Khóa luận: Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Thực trạng đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay việc xây dựng, phát triển mới đã và đang trở nên ngày càng khó khăn hơn. Trong bối cảnh đó, Nhãn hiệu của doanh nghiệp có thể bị rơi vào trong những nguy cơ rủi ro pháp lý. Những rủi ro này có thể là Nhãn hiệu đó bị doanh nghiệp đối thủ khác nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trước hoặc đã được bảo hộ trước đó do nộp đơn sớm hơn và khi đó chính doanh nghiệp – chủ sở hữu thực sự của Nhãn hiệu lại phải đối mặt với vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến Nhãn hiệu của chính mình do đối thủ cạnh tranh khởi xướng. Một rủi ro khác có thể là Nhãn hiệu của doanh nghiệp bạn bị từ chối bảo hộ vì tương tự gây nhầm lẫn với Nhãn hiệu khác đã đăng ký trước của người khác,…

Theo thống kê của Trung tâm thông tin sở hữu công nghiệp cho thấy trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2019, Cục Sở hữu trí tuệ đã tiếp nhận và công bố 299442 đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các đối tượng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu có chủ đơn là chủ thể Việt Nam; trong đó chủ yếu là đơn nhãn hiệu với 278144 đơn (chiếm 92,9%), 14084 đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp (chiếm 4,7%), 4705 đơn đăng ký sáng chế (chiếm 1,57%) và giải pháp hữu ích là 2509 đơn (chiếm 0,83%). Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị dẫn đầu cả nước về số lượng đơn đăng ký sở hữu công nghiệp với 117943 đơn (chiếm 39,4%), đứng thứ hai là Hà Nội với 92110 đơn (chiếm 30,8%). Trong danh sách 10 tỉnh/thành phố có lượng đơn đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp nhiều nhất, ngoài thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, có sự xuất hiện của hầu hết các tỉnh/thành phố kinh tế năng động của Việt Nam như Bình Dương, Long An, Đồng Nai, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng…

Nhãn hiệu là đối tượng sở hữu công nghiệp được nộp đơn nhiều nhất, chiếm xấp xỉ 93% tổng số đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tiếp tục là hai địa phương dẫn đầu trong việc đăng ký xác lập quyền đối với nhãn hiệu. Tuy nhiên khoảng cách về số lượng đơn nhãn hiệu của các tỉnh, thành phố khác so với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã dần thu hẹp hơn so với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác là kiểu dáng công nghiệp, sáng chế và giải pháp hữu ích trong những năm gần đây.

Tương tự số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cũng là đối tượng sở hữu công nghiệp được cấp văn bằng nhiều nhất. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có sự gia tăng đột biến về số lượng giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu trong năm 2019 so với các năm trước, từ khoảng 5000 giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu được cấp mỗi năm lên hơn 8000 giấy chứng nhận được cấp trong năm 2019 đối với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tăng từ khoảng 4000 giấy chứng nhận hằng năm lên gần 7000 giấy chứng nhận.

Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ, năm 2020, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu (bao gồm cả nhãn hiệu quốc gia và nhãn hiệu quốc tế) được kết thúc thẩm định nội dung tăng 12,9% so với năm 2019, trong đó số văn bằng bảo hộ cấp ra tăng 15,5%, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu (bao gồm cả nhãn hiệu quốc gia và nhãn hiệu quốc tế) nộp vào Cục Sở hữu trí tuệ năm 2020 tăng 1,6% so với năm 2019. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Tuy vậy nhưng việc đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất là việc tra cứu nhãn hiệu chưa triệt để, rõ ràng. Khi một doanh nghiệp có ý tưởng ra đời một nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình để xâm nhập thị trường, doanh nghiệp thường đầu tư rất nhiều thời gian, công sức và vốn để tạo ra một mẫu nhãn hiệu độc đáo, có ý nghĩa. Trước khi nộp đơn đăng ký, doanh nghiệp có tra cứu thông tin và không thấy nhãn hiệu nào trùng với nhãn hiệu của mình, doanh nghiệp tiến hành đăng ký nhãn hiệu. Nhưng thực chất, doanh nghiệp chỉ có thể tra cứu được các nhãn hiệu đã được đăng công khai trên trang đăng ký của Cục Sở hữu trí tuệ mà không thể tra được các nhãn hiệu vừa nộp đơn đăng ký. Thời gian thẩm định đơn của Cục Sở hữu trí tuệ khá lâu nên có thể doanh nghiệp đã đưa nhãn hiệu vào kinh doanh. Nếu bị ra thông báo sửa đổi, bổ sung đơn hoặc nhãn hiệu không thể đăng ký sẽ gây nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp.

