Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Phương Hướng Và Giải pháp hoàn thiện quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam Hiện Nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY TRÌNH XÂY DỰNG VĂN BẢN LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện và tổ chức thực hiện việc tuân thủ nghiêm chỉnh hệ thống pháp luật đó trong đời sống nhà nước và xã hội là một trong những nhiệm vụ trung tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang tiến hành ở nước ta. Vì vậy, đổi mới quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam hiện nay phải được ưu tiên hàng đầu.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu đổi mới quy trình lập pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bởi vì, pháp luật suy cho cùng ra đời theo đòi hỏi của các quan hệ kinh tế, do các quan hệ kinh tế quyết định. Nhưng sau khi ra đời, nếu phù hợp với đòi hỏi của các quan hệ kinh tế, pháp luật lại có tác động trở lại một cách tích cực đến các quan hệ kinh tế, làm cho các quan hệ kinh tế phát triển. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ phải “đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau”. Pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Không sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt sẽ không sớm tạo ra được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tồn tại và phát triển; các chủ trương phát huy nội lực, tăng nhanh vốn đầu tư từ trong nước và nhất là từ nước ngoài, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân… sẽ tiến triển rất chậm chạp, khó đi vào cuộc sống và khó trở thành hiện thực. Có thể khẳng định rằng, không có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, thống nhất, khả thi và minh bạch thì không thể phát huy được mọi nguồn lực, không có vốn để đầu tư, không thể có công nghệ cao để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, không thể có quản lý tiên tiến có hiệu lực và hiệu quả, không thể có các loại hình thị trường tồn tại và phát triển lành mạnh, không thể có phương tiện tổ chức và thực hiện trên quy mô cả nước các chính sách xã hội, không thể có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh như đường lối của Đảng đã đề ra. Thực tiễn chỉ ra rằng nhiều nước vốn không giàu có về tài nguyên, nhưng đã đi lên một cách nhanh chóng nhờ phát huy nhân tố con người và có môi trường pháp lý tốt.
Nền kinh tế thị trường vốn là nền kinh tế với các quan hệ rất đa dạng, phong phú, năng động và phức tạp. Ở nước ta, nền kinh tế đó lại đòi hỏi phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó càng đòi hỏi vai trò to lớn của pháp luật trong việc điều chỉnh để định hướng cho sự phát triển đa dạng các quan hệ kinh tế, nhưng hạn chế được và tiến tới loại bỏ các yếu tố tự phát, ngẫu nhiên tuỳ tiện; ngăn ngừa được các yếu tố gây mất ổn định, rối loạn, khủng hoảng, thiết lập được trật tự các quan hệ kinh tế ổn định và phát triển bền vững. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đòi hỏi không thể không xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, không thể không đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì, Nhà nước pháp quyền, trước hết là một Nhà nước có hệ thống pháp luật tốt cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện và hệ thống pháp luật đó được mọi người đề cao và tôn trọng.
Ở nước ta, trong mối quan hệ đối với Đảng lãnh đạo, pháp luật chính là phương tiện để thể chế hoá đường lối lãnh đạo của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực và thực thi trên quy mô toàn xã hội. Trong mối quan hệ với Nhà nước, pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân, là phương tiện quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả đối với mọi mặt đời sống xã hội. Trong mối quan hệ với các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho quần chúng nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức của mình. Pháp luật là phương tiện thể chế, ghi nhận sự phát triển của nền dân chủ, đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Có thể nói, đối với toàn bộ hệ thống chính trị, pháp luật là phương tiện hàng đầu để thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống, là nhân tố đảm bảo cho các yếu tố của hệ thống hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp, thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp, là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo lý của các thành viên hoạt động trong hệ thống đó.
Đối với cá nhân, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thể chế hoá các quyền con người, quyền công dân và đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do ghi nhận một cách chính thức các giá trị của con người mà pháp luật trở thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của chính mình. Các vấn đề về an sinh xã hội, về tính mạng và tài sản, danh dự và nhân phẩm, tự do, bình đẳng và công bằng đều gắn chặt với vai trò điều chỉnh của pháp luật. Có thế nói pháp luật là phương tiện để đề cao nhân tố con người và phát huy sức mạnh của nó trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước. Chính vì vậy mà mức độ hoàn thiện pháp luật và tuân thủ pháp luật trở thành một tiêu chí để đánh giá tính pháp quyền của một nhà nước. Và để phục vụ tốt cho việc quản lý nhà nước thì pháp luật là một trong những công cụ quan trọng nhất, trong đó đặc biệt là các bộ luật và luật do Quốc hội ban hành. Trong thời gian qua, mặc dù quy trình xây dựng văn bản luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, quy trình đó vẫn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Trong thời gian tới, quy trình xây dựng văn bản luật cần quán triệt phương hướng sau:
Một là, thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới quy trình lập pháp, lập quy, về hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng văn bản luật.
Hai là, cần bảo đảm thực hiện nhất quán nguyên tắc Nhà nước pháp quyền trong toàn bộ quy trình từ giai đoạn sáng kiến lập pháp, soạn thảo, lấy ý kiến góp ý, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý dự thảo trước khi ban hành cho đến ký ban hành, công bố, đăng công báo, kiểm tra, giám sát văn bản sau khi ban hành. Nguyên tắc thống nhất của Nhà nước pháp quyền: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Một trong những yêu cầu cơ bản nhất của quy trình ban hành văn bản luật là tuân thủ Hiến pháp, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định, điều chỉnh các quan hệ xã hội mà Nhà nước thấy cần phải có để phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính bắt buộc thực hiện của quy định quy phạm pháp luật, bảo đảm tính công bằng, tính nhất quán và tính ổn định của hệ thống pháp luật.
Ba là, cần phải xây dựng một quy trình xây dựng văn bản luật thống nhất, gọn nhẹ, áp dụng chung cho tất cả các loại văn bản luật để có thể ban hành nhanh, đáp ứng yêu cầu về tiến độ xây dựng văn bản luật theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, mà vẫn bảo đảm yêu cầu về chất lượng do Quốc hội, Chính phủ đặt ra.
Bốn là, cần bảo đảm tính kế thừa, luật hoá một số quy định của các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động xây dựng văn bản luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm; giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quy trình xây dựng văn bản luật;
Năm là, bảo đảm thực hiện cam kết WTO về minh bạch hoá pháp luật trong suốt quy trình xây dựng văn bản luật. Thực hiện cam kết WTO về minh bạch hoá pháp luật cũng là tăng cường công khai, dân chủ theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện quy trình xây dựng văn bản luật, bảo đảm các quy định pháp luật thể hiện nguyện vọng của nhân dân và nhân dân có quyền tham gia xây dựng pháp luật. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Sáu là, phân định lại chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan tham gia vào quy trình xây dựng văn bản luật.
Bảy là, đổi mới tổ chức, đầu tư nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động cho các thiết chế trực tiếp tham gia vào quy trình xây dựng văn bản luật.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH XÂY DỰNG VĂN BẢN LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện nay
- Về việc lập chương trình xây dựng văn bản luật
Để nâng cao chất lượng lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản luật trong thời gian tới cần triển khai tốt những biện pháp như:
Bảo đảm tính khả thi của Chương trình xây dựng văn bản luật bằng cách thường xuyên tiến hành có hiệu quả công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật hiện hành, tổng kết, đánh giá việc thực hiện chương trình. Có thể rà soát, hệ thống hoá pháp luật hiện hành theo từng lĩnh vực đồng thời có đánh giá, tổng kết, phân tích để đưa ra những định hướng cho việc xây dựng văn bản luật. Và cũng trên cơ sở đó, Chính phủ, Bộ, các cơ quan ngang Bộ, Quốc hội sẽ lựa chọn theo thứ tự ưu tiên vào nhu cầu cần điều chỉnh bằng pháp luật của các quan hệ xã hội để lập dự kiến ban hành luật.
