Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút khách Israel đến Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Cơ  sở cho các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút khách Israel đến Việt Nam

3.1.1. Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Israel

Năm 1946, ngài David Ben-Gurion sau này là  thủ tướng của Nhà nước Israel và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở tại cùng một khách sạn ở Paris và họ đã có những mối liên hệ bạn bè. Hồ Chí Minh đã mời Ben Gurion đến Việt Nam sống tại Việt Nam trong thời gian chờ ngày phục quốc. Ngài Ben Gurion đã từ chối và nói với Hồ Chí Minh: “Tôi chắc chắn chúng tôi sẽ thành lập được một Chính phủ Do Thái ở Palestine”.

Việt Nam và Israel đã thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12 tháng 7 năm 1993. Israel đã mở đại sứ quán tại Hà Nội tháng 12 năm 1993. Tuy nhiên đến ngày 8 tháng 7 năm 2009 thì Việt Nam mới có Đại sứ quán tại thủ đô Tel Aviv.  Trước đó, Đại sức quán Việt Nam tại Ai Cập làm công tác kiêm nhiệm sứ quán và lãnh sự của Việt Nam tại khu vực Trung Đông.

Từ khi thiết lập mối quan hệ ngoại giao cấp nhà nước, hai nước Việt Nam và Israel đã thường xuyên có những chuyến thăm lẫn nhau ở nhiều cấp và đã củng cố sự hợp tác trên các lĩnh vực như thương mại, giáo dục, văn hóa, nông nghiệp và hợp tác kỹ thuật. Những chuyến thăm của chính phủ Israel sang Việt Nam thường đưa theo nhiều đoàn các doanh nhân, các học giả, nhà báo, nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhân viên pháp lý chứng tỏ nhà nước Israel rất muốn có sự hợp tác toàn diện với nước ta.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

3.1.2. Tiềm năng quan hệ thương mại Việt Nam – Israel Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam và Israel được thành lập theo Nghị định thư thành lập Ủy ban Liên chính phủ Việt Nam – Israel (4/2013)  đặt ra mục tiêu thúc đẩy giá trị trao đổi thương mại hai chiều lên 2 tỉ USD vào năm 2016 và tiếp tục tham vấn lẫn nhau về hiệp định thương mại tự do song phương FTA, cùng nhau xây dựng cơ chế phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp đôi bên hợp tác chặt chẽ hơn trong việc sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo. Năm 2009, hai nước đã có một số thỏa thuận được ký kết trên lĩnh vực kinh tế và thương mại như: Hiệp định khung hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật, nông nghiệp và thương mại (1996); Hiệp định hợp tác du lịch (1996); Hiệp định hợp tác nông nghiệp (1997); Tháng 8 năm 2004, Israel và Việt Nam đã ký kết Hiệp định Hợp tác Kinh tế và Thương mại, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho thương mại tiếp tục phát triển.; Hiệp định hợp tác vận tải hàng không. (Tháng 6/2007); Nghị định thư hợp tác tài chính giữa Israel và Việt Nam (2007); Hiệp định bổ sung cho Nghị định thư hợp tác tài chính (tháng 10/2007) trị giá 150 triệu USD); Hiệp định bổ sung tài chính (11/2011) trị giá 100 triệu USD) cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác kinh doanh với các đối tác Israel; Hiệp định miễn thị thực cho hộ chiếu ngoại giao và công vụ (2009); Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và chống trốn thuế đối với thuế thu nhập và tài sản; Bản Ghi nhớ giữa hai Bộ KH & CN về hợp tác nghiên cứu khoa học và công nghệ (2009); Thỏa thuận về bảo mật thông tin giữa hai Bộ Quốc phòng, Hiệp định bổ sung tài chính; Hiệp định vận tải biển, Văn bản bổ sung Nghị định thư hợp tác Tài chính và Văn kiện hợp tác về Vận tải Biển 2010, 2011; Thoả thuận hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Liên đoàn các Phòng Thương mại và Liên đoàn các Tổ chức Kinh tế Israel (2011); Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực thú y và kiểm dịch động vật (5/2012-Việt Nam đã phê duyệt); Nghị định thư thành lập Ủy ban Liên chính phủ Việt Nam – Israel (4/2013)

Năm 2013, theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam và nguồn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Israel đạt 605,3 triệu USD, tăng 38,15%. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel đạt 400.6 triệu USD, tăng 43,45%, nhập khẩu từ Israel đạt 204,7 triệu USD, tăng 28,84% so với cùng kỳ năm trước. Hai bên đặt ra mục tiêu thúc đẩy giá trị trao đổi thương mại hai chiều lên 2 tỉ USD vào năm 2016.

