Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Khai thác và phát triển loại hình du lịch thiện nguyện tại bản mển – xã thanh nưa – Huyện Điện Biên – Tỉnh Điện Biên dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Điện Biên là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giáp tỉnh Sơn La về phía Đông và Đông Bắc, giáp tỉnh Lai Châu về phía Bắc, giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc về phía Tây Bắc và giáp Lào về phía Tây và Tây Nam. Tỉnh lỵ của Điện Biên là thành phố Điện Biên Phủ. [43]
Điện Biên nằm ở rìa phía Tây khu vực Tây Bắc Việt Nam, có tọa độ địa lý từ 20°54’ đến 22°33’ vĩ độ Bắc và từ 102°10′ đến 103°36′ kinh độ Đông. Điện Biên nằm cách thủ đô Hà Nội 504 km về phía Tây; là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2 quốc gia Lào và Trung Quốc dài hơn 400 km: đường biên giới tiếp giáp với Lào là 360 km và đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc là 40,86 km. [43]
Bản Mển thuộc xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Bản Mển cách thành phố Điện Biên 6km về phía Bắc. [43]
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
1.2. Điều kiện tự nhiên Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
Địa hình
Điện Biên có địa hình phức tạp, chủ yếu là đồi núi dốc, hiểm trở và chia cắt mạnh. Được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam với độ cao biến đổi từ 200 m đến hơn 1800 m, địa hình Điện Biên thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông. Ở phía Bắc có các điểm cao 1085 m, 1162 m và 1856m (thuộc huyện Mường Nhé), cao nhất là đỉnh Pu Đen Đinh (1886 m). Ở phía Tây có các điểm cao 1127 m, 1649 m, 1860 m và dãy điểm cao Mường Phăng kéo xuống Tuần Giáo. Xen lẫn với các dãy núi cao là những thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc phân bổ khắp nơi trong cả tỉnh. Trong đó, cánh đồng Mường Thanh được tạo thành từ thung lũng Mường Thanh rộng hơn 150 km², là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh Điện Biên và cả khu vực Tây Bắc. [43]
Bản Mển thuộc xã Thanh Nưa nằm ở cửa ngõ phía Bắc của huyện Điện Biên, xã Thanh Nưa cách trung tâm thành phố Điện Biên và huyện lỵ Điện Biên chưa đầy 10 cây số, bản Mển và các bản làng khác của xã nằm cheo leo trên đỉnh núi, địa hình rừng núi hiểm trở cách xa trung tâm thành phố đến vài chục cây số. Đây là địa bàn có tuyến quốc lộ 12 nối liền tỉnh Điện Biên với tỉnh Lai Châu cùng đường biên giới trên đất liền dài hơn 17,5km tiếp giáp với huyện Phồn Sày, tỉnh Phong Sa Lỳ (Lào). [43,44]
Khí hậu
Bản Mển – xã Thanh Nưa nằm trong đới khí hậu chung của tỉnh Điện Biên, có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao, mùa đông tương đối lạnh và ít mưa; mùa hạ nóng, mưa nhiều với các đặc tính diễn biến thất thường; chịu ảnh hưởng của gió tây khô và nóng. Nét đặc trưng khí hậu ở đây là sự phân hóa đa dạng theo dạng địa hình và theo mùa. [43]
Nhiệt độ trung bình hàng năm của Điện Biên từ 21°C đến 23°C, nhiệt độ trung bình thấp nhất thường vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau (từ 14 °C đến 18 °C). Các tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất từ tháng 4 đến tháng 9 (25°C) chỉ xảy ra ở các khu vực có độ cao thấp hơn 500m. Nhiệt độ trung bình năm có xu hướng tăng dần qua các thập niên. Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1500 mm đến 2500 mm, thường tập trung theo mùa, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76 đến 84%. Điện Biên có nhiều nắng, khoảng từ 1820 đến 2035 giờ/năm và từ 115 đến 215 giờ/tháng. Các tháng có giờ nắng thấp là tháng 6 và tháng 7; các tháng có giờ nắng cao thường là các tháng 3, 4, 8 và tháng 9. [43]
Chế độ nhiệt ở Điện Biên phản ánh rõ nét mối quan hệ giữa hoàn lưu khí quyển và điều kiện địa hình. Do vị trí nằm khuất sau dãy núi Hoàng Liên Sơn nên không khí lạnh của khối khí lạnh di chuyển đến đây phải đi theo thung lũng sông Đà ngược lên, trên đường di chuyển khối khí này bớt lạnh đi, vì vậy chế độ nhiệt mùa đông của Điện Biên ấm và khô hơn so với Đông Bắc. Tuy nhiên do địa hình tương đối kín nên mỗi khi có đợt lạnh tràn về với cường độ mạnh thì không khí lạnh được giữ lại khá lâu, tạo nên đợt lạnh kéo dài nhiều ngày. [43]
2. Điều kiện lịch sử – dân cư Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
2.1. Điều kiện lịch sử
Điện Biên là vùng đất ngay từ thời tiền sử xa xưa đã có người sinh sống và cư ngụ. Qua các bằng chứng về khảo cổ học từ thời kỳ đồ đá, qua sự hiện diện của các di tích như hang Thẩm Khương, Thẩm Púa (ở Tuần Giáo) đã chứng minh con người từ thời thượng cổ đã có mặt rất sớm và biến nơi đây thành một trung tâm của người Việt cổ.