Ngoài nguyên nhân xuất phát từ bản thân doanh nghiệp thì một phần cũng là do trên thực tế, nhiều quy định, vấn đề được đưa ra trong Luật Sở hữu trí tuệ nói chung và quyền Sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu nói riêng còn chung chung, nên dẫn đến việc thực thi thiếu hiệu quả. Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện nay có một vướng mắc khá lớn là trong quá trình hội nhập, chúng ta đã học hỏi được quốc tế khá nhiều kinh nghiệm để áp dụng cho Luật Sở hữu trí tuệ của ta nhưng lại chưa tính đến đặc thù của đất nước mình…

Sở hữu trí tuệ hoặc Sở hữu công nghiệp đều có yêu cầu khác nhau theo quy định của pháp luật. Để có được quyền đó, phải tùy vào đối tượng đó như thế nào. Nói chung, các đối tượng Sở hữu công nghiệp thường phải tiến hành đăng ký mới phát sinh quyền cho chủ sở hữu. Nếu như các doanh nghiệp tạo ra được các đối tượng Sở hữu công nghiệp nhưng không tiến hành đăng ký thì khả năng mất quyền đối với họ là nhãn tiền. Hoặc không còn đủ điều kiện bảo hộ hoặc bị đối tượng khác chiếm đoạt. Đây là những điều kiện bắt buộc…; Ngoài ra, để đăng ký, doanh nghiệp thường phải hiểu biết pháp luật, hiểu đối tượng Sở hữu trí tuệ để xác định xem cần đăng ký cho đối tượng nào… Nếu các doanh nghiệp tự làm được thì nộp trực tiếp cho Cục Sở hữu trí tuệ, nếu doanh nghiệp nào không làm được thì có thể thông qua các tổ chức đại diện Sở hữu trí tuệ. Ngoài quy định thủ tục của hệ thống pháp luật quốc gia, khi đăng ký ra nước ngoài, các doanh nghiệp còn phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt từ chính các quốc gia sở tại, họ có quy định riêng, thậm chí rất khác… Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Việc xác định đúng đối tượng và đăng ký quyền Sở hữu trí tuệ nó quyết định đến việc thành bại của chính doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải có ý thức bảo vệ… Việc tạo lập một hành lang pháp lý trước khi đưa hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ của mình ra thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài, chúng ta tính đến thị trường tiềm năng… Công tác tự bảo vệ mình cũng rất quan trọng, tự bảo vệ bằng cách kiểm soát, liệu có đối thủ cạnh tranh đăng ký quyền tương tự ngay từ đầu để phản đối, khiếu nại, phối hợp với cơ quan thực thi để bảo vệ cho mình…Ví dụ, bài học từ thương hiệu Cà phê Buôn Ma Thuột, mặc dù đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê nhân, sau đó, một doanh nghiệp ở Trung Quốc đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu “Buôn Ma Thuột” bằng chữ Trung Quốc. Sau đó, Việt Nam rất vất vả mới lấy lại thương hiệu “Buôn Ma Thuột” nhưng chỉ ở thị trường Trung Quốc… Giá như hơn 10 năm trước, chúng ta đăng ký nhãn hiệu này ở thị trường nước ngoài thì sau này, hơn 10 năm sau sẽ không có tranh chấp…

Một vấn đề khác là việc sử dụng nhãn hiệu đã được đăng ký. Một câu hỏi đặt ra là có phải tất cả các nhãn hiệu đãng đăng ký đều đang được sử dụng tại Việt Nam hay không? Câu trả lời là không. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng Nhãn hiệu đã đăng ký nhưng lại chưa bao giờ được nhìn thấy trên thị trường có thể được lý giải bằng nhiều lý do, ví dụ như một số chủ thể muốn đăng ký nhãn hiệu để đầu cơ, để ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác, để giữ chỗ cho một dự án đầu tư vào Việt Nam mà khả năng kiếm lợi nhuận có thể chưa thực sự rõ ràng, chủ sở hữu đã bị phá sản, không còn tồn tại hoặc thu hẹp thị trường,…hoặc là Cục Sở hữu trí tuệ từ chối với lý do nhãn hiệu này xung đột với nhãn hiệu của doanh nghiệp khác đã đăng ký từ trước. Vì vậy dù đã có nhiều Nhãn hiệu đã được đăng ký nhưng thực tế cho thấy rằng có rất ít nhãn hiệu được đưa vào sử dụng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.2. Thực trạng chuyển giao quyền đối với nhãn hiệu tại Việt Nam Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu là việc chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Việc chuyển nhượng quyền này phải thực hiện bởi hình thức hợp đồng bằng văn bản được gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghệ. Chuyển giao quyền sử dụng sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu là việc chủ sử hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng nhãn hiệu của mình. Việc chuyển quyền sử dụng đối thượng sở hữu trí tuệ là nhãn hiệu cũng phải được thực hiện dưới hình thức văn bản.