3.1.3. Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường khách du lịch Israel của du lịch Việt Nam

Mặc dù hiện nay Israel chưa phải là thị trường gửi khách quốc tế hàng đầu đến Việt Nam, tuy nhiên trong vài năm gần đây các doanh nghiệp lữ hành cũng như khách sạn đang xem đây là thị trường đầy tiềm năng .

Đối với việc tiếp đón khách du lịch Israel, có một thuận lợi rất lớn đó là hầu hết các đoàn khách du lịch Israel đều có thể sử dụng hướng dẫn viên tiếng Anh vì tiếng Anh được coi là ngôn ngữ thứ hai tại Israel. Như vậy đối với một thị trường khá mới, giàu tiềm năng như Israel chúng ta không phải chuẩn bị nguồn lực hướng dẫn viên như đối với các thị trường khác như Nhật, Nga…

Về các địa điểm lưu trú, theo số liệu của Tổng cục Du lịch Việt Nam năm 2015 tại Việt Nam hiện có hơn 18.000 cơ sở lưu trú với hợn 355.000 phòng trong đó có 79 khách sạn 5 sao, 194 khách sạn 4 sao, 395 khách sạn 3 sao và các loại khác từ 2 sao trở xuống. Với số lượng khách sạn trên, cùng với việc phục vụ các nguồn khách quốc tịch khác, có thể đủ điều kiện để phục vụ khách Israel bởi khách Israel cũng thường lựa chọn các điểm đến phổ biến trong các chương trình du lịch truyền thống. khách du lịch Israel nói chung trong đó bao gồm các nhóm khách có khả năng chi trả cao và nhóm khách du lịch tự do đều có những sở thích đối với một số điểm nhất định tại Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng người Israel khá bảo thủ khi lựa chọn các điểm du lịch. Họ thường dựa theo kinh nghiệm của người khác truyền lại. Các địa điểm như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hạ

Long, Sapa, Đà Nẵng, Hội An, Huế, Cần Thơ đều có cơ sở vật chất phục vụ ăn nghỉ cho khách Israel tốt. Có nhược điểm là tại các điểm du lịch phổ biến cho khách Israel như Hạ Long, Sapa, Cần Thơ, Châu Đốc, chưa có khách sạn xếp hạng 5 sao hoặc theo tiêu chuẩn cao cấp của quốc tế. Hiện tại các thành phố Sapa, Cần Thơ, Châu Đốc chỉ có các khách sạn 4 sao của hệ thống khách sạn Victoria là có thể phục vụ được phân nhóm thị trường khách cao cấp Israel. Hội An cũng chỉ có 1 khách sạn xếp hạng 5 sao là Golden Sand Resort tuy nhiên theo đánh giá của khách thì khách sạn này cũng tương tự như hệ thống Victoria. Tại Bắc Hà (Lào Cai), một điểm du lịch rất được khách Israel ưa thích lại chỉ có một khách sạn tiêu chuẩn 3 sao và các nhà nghỉ. Du lịch qua Bắc Hà thăm thường phải vòng về Sapa nghỉ đêm. Tại Hạ Long, chỉ có khách sạn Novotel Hạ Long tiêu chuẩn 4 sao của tập đoàn khách sạn quốc tế Accor là đủ năng lực phục vụ khách cao cấp Israel.

Đối với một số tuyến du lịch phổ biến trong các lựa chọn du lịch của khách du lịch Israel thì Hà Nội – Sapa là tuyến du lịch được ưa thích nhất mặc du trước đây tuyến đường sắt chạy ban đêm Hà Nội – Lào Cai không được khách Israel đánh giá cao. Hiện nay tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai đã được đưa vào sử dụng khiến các hãng lữ hành trong nước và quốc tế có thêm lựa chọn cho khách khi chào các chương trình Sapa, Bắc Hà mà không phải lo lắng vấn đề đặt chỗ tàu hỏa hoặc các bất cập trên các chuyến tàu đêm. Thời gian đi lại cũng rút ngắn hơn rất nhiều. Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Hệ thống các nhà hàng phục vụ khách du lịch quốc tế nói chung đều có thể phục vụ được khách Israel. Tại một số địa phương, các nhà hàng và khách sạn thường có xu hướng nhầm khách Israel với khách Hồi giao nên cho rằng việc ăn uống của khách Israel cũng rất khó khăn. Tuy nhiên khách du lịch Israel cũng khá thoải mái trong việc ăn uống trừ một số lưu ý đặc biệt vào những ngày lễ đặc biệt. Tại Việt Nam hiện nay đã có 2 nhà Chabad – nơi sinh hoạt tôn giáo và ẩm thực cho người Israel theo đạo Do Thái. Một ở thành phố Hồ Chí Minh và một ở thành phố Hà Nội. Có thể nói việc hoạt động của hai Chabad này tạo điều kiện rất thuận lợi cho khách Israel mộ đạo trong những dịp lễ trọng của người Do thái khi vấn đề theo giới luật ẩm thực và cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ điều gì khác.

