Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: tìm hiểu di tích và lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an , hải phòng trong đời sống văn hóa của người dân địa phương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam có sự hấp dẫn cao trong tiềm thức của người dân trong nước và quốc tế . Dáng vẻ của kiến trúc cổ kinh khác xa với những kiến trúc đương đại . “ Những nét cong mềm mại của mái đình làng , mái chùa hòa quyện với không gian cảnh quan thiên nhiên , tạo lên một tổng thể kiến trúc hài hòa tác động mạnh mẽ đến người xem, giúp họ thu được và có nhiều cảm tưởng đầy đủ hơn , nhiều góc cạnh hơn về hình tượng”. Cùng với đó , chúng ta còn có một kho tàng nghệ thuật về chạm khắc rất quý , nằm rải rác ở các Đình , Đền, Chùa hiện còn tồn tại trên đất nước Việt Nam . Đó là những tác phẩm được chạm trổ công phu , duyên dáng phản ánh tư duy của người Việt và ước vọng về một cuộc sống ấm no , hạnh phúc . Những giá trị văn hóa quý bấu đó cần được gìn giữ và phát huy đến mai sau.

Kiến An , Hải Phòng là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, một vùng quê nổi tiếng với những khu di tích, những lễ hội truyền thống gắn liền với từng giai đoạn phát triển lịch sử của dân tộc như: Đền nghe ( Quận Lê Chân ), chùa Dư Hàng ( Quận Lê Chân) , chùa Tràng kênh ( Huyện Thủy Nguyên ) , cây đa 13 gốc ( Quận Ngô Quyền ) , Đình Hàng Kênh, Đình Cung Chúc ( Hải Dương thờ 4 vị Thành Hoàng). Trong đó, đặc biệt phải kể đến khu di tích Đình Đẩu Sơn thờ 5 Vị Thành Hoàng Làng là 5 vị Thần Tướng Trần Nhội , Trần Phương , Nguyễn Chính , Tô Phong , Trần Văn Bích . Người dân luôn biết ơn và nhớ đến ngày lễ hội của 5 vị danh tướng , không chỉ là niềm tự hào của người dân Quận Kiến An mà còn là niềm tự hào của toàn thể người dân Hải Phòng . Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Việt Nam là một quốc gia có khoảng hơn 800 lễ hội truyền thống cùng với số lượng di tích quốc gia vô cùng lớn nhưng khu di tích Đình Đẩu Sơn thờ 5 vị tướng cùng với lễ hội tại đây đã để lại cho nhân dân Quận Kiến An cũng như những người tới đây nhiều cảm xúc, ý nghĩa và hoài niệm riêng. Nghiên cứu sâu hơn về khu di tích và lễ hội Đình Đẩu Sơn thờ 5 vị Thành Hoàng Làng là 5 vị tướng góp phần vào việc tìm hiểu về danh tướng Trần Nhội , Trần Phương, Nguyễn Chính , Tô Phong , Trần Văn Bích, quá trình hình thành và phát triển của ngôi đình cùng với các di tích liên quan tới 5 vị tướng. Ngoài ra, bên cạnh việc tìm hiểu về những giá trị còn được lưu giữ lại ở khu di tích và lễ hội Đình Đẩu Sơn nhiều mặt văn hóa, tư tưởng, giáo dục, kinh tế còn góp phần để đưa ra những chính sách bảo tồn, tôn tạo di tích cùng lễ hội sao cho những lý do trên, đề tài TÌM HIỂU DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐÌNH ĐẨU SƠN QUẬN KIẾN AN ,

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Người dân địa phương luôn tự hào về di tích đình Đẩu Sơn, nơi thờ 5 vị thần tướng thời Trần là Trần Nhội, Trần Phương, Nguyễn Chính, Tô Phong, Trần Văn Bích. Ngài Trần Nhội, Trần Phương là người Văn Đẩu, cũng là anh em đồng sinh dưới gốc cây nhội. Năm 1288, quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 3, các ngài Trần Nhội, Trần Phương được nhà Trần giao bài binh bố trận chặn giặc trên sông Bạch Đằng, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử, bắt sống tướng giặc Ô Mã Nhi. Cũng theo thần tích, ngọc phả, đình Văn Đẩu còn là nơi thờ các vị thành hoàng Tô Phong, Trần Văn Bích quê ở vùng Chí Linh, Hải Dương. Hai ngài làm đạo sĩ, có nghề thuốc, chữa bệnh giỏi và ngài Nguyễn Chính, quê ở Văn Đẩu, học trò ngài Tô Phong.