Theo Điều 138 Luật sở hữu trí tuệ quy định về quy định chung về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp.

Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác.

Việc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp).” Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Vì vậy có thể hiểu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu (hay còn gọi là li – xăng nhãn hiệu) là việc chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép một cá nhân, tổ chức khác sử dụng nhãn hiệu của mình trên một vùng lãnh thổ nhất định trong một khoảng thời gian nhất định, trong đó nhãn hiệu được li – xăng phải thuộc quyền sử dụng của bên giao li – xăng.

Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu được phân ra thành hợp đồng độc quyền, hợp đồng không độc quyền và hợp đồng thứ cấp. Hợp đồng độc quyền là trong phạm vi và thời hạn chuyển quyền sử dụng, bên được chuyển quyền được độc quyền sử dụng nhãn hiệu và bên chuyển quyền không được ký kết hợp đồng sử dụng nhãn hiệu với bất kỳ bên thứ ba nào; đồng thời, bên chuyển quyền chỉ được sử dụng nhãn hiệu đó nếu được phép của bên được chuyển quyền. Hợp đồng không độc quyền nghĩa là trong phạm vi và thời hạn chuyển quyền sử dụng, bên chuyển quyền vẫn được sử dụng nhãn hiệu và ký kết hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu không độc quyền với bên thứ ba. Hợp đồng thứ cấp là hợp đồng được ký kết giữa bên chuyển quyền (vốn là bên nhận chuyển quyền) trong một hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu khác Chuyển quyền sử dụng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam đang ngày càng rộng rãi. Phương thức này đáp ứng nhu cầu khai thác các đối tượng của quyền sở hữu trí công nghiệp đối với nhãn hiệu, kích thích sự sáng tạo và phát triển của khoa học và công nghệ. Trong những năm gần đây, hoạt động chuyển giao quyền đối với nhãn hiệu có xu hướng gia tăng. Hiện nay, trong khi các nước tiến tới một nền kinh tế công nghệ cao, sử dụng chất xám trong mọi lĩnh vực và lấy tri thức làm động lực, công cụ phục vụ cho mọi hoạt động kinh tế – xã hội, thì quyền sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Trong số tài sản trí tuệ, quyền sở hữu công nghệ thể hiện vai trò vượt trội, góp phần chuyển dịch cơ cấu tài sản trong doanh nghiệp, từ tài sản hữu hình sang các loại tài sản vô hình như là nhãn hiệu. Các chủ thể ngày càng chú trọng đến thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Trong đó, phương thức chuyển quyền sử dụng quyền sở hữu công nghiệp đã trở thành lựa chọn hàng đầu cho nhiều doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong giai đoạn vừa qua, hoạt động chuyển quyền sử dụng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu này càng tăng, tuy nhiên vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức. Trong nhiều trường hợp, hoạt động chuyển quyền sở hữu đối với nhãn hiệu gặp phải vướng mắc trong quy định pháp luật hoặc trong thực tiễn phát sinh bất cập mà chưa có quy định điều chỉnh dẫn đến hiệu quả chưa cao. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Trong giai đoạn trên thì số lượng hợp đồng chuyển sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp giữa người Việt Nam và người Việt Nam luôn chiếm tỉ trọng cao nhất, cho thấy thị trường chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp trong nước đang rất nhộn nhịp. Số hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp giữa người Việt Nam cho người nước ngoài có số lượng xấp xỉ số lượng hợp đồng giữa người Việt Nam và người Việt Nam. Điều này cho thấy, trong hoạt chuyển quyền sử dụng, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài thực sự quan tâm đến các đối tượng sở hữu công nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là đối với nhãn hiệu và sáng chế, kiểu dáng công nghiệp của Việt Nam. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp giữa người nước ngoài với nhau đang chiếm tỉ lệ thấp trong cơ cấu trên.

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động chuyển quyền sở hữu công nghiệp. Thứ nhất, vấn đề xác định giá trị của đối tượng sở hữu công nghiệp trong hoạt động chuyển quyền sở hữu công nghiệp. Trong hoạt động chuyển quyền sở hữu công nghiệp thì việc xác định giá trị của đối tượng sở hữu công nghiệp là vô cùng quan trọng, bởi nó liên quan mật thiết đến việc bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên. Tuy nhiên, việc xác định giá trị đối tượng sở hữu công nghiệp trong thực tế chuyển giao hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Pháp luật sở hữu trí tuệ đã để cho các bên tham gia chuyển giao tự do, thỏa thuận ấn định nhưng lại không có bất kì định hướng nào, điều này dẫn đến việc xác định giá trị đối tượng sở hữu công nghiệp vẫn là rủi ro trong hoạt động chuyển giao.

