hại có hành vi trái pháp luật, người bị thiệt hại cần phải chứng minh người gây thiệt hại có lỗi. Nhưng tại Bộ luật dân sự 2015 đã quy định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại.

Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các điều kiện:

  • Có thiệt hại xảy ra;
  • Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.

Bộ luật dân sự 2015 được thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017) đã có sự thay đổi cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó nguyên nhân dẫn đến thiệt hại được đề cập tại

Điều 584 Bộ luật này không chỉ có hành vi mà còn có hoạt động của tài sản. Điều này cho thấy, khi Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thi hành, các quan điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ phải thay đổi cho phù hợp với quan điểm của các nhà lập pháp. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Tức là khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không chỉ được xây dựng trên cơ sở hành vi gây thiệt hại, mà còn phải dựa vào cả trường họp tài sản gây ra thiệt hại, nhưng vẫn dựa trên nền tảng của trách nhiệm dân sự nói chung. Theo đó, khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể được hiểu như sau:

“TNBTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự mà trong đó một hoặc nhiều chủ thể phải bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu khi các đối tượng được pháp luật bảo vệ bị xâm phạm”.

1.4. Các nội dung pháp lý cơ bản của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng yêu cầu giữa các bên phải có quan hệ hợp đồng và hành vi gây thiệt hại phải thuộc phạm vi điều chỉnh của hợp đồng. Khác với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết. Trên thực tế xét xử ở Việt Nam thì có thể thấy rằng, số vụ án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chiếm số lượng lớn hơn bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Do đó, để có thể áp dụng một cách tốt nhất quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc tiên quyết là làm rõ quy định về điều kiện phát sinh trách nhiệm này.

1.4.1. Căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Theo Điều 584 Bộ luật Dân sự (2015) quy định:

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
  2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
  3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

Theo đó, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện: Một là, có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Hai là, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.

Ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.

1.4.2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Về nguyên tắc, bên vi phạm pháp luật gây thiệt hại có nghĩa vụ bù đắp toàn bộ thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải gánh chịu. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hành vi vi phạm pháp luật, thiệt hại xảy ra, quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật với thiệt hại và lỗi của bên vi phạm. Tuy nhiên, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu súc vật, chủ sở hữu nhà cửa… phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi họ không có lỗi, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.

Nếu như BLDS 2005 nêu ra 3 nguyên tắc cơ bản về BTTH ngoài hợp đồng, được quy định tại Điều 605 thì Điều 585 BLDS 2015 đã bổ sung thêm 2 nguyên tắc sau:

Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.” Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nghiên cứu nội dung quy định về nguyên tắc BTTH tại Điều 585 BLDS 2015, có thể hiểu:

Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng cần chú ý:

Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, … phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc xác định đâu là thiệt hại thực tế còn có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến không chỉ khó khăn trong việc xác định trách nhiệm hình sự mà còn cả trong trách nhiệm dân sự của người gây ra thiệt hại.

Tiếp đó, để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, tòa án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi BTTH trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Thứ hai, người chịu trách nhiệm BTTH có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện song song với nhau, sau đây:

  • Do không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
  • Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Mức BTTH không còn phù hợp với thực tế là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức BTTH không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại.

Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Với lý lẽ công bằng, gây thiệt hại đến đâu bồi thường đến đó, nhưng trong nhiều trường hợp bên bị thiệt hại lại là bên có phần lỗi dẫn đến thiệt hại. Luật quy định bên bị thiệt hại sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Vậy, thiệt hại không được bồi thường ở đây được hiểu như thế nào cho đúng? Với trường hợp mỗi bên đều có lỗi cố ý, đều bị thiệt hại về tài sản, sức khỏe, … thì không có gì đáng nói. Nhưng với trường hợp, cả hai bên đều có lỗi cố ý, nhưng thiệt hại mà bên bị thiệt hại gây ra cho bên gây thiệt hại không đáng kể (có thiệt hại xảy ra nhưng không lớn), còn thiệt hại mà bên gây ra thiệt hại cho bên bị thiệt hại tính toán được bằng con số cụ thể, thì vấn đề đặt ra, tòa án có xem xét mức độ lỗi của bên bị thiệt hại khi ấn định mức BTTH đối với bên gây ra thiệt hại không? Xoay quanh vướng mắc này, thực tế thường xảy ra hai trường hợp sau:

Trường hợp 1: thiệt hại hoàn toàn do người bị thiệt hại gây ra, như vậy, người bị thiệt hại sẽ không nhận được bồi thường, tức là người gây ra thiệt hại không có lỗi thì họ không phải BTTH. Ví dụ: Một người cố ý lao vào ô tô để tự tử. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Trường hợp 2: thiệt hại một phần do người bị thiệt hại gây ra, còn một phần do lỗi của người gây thiệt hại, như vậy, người bị thiệt hại vẫn được bồi thường phần thiệt hại không phải do lỗi của mình. Nghĩa là, họ vẫn phải chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ lỗi của mình. Trong trường hợp này, tòa án cần xác định rõ mức độ lỗi của mỗi bên để ấn định trách nhiệm bồi thường cho tương xứng. Vì người bị thiệt hại cũng có lỗi, và chính yếu tố lỗi của họ là chất xúc tác, là nguyên nhân, dẫn đến phản ứng tiêu cực của bên gây ra thiệt hại và hậu quả thực tế xảy ra, nhưng họ lại là người bị thiệt hại, do vậy, họ phải tự “bồi thường” cho mình tương ứng với mức độ lỗi đó. Tuy nhiên, việc xác định mức độ lỗi của người gây thiệt hại trong thực tiễn giải quyết án không phải dễ, nhất là việc phân chia tỷ lệ % thiệt hại xảy ra trong những trường hợp “hỗn hợp lỗi”, như: phạm tội thuộc trường hợp tinh thần bị kích động do hành vi trái pháp luật của người bị thiệt hại hoặc người khác gây ra hoặc thiệt hại xảy ra thuộc trường hợp người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tương ứng tại các điểm đ, c khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc chỉ đơn thuần là người bị hại có lỗi, trong các vụ án về giao thông hay khi tòa án xét xử về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều 105); tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” (Điều 106). Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

BLDS 2015 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017, trước đó, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã biên soạn nhiều tài liệu về những nội dung cơ bản và quy định mới trong BLDS này để tuyên truyền trong nhân dân; tập huấn chuyên sâu cho cán bộ làm công tác tư pháp trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định về nguyên tắc BTTH (Điều 585 BLDS 2015) của các cơ quan tư pháp nói chung, một số tòa án địa phương nói riêng cho thấy chưa có sự thống nhất về nhận thức và áp dụng, từ đó tạo ra có sự khác biệt trong đường lối xử lý, dẫn đến tính pháp chế xã hội chủ nghĩa không được đề cao.

Theo Điều 617 BLDS 2005 có quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường”. Một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng, hoàn thiện BLDS 2015 là ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật dân sự. Nội dung quy định tại Điều 617 BLDS 2005 được nhà làm luật sắp xếp lại theo hướng phù hợp hơn với cơ cấu từng điều trong bộ luật mới, do vậy, có thể thấy, nội dung khoản 2 Điều 584 và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 chính là nội dung quy định của Điều 617 BLDS 2005. Do vậy, theo tác giả, quan điểm cho rằng khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 là quy định mới được bổ sung, điều kiện áp dụng phải có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra đối với bên gây ra thiệt hại trong trường hợp người bị hại có lỗi là chưa thật sự phù hợp.

Lỗi không tự nó có vị trí độc lập với các yếu tố khác trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Hình thức lỗi cũng không phải là không thể xác định. Theo nguyên tắc chung của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, phía bên gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay có lỗi vô ý khi gây thiệt hại cho phía bên bị thiệt hại thì người đó thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi có lỗi của mình gây ra. Không vì người gây thiệt hại có lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý trong khi gây thiệt hại mà mức bồi thường tăng hay giảm tương ứng theo tính chất lỗi, mà không xem xét thêm các yếu tố khác. Tương tự như vậy, cũng không vì lý do thiệt hại thực tế mà bên bị thiệt hại gây ra cho phía bên gây thiệt hại không đáng kể (có thiệt hại nhưng không lớn), thì buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, dù người bị thiệt hại có lỗi do cố ý. Vì như vậy sẽ mâu thuẫn ngay chính trong phán quyết của hội đồng xét xử, đó là, khi lượng hình phạt có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ “người bị hại có lỗi”, nhưng khi xem xét đến trách nhiệm dân sự của bên gây ra thiệt hại (bị cáo), thì lại không đề cập đến quy định tại khoản 4 Điều 585 BLDS 2015. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của mình. Trong BLDS 2015, không có quy định cụ thể về mức độ lỗi, vì vậy, việc xác định trách nhiệm dân sự “hỗn hợp lỗi” trong trường hợp cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi gây ra thiệt hại thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng với mức độ lỗi của mình. Mức độ lỗi trong trường hợp này được xác định dựa trên những cơ sở lý luận pháp luật hình sự trong việc phân biệt mức độ lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý của một người mà gây ra thiệt hại thì tương ứng với nó, mức bồi thường thiệt hại có khác nhau. Lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, có tác động trực tiếp đến hành vi của người đó và thiệt hại xảy ra do hành vi vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự tin hoặc cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu tố tâm lý chủ quan của người đó. Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên đã có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó.