Vào thế kỷ thứ 6, thứ 7 ở vùng Vân Nam (Trung Quốc), quốc gia Nam Chiếu ra đời. Sau đó, những cuộc tranh chấp giữa Nam Chiếu và các tộc người khác thường xuyên diễn ra, khiến cho cả vùng Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương bất ổn định. Thời kỳ này đất Mường Thanh cũng trải qua nhiều biến động lớn.
Đến thế kỷ 9, 10, người Lự ở Mường Thanh đã phát triển khá mạnh, và ảnh hưởng mạnh sang các khu vực: Sìn Hồ, Mường Lay, Tuần Giáo… Đến thế kỷ 11-12, người Tày Đăm (Thái đen) theo từ Mường Ôm, Mường Ai tràn xuống chiếm Mường Lò (Nghĩa Lộ) và từ Mường Lò thời gian sau đó, những cư dân này theo thủ lĩnh của mình là Pú Lạng Chượng để tràn qua Than Uyên, Văn Bàn… và cuối cùng làm chủ cả một vùng từ Mường Lò (Nghĩa Lộ) qua Mường La (Sơn La), tới Mường Thanh (Điện Biên).
Vào thời kỳ Bắc thuộc, Điện Biên thuộc huyện Lâm Tây, quận Tân Hưng. Vào đời Lý, đất Điện Biên nằm trong hạt châu Lâm Tây; vào đời Trần, Điện Biên thuộc lộ Đà Giang, cuối thời Trần là trấn Thiên Hưng; thời Minh thuộc lại chia làm 2 châu Gia Hưng và Quy Hóa. Năm 1463, trấn Hưng Hóa được thành lập, bao gồm ba phủ: Quý Hóa, Gia Hưng, An Tây. Mặc dù vậy, các thủ lĩnh người Lự cơ bản vẫn làm chủ Mường Thanh. Từ năm 1466 về sau, Lê Thánh Tông đặt cả nước thành 12 thừa tuyên, trong đó Thừa tuyên Hưng Hóa bao gồm 3 phủ, 4 huyện và 17 châu. Năm 1831, Minh Mạng đổi thành tỉnh Hưng Hóa, tỉnh lị đặt ở thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông (nay thuộc Phú Thọ). Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
Tên gọi Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ tên châu Ninh Biên; Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là vùng biên giới, biên ải. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên Phủ) thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu. Tên gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ xuất hiện từ đó.
Thời Pháp thuộc, Hưng Hóa được chia thành các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và tách một số huyện nhập vào Phú Thọ. Năm 1890, thực dân Pháp mới đặt được ách cai trị ở Lai Châu (bao gồm Điện Biên và Lai Châu ngày nay). Lai Châu trừ Phong Thổ thuộc Đạo quan binh thứ Tư, trực tiếp nằm trong khu quân sự Vạn Bú. Ngày 28 tháng 6 năm 1909, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Lai Châu, nay là tỉnh Điện Biên và Lai Châu.
Dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, Phủ Điện Biên (nay là Điện Biên Phủ) trở thành trung tâm điều hành, hành chính của khu vực phía nam tỉnh Lai Châu. Năm 1954, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch Navarre đã đổ quân xuống lòng chảo Điện Biên Phủ với ý đồ xây dựng căn cứ chiến lược quân sự, khống chế và thôn tính Đông Dương và phía Nam Trung Quốc, phía bắc Lào.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Điện Biên đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ được coi là “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, chấm dứt 80 năm nô lệ dưới ách thực dân phong kiến. Để tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc và tạo điều kiện cho các dân tộc ở Tây Bắc tiến bộ mau chóng về mọi mặt, trung ương đã quyết định lập khu vực tự trị của các dân tộc ở Tây Bắc, gọi là Khu tự trị Thái – Mèo theo Nghị quyết của Quốc hội vào ngày 29 tháng 4 năm 1955. Trước đó, theo Sắc lệnh số 143-SL ngày 28 tháng 1 năm 1953 của Chủ tịch nước, Khu Tây Bắc được thiết lập gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Sơn La và Lai Châu, tách khỏi Liên khu Việt Bắc. Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
Ngày 27 tháng 9 năm 1962, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa II đã quyết định thành lập lại 3 tỉnh Sơn La, Nghĩa Lộ và Lai Châu. Tỉnh Lai Châu lúc đó gồm 7 huyện: Điện Biên, Tuần Giáo, Tủa Chùa, Mường Tè, Mường Lay, Sìn Hồ, Phong Thổ và thị trấn Lai Châu. Khu tự trị lúc đó có diện tích 67.300 km², với số dân 438.000 người.
Từ năm 1962 đến năm 1994, thị trấn Lai Châu sau này là thị xã Lai Châu là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Lai Châu. Sau trận lũ quét lịch sử năm 1990, do địa hình thị xã không thể mở rộng, trong khi những trận mưa lũ rải rác từ trước đó, đặc biệt là trận lũ quét lịch sử đã làm sụt lở mất từ 20 – 30% diện tích các khu quần cư.
Từ thực tiễn tình hình trên và khả năng thị xã sẽ bị ngập trong tương lai khi xây dựng thủy điện Sơn La, theo Quyết định số 130/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 18 tháng 4 năm 1992 đã quyết định thành lập thị xã Điện Biên Phủ và di chuyển tỉnh lỵ về thị xã Điện Biên Phủ. Địa giới thị xã được quy hoạch bao gồm thị trấn Điện Biên và 2 xã Thanh Minh và Noong Bua của huyện Điện Biên cũ.
Tháng 1 năm 2002, huyện Mường Nhé được thành lập trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Mường Tè, Mường Lay.
Tháng 9 năm 2003, thành phố Điện Biên Phủ được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Điện Biên Phủ. Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
Tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra nghị quyết trong đó chia tỉnh Lai Châu thành tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên.
Tháng 1 năm 2004, địa giới hành chính huyện Mường Lay và thị xã Lai Châu được điều chỉnh lại.
Tháng 3 năm 2005, thị xã Lai Châu được mở rộng và đổi thành thị xã Mường Lay, đổi tên huyện Mường Lay thành huyện Mường Chà, cũng đổi tên huyện lỵ
Mường Lay thuộc huyện Mường Lay thành thị trấn Mường Chà.
Ngày 14 tháng 11 năm 2006, thành lập huyện Mường Ảng trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Tuần Giáo.