Về các thủ tục xuất nhập cảnh, mặc dù khách du lịch Israel không được miễn thị thực nhập cảnh nhưng cơ quan quản lý xuất nhập cảnh của Việt Nam cũng không có phân biệt lớn đối với thị trường khách này. Vì Israel nằm trong khu vực Trung Đông – khu vực tập trung chủ yếu là các nước Hồi Giáo và dân số Israel cũng có một bộ phận người theo đạo Hồi nên khách mang quốc tích Israel thường cũng được quan tâm đặc biệt hơn. Tuy nhiên khách Israel lại có một số thuận lợi hơn – nhất là đối với nhóm khách lớn tuổi vì họ thường được mang nhiều hơn một quốc tịch, phổ biến là mang theo hộ chiếu Mỹ, Nga, Ba Lan. Vì vậy nhóm khách này được nằm trong diện miễn thị thực nếu mang hộ chiếu Nga hoặc trong các nước thuộc diện được miễn thị thực khi vào Việt Nam. Đối với công dân Israel có mang hộ chiếu ngoại giao được miễn thị thực nếu ở Việt Nam không quá 90 ngày kể từ ngày nhập cảnh.

3.2. Giải pháp thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam

3.2.1. Giải pháp về cơ chế chính sách.

Thông qua cơ chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch, Tổng cục Du lịch và Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cần tăng cường phối hợp liên ngành nhằm giải quyết những vướng mắc liên quan đến chính sách, pháp luật của nhà nước về thị trường khách du lịch Israel nói riêng và thị trường khách quốc tế nói chung; cải tiến quy trình cấp visa tại cửa khẩu, hướng tới việc khách du lịch có thể xin cấp và được cấp visa ngay tại cửa khẩu hoặc visa trực tuyến (E-visa), xây dựng lộ trình miễn visa cho công dân có hộ chiếu Israel vào Việt Nam. Cần phát huy những điểm mạnh của du lịch Việt Nam như sự ổn định chính trị, sự thân thiện, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp, khu du lịch biển trải dài cả nước đặc trưng của miền nhiệt đới, bản sắc văn hóa đa dạng đầy màu sắc, nền ẩm thực độc đáo, lịch sử nghìn năm, các di sản thế giới được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) vinh danh. Đồng thời cũng hạn chế các nhược điểm cần khắc phục như hạ tầng kém, công trình kiến trúc không được bảo tồn tốt, các dịch vụ phụ trợ như dịch vụ y tế cho khách du lịch còn rất non kém. Không có sự đột phá mới về sản phẩm du lịch. Tất cả những yêu cầu trên cần phải có một chính sách đồng bộ, xuyên suốt và có hiệu quả nhằm quản lý, khai thác tốt và phát triển bền vững nguồn tài nguyên cùng các thế mạnh của du lịch Việt Nam đối với khách du lịch nói chung và khách Israel nói riêng. Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Trên cơ sở các cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với du lịch và khách du lịch đã và đang tạo đà cho phát triển, cần phải có sự phối hợp với các doanh nghiệp du lịch, các hãng hàng không và các cơ quan truyền thông trong nước thông tin rõ ràng về chính sách mở cửa và các quy định về xuất nhập cảnh của Việt Nam đối với du khách Israel.

Việt Nam cũng cần phải phối hợp với Thái Lan, Lào và Căm-pu-chia và Myanmar để khách du lịch Israel đến các nước này đi du lịch chuyển tiếp đến Việt Nam hoặc ngược lại hình thành lợi ích trao đổi. Cần xây dựng các sản phẩm liên hợp tiếp nối chuyến và có cơ chế chính sách tốt cho các chương trình du lịch liên kết ba nước Đông Dương.