Thứ hai, vấn đề khai thác, duy trì và phát triển các đối tượng sở hữu công nghiệp sau khi chuyển quyền sở hữu công nghiệp. Trên thực tế, có rất nhiều đối tượng sở hữu công nghiệp sau khi được chuyển nhượng quyền sở hữu thì không được sử dụng đúng cách, không tăng giá trị đối tượng sở hữu công nghiệp. Trong một số trường hợp, đối tượng sở hữu bị sử dụng bừa bãi, không phát triển dẫn đến suy giảm giá trị hoặc thậm chí biến mất trên thị trường. Nguyên nhân thường do các doanh nghiệp ít quan tâm đến vấn đề khai thác, sử dụng và phát triển đối tượng sau khi được chuyển giao và kết quả là các doanh nghiệp kể trên thường phải trả giá đắt. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Vì vậy, chuyển quyền sở hữu công nghiệp là một phương thức hữu hiệu trong thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ nói chung, giúp đẩy mạnh hoạt động sáng tạo, nghiên cứu khoa học và góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Khai thác các giá trị của đối tượng sở hữu công nghiệp từ hình thức chuyển quyền sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Đẩy mạnh phát triển hình thức chuyển quyền sử dụng là hoạt động tạo ra giá trị cho cả doanh nghiệp và Nhà nước. Do đó, Nhà nước và các doanh nghiệp cần quan tâm và tập trung nguồn lực để thương mại hoá quyền sở hữu công nghiệp, thông qua hình thức chuyển quyền sở hữu công nghiệp.

2.3. Thực trạng xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu tại Việt Nam

Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi có Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới thì hoạt động đăng ký xác lập quyền Sở hữu công nghiệp đã và đang ngày càng nhận được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp, của các tổ chức, cá nhân sáng tạo. Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ tình hình đăng ký quyền của các chủ thế và số văn bằng được cấp ngày càng tăng. Cùng với sự gia tăng của các đơn đăng ký xác lập và cấp văn bằng bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp thì Việt Nam cũng như các nước đang phải đối mặt với tình trạng xâm phạm quyền quyền Sở hữu công nghiệp diễn ra khá gay gắt, gây nên những bức xúc không chỉ cho các chủ thể quyền Sở hữu công nghiệp mà còn cho chính người tiêu dùng và xã hội. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Để quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu được thực thi tốt ở Việt Nam thì một trong những nhiệm vụ đặt ra cho Nhà nước ta đó là việc phải xử lý triệt để các hành xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi phát hiện hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, các chử thể có quyền đối với nhãn hiệu có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bên xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm của mình, tịch thu hàng hoá, yêu cầu bồi thường bằng một trong những biện pháp sau: xử lý bằng biện pháp hành chính, biện pháp dân sự, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuỳ thuộc theo tính chất và mức độ xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu có thể lựa chọn những biện pháp phù hợp.

Xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự.

Các con số thống kê về tình hình đăng ký quyền của các chủ thế và số văn bằng được cấp ngày càng tăng. Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ, từ năm 2007 đến nay, việc đăng ký và cấp chứng nhận bảo hộ tăng bình quân hằng năm 20%, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tăng 25% – 30%, đăng ký bảo hộ các sáng chế cũng tăng 10% – 15%.