Di tích Đình Đẩu Sơn là di tích cấp thành phố đã trải qua quá trình tồn tại và chịu tác động của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội . Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu mang tính chất hệ thống về Đình Đẩu Sơn . Là sinh viên Văn Hóa Du Lịch , tôi mong muốn được vận dụng vào thực tiễn những kiến thức đã tích lũy được , nghiên cứu , tìm hiểu đầy đủ hơn giá trị vật thể và giá trị phi vật thể của đinh Đẩu Sơn ; góp một phần nhỏ cùng địa phương bảo vệ một di sản văn hóa trong hệ thống di sản văn hóa nước nhà . Do đó tôi quyết định chọn đề tài “ TÌM HIỂU DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐÌNH ĐẨU SƠN QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG “ làm khóa luận tốt nghiệp.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

2. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Đối tượng nghiên cứu của khoa luận là di tích Đình Đẩu Sơn ( Phường Văn Đẩu – Quận Kiến An – Thành Phố Hải Phòng )

3.Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận được triển khai trên hai phương diện:

  • Thời gian: Nghiên cứu di tích Đình Đẩu Sơn từ khi di tích được khởi dựng và tồn tại cho tới hiện nay.
  • Không gian : Nghiến cứu di tích trong bối cảnh vung đất và con người nơi di tích tồn tại.

4.Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu lịch sử vùng đất , con người nơi di tích Đình Đẩu Sơn tồn tại , làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích

Tìm hiểu lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích Đình Đẩu Sơn từ khi khởi dựng cho đến nay.

  • Nghiên cứu giá trị kiến trúc – nghệ thuật , lễ hội , di vật Đình Đẩu Sơn
  • Từ thực trạng tồn tại của di tích Đình Đẩu Sơn hiện nay , khóa luận đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích Đình Đẩu Sơn.

5.Phương Pháp nghiên cứu

  • Vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin: Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử.
  • Phương pháp nghiên cứu : Bảo tồn di tích – lịch sử văn hóa , Khoa học Lịch sử , Bảo tàng học , Địa Lý , Dân tộc học , Du Lịch Học , Xã hội học , Tâm lý học , Ngôn ngữ học
  • Các phương pháp khác : Quan sát , điều tra thống kê , nghiên cứu tài liệu.

Chương 1: Khái quát về tín ngưỡng thờ 5 vị Thành Hoàng làng của Đình Đẩu Sơn trong đời sống của người dân. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

1.1.Khái quát về tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng của người dân Việt Nam .

Ở các làng xã nông thôn Việt Nam, Thành hoàng là một niềm tin thiêng liêng, một chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng từ bao đời nay. Thờ cúng Thành hoàng cũng giống như thờ cúng tổ tiên, nó mang đậm dấu ấn tâm linh và thể hiện quan niệm “uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam

Thuật ngữ Thành hoàng là một từ Hán Việt: “Thành hoàng có nghĩa là thành hào, hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng. Đắp đất làm “thành”, đào hào làm “hoàng”. Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại và đã được thờ như là vị thần bảo hộ cho một thành trì, một phủ, một châu hay một huyện. Xã hội cổ đại Trung Quốc được phân chia thành hai cấp: Vương và Hầu; vua nhà Chu là Vương cai quản chư Hầu, mỗi chư Hầu như là một vương quốc nhỏ có một tòa thành và một số ấp nông thôn vây quanh. Do vậy, để bảo vệ thành có Thành hoàng, bảo vệ ấp có Thổ địa. Việc thờ Thành hoàng phổ biến khắp đất nước Trung Quốc thời cổ đại; ở đâu xây thành, đào hào là ở đó có Thành hoàng. Thành hoàng thường được vua ban biển miếu hoặc phong tước. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã lấy việc thờ phụng Thành hoàng làm việc giáo hóa dân chúng.

Tuy tín ngưỡng thờ thành hoàng có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng vì quy mô và cơ cấu làng cổ Trung Quốc có nhiều điểm khác với làng cổ của Việt Nam, nên tín ngưỡng thờ Thành hoàng của các làng Việt cổ cũng không giống tín ngưỡng thờ Thành hoàng của làng cổ Trung Quốc. Thành hoàng của các làng Việt cổ không chỉ và không phải lúc nào cũng thờ vị thần bảo vệ thành hào của làng, mà chủ yếu thờ những người có công với dân với nước, người có công lập ra làng, người có công truyền dạy một nghề nào đó cho dân làng, hoặc là một ông quan tốt (và một số vị tà thần – nhưng số này không nhiều).