Cần xác định rõ định hướng trong việc lập chương trình xây dựng văn bản luật. Trong thời gian tới vừa tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn từ nay đến 2020, phải vừa thể hiện tính toàn diện, thống nhất và đồng bộ trên cơ sở tổng kết thực tiễn lập pháp và thi hành pháp luật ở nước ta. Nội dung của chương trình phải bao quát được các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân) nhưng phải có thứ tự ưu tiên hợp lý dựa trên các căn cứ: Thứ nhất, các lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt, tạo sức bứt phá đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn để ưu tiên tập trung nguồn lực xây dựng thể chế; Thứ hai, những lĩnh vực cơ bản, quan trọng, ổn định cần được điều chỉnh bằng luật, không đưa vào Chương trình xây dựng luật đối với các dự án luật trong các lĩnh vực mà quan hệ xã hội còn biến động, chưa chín muồi; Thứ ba, năng lực thực tế của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra để bảo đảm tính khả thi, hợp lý trong việc đưa văn bản vào Chương trình xây dựng luật tránh dồn quá nhiều dự án vào một cơ quan, khiến chất lượng và tiến độ của dự án bảo đảm.
Chương trình xây dựng văn bản luật phải được lập theo hướng mở, kịp thời đáp ứng nhu cầu xây dựng thể chế đặt ra trong quản lý nhà nước. Do vậy, cần có quy định khác nhau về việc lập Chương trình hằng năm và Chương trình nhiệm kỳ. Chương trình nhiệm kỳ phải có tính định hướng, chiến lược và linh hoạt; Chương trình hằng năm phải bám sát thực tiễn cuộc sống, sự cân đối trong thực hiện chương trình giữa các năm trong nhiệm kỳ Quốc hội và có tính khả thi cao, tránh dồn quá nhiều dự án vào năm cuối nhiệm kỳ. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc lập và thực hiện chương trình cũng là một trong những biện pháp nhằm bảo đảm chất lượng cho chương trình. Do vậy, Nhà nước cần quy định chặt chẽ hơn nữa trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về các cơ quan có trách nhiệm tham gia xem xét dự kiến chương trình, cơ quan đề nghị xây dựng luật có trách nhiệm giải trình, bảo vệ dự kiến chương trình do mình đề xuất.
Phải tập trung vào chương trình xây dựng văn bản luật, hạn chế chương trình xây dựng pháp lệnh. Đối với các Pháp lệnh đã qua thực tiễn kiểm nghiệm cần tổng kết nâng thành luật; trừ một số ít văn bản cần thiết phải quy định mang tính chất “luật khung”, còn lại cần quy định cụ thể khi ban hành có thể thi hành ngay; đối với một số lĩnh vực thì không nhất thiết phải xây dựng các bộ luật lớn mà có thể xây dựng nhiều đạo luật có phạm vi điều chỉnh hẹp để đẩy nhanh tiến độ, quy định chi tiết và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành sau khi văn bản luật được ban hành.
Trong quy trình xem xét, thông qua Chương trình xây dựng văn bản luật, cần quy định rõ thời hạn, nội dung, trách nhiệm của các chủ thể có quyền trình dự án luật trong việc đề xuất đưa các dự án vào Chương trình; có quy trình tiếp thu sáng kiến pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để làm cơ sở cho việc xem xét, quyết định Chương trình nhằm phản ánh tốt nhu cầu của xã hội. Bên cạnh đó, phải coi việc lập dự kiến Chương trình xây dựng văn bản luật là giai đoạn phân tích chính sách trong quá trình tiền soạn thảo. Việc phân tích chính sách được làm tốt từ giai đoạn này, có cơ sở khoa học, thực tiễn sẽ tạo thuận lợi cho việc phê duyệt chính sách trong quá trình Quốc hội xem xét thông qua luật sau này. Về mặt nguyên tắc, công đoạn phân tích chính sách phải được thực hiện trước khi bắt đầu soạn thảo dự án về mặt kỹ thuật. Do đó, trong việc lập Chương trình hằng năm, Quốc hội cần thảo luận, thông qua chính sách cơ bản làm cơ sở, định hướng tư tưởng cốt lõi của dự án.
Quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản luật phải đảm bảo tính công khai, minh bạch nhằm thu hút trí tuệ tập thể của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội vào quá trình sáng kiến lập pháp. Dự kiến Chương trình cần phải công khai, đưa lên trang web của Chính phủ để tổ chức, cá nhân đóng góp ý kiến. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Theo phân tích của “Báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá quy trình xây dựng luật, pháp lệnh – thực trạng và giải pháp” thì kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, đề xuất sáng kiến pháp luật được pháp luật cá nước đặc biệt quan tâm với việc mở rộng sự tham gia của nhiều chủ thể. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, sáng kiến lập pháp rất phong phú và phát sinh từ nhiều đối tượng khác nhau. Mỗi nhiệm kỳ Nghị viện có hàng nghìn dự án luật được đưa ra nhưng chỉ có một số lượng nhỏ trong số đó trở thành luật. Chẳng hạn, tại nhiệm kỳ của Nghị viện lần thứ 102 của Hoa Kỳ có đến 10.238 dự án luật được trình và chỉ có 1.405 dự án luật (chiếm 13,8%) được xem xét và báo cáo lại với Nghị viện và chỉ có 590 dự án luật (chiếm 5,8%) trở thành luật. Các sáng kiến lập pháp của các nghĩ sĩ có thể bắt nguồn từ các cuộc tiếp xúc cử tri trong quá trình vận động bầu cử mà ở đó ứng cử viên hứa hẹn nếu trúng cử sẽ trình để ban hành văn bản luật về một vấn đề cụ thể. Các cử tri tại khu vực bầu cử của nghị sĩ với tư cách cá nhân hay thông qua một nhóm công dân hoặc hiệp hội, đều có quyền kiến nghị hoặc chuyển kiến nghị của mình đến nghị sĩ Quốc hội. Cơ quan hành pháp cũng là một chủ thể quan trọng trong việc đưa ra sáng kiến lập pháp. Điều đó cho thấy, có thể đa dạng hoá các nguồn đề xuất luật để có thể lọc ra những dự án luật cần thiết đáp ứng nhu cầu giải quyết bức xúc của thực tiễn [21, tr.140].
Hay tại Australia, các ý tưởng lập pháp của Chính phủ Australia xuất phát từ rất nhiều nguồn khác nhau và là kết quả từ việc phân tích chính sách của một bộ thuộc Chính phủ liên bang, từ quá trình thảo luận của nội các, từ chính sách tranh cử của đảng cầm quyền, từ yêu cầu của các nhóm lợi ích, kiến nghị của công dân.
Điều này khác với ở Việt Nam, việc đề xuất sáng kiến lập pháp chỉ tập trung bó hẹp ở Chính phủ, Toà án tối cao, Viện Kiểm sát tối cao, các tổ chức chính trị – xã hội, các Hội đồng, Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Sự bó hẹp này làm hạn chế nguồn cung cấp những sáng kiến lập pháp cho việc lập Chương trình xây dựng pháp luật hàng năm và cả khoá Quốc hội [21, tr.140].
Bảo đảm tính đồng bộ giữa việc lập Chương trình xây dựng nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành văn bản luật với Chương trình xây dựng văn bản luật. Cần giao cho Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng và đôn đốc việc thực hiện chương trình xây dựng nghị định của Chính phủ nhằm bảo đảm tính chặt chẽ, liên thông với Chương trình xây dựng văn bản luật. Đề cao vai trò, trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và tổ chức pháp chế của các bộ, cơ quan ngang bộ trong công tác lập dự kiến Chương trình xây dựng văn bản luật của Quốc hội, Chương trình xây dựng Nghị định của Chính phủ.
Sau khi Quốc hội khoá XII (2007 – 2011) được thành lập, hàng loạt các quan điểm chỉ đạo xây dựng luật được hình thành một cách đúng đắn; và các cơ quan hữu quan cũng đã nghiên cứu đề xuất các tiêu chí xem xét, đánh giá chương trình xây dựng luật trong đó có năm tiêu chí chung đánh giá tính khả thi của chương trình và chín tiêu chí cụ thể đánh giá tính khả thi của một dự án. Có thể nêu 5 tiêu chí chung là: Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
- Mức độ phù hợp với chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật;
- Mức độ bao quát các lĩnh vực của đời sống và sự phù hợp với khả năng của các cơ quan của Quốc hội;
- Khả năng thực tế của Quốc hội trong việc xem xét thông qua các văn bản luật;
- Giảm dần số lượng văn bản pháp lệnh trong chương trình;
- Tính ưu tiên các lĩnh vực trong chương trình.