Ngày 28 tháng 8 năm 2012, thành lập huyện Nậm Pồ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của các huyện Mường Nhé và Mường Chà. [43]
Bản Mển thuộc xã Thanh Nưa huyện Điện Biên, được thành lập vào năm 1965. [45]
2.2. Điều kiện dân cư, xã hội Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
Tính đến năm 2018, dân số của tỉnh Điện Biên là 587.000 người với mật độ dân số là 61 người/km².Trong đó, dân số nam và dân số nữ khá xấp xỉ nhau, khoảng 295.000 người và 292.000 người; dân số thành thị đạt 105.000 người và dân số nông thôn đạt 482.000 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số của Điện Biên là 13,3 %.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2009, tỉnh Điện Biên có 33 dân tộc sinh sống bao gồm: Thái, Mông, Kinh, Dao, Khơ Mú, Hà Nhì, Giáy, La Hủ, Lự, Hoa, Kháng, Mảng, Tày, Nùng, Mường,… Trong đó, dân tộc Thái là dân tộc có dân số đông nhất với 186.270 người, chiếm 38,4% dân số của toàn tỉnh. Dân tộc Mông xếp thứ hai với 170.648 người, chiếm 34,8% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh có dân số đông thứ ba với 90.323 người, chiếm 20% dân số tỉnh. [43]
Theo số liệu năm 2009 của Tổng cục thống kê, trên toàn tỉnh Điện Biên có 73 người theo Phật giáo; 1174 người theo Công giáo; 36702 người theo đạo Tin Lành; còn lại đa số thì không theo tôn giáo nào cả. [43]
Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo có nét riêng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa… tạo thành bức tranh đa sắc màu cho nền văn hóa Điện Biên. Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
Xã Thanh Nưa, có 29 bản, đội, trong đó có 4 bản vùng cao và 9 bản giáp biên giới, dân số 6.425 nhân khẩu gồm 4 dân tộc sinh sống, trong đó 90% là người dân tộc Mông, Thái và Dao. Bản Mển nằm ở xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên 6km về phía Bắc. Bản có hơn 110 hộ dân với 500 nhân khẩu, đa số là đồng bào người Thái đen. Đồng bào ở đây sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi, dệt, và thêu thổ cẩm truyền thống. [44,45]
3. Tình hình đời sống hiện nay của cư dân địa phương tại bản Mển
Đời sống kinh tế người dân địa phương ở bản Mển dựa vào nông nghiệp là chủ yếu. Và đến năm 2004, khi mà nghề dệt, thêu thổ cẩm của bản được khôi phục lại, cũng tạo thêm được nguồn thu nhập cho người dân ở bản. Thấy được vai trò của nghề thêu và dệt, chính quyền địa phương của bản cũng tạo điều kiện, tạo lập hợp tác xã cho phụ nữ trong bản tham gia, vừa góp phần lưu giữ nét văn hóa truyền thống của bản, vừa thúc đẩy việc tạo thêm thu nhập. Những người tham gia vào hợp tác xã, thường tranh thủ tập hợp vào buổi tối, hoặc là vào thời gian rảnh, còn lại phải làm các công việc khác trong gia đình. Đây là nơi tập trung của những người phụ nữ biết thêu, dệt thổ cẩm chia sẻ và hỗ trợ nhau để phát triển hợp tác xã. Mặc dù cũng cải thiện được nguồn kinh tế từ việc bán các sản phẩm cho người dân vào các mùa cưới, hay nhận thêu cho các gia đình, bán cho những người khách đến bản, tuy nhiên, vẫn có những có mặt hạn chế đang tồn tại. Khi mới bắt đầu xây dựng hợp tác xã còn tạo thành đội thành nhóm, nhưng do cơ sở hoạt động còn manh mún, điều kiện quảng bá trưng bày sản phẩm khó khăn, nên việc tiêu thụ ngày một ít, hội viên cũng bỏ đi dần. [46]
Từ những thực trạng đó, tình hình đời sống cư dân tại bản Mển gặp khó khăn trong việc phát triển kinh tế, dẫn đến ở bản còn tồn tại nhiều hộ nghèo.
Đến năm 2013, khi có đề án thay đổi, chỉnh trang xây dựng bản văn hóa du lịch, Bản Mển là một trong số bản được lựa chọn thí điểm được đầu tư theo đề án. Từ đó, tạo ra sự thay đổi dần dần trong đời sống của người dân tại bản như có thêm nhiều cơ hội việc làm, tạo ra được nguồn thu nhập ổn định, đồng thời đánh dấu quá trình bà con bắt đầu tham gia vào việc phát triển kinh tế từ du lịch. Tuy nhiên, thời gian đầu số hộ dân tham gia còn ít và cũng gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có đường lối phát triển đúng đắn trong tương lai. [47] Khóa luận: Tổng quan về tỉnh Điện Biên và bản Mển.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch thiện nguyện tại bản mển
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com