Việc thờ Thành hoàng của nhiều làng xã Việt Nam đôi khi là thờ một sức mạnh tự nhiên nào đó (như thần sông, thần núi, thần sấm, thần sét, thần mây, thần mưa). Trong số các vị thần này, nơi nào thờ loại thần gì là tùy thuộc vào đặc điểm cư trú của làng đó. Chẳng hạn, những làng ở hai bên bờ các con sông thường là thờ các vị thủy thần; những làng ở trên sườn núi thường thờ thần núi (sơn thần). Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Một số làng thờ những nhân vật lịch sử làm Thành hoàng làng mình là những vị anh hùng dân tộc, có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập cho dân tộc, như các vị: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Nhội , Trần Phương, Tô Phong , Nguyễn Chính , Trần Văn Bích, Lê Hoàn, Dương Đình Nghệ, Lê Văn Thịnh, Tô Hiến Thành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhật Duật,..

Nói chung, hầu hết các làng đều thờ hai loại Thành hoàng, trong đó một vị là biểu tượng của sức mạnh tự nhiên, một vị là nhân vật lịch sử hoặc người có công với làng.

Điểm đặc biệt của tín ngưỡng thờ Thành hoàng của các làng Việt cổ là ở chỗ, dù thời cuộc có biến đổi như thế nào, dù làng có chuyển nơi cư trú bao nhiêu lần, dù chính sách tôn giáo của Nhà nước có chặt chẽ hay cởi mở, dù dân làng giàu sang hay nghèo túng,.. thì nhân vật được dân làng thờ làm Thành hoàng vẫn không thay đổi, mà tồn tại mãi mãi, suốt từ đời này đến đời khác.

Sách Việt Nam phong tục có ghi “ xét về tục thờ thần thành hoàng này từ trước đời đời tam quốc ( Trung Quốc ) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhân nhà vua có việc gì cầu đảo mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô, đến nhà Tống, nhà Minh thiên hạ đâu cũng lập miếu thờ.

Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn, song lớn, triều đình lập miếu thờ sơn thần, hà bá ấy để chủ tế cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với đất nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở đó thờ. Từ đó dân gian bắt chước nhau, chỗ nào cũng thờ một vị để làm chủ tế trong làng mình … dân ta tin rằng đất có thổ công song có hà bá, lãnh thổ nào phải có thần hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho nhân dân,vì thế việc thờ thần mỗi ngày một thịnh”. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Hiều được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập thiết chế văn hóa – tín ngưỡng chính thống của vương triều, nhằm xóa bỏ tầm ảnh hưởng của các triều đại trước, nên thời các vua nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng 1852, vua Tự Đức đã cấp sắc phong đồng loạt 13069 cho cả nước. ( trích sách cơ sở văn hóa Việt Nam phần tín ngưỡng )

Từ trên ta có thể hiểu phần nào tín ngưỡng thờ thần hoàng làng, thờ các anh hùng ở Việt Nam. Trước khi đi vào tìm hiểu tục thờ 5 danh tướng Trần Nhội, Trần Phương , Nguyễn Chính , Tô Phong , Trần Văn Bich chúng ta đi nghiên cứu vài nét về kiến trúc xây dựng đình đền của người Việt.

1.2. Đặc điểm chung về kiến trúc thờ Thành Hoàng làng của người dân Việt Nam.

Hình ảnh Cây đa – Bến nước – Sân Đình đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ từ hàng ngàn năm , một không gian binh dị gắn liền với đời sống sinh hoạt của cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Không gian và kiến trúc Đình làng là minh chứng cho tài nghệ xây dựng của ông cha ta , từ việc chọn địa điểm , quy hoạch hòa lẫn với thiên nhiên , dưới bóng mát rặng cây , soi bóng nước bên hồ , tận dụng hết tự nhiên cho đến hình thức kiến trúc , tỉ lệ , vật liệu , màu sắc phù hợp tới thẩm mỹ , điều kiện xây dựng địa phương.

Đình làng Việt Nam là nơi thờ tự thành hoàng làng và là trung tâm sinh hoạt chính trị, xã hội văn hoá của cộng đồng dân cư. Trong các làng, đình là một di tích kiến kiến trúc nghệ thuật có quy mô to nhất và theo ý nghĩ của người xưa có tầm quan trọng, ảnh hưởng tới sự thịnh vượng và sức khỏe của tất cả dân làng. Dựng đình là việc chung của cả làng. Một việc tối quan trọng của ngôi đình là hướng đình. Ca dao cũ có câu: “Toét mắt là tại hưởng đình, cả làng cùng toét riêng mình em đâu” đã nói lên ý nghĩa quyết định của việc chọn hướng đinh. Hướng của đình làng thậm chí đã trở thành hướng quy hoạch cho các ngôi nhà trong làng, hoặc làm song song theo hướng đình hoặc làm vuông góc. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Chọn hướng và thế đất xây đình người xưa tin vào thuyết phong thuỷ, đình phải được xây trên lưng hay trên trán của các con vật thiêng tiềm ẩn trong đất như long, li, quy, phượng. Đình thường được chọn xây trên một gò cao, một doi đất, trước mặt có dòng nước chảy hay hồ ao, nếu không kể sông ngòi thì người dân đào giếng, hồ để tạo nên cảnh nước non.