- Về hoạt động soạn thảo văn bản luật
Soạn thảo được coi là hoạt động quan trọng nhất của quy trình xây dựng văn bản luật vì chất lượng của văn bản cao hay thấp lệ thuộc vào hoạt động này là chính. Do vậy, để khắc phục những nhược điểm còn tồn tại trong hoạt động soạn thảo và nâng cao chất lượng văn bản luật, chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Trước hết, cần chú trọng đúng mức việc thành lập Ban soạn thảo. Trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần phải quy định rõ hơn về tổ chức và hoạt động của Ban soạn thảo, tránh tình trạng quy định mang tính liệt kê và không cụ thể như Điều 33 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Trong kỳ họp của Quốc hội khoá XII vừa qua đã thảo luận và dự kiến thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có những quy định trực tiếp liên quan đến Ban soạn thảo như cần quy định về cách thức tiến hành từng nhiệm vụ của Ban soạn thảo thay thế cho cách quy định chung chung mang tính liệt kê công việc. Với cách quy định như vậy đã tạo ra cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng các dự thảo văn bản luật, cần đặc biệt chú quán triệt đầy đủ các quan điểm cơ bản của Đảng có liên quan đến nội dung dự thảo.
Tăng cường hoạt động khảo sát thực tế để nắm bắt toàn diện đánh giá đúng thực trạng các quan hệ xã hội là cơ sở để hình thành nội dung dự thảo văn bản luật; Mặt khác, Ban soạn thảo cần phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, lấy ý kiến các ngành, các cấp và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Từ đó bảo đảm các dự thảo văn bản luật có luận cứ khoa học, căn cứ thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng biên soạn và bảo đảm tiến độ chuẩn bị trình dự thảo.
Phải nghiên cứu toàn diện pháp luật hiện hành quy định về lĩnh vực thuộc nội dung dự thảo để tránh tình trạng xây dựng văn bản luật có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với đời sống xã hội.
Luôn luôn bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước trong quá trình soạn thảo văn bản luật. Luật cần quy định rõ tính chất liên ngành của Ban soạn thảo để có sự tham gia của các ban, ngành có liên quan. Ngay trong việc lựa chọn những chuyên gia vào Ban soạn thảo, cơ quan có thẩm quyền cũng cần quan tâm tới yếu tố này. Bên cạnh đó cần đặc biệt coi trọng yếu tố trình độ, năng lực chuyên môn của những chuyên gia bởi chính trình độ của họ đã quyết định tới chất lượng của dự thảo văn bản.
Ban soạn thảo cần chuẩn bị tốt các dự thảo văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết thi hành cùng thời gian soạn thảo văn bản luật, đảm bảo để khi văn bản luật có hiệu lực thì được thi hành ngay như đúng quy định tại Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Cần chuẩn bị tốt các yêu cầu về kinh phí, trang thiết bị cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động soạn thảo văn bản luật.
- Về hoạt động thẩm tra, thẩm định văn bản luật
Sự đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật không đơn giản, thường gây nhiều tranh cãi và có ảnh hưởng tới “số phận” của dự án luật nên đòi hỏi người làm nhiệm vụ này không chỉ có chuyên môn sâu mà cả sự kiên định, vững vàng. Điều đó đặt ra yêu cầu rất cao đối với mỗi thành viên Uỷ ban Pháp luật cũng như đội ngũ chuyên viên giúp việc của Uỷ ban.
Việc tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò của Uỷ ban Pháp luật trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua là một yêu cầu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập và phát triển kinh tế đất nước phải coi việc xem xét tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các dự án luật trước khi ban hành là giai đoạn bắt buộc trong quy trình lập pháp. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay chưa có một cơ chế giám sát hiến pháp hiệu quả thì Uỷ ban Pháp luật – một thiết chế “tự thân” của Quốc hội cần đóng vai trò quan trọng, hàng đầu trong việc giám sát chính các văn bản do mình ban hành. Việc tiếp tục nâng cao vai trò của Uỷ ban Pháp luật trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật còn là tiền đề nghiên cứu, hoàn thiện và cho ra đời một thiết chế bảo hiến hiệu lực, hiệu quả hơn ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, trong đó nêu rõ sự cần thiết phải “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” [4].
Để nâng cao hơn nữa vai trò của Uỷ ban Pháp luật trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật trước khi trình Quốc thông qua, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi bổ sung về phương thức của Uỷ ban Pháp luật bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật theo hướng Uỷ ban Pháp luật phải chủ động tiến hành hoạt động xem xét, đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật. Ý kiến của Uỷ ban Pháp luật về vấn đề này phải được thể hiện bằng văn bản và được gửi cùng với các tài liệu khác khi trình dự án luật ra trước Quốc hội. Cùng với hoạt động thẩm tra của cơ quan chủ trì thẩm tra, hoạt động xem xét tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật cũng được Uỷ ban Pháp luật tiến hành song song, độc lập, góp phần tạo nên tính chuyên môn hoá trong hoạt động của các Uỷ ban khác của Quốc hội, để mỗi Uỷ ban thực sự là một người “gác cổng” cho Quốc hội ở lĩnh vực được phân công.
Bên cạnh đó cần nâng cao nhận thức của các chủ thể chủ trì xây dựng văn bản luật về ý nghĩa, vai trò của công tác thẩm định, thẩm tra. Phải xác định rõ rằng chỉ có thông qua hoạt động thẩm tra, thẩm định thì chất lượng dự thảo mới được nâng cao hiệu quả pháp luật. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Tăng cường năng lực của Văn phòng Quốc hội, đặc biệt là các bộ phận giúp việc Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong việc thẩm tra các dự thảo luật đảm bảo tính hợp hiến của các dự thảo luật.
Cơ quan, tổ chức trình dự án luật khi gửi tài liệu cho cơ quan chủ trì thẩm tra, đồng thời gửi tài liệu cho Uỷ ban Pháp luật đúng thời gian quy định để Uỷ ban họp thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự án luật; trường hợp cần thiết cử người có thẩm quyền thuyết trình dự án trước Uỷ ban Pháp luật hoặc Thường trực Uỷ ban Pháp luật và giải trình những vấn đề mà Uỷ ban Pháp luật nêu.
Phải chuẩn hoá các nội dung thẩm tra, thẩm định như phạm vi, đối tượng, giá trị pháp lý, hiệu lực của thẩm định, thẩm tra.
Cần nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức làm công tác thẩm tra, thẩm định. Lựa chọn những người có trình độ pháp lý cao, bề dày thực tiễn, am hiểu các vấn đề kinh tế – xã hội. Tiến tới Nhà nước cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp về công tác thẩm tra, thẩm định. Đồng thời Nhà nước cũng tạo điều kiện cần thiết như phương tiện làm việc, các nguồn cung cấp thông tin, bảo đảm tiền lương… cho đội ngũ chuyên tâm làm công tác nhằm nâng cao chất lượng thẩm tra, thẩm định.
Ngoài ra, cũng cần quy định rõ hậu quả pháp lý và cách thức, trình tự xử lý trong trường hợp Uỷ ban Pháp luật cho rằng một điều khoản hay một văn bản không đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp hoặc mâu thuẫn chồng chéo. Cần tạo điều kiện để các thành viên Uỷ ban Pháp luật được tiếp cận sớm với dự án luật. Đồng thời nâng cao chất lượng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, chuyên viên giúp việc của Uỷ ban Pháp luật đáp ứng với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ.
Về lâu dài, Quốc hội nên ban hành Luật Thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo hướng cần tiếp thu các quy định hiện hành còn giá trị và tham khảo các quy định của nước ngoài phù hợp với điều kiện lập pháp, lập quy ở Việt Nam.