Cùng với sự gia tăng của các đơn đăng ký xác lập và cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì Việt Nam cũng như các nước đang phải đối mặt với tình trạng xâm phạm quyền quyền sở hữu trí tuệ với nhãn hàng diễn ra khá gay gắt, gây nên những bức xúc không chỉ cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với nhãn hàng mà còn cho chính người tiêu dùng và xã hội. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Phân tích số liệu chung về tình hình xâm phạm và xử lý xâm phạm qua các con số của cơ quan hành chính cho thấy: số vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ bị phát hiện tăng lên nhanh chóng qua các năm. Theo nguồn của Báo cáo của Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ tại “Hội thảo sở hữu trí tuệ, cạnh tranh và thực thi quyền sở hữu trí tuệ: kinh nghiệm của Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia” diễn ra ngày 4-5/6/2013 tại Hà Nội thì năm 2012, Thanh tra Khoa học và Công nghệ đã tiến hành thanh tra 69 cơ sở, đã phát hiện và xử phạt 36 trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với số tiền 859 triệu đồng. Thanh tra Khoa học và Công nghệ đã buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên 25.703 sản phẩm, buộc tiêu hủy và tịch thu tiêu hủy 7.462 sản phẩm chứa đựng các dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Riêng Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ tiến hành 38 cuộc thanh tra trong lĩnh vực này, đã phát hiện và xử lý 20 trường hợp vi phạm với tổng số tiền phạt lên tới 831 triệu đồng và đã thực thu cho ngân sách. Thanh tra Bộ đã phối hợp với Cục Quản lý thị trường xử lý 01 trường hợp và với lực lượng cảnh sát điều tra xử lý 36 trường hợp. Năm 2012, Cơ quan quản lý thị trường các địa phương và trung ương đã tiến hành xử lý 9556 vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có 61 vụ xâm phạm quyền tác giả/quyền liên quan, 8999 vụ giả mạo nhãn hiệu, 67 vụ xâm phạm quyền nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp, 422 vụ sử dụng tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả mạo và 07 vụ vi phạm giống cây trồng. Tổng số tiền xử phạt 5,8 tỷ đồng, giá trị hàng hóa vi phạm bị phát hiện và xử lý là 3,8 tỷ đồng. Năm 2012, Cơ quan Hải quan cũng đã tiếp nhận và xử lý gần 100 yêu cầu của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đề nghị kiểm tra, giám sát tại biên giới. Tính đến thời điểm năm 2012 ngành hải quan có tất cả 106 đơn yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới với khoảng gần 300 nhãn hiệu hàng hóa các loại. Cơ quan Hải quan đã xử lý 101 vụ, xử phạt với số tiền khoảng 300 triệu đồng, đồng thời đã tịch thu xử lý hàng chục ngàn sản phẩm vi phạm các loại (như: rượu, thuốc lá, mỹ phẩm, quần áo, điện thoại di động… xâm phạm các nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam). Theo báo cáo của Cục Cảnh sát kinh tế (Bộ Công an), riêng năm 2012, lực lượng cảnh sát kinh tế của 44 tỉnh/thành phố đã phát hiện 276 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sản xuất buôn bán hàng giả, trong đó đã khởi tố 66 vụ, 74 bị can (có 26 vụ xâm phạm nhãn hiệu), phạt tiền hơn 2,4 tỷ đồng. So với năm 2011, số vụ phát hiện đã tăng 107 vụ, số vụ khởi tố tăng 48 vụ (năm 2011, lực lượng cảnh sát kinh tế đã phát hiện 169 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sản xuất, buôn bán hàng giả, 214 đối tượng, trong đó đã khởi tố 18 vụ, 30 bị can). Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Khác với nhiều nước trên thế giới, việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp chủ yếu bằng biện pháp dân sự và do hệ thống tư pháp đảm trách, các cơ quan hành chính khác chỉ thực hiện những biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ban đầu để đảm bảo tính tức thì của hoạt động thực thi. Theo họ, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự cần được đề cao và được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn so với biện pháp hành chính, hình sự bởi biện pháp dân sự đã phần nào bảo đảm được trình tự, thủ tục công khai, công bằng để người tham gia tố tụng dân sự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại Toà án nhân dân, bảo đảm được các nguyên tắc, thủ tục tố tụng đầy đủ, có hệ thống, xác định được rõ chức năng, thẩm quyền của cơ quan và người tiến hành tố tụng, thẩm quyền của mỗi cấp Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tại Việt nam, thực tiễn giải quyết các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân bằng biện pháp dân sự lại không đem lại kết quả như mong muốn. Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, việc giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ từ năm 2000 đến năm 2005 (giai đoạn trước khi có Luật sở hữu trí tuệ) của toàn ngành Tòa án như sau: thụ lý 93 vụ án, đã giải quyết 61 vụ án, trong đó: đình chỉ, tạm đình chỉ 16 vụ án; hòa giải thành 12 vụ án; đưa ra xét xử 33 vụ án (bao gồm 11 vụ án tranh chấp quyền tác giả và quyền liên quan, 22 vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ). Kể từ khi Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2006), tình hình giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án cũng không có sự chuyển biến đáng kể, theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao từ 01/7/2006 cho đến ngày 22/6/2009, toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý được 108 vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ (trong đó chiếm đa số là tranh chấp về quyền tác giả với 90 vụ; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ chiếm 10 vụ; tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm chiếm 5 vụ; tranh chấp về hợp đồng chuyển giao công nghệ chiếm 3 vụ). Năm 2018, Thanh tra Bộ đã thanh tra, xử lý đối với 40 đối tượng vi phạm về sở hữu công nghiệp, tổng số tiền phạt là 366,2 triệu đồng. Tính đến 09 tháng đầu năm 2019, số lượng đơn Thanh tra Bộ KH&CN đã tiếp nhận khoảng hơn 90 đơn trong khi đó đã giải quyết được 72 đơn đề nghị xử lý vi phạm về sở hữu công nghiệp (gấp đôi số lượng đơn giải quyết của năm ngoái), trong đó đã tiến hành 46 cuộc thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính 20 đối tượng vi phạm với tổng số tiền phạt 730,4 triệu đồng.