Đình làng ban đầu cở lẽ chỉ là một kiến trúc nhỏ gồm 3 gian và 2 chái, sau đó sô” gian tăng lên đến 5, 7 hay 9 gian (số lẻ) cộng thêm kiến trúc phía sau gọi là hậu cưng, thêm phía trưốc gọi là tiền tế, thêm hai bên gọi là tả vu và hữu vu, Ban đầu xung quanh chưa bịt kín nhưng sau dần để tôn nghiêm thần thánh, người dân xây bao kín quanh kiến trúc chỉ để mở cửa phía trước, đặc biệt ở hậu cung thì xây bịt kín tối như bưng (là nơi thần thành ngự trị). Đình làng vốn là một kiến trúc mở không có tường bao quanh, vì kiến trúc gỗ cổ truyền dựa trên khung các cột gỗ chịu lực, các vì kèo và hoành phân đều lực cho các cột cái và cột quân kê trên các đá tảng.

Các cửa bức bàn và các hàng chấn song con tiện phía trước là để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ, các tường bao quanh là nhằm linh thiêng hoá thần linh được làm bể sung vế sau. Một điều đặc biệt là các đình đều có cấu kết mái đình với góc mái cong và người ta gọi là đao mái. Góc mái cong có thể là một sáng tạo đầy tính nghệ thuật của đình làng Việt Nam và thành một đặc trưng độc đáo khiến kiến trúc gỗ truyền thông Việt Nam khác với các kiến trúc gỗ các nước khác trong khu vực. Những ngôi đình cổ thường có bộ mái lớn chiếm đến 2/3 công trình. Theo một nhà nghiên cứu thì “tỉ lệ này có lẽ bắt nguồn từ ngôi nhà cổ truyền của người Việt mà sứ nhà Nguyên là Trần Phú đã lấy làm ngạc nhiên: “Làm nhà không có kiểu gấp mái hoặc chống kèo mà từ đòn đông đến mái hiên cứ thẳng tuột một mạch như đổ hẳn xuống (vì vậy) tuy nóc nhà (tuy hết sức) cao nhưng mái hiên chỉ cách mặt đất chừng bốn năm xích”. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Mỗi đình làng còn là một công trình điêu khắc và chạm trổ, sơn vẽ với chất liệu cổ truyền là sơn ta với 3 mầu đen, đỏ và vàng. Người nghệ nhân thường chạm trổ ở các câu đầu, các cột giá chiêng, các đầu bảy, các ván trong lòng giá chiêng… những hình đầu rồng, đuôi rồng, nghê, vân mây và hoa lá, các sinh hoạt văn nghệ đời sống hàng ngày… rất sinh động. Những cột cái ở trung đình thường được sơn vẽ rồng mây làm cho ngôi đình rực rỡ trang trọng, gợi lên ý nghĩ đây là nơi cung điện của thần thánh uy nghiêm. Các đình thường ghi ngày tháng năm khởi công xây dựng và hoàn thành ở xà nóc hoặc hai câu đầu trung đình. Ở trung đình đều có lắp một cửa võng sơn son thếp vàng làm cho không gian đình sáng lên lộng lẫy. Cửa võng là một bức rèm bằng gỗ chạm trổ rất công phu gắn vào 2 cột và hoành ở trung đình, nơi đặt bàn thờ thành hoàng. Hai bên cửa võng là những bức hoành phi ca ngợi công đức thần, sơn son thếp vàng hoặc khảm trai, do các kỳ hào trong làng hoặc các quan viên cúng tiến. Trên các cột đình còn có nhiều câu đối cũng là để tưởng nhớ và ca ngợi công đức của thần.