Hoạt động đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật nếu được tiến hành một cách hiệu quả ngay trong giai đoạn soạn thảo, ban hành sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như khẳng định uy tín, chất lượng của các cơ quan nhà nước. Và điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc ban hành các đạo luật của Quốc hội. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
- Về hoạt động lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản luật
Đây là hoạt động thể hiện tính dân chủ của Nhà nước ta. Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản luật sẽ có cơ hội phản ánh ý kiến, hiểu nội dung quy định và từ đó họ thực hiện đúng. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động này vẫn còn những tồn tại và khuyết điểm. Trong thời gian tới cần có những biện pháp đồng bộ để tạo ra một cơ chế lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản luật một cách có hiệu quả.
Trước hết, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần quy định cụ thể hơn về cơ chế tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản như thời gian, phương thức tổ chức, nội dung lấy ý kiến đóng góp… Cần khẳng định, việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo luật là một thủ tục bắt buộc trong quá trình xây dựng văn bản luật nhằm khắc phục tình trạng văn bản luật được ban hành nhưng bỏ qua hoạt động này.
Xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức trong quá trình lấy ý kiến, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cơ quan soạn thảo, cơ quan trình dự thảo luật. Nghiên cứu để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan phụ trách về công tác thông tin đại chúng trong việc công bố dự thảo, tiếp nhận và chuyển tải thông tin phục vụ cho việc lấy ý kiến.
Cần lựa chọn những nội dung còn đang vướng mắc, chưa rõ, những vấn đề cần thảo luận, những vấn đề liên quan đến quyền lợi của cá nhân, tổ chức, cũng như nghĩa vụ của họ để tổ chức lấy ý kiến. Nội dung xin ý kiến phải đề ra các phương án để người được hỏi trả lời hoặc cho ý kiến mang tính trọng tâm tránh tình trạng lấy ý kiến mang tính hình thức.
Cải tiến phương thức lấy ý kiến về dự thảo văn bản luật. Phương thức thực hiện như lâu nay vẫn làm là quá thiên về hành chính, mở hội nghị triển khai dẫn đến hiệu quả thấp. Do vậy, đổi mới phương thức gắn liền với việc mở rộng các kênh tổ chức lấy ý kiến như thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, các ngành, các cấp, qua các cơ quan thông tin đại chúng, trên mạng… Tuỳ theo yêu cầu, phạm vi nội dung cần lấy ý kiến mà lựa chọn các kênh thông tin nêu trên cho phù hợp.
Tăng cường hiệu quả của việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp thông qua việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong công tác này. Như vậy, cần có sự cải tiến việc tiếp thu ý kiến theo hướng phân công rành mạch về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến để xây dựng và chỉnh lý dự thảo văn bản luật.
Tăng nguồn kinh phí để bảo đảm có đủ điều kiện tổ chức lấy ý kiến, khắc phục tình trạng bị động của các cơ quan khi tiến hành hoạt động này. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
- Về hoạt động thông qua văn bản luật
Bên cạnh việc tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của các dự thảo luật cả về nội dung và kỹ thuật pháp lý trong giai đoạn soạn thảo, thẩm tra, thẩm định, thì cần cải tiến quy trình thảo luận và thông qua luật tại kỳ họp của Quốc hội theo hướng sau:
Tăng cường số lượng cũng như thời gian các kỳ họp của Quốc hội, đặc biệt Quốc hội cần tập trung thảo luận cho ý kiến về dự thảo luật để đi tới thống nhất quan điểm, đẩy nhanh quá trình thông qua một dự án nhất định.
Và để rút ngắn thời gian thông qua văn bản luật, thay vì việc thông qua theo từng điều, từng chương, Quốc hội chỉ cho ý kiến về những nội dung cơ bản, những vấn đề lớn còn nhiều ý kiến khác nhau tránh tình trạng các đại biểu thảo luận về câu chữ. Muốn vậy cần đưa vào chương trình kỳ họp của Quốc hội dự thảo văn bản luật nào đã được chuẩn bị tốt về nội dung.
Cần nâng cao chất lượng công tác thư ký kỳ họp, tập hợp đầy đủ, tổng kết ý kiến phát biểu của các đại biểu Quốc hội về các dự thảo luật và làm tốt công tác thông tin, tư liệu phục vụ các đại biểu Quốc hội.
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thẩm tra, cơ quan soạn thảo trong việc tiếp thu ý kiến để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo.
Đổi mới quy trình xem xét, thông qua văn bản luật theo hướng nghiên cứu áp dụng quy trình làm luật hiện đại với phương thức 3 lần trình (theo phân tích tại Báo cáo Sơ kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 ngày 25 tháng 5 năm 2011 của Đảng đoàn Quốc hội), cụ thể là: Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Bước 1, trình Quốc hội xem xét đề nghị, kiến nghị về luật để đưa vào Chương trình xây dựng văn bản luật. Quốc hội thảo luận kỹ về đề nghị, kiến nghị về luật, trong đó tập trung chủ yếu vào việc xem xét sự cần thiết ban hành, những chính sách cơ bản dự kiến được điều chỉnh và đánh giá tác động sơ bộ. Uỷ ban Pháp luật có trách nhiệm thẩm tra báo cáo với Quốc hội về việc đưa dự án luật vào Chương trình; Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban khác của Quốc hội có trách nhiệm phát biểu ý kiến chính thức của mình về các đề nghị, kiến nghị này để làm cơ sở cho Quốc hội xem xét, quyết định.
Bước 2, trình Quốc hội dự án luật để Quốc hội cho ý kiến. Ở giai đoạn này, dự án luật được trình Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra; Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, biểu quyết về những chính sách cơ bản của dự án, cơ quan của Quốc hội chủ trì thẩm tra chủ trì phối hợp với chủ thể trình dự án và các cơ quan, tổ chức hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản.
Bước 3, cơ quan chủ trì hoàn thiện dự thảo luật thay mặt các cơ quan, tổ chức hữu quan trình dự án luật đã được chỉnh lý, hoàn thiện để Quốc hội xem xét, thông qua. Bên cạnh đó, vấn đề mấu chốt là chất lượng của dự thảo văn bản phải được bảo đảm. Do đó, trong những trường hợp nhất định, vẫn cần thiết phải có cơ chế để Quốc hội có thể thông qua dự án tại nhiều kỳ họp, tuỳ thuộc vào chất lượng chuẩn bị dự án [20].
- Về công bố văn bản luật
Quốc hội cần sớm ban hành Luật về Đăng Công báo, đảm bảo tất cả các văn bản luật được công bố trên hệ thống thông tin pháp luật một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác. Do vậy, việc đăng Công báo phải trở thành một điều kiện bắt buộc để một mặt bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch cho hệ thống văn bản luật, mặt khác nhằm mục đích bảo đảm hệ thống thông tin pháp luật dễ tiếp cận đối với tất cả mọi người từ cán bộ, công chức tới doanh nghiệp và cá nhân.
3.2.2. Nâng cao năng lực lập pháp của các cơ quan tham gia quy trình lập pháp Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Quy trình, công nghệ làm luật dù hiện đại đến đâu cũng phải được vận hành bởi tổ chức, con người cụ thể. Nếu tổ chức, con người cụ thể không tương xứng thì không thể vận hành trơn tru và đem lại hiệu quả như mong muốn.
Nhằm mục đích nâng cao chất lượng công tác lập pháp, yêu cầu cấp thiết hiện nay là tăng cường năng lực hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan “làm luật” chứ không chỉ đơn thuần là xem xét thông qua luật. Yêu cầu chung là Quốc hội phải có đủ năng lực để thảo luận sâu rộng, đề ra những định hướng, yêu cầu cơ bản, lớn thuộc nội dung chính sách để làm cơ sở cho việc xây dựng văn bản luật.
Xuất phát từ đòi hỏi của cuộc sống đổi mới toàn diện đất nước, từ yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và từ những hạn chế, tồn tại của hoạt động lập pháp của Quốc hội, trong thời gian tới Quốc hội cần tăng cường năng lực lập pháp với những giải pháp sau:
- Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp nhằm nâng cao chất lượng văn bản và đẩy nhanh quá trình soạn thảo văn bản luật
Luật là sản phẩm lao động trí tuệ của nhiều cơ quan, cá nhân. Để phát huy dân chủ, thu thập được nhiều ý kiến của nhân dân cần đổi mới việc lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân trước và sau khi soạn thảo dự án luật, sao cho thiết thực, có chất lượng, tránh hình thức. Đồng thời, xây dựng cơ chế đề cao trách nhiệm và phối kết hợp một cách chặt chẽ giữa các khâu, các công đoạn cũng như các chủ thể có thẩm quyền trong soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, cho kiến và thông qua văn bản luật.