Theo đó:

  • Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vô
  • hay cố ý, mà bên gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì bên gây thiệt hại không phải bồi thường.
  • Bên gây thiệt hại có lỗi vô ý, bên bị thiệt hại rõ ràng có lỗi cố ý thì bên gây thiệt hại không phải bồi thường.
  • Bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại đều có lỗi cố ý trong việc gây ra thiệt hại thì trách nhiệm dân sự phải được xem xét theo hướng: mức độ bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên.

Thứ năm, bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Quy định này dễ thấy nhất khi hành khách di chuyển bằng đường hàng không. Theo đó, phía bên cung cấp dịch vụ vận chuyển sẽ không chịu bất kỳ trách nhiệm nào về thiệt hại đối với vật dụng bị cấm theo quy định mà do hành khách mang theo trong hành lý; hoặc trong hành lý ký gửi của hành khách, bao gồm: thiệt hại đối với các đồ vật dễ vỡ, hàng mau hỏng (đồ tươi sống, thực phẩm dễ hư hỏng…), tác phẩm nghệ thuật, máy ảnh, máy quay phim, tiền, đồ trang sức, kim loại quý, đồ làm bằng bạc, đá quý, thuốc chữa bệnh, hàng hóa nguy hiểm, máy tính, các thiết bị điện tử, giấy tờ có giá trị chuyển đổi thành tiền, chứng khoán, tài liệu đàm phán, hợp đồng, tài liệu kinh doanh, hàng mẫu, hộ chiếu, giấy tờ tùy thân khác… để trong hành lý ký gửi mà không khai báo vận chuyển theo dạng hành lý có giá trị cao và thiệt hại đối với các đồ vật tương tự khác cho dù phía bên cung cấp dịch vụ có biết hay không biết. Do đó, để bảo đảm quyền lợi của chính mình, theo quy định tại khoản 5 Điều 585 BLDS 2015, hành khách có thể kê khai giá trị hoặc có thể tự mua thêm bảo hiểm riêng cho hành lý của mình trong trường hợp giá trị thực tế hoặc chi phí thay thế của hành lý ký gửi hoặc hành lý xách tay vượt quá mức giới hạn trách nhiệm của phía nhà cung cấp dịch vụ.

1.4.3. Xác định mức thiệt hại phải bồi thường.

Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại chỉ có thể thực hiện được đầy đủ và chính xác khi xác định “toàn bộ thiệt hại” là bao nhiêu và trên cơ sở đó ấn định mức bồi thường.

Xác định thiệt hại là một việc rất khó khăn và phức tạp. Mục 2 chương XX BLDS 2015 quy định về các loại thiệt hại được bồi thường và cách thức xác định thiệt hại một cách khái quát. Những thiệt hại phải bồi thường đó là:

a, Xác định mức thiệt hại về tài sản

Theo Điều 589 Bộ luật dân sự 2005 quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm được BTTH bao gồm:

“Tài sản bị mất, tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại, các tài sản khác do pháp luật quy định”

Tài sản bị mất là trường hợp tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không thể tìm lại được. Đây là trường hợp tài sản bị thiệt hại hoàn toàn không thể khắc phục được, do đó người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ giá trị tài sản. Xác định giá trị tài sản cần lưu ý cần lưu ý xác định giá trị tài sản bị mất theo giá thị trường tại thời điểm tòa án giải quyết (Theo Khoản 1 Điều 45 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009). Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nhưng trên đây chỉ là cách giải quyết đối với tài sản cùng loại. Nếu tài sản bị mất là tài sản đặc định thì việc định giá tài sản phải được tiến hành bởi cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền trong việc định giá tài sản. Khi giải quyết việc bồi thường đối với tài sản bị mất thì cũng cần phải xem xét đến yếu tố cũ, mới, độ hao mòn của tài sản.

  • Tài sản bị hủy hoại là những tài sản bị thiệt hại nặng, không thể phục hồi chức năng như ban đầu. Việc xác định thiệt hại đối với tài sản bị hủy hoại giống như trường hợp tài sản bị mất.
  • Tài sản bị hư hỏng là những tài sản bị hỏng hóc một hoặc nhiều bộ phận, làm giảm hay mất khả năng sử dụng tài sản. Theo Khoản 2 Điều 45 luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 thì đối với tài sản bị hư hỏng việc bồi thường được xác định theo 2 trường hợp:

Trường hợp 2: Nếu tài sản bị hư hỏng có thể khắc phục, sửa chữa lại được thì thiệt hại được xác định là chi phí cần thiết, hợp lý, bỏ ra để khôi phục, sửa chữa TS. Những chi phí này được tính theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường.