Có những đình trước kia làm ở nơi đất trũng hoặc ở bờ sông, bị nước xói lở bào mòn, ngập lụt hoặc sáp đổ, người dân đã có biện pháp thủ công để kiệu, nâng đình lên cao dần dần; như đình Chèm ở ngoài bãi sông Hồng. Người dân đã dỡ mái ngói cho nhẹ bớt, đánh đai các cột đình thành một khối, sau đó dùng đòn bẩy kích dần các cột cùng một lúc lên cao độ 5,6cm, kê các cột lên và tôn nền lên theo, cứ thế dần dần nền đình đã được nâng cao lên hơn 2m trên mặt nước sông lúc mùa nước lớn. Đình Thổ Hà ở Việt Yên, Hà Bắc gần đây cũng áp dụng phương pháp thủ công như đình Chèm kiệu đình lên cao l,80m. Kiến trúc đình làng tuỳ theo lịch sử xây dựng của từng địa phương song về đại thể vẫn có những nét chung của nơi thờ tự thành hoàng.

Đình thường chia làm 2 phần rõ rệt: đình ngoài và đình trong. Đình ngoài còn gọi là nhà tiền tê hay đại bái. Đình ngoài là một kiến trúc lớn nhất được chia làm 3 phần. Chính giữa nhà đại bái, còn gọi là trung đình, được dùng làm nơi tế tự thành hoàng, ở trung đình có đặt bàn thờ, hương án. Hai bên hương án thường bầy các đồ tự khí. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Đồ tự khí gồm có:- Tam sự gồm một bát hương to bằng đồng hoặc một lư hương đỉnh đồng hai bên là 2 hạc đồng trên cắm 2 cây nến.- Ngũ sự gồm Có: một bát hương, 2 cây đèn nến, 2 lọ độc bình cắm hoa, một mâm bồng ngũ quả, một cái kỉ còn gọi là tam sơn ở giữa cao hơn đặt bộ đài con 3 chiếc để 3 chén đựng rượu, một bên để đĩa trầu cau, một bên để bát nưóc. Những đồ thờ thần ở đình, đền gọi là nghi trượng gồm khí giới dùng để đánh nhau và các đồ dùng khi đi đường (làm giả như thật). Nghi trượng thờ thần quý nhất là thanh gươm cẩn còn gọi là gươm vàng thường gác ở giá trước mặt long hài. Khi rước thần thì cử người có chức tước cầm gươm đi trước mặt kiệu, thường gọi là gươm đàn mặt. Kế đến là gươm trường và giáo mác (tràng kiếm và can qua) sau đến cờ tiết mao, lưỡi phủ việt, trường côn và đoản trượng. Những khí giới đó ngày thường thì cắm ở giá, khi có tế lễ rước thì cử trai tráng mỗi người cầm một thứ đi trước kiệu làm đồ nghi vệ. Trong những đồ nghi vệ còn có đồ lỗ bộ, bát bửu, tàn, quạt, cờ, lọng. Có nơi thường gọi lẫn lỗ bộ với bát bửu làm một và cũng không cứ phải là 8 cái.

Những thứ này cũng được cắm ở giá 2 bên bàn thờ. Giáp bàn thờ ở phía trong một bên có một lá cờ, gọi là cờ vía, một bên có một cái biển gọi là biển vía. Cò làm bằng vóc hoặc nhiễu, giữa thêu 4 chữ “Thượng đẳng phúc thần” hoặc “Trung đẳng phúc thần” hoặc “Hạ đẳng phúc thần” tuỳ theo sắc vua phong cho thần, một bên thêu “Lịch triều phong tặng”. Xung quanh thêu rồng bằng chỉ ngũ sắc, chữ thêu bằng chỉ kim tuyến. Biển làm bằng gỗ sơn son, chữ thếp vàng, giữa cũng khắc chữ như cò, xung quanh chạm tứ linh. Khi rước thần thì cò và biển vía cũng phải do những người sang trọng trong làng mới được cầm.Hai bên hương án và bàn thờ của các đình thường bày bộ bát bửu. Bát bửu là 8 vật quý gồm: cái kiếm, cái bút, cái quạt, quả bầu eo, giở hoa, cái khánh hoặc phất trần, cái bàn cò. Mỗi thứ trong bát bửu được chạm lộng trên đầu một cán dài sơn son thếp vàng và cắm trên một cái giá đặt ơ hai bên trước bàn thờ. Trước hương án còn có một dàn lỗ bộ hay còn gọi là bát kích. Bát kích là tám thứ vũ khí đòi xưa: thanh long đao, cây mác trường, cái chuỷ, thanh kiếm, câu liêm, cái đinh ba, cái tay thước, cái nắm tay. Những đồ thờ bát bửu, bát kích trên đây tượng Mỗi đình làng còn là một công trình điêu khắc và chạm trổ, sơn vẽ với chất liệu cổ truvển là sơn ta với 3 mầu đen Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Hai bên hương án còn có hai con hạc cao to đứng trên lưng rùa, tượng trưng cho âm dương hoà hợp và sự trường cửu của thần thánh cùng với dân làng. Lọng, tàn, quạt cũng thuộc vào đồ lỗ bộ.Tàn thường làm bàng vóc hoặc nhiễu, xung quanh thêu lưỡng long chầu nguyệt” hoặc “cửu long tranh châu”, được khâu tròn lại như một cái lồng, trên lại có một tầng vải hoặc móc nhiều làm đình trần, ở giữa có cán cầm.