Cần quan tâm đến khâu khảo sát thực tế, thu thập thông tin chính xác, khách quan để phản ánh vào trong luật đảm bảo sự phù hợp của luật với thực tiễn khách quan. Bên cạnh đó, Quốc hội nên sớm áp dụng cơ chế Luật sửa nhiều luật để rút ngắn thời gian và bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ cho hệ thống pháp luật;
Phải xác định tính bắt buộc của việc phân tích chính sách trong toàn bộ quy trình xây dựng văn bản luật. Đặc biệt, việc hoạch định chính sách phải được tiến hành trước khi lập chương trình xây dựng văn bản luật nhằm khắc phục tình trạng mặc dù các nghị quyết của Đảng đã đề ra chủ trương, chính sách nhưng quá trình thể chế hoá các chủ trương, chính sách này từ phía cơ quan nước có thẩm quyền bị vướng mắc, bị động, và không kịp thời.
Tập trung công tác soạn thảo dự án luật vào một đầu mối cơ quan là Bộ Tư pháp hoặc một thiết chế khác trực thuộc Chính phủ (gọi chung là cơ quan soạn thảo chuyên trách). Đây là một cơ quan mang tính chuyên môn pháp lý, sử dụng kỹ thuật lập pháp để soạn thảo dự án luật. Việc đổi mới công tác soạn thảo luật như vậy sẽ tăng cường tính chuyên môn hoá cao ở từng khâu, từng công đoạn trong quá trình soạn thảo luật. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Khắc phục tình trạng luật quy định chung chung, lệ thuộc vào văn bản của cấp dưới như hiện nay, Quốc hội cần quy định chi tiết trong luật những lĩnh vực đã ổn định và quan trọng; hạn chế tình trạng uỷ quyền cho Chính phủ quy định chi tiết những quan hệ xã hội còn biến động và những chính sách chưa ổn định;
Cần sớm xây dựng quy trình nội luật hoá các điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết, gia nhập.
- Nâng cao năng lực của các chủ thể tham gia vào hoạt động xây dựng văn bản luật
Thứ nhất: Cần nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào hoạt động soạn thảo luật [21]. Nên lựa chọn thành viên Ban soạn thảo là những người có năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ giỏi trong lĩnh vực mà dự án luật điều chỉnh. Mặt khác, cũng không nên quá coi trọng thành viên Ban soạn thảo phải là những cán bộ có chức vụ tại cơ quan hành chính nhà nước. Bởi nếu thành viên Ban soạn thảo hầu hết là lãnh đạo bộ, ngành hay cán bộ cấp vụ thì trong nhiều trường hợp họ không có thời gian tham gia đầy đủ các cuộc họp, nên họ thường cử các chuyên viên thay mặt tham gia các hoạt động của Ban soạn thảo. Nên chấm dứt tình trạng “hữu danh vô thực” này bằng cách có thể linh hoạt cho phép thành phần Ban soạn thảo gồm các chuyên viên chính. Tuy nhiên, đối với những dự án luật mà việc hoạch định chính sách chưa ổn định, cần phải có tầm nhìn chính sách ở tầm vĩ mô ngay trong giai đoạn soạn thảo, thì vẫn giữ nguyên quy định về việc thành phần Ban soạn thảo phải là cán bộ từ cấp vụ trở lên. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Ngoài ra, sau khi soạn thảo xong thì việc xem xét, đánh giá và chỉnh lý dự thảo là không tránh khỏi nên khi tuyển dụng cán bộ, công chức làm công tác chuyên môn về xây dựng pháp luật trong Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội phải đáp ứng yêu cầu về trình độ, kiến thức pháp lý, nghiệp vụ chuyên môn cao.
Thứ hai: Phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực nghiên cứu, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra; nâng cao trình độ nhận thức về nhà nước và pháp luật, hoàn thiện kỹ năng chuyên môn, tăng cường tính chuyên nghiệp với đội ngũ cán bộ, công chức [21, tr.176]. Đây là yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách để nâng cao chất lượng công tác soạn thảo dự án luật, đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay. Phải thường xuyên tiến hành bồi dưỡng các kiến thức chuyên ngành, kỹ năng xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách, mở các lớp ngắn hạn trong và ngoài nước để bồi dưỡng, tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn nhằm bảo đảm tính khả thi và hiệu lực thực tế của các luật.
Thứ ba: Phải nâng cao trình độ và năng lực thẩm tra dự án luật cho các thành viên của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội [21, tr.179] nhằm nâng cao chất lượng báo cáo thẩm tra dự án luật. Muốn vậy, đa số các thành viên trong Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trực tiếp thực hiện việc thẩm tra dự án luật nên hoạt động chuyên trách. Bởi nếu các thành viên này hoạt động kiêm thì sẽ có những khó khăn nhất định về mặt thời gian, hạn chế về kỹ năng lập pháp do phải thực hiện nhiều công việc một lúc. Ngoài ra, việc thẩm tra các dự án này đòi hỏi phải có kiến thức toàn diện, nhất là kỹ năng so sánh với các văn bản luật trong hệ thống pháp luật đã ban hành. Và trên thực tế không phải các thành viên nào của cơ quan thẩm tra đều có đủ năng lực thẩm tra dự án luật được tốt. Vì vậy cần phải nâng cao năng lực thẩm tra dự án luật cho các thành viên của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.
Thứ tư: Phải nâng cao trách nhiệm của thành viên Chính phủ trong việc soạn thảo dự án luật trong các phiên họp của Chính phủ [21,tr.180]. Vì vậy, cần phải dành thời gian cho các thành viên Chính phủ thảo luận về những nội dung quan trọng của dự án luật.
- Nâng cao năng lực và trình độ làm luật của Quốc hội nói chung, đại biểu Quốc hội nói riêng
Nâng cao năng lực, trình độ làm luật của Quốc hội cũng như của đại biểu Quốc hội bằng cách tăng thêm số lượng các đại biểu chuyên trách, tạo lập cơ chế khuyến khích các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền sáng kiến lập pháp. Ðể thực hiện quyền này, cần đổi mới quan niệm về việc trình kiến nghị dự án luật. Dự án luật mà đại biểu Quốc hội trình ra Quốc hội không nên quan niệm là một đạo luật với nhiều chương, mục và điều, đồ sộ, có nội dung rộng lớn như dự án luật mà Chính phủ trình Quốc hội lâu nay. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Nâng cao năng lực làm luật của đại biểu Quốc hội nói chung và của Đại biểu Quốc hội nữ nói riêng bằng việc tổ chức các cuộc tập huấn, hội thảo khoa học về kinh tế thị trường về kỹ thuật lập pháp, về xây dựng nhà nước pháp quyền, về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực… Mặt khác, cần phải có cơ chế chính sách thu hút các hiệp hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, thẩm định, thẩm tra các dự án luật giúp cho các đại biểu Quốc hội các luận cứ khoa học và thực tiễn để quyết định lựa chọn, chính sách, mô hình pháp lý tối ưu điều chỉnh các quan hệ xã hội khi xem xét, thẩm tra và quyết định thông qua luật.
Tăng cường việc duy trì thường xuyên các hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội (có địa chỉ liên lạc, hộp thư điện tử, tuân thủ quy trình tiếp nhận và trả lời cử tri…) nhằm nâng cao sự hiểu biết thực tiễn cuộc sống để có thể đưa ra các sáng kiến lập pháp và các dự luật phù hợp quyền lợi quốc gia, đáp ứng quyền lợi các cử tri của mình.
Tăng cường số lượng chuyên viên giúp việc cho Quốc hội tại các Vụ của các Uỷ ban và Ban công tác lập pháp nhằm nâng cao chất lượng của văn bản luật;
Đề cao trách nhiệm của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong việc chuẩn bị, thẩm tra dự án luật. Nếu lượng thời gian thảo luận dự án luật tại phiên họp toàn thể của Quốc hội là một, thì thảo luận tại phiên họp thẩm tra nên là bốn.