Theo Báo cáo Tổng kết Chương trình hành động phòng, chống xâm phạm quyền SHTT giai đoạn 2012-2015, số liệu thực thi và giải quyết tranh chấp quyền SHTT của các bộ, ngành có liên quan được thống kê như sau:

Như vậy, số vụ việc xâm phạm quyền SHCN được xét xử tại Toà án rất khiêm tốn so với việc xử lý của các cơ quan chức năng khác. Thực tế trên dẫn đến hệ quả là chủ thể quyền không chủ động bảo vệ quyền dân sự bằng biện pháp dân sự, và theo hướng ngược lại cơ chế dân sự có rất ít tác dụng để giải quyết tranh chấp xảy ra trong quá trình sử dụng đối tượng SHTT.

Xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu bàng biện pháp hành chính. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công An,… nhằm xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu như xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu gây thiệt hại cho chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội, sản xuất, nhập khẩu, buôn bán hàng hoá giả mạo về nhãn hiệu,…

Việt Nam, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng được quan tâm, nhất là khi pháp luật sở hữu trí tuệ ra đời, các cá nhân, tổ chức đã dần ý thức được tầm quan trọng giá trị của quyền sở hữu trí tuệ và có các biện pháp bảo vệ. Tuy vậy, trên thực tế sự vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ diễn ra rất nhanh và dần trở thành “như cơm bữa”. Hàng năm có dến hàng ngàn vụ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hàng loạt các sản phẩm có nhãn hiệu “na ná” các nhãn hiệu nổi tiếng hoặc “treo đầu dê bán thịt chó” không rõ nguồn gốc xuất xứ nhưng lại gắn mác xuất tại Việt Nam.

Trong giai đoạn hiện nay được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật/giả. Nhất là hiện nay khi nhu cầu mua sắm online trên các trang thương mại điện tử như ngày càng nhiều thì việc mua phải các sản phẩm kém chất lượng, không đúng mẫu cũng là điều dễ thấy. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài.

Thực tế cho thấy việc vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ luôn tạo ra siêu lợi nhuận nhưng mức xử phạt lại chủ yếu dừng ở mức xử phạt hành chính và chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng vi phạm. Ví dụ mức phạt cao nhất đối với hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp là 250.000.000 đồng ( Theo điều 11 Nghị định 99/2013/ NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp). Do vậy, cần phải thống nhất quy định giữa các văn bản pháp luật, đồng thời phải có biện pháp mạnh tay hơn trong việc phát hiện và xử lý các đối tượng vi phạm. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hình sự.

Biện pháp hình sự được áp dụng đối với người nào cố ý thực hiện các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại. Khi phát hiện có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, chủ thể có thể nộp đơn lên các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự được xử lý theo sơ đồ sau: ( Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ: https://thanhtra.most.n)

Sơ đồ xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

(1) Chủ thể quyền, đại diện chủ thể quyền (Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 21, Điều 22 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP), chỉ khởi tố theo đề nghị của Chủ thể quyền (Điều 105 Bộ Luật tố tụng Hình sự).

Các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền bằng biện pháp hành chính: (i) Thanh tra Khoa học và Công nghệ; (ii) Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch; (iii) Cơ quan Quản lý thị trường; (iv) Cảnh sát Kinh tế; và (v) Cơ quan Hải quan.

Kiểm tra: (i) chứng cứ chứng minh là chủ thể quyền của người nộp đơn, (ii) thông tin về về hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc để phát hiện hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 23, Điều 24, Điều 25 Nghị định 105/2005/NĐ-CP).

Trong trường hợp đơn yêu cầu xử lý xâm phạm chưa đủ tài liệu, chứng cứ, hiện vật cần thiết, thì cơ quan xử lý xâm phạm yêu cầu người nộp đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ (khoản 3 Điều 27 Nghị định 105/2006/NĐ-CP).

Nếu không đáp ứng được các yêu cầu tại điểm (4) (khoản 4 Điều 27 Nghị định 105/2006/NĐ-CP)

Các cơ quan tại điểm (2) chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 62 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, khoản 8 Điều 2 Nghị định 106/NĐ-CP).