Quạt thường được làm khung bằng gỗ khá to, căng vóc, nhiễu, cũng có thêu, có tay cầm hơi chếch với mặt quạt. Khi rước kiệu thần, người cầm quạt che ở hậu bành trên kiệu, vì to nên được gọi là quạt vả. Lọng thì như một cái dù to ngày nay, cán làm bằng một khúc tre cây dài từ 2 đến 2,5m, khi bật lên thì nóc lọng là một hình tròn để che mưa nắng cho thần. Lọng thường làm bằng giây phát hoặc vóc, xung quanh có các tua chỉ ngũ sắc hay kim tuyến. Ngoài ra trong đình đền nếu thờ dương thần còn có ngựa thờ làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, dưới chân ngựa có bánh xe tròn nhở bằng gỗ để khi rước có thể đem theo.

Nếu thờ âm thầm thì có võng cáng cũng được làm rất đẹp.Ngoài các thứ trên ra, đình đền thờ thần còn có cờ ngũ hành. Cờ ngũ hành là 5 lá cờ làm cùng một kiểu, 5 lá có 5 màu khác nhau, mỗi màu thuộc về một phương, mỗi phương thuộc về một hành. Màu xanh là phương đông, thuộc về hành MỘC; màu trắng là phương tây, thuộc về hành KIM; màu đở là phương nam thuộc về hành HOẢ; màu đen hoặc huyền là phương bắc thuộc về hành THUỶ; màu vàng là trung ương thuộc về hành THỔ. Cờ ngũ hành thường làm 5 lá, có khi làm 10 lá hình chữ nhật lệch, một bên xâu vào cán cò, còn 3 bên đều làm đường hoả, giữa cờ để trơn, có khi thêu rồng phượng. Thần còn có một cờ lệnh, to gấp 4 hay 6 lần cờ ngũ hành, dùng để kéo lên trên cột cờ cao ở sân đình mỗi khi có lễ hội. Ngoài ra còn có cờ đuôi nheo là một lá cờ nhở chỉ bằng một phần ba cờ ngũ hành, hình đuôi nheo. Khi có rước thần thì một người chỉ huy cầm cờ đó làm hiệu lệnh cho những người mang các nghi vệ trong các đình thường có kiệu để làm lễ rước thần. Các kiểu làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, số kiệu nhiều ít tuỳ theo số thần thờ trong đình thường được cất giữ ở gác nhà tả mạc và hữu mạc. về nhạc khí đình thường có 1 trống cái (to) đánh lên những khi mời làng ra họp hoặc tế lễ hội hè, chiêng, khánh hoặc mõ đại làm bằng cả một cây gỗ to được khoét rỗng giữa. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Nghi trượng của thần thờ ở các đình, đền làng không giống nhau tuỳ theo thần, thành hoàng được thờ. Nếu thành hoàng là các vị vua đời trước như Đình Tiên Hoàng, Lê Đại Hành… thì sửa sang đồ nghi trượng y như của vua dùng, còn nếu thờ các vị trung thần nghĩa sĩ thì tuỳ theo quan chức mà sắm sửa, song cũng có vị thần, nguyên chỉ là quan nhưng do được vua phong Vương nên dân làng cũng sắm sửa đồ nghi trượng như của vua cũng vẫn được.Đại bái thường được xây to gồm đến 7 gian hay 9 gian. Trước hương án ở trung đình là nơi các chức sắc trong làng tế thần, thường được giải chiếu hoa khi có tê và là nơi diễn các tích chèo sân đình, hát ca trù, nơi các quan viên ngồi gõ trống chầu thưởng thức… Hai bên nhà đại bái là tả gian và hữu gian, thường được đóng sàn gỗ, dùng làm nơi hội họp, chia phần làng, ăn cỗ, dân làng ngồi theo thứ bậc cao thấp, tiên chỉ và các chức dịch như lí trưởng, chánh hội… ngồi chiếu trên, bạch đinh ngồi chiếu dưói. Kiến trúc nhở phía sau gọi là đình trong, hậu cung hay nội điện. Đây là chốn thâm nghiêm, nơi thờ tự chính của ngôi đình, người bình thường không được bước vào, cũng gọi là cung cấm. Trong nội điện có bầy bài vị của thành hoàng làng, đặt trong một long ngai hay long khám. Trước long ngai là một hòm đựng sắc phong của thần. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Trên hương án cũng đặt một bình hương và các đồ thờ cúng.Trước đại bái là sân đình, hai bên tả hữu của sân đình thường xây hai dãy nhà nhở gọi là tả mạc và hữu mạc dùng làm nơi sửa sang dọn lễ trước khi dâng lễ vào nhà đại bái. Trước sân đình là cổng có nơi xây tam quan. Nhiều tam quan cũng được xây đắp rất đẹp, có các cột trụ biểu, hai bên vách tường thường đắp các con rồng, con cọp hoặc vẽ hai võ tướng cầm long đao dáng vẻ dữ tợn như để bảo vệ cho chốn linh thiêng.