Đẩy mạnh hoạt động giải thích luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật đòi hỏi phải thực hiện có hiệu quả, ăn khớp, đồng bộ hàng loạt các vấn đề. Trong đó, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm chủ yếu ở hai loại vấn đề mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định. Đó là đóng góp ý kiến của mình khi được lấy ý kiến và suy nghĩ cân nhắc từng điều, khoản, chương, mục để quyết định khi thông qua dự án luật tại kỳ họp của Quốc hội. Đây là hai loại việc có tính chất quyết định cho sự ra đời một đạo luật, vì vậy, đại biểu Quốc hội phải không ngừng nâng cao kiến thức pháp lý và kỹ năng lập pháp; phải ngày càng tinh thông nghiệp vụ và sâu sát cuộc sống thực tế. Có như vậy mới hy vọng nhiệm vụ lập pháp, một nhiệm vụ trọng đại nhất của đại biểu Quốc hội ngày càng hoạt động tốt hơn.
- Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ trong hoạt động xây dựng pháp luật với tư cách là cơ quan trình dự án luật Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Xuất phát từ chức năng của Quốc hội và Chính phủ trong bộ máy nhà nước thông qua mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp và hành pháp ở Việt Nam thì Chính phủ được xem như là chủ thể chính trong việc soạn thảo, trình các dự án luật trước Quốc hội. Vì vậy, các bộ, ngành cần tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết quá trình xây dựng luật trong những nhiệm kỳ Quốc hội trước để phục vụ cho quá trình soạn thảo dự án luật. Nên tạo điều kiện về cơ chế cho phép các bộ, ngành thu hút các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu khoa học, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật.
Tăng cường hoạt động thông tin pháp luật giữa các cơ quan của Quốc hội với các bộ, ban ngành của Chính phủ. Đây là cầu nối để xây dựng có chất lượng các dự án luật. Những thông tin lập pháp của Quốc hội đã có truyền thống qua nhiều khoá Quốc hội sẽ là bài học kinh nghiệm cho công tác lập pháp nói chung và cho các ban soạn thảo nói riêng.
Kiện toàn tổ chức giúp việc cho Chính phủ và các Bộ trong việc soạn thảo các dự án luật. Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật; Nâng cao chất lượng cho ý kiến của Chính phủ vào các dự án luật trước khi đưa trình Quốc hội.
Chương trình xây dựng luật hàng năm của Chính phủ trình Quốc hội phải thật sự khoa học, có trọng điểm, cần xác định một số luật có ý nghĩa then chốt cần tập trung mọi nguồn lực nhằm xây dựng kịp thời, có tính khả thi cao.
Có cơ chế chính sách thu hút các hiệp hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các chuyên gia vào việc nghiên cứu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự án luật. Xây dựng cơ chế phản biện xã hội đối với các dự án luật.
Tăng cường chất lượng các chuyên gia xây dựng pháp luật ở các Bộ, ngành, các cơ quan của Quốc hội. Đặc biệt, cần mở những lớp bồi dưỡng kiến thức (trong và ngoài nước) về xây dựng và hoạch định chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản luật bằng một chương trình giáo khoa hoặc tài liệu hiện đại, tiên tiến.
3.2.3. Giải pháp về tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc hoạch định, đường lối chính sách xây dựng văn bản luật
Điều 4 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [27].
Như vậy, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách và pháp luật là công cụ để thể chế hoá cụ thể những đường lối, chính sách đó vào cuộc sống một cách có hiệu quả đó. Đặc biệt, trong quy trình xây dựng chính sách pháp luật trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Ngoài ra, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định mục tiêu:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 [2]. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Như vậy, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng đảm bảo cho các quá trình lập pháp, lập quy hoạch, kế hoạch, chính sách của Nhà nước thể hiện đúng tư tưởng, quan điểm của Đảng. Hơn nữa, Đảng đưa ra các quan điểm, nguyên tắc và phương hướng chỉ đạo việc tổ chức bộ máy nhà nước, xem xét góp ý về các đề xuất của Nhà nước để Nhà nước quyết định.
Vì vậy, khi các cơ quan và chủ thể có thẩm quyền tiến hành lập dự kiến xây dựng luật, tiến hành soạn thảo dự án luật để trình Chính phủ phải căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, phát triển ngành, lĩnh vực; thực trạng của các quan hệ kinh tế – xã hội để làm rõ sự cần thiết phải xây dựng luật mới để điều chỉnh quan hệ xã hội đó.
Đảng chỉ đạo xây dựng pháp luật như sau: Một là, Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội (từng năm và cả nhiệm kỳ) và chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ, cần xác định một số lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt, tạo sức bứt phá đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn để ưu tiên tập trung nguồn lực nhằm xây dựng và ban hành kịp thời các luật, bộ luật có tính khả thi cao.
Các bộ, ngành cần ưu tiên xây dựng thể chế trong lĩnh vực do bộ, ngành mình quản lý cho phù hợp với định hướng của chiến lược này. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Hai là, Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến pháp luật đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật. Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Các dự án luật chỉ được xem xét thông qua khi có giải trình rõ ràng về cơ chế, biện pháp, các nguồn lực bảo đảm tổ chức thực hiện. Sớm triển khai phương thức ban hành một luật để sửa đổi nhiều đạo luật liên quan. Xác định rõ quy trình, cơ chế “nội luật hoá ” các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Ba là, Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội. Tăng hợp lý tỷ lệ đại biểu chuyên trách, có trình độ, hiểu biết về pháp luật; xác lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền sáng kiến pháp luật của đại biểu Quốc hội; phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong việc chuẩn bị, thẩm tra dự án luật. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn cách thức thảo luận, thông qua luật.
Bốn là, Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật. Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản luật nói riêng.
Năm là, Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác, ứng dụng tối đa thành tựu của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của quy trình xây dựng pháp luật. Xây dựng và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.
Sáu là, Hoàn thiện pháp luật về Công báo, bảo đảm tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, văn bản hành chính có hiệu lực áp dụng chung đều được công bố trên Công báo một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
3.2.4. Giải pháp về tăng cường sự tham gia của các nhà khoa học, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia vào quy trình xây dựng văn bản luật
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức từ các nhà quản lý, hoạch định chính sách về tính khoa học (cơ sở lý luận, tính khả thi, dự báo hiệu quả kinh tế – xã hội..) của một dự án, dự thảo văn bản luật bằng việc thu hút sự tham gia của giới khoa học vào quá trình soạn thảo. Do vậy, cần có “thị trường” cho họ. Đối với việc xây dựng văn bản luật, các chủ thể xây dựng pháp luật cần “trải thảm đỏ” cho các nhà khoa học tham gia; cần xây dựng cơ chế huy động sự tham gia tích cực của các chuyên gia, nhà khoa học vào công tác xây dựng luật, tăng cường năng lực của bộ máy giúp việc của Quốc hội trong công tác lập pháp. Trong quá trình soạn thảo, thông qua luật có những vấn đề gì còn có những quan điểm khác nhau giữa các cơ quan nên có thảo luận, phản biện thật sự khoa học, khách quan, tránh quan niệm cho rằng, theo “thẩm quyền của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội” thì cứ ban hành mà không hỏi ý kiến các cơ quan chủ trì soạn thảo luật, dẫn đến khó triển khai quy định cụ thể trong thực tiễn được, cần có phản biện khoa học về các vấn đề quan trọng trong nội dung dự thảo; tổ chức các cuộc hội thảo về các nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy phạm pháp luật để thống nhất các nội dung trong dự thảo. Mặt khác, nên đa dạng hoá các hình thức tham gia của các nhà khoa học vào quá trình xây dựng văn bản luật (trực tiếp, gián tiếp) trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc ký hợp đồng với các nhà khoa học; thậm chí “đấu thầu” đối với một số dự thảo liên quan trực tiếp đến hoạt động của các nhà khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Bên cạnh đó, cần phải có thước đo, tiêu chí cho từng công trình khoa học khi áp dụng cho các dự thảo văn bản luật (đặc biệt là các các dự thảo mang tính kỹ thuật cao, tính nhân văn lớn…); xây dựng cơ chế tài chính phù hợp với sức lao động của các nhà khoa học khi tham gia các hình thức xây dựng văn bản luật.