Trường hợp 1: Nếu tài sản hư hỏng đến mức không thể sửa chữa, khôi phục được thì thiệt hại được xác định giống với thiệt hại tài sản bị mất.

  • Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản (hoa lợi, lợi tức đáng ra chủ sở hữu có thể khai thác từ tài sản. Hoặc là lợi ích mà chủ sở hữu tài sản không thể khai thác được tài sản trong thời gian sửa chữa, khắc phục.
  • Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
  • Các thiệt hại khác do pháp luật quy định.

Việc BTTH do tài sản bị xâm phạm có thể được thực hiện bằng việc thỏa thuận giữa các bên, Có thể bồi thường bằng các cách như: bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc bằng việc thực hiện 1 công việc, …

b, Xác định mức thiệt hại về sức khỏe Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm được hiểu là những tổn thất, mất mát về mặt vật chất cũng như tinh thần mà người có hành vi gây ra cho người bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 590 BLDS 2015 những thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

  • Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và các chức năng bị mất, bị giảm sút. Những chi phí này bao gồm: tiền thuê phương tiện đi cấp cứu, tiền viện phí, tiền bồi dưỡng, tiền làm các bộ phận giả, và các dịch vụ chữa bệnh khác (nếu có)
  • Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại.
  • Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị. Những thu nhập này phải là những thu nhập thường xuyên, thực tế và hợp pháp của họ.

Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

Tổn thất tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu là khái niệm trừu tượng. Tuy nhiên mức tổn thất về tinh thần có thể dựa vào các căn cứ sau: tình trạng thể chất và tinh thần của người bị thiệt hại, mức độ và tính chất nghiêm trọng của sự tổn hại về tâm lý và thân thể, quan hệ nhân thân, lứa tuổi…

Mức bồi thường bù đắp về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì tòa án quyết định tối đa không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

  • Thiệt hại khác do pháp luật quy định.

c, Xác định mức thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

Theo quy định tại Điều 591 BLDS 2015 thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

  • Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 BLDS 2015.
  • Chi phí hợp lý cho việc mai tang. Chi phí mai tang được hiểu là những khoản chi cho việc chôn cất hay mai tang gồm các khoản: mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, thuê xe tang, hương, nến, hoa, tiền thuê thợ kèn, xe tang… Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Theo Khoàn 4 Điều 25 Luật BTTH Nhà nước 2017: “Chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại chết được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.”

Theo Khoản 2 Điều 66 Mục 5 Luật bảo hiểm xã hội 2014: “Trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người quy định tại khoản 1 Điều này chết.”

  • Tiền cấp dưỡng cho người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết. (Ví dụ như con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động…)
  • Khoản tiền bù đắp về tinh thần. Đây là khoản tiền bồi thường cho những người thân thích của người bị chết: là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức bồi thường tối đa không quá 100 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định thời điểm giải quyết bồi thường.

Xác định mức thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Theo Khoản 1 Điều 592 BLDS 2015 thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

“a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút

c) Thiệt hại khác do luật quy định.” Trong đó:

  • Chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại. Như chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm, danh dự, uy tín, nhân phẩm của người bị thiệt hại. Chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc uy tín, danh dự nhân phẩm bị xâm hại, chi phí đi lại, chi phí yêu cầu cơ quan có chức năng xác minh sự việc, … cùng các chi phí khác để khắc phục, hạn chế thiệt hại.
  • Thu nhập thực tế bị giảm sút hoặc bị mất. Theo quy định của pháp luật cá nhân bị xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín dẫn tới thu nhập thực tế bị giảm sút hoặc mất thì việc xác định khoản thiệt hại này được xác định như đối với trường hợp cá nhân bị xâm phạm tới sức khỏe.
  • Bù đắp tổn thất về tinh thần. Mức bồi thường bù đắp về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần nhưng không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
  • Thiệt hại khác do pháp luật quy định

Qua việc phân tích trên, ta có thể thấy thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại chỉ có thể thực hiện được đầy đủ và chính xác khi xác định “toàn bộ thiệt hại” là bao nhiêu và trên cơ sở đó ấn định mức bồi thường. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Mặc dù xác định thiệt hại là một việc rất khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta có thể thông qua trao đổi, đàm phán giữa các bên để đưa ra mức thiệt hại cũng như mức bồi thường thiệt hại cụ thể, hợp lý, được sự đồng thuận của các bên và có thể được thực hiện bằng các cách như: bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc bằng việc thực hiện 1 công việc…

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993