Cũng có nơi vẽ ngựa, vẽ voi hoặc làm voi đá đứng hai bên. Trên đầu hai cột trụ thường đắp hai con sấu sành gắn các mảnh gôm.Dưới sự khống chế lũng đoạn của bọn cường hào, nơi đình trung ở làng quê Việt Nam trước đây đã diễn ra bao hủ tục, thảm cảnh làm cho người nông dân lao động càng thêm khốn khổ vì việc tế thần mà nhiều nhà văn, như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… đã miêu tả. Đền cũng là một kiểu kiến trúc để thờ thần nhưng không phải là nơi thờ thành hoàng. Thành hoàng chỉ được thờ ở đình. Mỗi làng chỉ có một đình nhưng có thể có nhiều đền. Đền chỉ dành riêng cho việc phụng thờ tế lễ, đình là nơi thờ vong, với chức năng là nơi hội họp của làng vì vậy đình có cấu trúc to lớn còn đền thường nhở bé hơn đình. Khi tế thần dân làng rước thần từ đền về đình, đền mới là nơi “thường trú” của thần, chỉ ngày lễ ở đình thì thần mới giáng lâm.

1.3. Đình Làng trong tâm thức của người dân . Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Đối với mỗi người Việt từ thành thị tới nông thôn, đình làng luôn giữ vị trí vô cùng quan trọng bởi đây không chỉ là một địa điểm tâm linh mà đình làng còn gắn bó với cuộc sống thường nhật và là hình ảnh đi sâu vào tâm thức mỗi người dân.

Đình làng thường “nhộn nhịp” không chỉ vào dịp Tết Nguyên Đán mà lệ cúng đình làng được duy trì liên tục nhiều dịp mỗi năm như một hình thức tín ngưỡng văn hóa của người Việt.

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa thì đình làng được tạo dựng lên phục vụ nhiều mục đích từ thờ tự, tế lễ, đồng thời là nhà hội đồng chung, là nơi xử kiện, nộp sưu thuế…đình làng cũng là nơi để vui chơi, tổ chức các hoạt động lễ hội của làng và đôi khi còn được xử dụng để làm lớp học.

Khởi đầu việc nghiên cứu có hệ thống các làng xã Việt Nam là do các viên chức cai trị người Pháp thực hiện khi họp chiếm lĩnh thuộc địa. L.Cadière đã viết trong nghiên cứu của mình: Đình là nơi thờ thành hoàng đồng thời là nhà chung của làng xã. Là một trú sở Việt của thần linh. (Trích dẫn từ sách Những bài dã sử Việt của nhà viết sử Tạ Chí Đại Trường). Đình làng còn được coi là biểu tượng của quyền lực làng xã, có chức năng như một ngôi nhà lớn của cộng đồng.

Vào những thế kỷ trước, mỗi làng đều có riêng một đình làng để thờ đức thành hoàng làng, phúc thần đồng thời cũng để có nơi hội họp hành chính, phục vụ những việc chung của làng. Chính vì vậy trong công trình nghiên cứu biên khảo Đình miếu và lễ hội dân gian, nhà văn Sơn Nam đã viết: “Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ, bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng “lưu dân tập thể”, mặc dầu làng lắm gạo nhiều tiền”. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Quan trọng là vậy nhưng theo dòng chảy của thời gian, đình làng mất dần đi chức năng gốc và trở thành đền thờ, chủ yếu tập trung vào chức năng tổ chức sinh hoạt lễ hội của làng, song vai trò gắn kết cộng đồng của đình làng vẫn còn ít nhiều duy trì được đến ngày nay. Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: sự chuyển dịch chức năng là tất yếu trong xã hội phát triển và không thể tránh khỏi đói với đình làng Việt nói chung.