Thứ hai, cần tổ chức lấy ý kiến lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân ngay từ giai đoạn soạn thảo. Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình. Nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình bằng cách tham gia vào công việc của Nhà nước, trong đó có việc tham gia ý kiến vào quá trình xây dựng các văn bản luật. Nếu kết quả lấy ý kiến phù hợp với tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của đa số quần chúng nhân dân thì văn bản luật sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống. Ngược lại, nếu văn bản luật không phù hợp với lợi ích của một số nhóm nhỏ trong xã hội thì quy trình lấy ý kiến văn bản luật cũng chính là cơ hội để các cơ quan có thẩm quyền có những biện pháp tuyên truyền để người dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm với cộng đồng, xã hội. Từ đó, tránh được hiện tượng một bộ phận nhỏ người dân phản ứng khi lợi ích của họ bị ảnh hưởng dưới tác động của văn bản.
Thứ ba, cần có cơ chế bắt buộc để các nhà hoạch định chính sách phải tiếp thu các ý kiến đóng góp của người dân, xã hội, nhất là của những đối tượng bị điều chỉnh, để văn bản luật sát với thực tế, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của văn bản luật được ban hành. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Thứ tư, tiến tới xây dựng một đạo luật về phản biện xã hội (trong đó có phản biện khoa học) đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật trong việc xây dựng văn bản luật
Quy trình xây dựng văn bản luật bao gồm nhiều giai đoạn với nhiều hoạt động khác nhau. Và để giúp các cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các công việc nhằm nâng cao chất lượng văn bản luật thì Nhà nước cần phải bảo đảm đủ, kịp thời nguồn lực tài chính phục vụ cho các hoạt động sau: hoạt động nghiên cứu xây dựng văn bản luật, lập dự kiến, đánh giá tác động của văn bản luật; hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển quan hệ xã hội mà các bộ, ngành dự kiến xây dựng văn bản điều chỉnh; đánh giá tác động của quan hệ xã hội đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, dự báo xu hướng phát triển của quan hệ xã hội; đánh giá thực trạng thi hành pháp luật đối với ngành, lĩnh vực cần được xem xét để sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng luật có giá trị pháp lý cao hơn; hoạt động soạn thảo, thẩm định, cho việc tiến hành khảo sát, điều tra phục vụ công việc soạn thảo, thẩm tra, và tổ chức lấy ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học về dự kiến xây dựng luật; thu thập, sưu tầm tài liệu trong nước, ngoài nước; khảo sát thực tế trong nước, kinh nghiệm nước ngoài để có đủ cơ sở thuyết minh về việc xây dựng văn bản luật; kinh phí phục vụ việc ứng dụng tin học trong công tác quản lý việc đăng ký và thực hiện chương trình xây dựng văn bản luật; các hoạt động khác phục vụ lập dự kiến chương trình xây dựng luật… và hằng năm, Chính phủ cần dự toán một khoản ngân sách hợp lý cho việc xây dựng văn bản luật trình Quốc hội quyết định. Cần có cơ chế tài chính hữu hiệu để công tác xây dựng văn bản có hiệu quả hơn, nếu được thí điểm một vài văn bản được xây dựng dưới hình thức “đấu thầu” thì chất lượng sẽ khả quan hơn, nên có thí điểm và nhân rộng trong quá trình xây dựng văn bản luật.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế cấp phát kinh phí cho hoạt động xây dựng văn bản luật theo hướng coi việc chi cho hoạt động này là cho cho “đầu tư phát triển” phải được dự toán hằng năm và mục chi thường xuyên của các thiết chế này; phải được Quốc hội cũng như các cơ quan có thẩm quyền quyết định theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Mặt khác, cần tích cực đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, soạn thảo, thẩm tra, thẩm định, lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo, [21, tr.184]… Bảo đảm việc cung ứng đầy đủ các trang thiết bị, phương tiện làm việc cần thiết cho cán bộ là công tác xây dựng văn bản luật.
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài về quy trình xây dựng văn bản luật Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, tất yếu trong sự phát triển hiện nay, nó lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, nó làm cho các quốc gia có sự liên kết chặt chẽ và tuỳ thuộc vào nhau nhiều hơn. Toàn cầu hoá đã tạo ta nhiều cơ hội cho sự phát triển, hội nhập của các nước nhưng cũng gây ra không ít những thách thức, khó khăn cho các nước nhất là đối với các nước nghèo, các nước đang phát triển như Việt Nam.
Với tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước khác” những năm qua hệ thống pháp luật nước ta đã có nhiều đổi mới theo xu hướng hội nhập, phù hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho sự hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau, hợp tác với nhau giữa các quốc gia, các dân tộc trên nguyên tắc các bên cùng có lợi đáp ứng nguyện vọng của nhân dân ta, nhân dân trong khu vực và nhân dân thế giới nói chung vì một thế giới hoà bình, hữu nghị và phát triển. Vì vậy, trong thời gian tới, công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội cần làm tốt những biện pháp sau:
Thứ nhất: Tăng cường sự tham gia của các cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật vào các dự án hợp tác nước ngoài về pháp luật phù hợp với các mục tiêu của các dự án như: hoạt động nghiên cứu pháp luật so sánh, các hội nghị, hội thảo, toạ đàm quốc tế về chương trình xây dựng luật nhằm trao đổi và chia sẻ các sản phẩm, kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ hợp tác pháp luật với nước ngoài.
Thứ hai: Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, nghiên cứu khoa học pháp lý của các nước nhằm xây dựng hệ thống pháp luật có đủ khả năng thúc đẩy, định hướng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thực hiện tốt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phát huy được vai trò và tiềm năng của đất nước, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba: Tăng cường hơn nữa việc đưa cán bộ, công chức hoạt động trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ra nghiên cứu, học tập tại nước ngoài về công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm nâng cao kỹ thuật lập pháp, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Thứ tư: Nội địa hoá một số quy định của các công ước viên và hiệp định quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết vào hệ thống pháp luật Việt Nam; Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
3.2.7. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện những quy định pháp luật về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện những quy định pháp luật về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian qua chưa được coi trọng và tiến hành không thường xuyên làm cho số lượng văn bản được ban hành có nội dung sai trái, hình thức và thủ tục không tuân thủ theo quy định của pháp luật tồn tại nhiều trên thực tế, đang là mối quan tâm giải quyết của nhiều cấp, nhiều ngành. Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với văn bản quy phạm pháp luật còn rất hạn chế, số lượng văn bản mà Quốc hội ban hành và các cơ quan của Quốc hội phát hiện những sai trái và bãi bỏ không nhiều. Ngay cả những văn quy phạm pháp luật do Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành vẫn có sự sai trái nhất định.
Như vậy, để xử lý những văn bản có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo cần phải thực hiện tốt cơ chế giám sát việc xây dựng văn bản luật. Trước tiên tổ chức thực hiện tốt Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XI.
Thiết lập hệ thống cơ quan kiểm tra văn bản theo hướng cần sớm thành lập đơn vị chuyên trách về kiểm tra văn bản thuộc Bộ Tư pháp. Đơn vị này có nhiệm vụ giúp Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước thống nhất về kiểm tra văn bản và tổ chức kiểm tra theo thẩm quyền của Bộ Tư pháp. Việc thành lập đơn vị kiểm tra văn bản độc lập là cần thiết vì nếu giao cho các Vụ chuyên môn của Bộ Tư pháp đảm nhiệm công tác này giống như công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật như hiện nay sẽ không phù hợp. Bên cạnh đó nên kiện toàn tổ chức pháp chế Bộ, ngành trong đó hình thành bộ phận kiểm tra văn bản giúp Bộ trưởng. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có trình độ, năng lực, được đào tạo theo từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể vì người kiểm tra văn bản không chỉ cần có kiến thức pháp lý vững vàng mà còn đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn của lĩnh vực cần kiểm tra.