Thời hạn điều tra (Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự)

Nếu không có dấu hiệu tội phạm mà hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cơ quan tiến hành tố tụng (theo thủ tục tố tụng hình sự) phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm và đề nghị người có thẩm quyền tại điểm (2) xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó (Điều 63 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính). Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Không khởi tố khi: (i) không có sự việc phạm tội, (ii) hành vi không cấu thành tội phạm, (iii) người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, (iv) người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, (v) đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, (vi) tội phạm đã được đại xá, (vii) người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác (Điều 107 Bộ Luật tố tụng hình sự).

Trong trường hợp: (i) người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm (khoản 2 Điều 105), (ii) các trường hợp tại điểm (9), (iii) người thực hiện hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, (iv) người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, (v) người chưa thành niên phạm tội, (vi) khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 105, Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 19, Điều 25, khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự).

Trong trường hợp nêu tại điểm (10) (Điều 169, Điều 180, Điều 251 Bộ luật tố tụng hình sự).

Sơ đồ trên đã cho thấy Việt Nam đã có sự quan tâm và có những biện pháp mạnh đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên thủ tục tố tụng hình sự kéo dài, không giữ được bí mật trong quá trình giải quyết vụ việc. Trên thực tế hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự còn nhiều hạn chế từ quy định của pháp luật hình sự.

Xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm soát biên giới

Biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan được tiến hành theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ tại Việt Nam, nhằm thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng để chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm.

Đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát lô hàng nhằm thu thập thông tin để thực hiện quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan nhằm thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng để chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Để thực hiện biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thì chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có nghĩa vụ chứng minh mình là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, cung cấp đầy đủ thông tin để xác định hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và nộp khoản tiền hoặc chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng với trị giá bằng 20% giá trị lô hàng cần áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan. Trong trường hợp không có cơ sở chứng minh hàng hóa đó xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì chủ thể yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và thanh toán các chi phí phát sinh cho người bị áp dụng biện pháp kiểm soát.

Xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp tạm dừng thủ tục hải quan được xử lý theo sơ đồ sau: ( Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ: https://thanhtra.most.n)

Sơ đồ thủ tục áp dụng biện pháp tạm dừng thủ tục hải quan

Chủ thể quyền hoặc thông qua đại diện sở hữu công nghiệp nộp Đơn yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan (Điều 34 Nghị định 105/2006/NĐ-CP).

Kiểm tra: (i) chứng cứ chứng minh là chủ thể quyền của người nộp đơn, (ii) thông tin về về hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc để phát hiện hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 23, Điều 24, Điều 25 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, khoản 3 Điều 48 Nghị định 154/2005/NĐ-CP)

Người đề nghị phải nộp khoản tiền bằng 20% giá trị lô hàng, hoặc 20 triệu đồng (nếu không xác định được giá trị lô hàng tạm dừng) hoặc chứng từ bảo lãnh của ngân hàng /tổ chức tín dụng (Điều 217 Luật SHTT)

Cơ quan hải quan ra thông báo từ chối yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan nếu người nộp đơn không đáp ứng yêu cầu tại điểm (2) và điểm (3) (Điều 36 Nghị định 105/2006/NĐ-CP).

Cơ quan hải quan ra thông báo chấp nhận yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan khi người nộp đơn đáp ứng yêu cầu tại điểm (2) và điểm (3) (Điều 36 Nghị định 105/2006/NĐ-CP). Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Phát hiện hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm, cơ quan hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan (theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc để thực hiện thẩm quyền xử phạt hành chính) (Điều 36, Điều 37 Nghị định 105/2005/NĐ-CP, Điều 51 Nghị định 154/2005/NĐ-CP)

Thực hiện biện pháp tạm dừng và dành thời gian cho các bên liên quan bổ sung chứng cứ, lập luận, tài liệu và kiểm tra xác định tình trạng pháp lý về sở hữu trí tuệ để chứng minh việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền SHTT (Điều 51 Nghị định 154/2005/NĐ-CP).

Trong trường hợp không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: (i) Kết quả xác định tình trạng pháp lý về sở hữu trí tuệ khẳng định rằng lô hàng bị tạm dừng làm thủ tục hải quan không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, (ii) Quyết định của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ, trong đó khẳng định lô hàng bị tạm dừng thủ tục hải quan không phải là hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Thì cơ quan hai quan tiếp tục làm thủ tục hải quan cho lô hàng.

Trong trường hợp cơ quan hải quan kết luận hàng hoá bị tạm dừng làm thủ tục hải quan là hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì chủ hàng hóa và hàng hóa bị xử lý theo biện pháp tại điểm (10) hoặc điểm (11) tùy theo sự lựa chọn của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Trong trường hợp cơ quan hải quan kết luận hàng hoá bị tạm dừng làm thủ tục hải quan là hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo điểm 9 nhưng chủ thể quyền không thực hiện việc khởi kiện dân sự

Cơ quan Hải quan không quyết định xem xét việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Điều 214, 215 Luật Sở hữu trí tuệ) Thì lô hàng bị tạm dừng sẽ tiếp tục được làm thủ tục hải quan (Điều 219 Luật Sở hữu trí tuệ).