Mặc dù có những chuyển dịch chức năng như vậy bắt đầu từ thế kỷ 18, nhưng theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền thì: Đình làng là sản phẩm của dân tộc Việt Nam, mà không một cư dân nào trên thế giới có được. Kết cấu tổ chức làng xã của Việt Nam khác với tất cả các nước khác, nên đình làng chỉ Việt Nam mới có. Người Việt Nam muốn dựa vào tâm linh, dựa vào tôn giáo tín ngưỡng để làm bệ đỡ tinh thần cho mình, bởi vậy, họ sáng tạo ngôi đình để đề cao tín ngưỡng thờ cúng của mình, là nơi sinh hoạt cộng đồng thay cho tất cả các di tích khác và tạo nên được một thế cân bằng cho tâm hồn người Việt trong khủng hoảng tinh thần của xã hội, để người Việt Nam luôn là người Việt Nam. Và trên tinh thần ấy, ngôi đình góp phần cho người Việt yêu nước và bảo vệ sự tồn vong của dân tộc.

Cũng cùng quan điểm trên, Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân cho rằng: văn hóa làng là cốt lõi của văn hóa Việt Nam trong đó đình làng là cốt lõi, là nơi tích tụ của văn hóa làng. Đình làng đảm nhiệm tới 4 chức năng một lúc, từ chức năng tín ngưỡng – tôn giáo, đến nhà văn hóa, nhà hành chính và là nơi hoạt động kinh tế. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Đó là cách lý giải có chuyên môn của các nhà nghiên cứu còn đối với người dân Việt nói chung thì đình làng đã và luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh cũng như trong tâm thức của họ. Qua bao nhiêu thế hệ, cây đa, bến nước, sân đình đã là một hình ảnh quen thuộc, khắc sâu tới mức không thể thay thế hay xóa nhòa trong tâm trí.

Cho đến nay, cúng đình và lễ hội vẫn là hình thức sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu ấn tượng nhất của làng xã. Trong sinh hoạt tín ngưỡng đó, người dân vẫn tin vào sự phù hộ của các vị thần trong mùa màng và đời sống. Đồng thời việc cúng đình cũng chứng tỏ sức sống bền bỉ của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng. Ngoài ra còn là minh chứng cho việc Đình làng là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình chính là trung tâm văn hóa của làng được thể hiện rõ nhất và cô đọng nhất tại các lễ hội từ xưa đến nay.

Hình ảnh mái đình, sân đình cũng đã xuất hiện trên hàng loạt các tác phẩm nghệ thuật từ hội họa, nhiếp ảnh cho tới sân khấu, điện ảnh chính vì vậy không chỉ người Việt mà bạn bè quốc tế cũng thân thuộc với hình ảnh Đình làng. Trong số những hình ảnh gợi nhớ hay nói cách khách là mang tính biểu tượng của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế thì Đình làng giữ vai trò rất quan trọng. Với tất cả những lý do nói trên, chúng ta có thể hiểu vì sao trải qua hàng trăm năm, qua bao biến cố lịch sử, Đình làng vẫn là một biểu tượng văn hóa, tâm linh trong tâm thức người Việt

Tiểu kết chương 1 Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

Ngày nay công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước , kinh tế phát triển đã thúc đẩy sự thay đổi của Quận Kiến An . Đây cũng là nơi có bề dày của văn hóa , nhiều di tích lịch sử và lễ hội truyền thống còn tồn tại , trong đó là tục thờ 5 vị Thành Hoàng làng , là những vị tướng tài xuất thân từ địa phương.

Trải qua nhiều thay đổi nhưng nhân dân địa phương vẫn lưu giữ truyền thống thờ cúng, tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến 5 vị Thành Hoàng làng ngài Trần Nhội – Trần Phương – Tô Phong – Nguyễn Chính – Trần Bích , người có công với làng xóm quê hương, đất nước. Sinh hoạt lễ hội định kì này góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của người dân .

Quá trinh hội nhập văn hóa có nhiều biến đổi ta đi sâu vào chương 2 vs chương 3 để làm rõ hơn về những biến đổi trong di tích và lễ hội. Khóa luận: Tìm hiểu di tích lễ hội đình đẩu sơn quận kiến an.

XEM THÊM NỘI DUNG TẠI ĐÂY:

==== >>> Khóa luận: Di tích lịch sử và lễ hội đình đẩu sơn ở quận Kiến An

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993