Bảo đảm nguồn văn bản, thông tin kịp thời cho việc kiểm tra. Để đảm bảo cho công tác kiểm tra văn bản luật được thuận lợi, việc thu thập, cập nhật và xử lý các thông tin liên quan đến văn bản được kiểm tra có ý nghĩa quan trọng. Theo đó người làm công tác này cần được tạo điều kiện để sử dụng nguồn văn bản, thông tin trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cần xác định rõ trách nhiệm của cơ quan trong quá trình soạn thảo, thẩm tra, thẩm định, ban hành văn bản luật phải gửi văn bản đó đến cơ quan có thẩm quyền kiểm tra. Đồng thời phải quy định rõ trong Nghị định về kiểm tra văn bản về thời hạn gửi văn bản, nơi văn bản gửi đến…
Bảo đảm nguồn kinh phí cho hoạt động giám sát, kiểm tra văn bản luật.
3.2.8. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những vi phạm pháp luật về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Thời gian qua, những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã diễn ra khá phổ biến. Sau khi rà soát, kiểm tra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phát hiện được nhiều văn bản luật có sự sai phạm về nội dung, hình thức mà nguyên nhân là do ngay trong quy trình xây dựng văn bản luật, các chủ thể không tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: không tiến hành khảo sát tình hình thực tế trong quá trình soạn dự thảo; không qua thủ tục thẩm định, thẩm tra của cơ quan tư pháp… Hiện nay, chưa có biện pháp nào được áp dụng để xử lý trường hợp này. Vấn đề đặt ra là, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì ai có thẩm quyền xử lý? Và xử lý bằng cách nào? Để tạo điều kiện cho việc xây dựng văn bản luật trong thời gian tới cần bổ sung cơ chế kiểm tra và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động này vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong thời gian tới Quốc hội cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần quy định và phân biệt rõ từng biện pháp xử lý với nội dung sai phạm nào thì áp dụng biện pháp huỷ bỏ, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, thay thế, đình chỉ, tạm đình chỉ.
Thứ hai: Cần có cơ chế phản hồi, công khai về việc xử lý văn bản luật sai trái nhất là cho cơ quan kiểm tra văn bản cũng như đối tượng thi hành văn bản. Biện pháp này nhằm khắc phục tình trạng cơ quan kiểm tra văn bản đề nghị cơ quan ban hành văn bản luật xử lý nhưng nhiều khi xử lý hay không, xử lý bằng cách nào cơ quan kiểm tra không biết được dẫn tới hiệu quả của việc xử lý không cao. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Thứ ba: Quy định rõ trách nhiệm của chủ thể ban hành những văn bản luật sai trái, rằng buộc họ bằng một biện pháp chế tài nhất định để khắc phục tình trạng ban hành văn bản luật có nội dung bất hợp pháp, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, thủ tục không tuân theo quy định của pháp luật…
Thứ tư: Tại điều khoản cuối cùng của mỗi văn bản luật mới ban hành cần liệt kê chi tiết những điểm, khoản, điều, chương hay cả văn bản quy phạm pháp luật khác bị văn bản này bãi bỏ nhằm khắc phục thói quen “những văn bản nào trái với văn bản này đều bị bãi bỏ”.
Như vậy, việc xử lý văn bản luật sai trái là vấn đề hết sức phức tạp trên thực tế, nó liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, khi đã phát hiện văn bản luật sai trái thì cần phải xử lý nghiêm minh, kịp thời mới tạo ra được hệ thống pháp luật hoàn thiện, thống nhất. Có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm và sự thận trọng của các cơ quan nhà nước đồng thời đảm bảo nguyên tắc pháp chế.
3.2.9. Một số kiến nghị khác
Việc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay đồng nghĩa với yêu cầu phải xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ. Để thực hiện tốt công tác xây dựng pháp luật cũng như công tác tư pháp chúng ta cần phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là công tác pháp luật. Đặc biệt, trong thời gian tới đòi hỏi chúng ta không chỉ phát triển một đội ngũ “chuyên viên pháp lý thuần tuý” mà cần phải có một định hướng lâu dài, một chiến lược dài hạn để xây dựng và phát triển đội ngũ công chức chuyên sâu công tác xây dựng pháp luật trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề.
Bên cạnh đó, các trường đào tạo luật phải đưa lý thuyết và kỹ năng lập pháp thành một môn học độc lập nhằm trang bị những vấn đề cơ bản lý luận và kỹ năng soạn thảo văn bản luật cho các nhà làm luật sau này.
Ngoài ra, các viện nghiên cứu về chính sách, pháp luật cần mở nhiều các lớp tập huấn, hội thảo trao đổi khoa học về lý thuyết và kỹ năng lập pháp cho các cán bộ đang trực tiếp làm công tác xây dựng pháp luật.
Kết luận chương 3: Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Văn bản luật nói riêng và văn bản quy phạm pháp luật nói chung đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Để tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi hỏi hệ thống pháp luật Việt Nam phải hoàn chỉnh, toàn diện. Có nghĩa là văn bản được ban hành phải có nội dung phù hợp với đường lối chính sách của Đảng; phù với nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân; phù hợp với tự do tín ngưỡng, phong tục tập quán, truyền thống văn hoá, đạo đức của dân tộc; Đặc biệt là phải phù hợp với sự vận động và phát triển kinh tế xã hội đất nước tại thời điểm văn bản đó ra đời. Tức là văn bản đó vừa hợp pháp vừa phải hợp lý thì tính khả thi trong thực tiễn cuộc sống mới đạt hiệu quả cao. Đồng thời văn bản đó còn phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng hình thức và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật, thể hiện được kỹ thuật lập pháp ở trình độ cao.
Tuy nhiên thực tế hiện nay vẫn còn rất nhiều văn bản luật chưa thoả mãn các cầu đó. Vì vậy, chúng ta cần có những giải pháp khắc phục khiếm khuyết của văn bản bằng cách: Tuân thủ đúng quy định pháp luật về xây dựng văn bản, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho các chủ thể có thẩm quyền trong cả quy trình xây dựng văn bản luật; đầu tư kinh phí kịp thời và phù hợp hơn cho công tác xây dựng văn bản luật; xử lý nghiêm minh, kịp thời những văn bản có dấu hiệu sai phạm… để hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn chỉnh, thống nhất hơn, toàn diện hơn và phát huy tốt vai trò của pháp luật là công cụ đắc lực để Nhà nước quản lý xã hội.
KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện và tổ chức thực hiện việc tuân thủ nghiêm chỉnh hệ thống pháp luật đó trong đời sống nhà nước và xã hội là một trong những nhiệm vụ trung tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang tiến hành ở nước ta. Vì vậy, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản luật của Quốc hội luôn luôn được đề cao, không ngừng đổi mới nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, hoạt động lập pháp là hoạt động khá phức tạp, mang tính sáng tạo cao, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, kinh phí và nhất là cán bộ phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao về soạn thảo văn bản, vì đối tượng điều chỉnh của pháp luật luôn luôn biến đổi. Nên phạm vi nhận thức được sự vận động và biến đổi đó để phản ánh nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội vào nội dung văn bản là hết sức khó khăn. Từ đó càng khẳng định hoạt động xây dựng văn bản luật của Quốc hội là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần được nghiên cứu, nhằm phục vụ công việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu đề tài “Quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam hiện nay”, tác giả rút ra một số kết luận sau:
Hoạt động xây dựng văn bản luật được Đảng và Nhà nước ta quan tâm kể từ khi đất nước tiến hành chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhất là kể từ khi nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua thời một thời gian thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm năm 2008, số lượng văn bản luật ngày càng được ban hành nhiều và điều chỉnh rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, quy trình xây dựng văn bản luật vẫn còn tồn tại một số hạn chế khiến cho luật ban hành ra khó áp dụng trong thực tiễn, nhiều luật khung, luật ống, chất lượng văn bản luật chưa cao nên thường xuyên sửa đổi, bổ sung.
Để hoàn thiện quy trình xây dựng văn bản luật đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế, luận văn đã tập trung nghiên cứu sâu từng thủ tục trong quá trình xây dựng văn bản luật; đánh giá một cách đúng đắn và toàn diện thực trạng xây dựng văn bản luật của Quốc hội Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp một phần nhỏ cho các nhà làm luật xem xét, tham khảo cho việc xây dựng văn bản luật trong thời gian tới. Luận văn: Giải pháp quy trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com