Cơ quan hải quan tiếp tục làm thủ tục hải quan khi: (i) Đơn yêu cầu tạm dừng bị từ chối; (ii) người yêu cầu rút đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan; (iii) kết thúc thời hạn tạm dừng nhưng Cơ quan Hải quan không nhận được đơn yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người nộp đơn hoặc văn bản của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc toà án xác nhận đã tiếp nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến lô hàng bị tạm dừng làm thủ tục hải quan; (iv) kết quả xác định tình trạng pháp lý về sở hữu trí tuệ khẳng định rằng lô hàng bị tạm dừng làm thủ tục hải quan không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (v) Người yêu cầu tạm dừng không khởi kiện dân sự; (vi) Cơ quan Hải quan không thụ lý để xử lý vụ việc theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính; (vii) Quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan bị đình chỉ hoặc thu hồi theo quyết định giải quyết khiếu nại. (Khoản 3 Điều 218 Luật SHTT, Điều 52 Nghị định 154/2005/NĐ-CP, khoản 1 Điều 36, Điều 37 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, Điều 219 Luật SHTT). Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

2.4. Một vài bất cập trong việc bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu tại Việt Nam

Thời gian giải quyết vụ việc tại Toà án nhân dân kéo dài, phức tạp. Thời gian giải quyết tại Toà án kéo dài, xét xử nhiều lần, nhiều cấp, gây tốn kém thời gian và tiền bạc. Việc thi hành các bản án dân sự do Toà an phán quyết là rất khó khăn và việc các bản án có hiệu lực pháp luật chưa được thực thi trong thực tế. không những vậy, việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra cho chủ sở hữu nhãn hiệu gặp rất nhiều khó khăn bởi nguyên tắc phải chứng minh trước Toà về mức độ thiệt hại ho hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu gây ra.

Năng lực của cán bộ làm công tác thực thi sở hữu trí tuệ chưa đáp ứng được nhu cầu. Năng lực giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu của cán bộ làm công tác thực thi sở hữu trí tuệ chưa đáp ứng được nhu cầu mà thực tế đề ra. Pháp luật về bảo hộ quyền là lĩnh vực pháp luật còn khá mới ở Việt Nam. Mặc dù trong thời gian gần đây Nhà nước đã có sự quan tâm đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật sở hữu trí tuệ cho đội ngũ cán bộ có thẩm quyền nhưng do tính phức tạp và đa dạng của các vụ tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trong thực tế nên các cán bộ có thẩm quyền vẫn gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết các vụ án tránh chấp về quyền sở hữu trí tuệ vì chưa đủ trình độ chuyên sâu về sở hữu trí tuệ.

Thiếu sự phối hợp xử lý một cách khoa học giữa các cơ quan chuyên trách. Trong nhiều trường hợp, việc nhàn nhận, đánh giá về các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của các cơ quan chức năng có thẩm quyền không thống nhất được quan điểm. Hiện nay Việt Nam có các cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi về Sở hữu trí tuệ là Toà án, Thanh tra, Công an, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp. Việc có nhiều cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lý trong khi sự phối hợp giữa các cơ quan này chưa hợp lý gây ảnh hưởng đến hiêu quả thực thi pháp luật thức pháp luật còn hạn chế. Nhận thức của các doanh nghiệp và người tiêu dùng về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu còn hạn chế, chưa hình thành tâm lý tôn trọng pháp luật và tuân thủ pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

Việc tra cứu nhãn hiệu chưa triệt để, rõ ràng. Khi doanh nghiệp muốn đăng ký một nhãn hiệu mới thì việc đầu tiên là phải tra cứu thông tin xem nhãn hiệu của mình có bị trùng lặp hay tương tự với nhãn hiệu của doanh nghiệp khác hay không. Nhưng những thông tin mà các doanh nghiệp có thể tra được là những nhãn hiệu đã được công nhận quyền bảo hộ còn những nhãn hiệu vừa được nộp đơn hay đang trong quá trình xử lý thì lại không thể tra cứu được. Vì vậy mà các doanh nghiệp không thể biết được nhãn hiệu của mình có bị trung hay tương tự với nhãn hiệu đã được nộp đơn trước đó của các doanh nghiệp khác hay không. Việc này có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp nếu như đơn đăng ký của họ không được chấp nhận. Khóa luận: Thực trạng quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993