Phối hợp với Cục Xuất nhập cảnh (Bộ Công an), đặc biệt là bộ phận lưu trữ thông tin về công dân nước ngoài vào Việt Nam để có thông tin đầy đủ, chính xác về lứa tuổi, nghề nghiệp, mục đích, điểm đến của khách du lịch Israel đến Việt Nam, từ đó có thể đánh giá đầy đủ về thị trường mới và đầy tiềm năng này từ đó có chương trình hành động phù hợp nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển nguồn khách.

Phối hợp với Vietnam Airlines và các hãng hàng không liên kết như El Ah Airlines (Isrsel), Thai Airways (Thái Lan) tìm hiểu sâu hơn về các xu hướng của thị trường khách du lịch Israel kết hợp và hỗ trợ lẫn nhau tổ chức các sự kiện xúc tiến quảng bá quy mô vùng và quốc tế nhằm tiết kiệm chi phí và đạt hiệu quả.

Phối hợp với cơ quan du lịch quốc gia Israel, Bộ Ngoại giao Israel và các cơ quan hợp tác kinh tế khoa học kỹ thuật của hai nước để tổ chức các hoạt động giới thiệu hình ảnh con người và đất nước Việt Nam tại Israel.

Nghiên cứu khả năng thành lập Văn phòng Đại diện Du lịch Việt Nam tại khu vực Trung Đông giai đoạn 2020-2030 nhằm tiếp cận thị trường du lịch Israel nói riêng và Trung Đông nói chung.

3.2.2. Giải pháp marketing Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

3.2.2.1. Giải pháp về phát triển sản phẩm du lịch

Các lợi thế và ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam hiện nay (du lịch biển đảo, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch sinh thái phù hợp với thị hiếu du lịch của khách du lịch Israel. Về loại hình cụ thể, nên tập trung sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển nhiệt đới cao cấp gắn với các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới cùng với văn hóa địa phương. Đây là loạt sản phẩm mà người Israel – đặc biệt là phân khúc thị trường cao cấp quan tâm vì họ vừa có như cầu thưởng thức dịch vụ cao cấp, vừa được tìm hiểu văn hóa địa phương và trải nghiệm khí hậu nhiệt đới ẩm độc đáo mà tại Israel không có.  Như vậy, cả 03 miền của Việt Nam đều có một hay nhiều sản phẩm có thể kết hợp được thành chương trình du lịch cho khách Israel. Sản phẩm du lịch cụ thể cần ưu tiên như sau:

Các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển hướng đến đối tượng người cao tuổi và khách trẻ tuổi đi tuần trăng mật ở khu vực Nam Trung bộ – từ Đà Nẵng đến Bình Thuận. Ngoài ra cũng phải kể đến đảo đảo Phú Quốc và Côn Đảo là hai đảo rất thích hợp cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển cho thị trường Israel. Thời gian nên tập trung vào khoảng tháng 1 đến 3 do thời tiết ở khu vực này ấm áp trong khi ở Israel thời gian này là mùa lạnh nhất, công dân Israel đi du lịch nhiều.  Thời điểm này cũng là thời điểm tập trung nhiều lễ hội truyền thống tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Các sản phẩm phụ trợ bao gồm du lịch văn hóa ở Huế, Hội An; du lịch sông nước ở đồng bằng sông Cửu Long, văn hóa tôn giao ở Tây ninh, Củ Chi, các di tích lịch sử, văn hóa và thiên nhiên ở Hà Nội, Hạ Long, Sa Pa, Bắc Hà. Thời gian lưu trú khoảng 14 ngày, trong đó có 6 – 8 ngày ở miền Trung, Côn Đảo hoặc Phú Quốc, thời gian còn lại ở miền Bắc và miền Nam. Vấn đề đặt ra chính là thách thức trong việc cạnh tranh với điểm đến Thái Lan trong việc xây dựng sản phẩm du lịch biển đảo với khoảng cách tương đồng, tiếp cận thuận lợi hơn do không cần visa, dịch vụ tốt hơn, chuyên nghiệp hơn, công tác quảng bá xúc tiến  thường xuyên hơn. Băng-Cốc là đầu mối trung chuyển khách tại khu vực Đông nam Á.

Sản phẩm du lịch đi xuyên Việt khám phá  hướng đến đối tượng trẻ và trung niên, đi theo hình thức tự do đặt các dịch vụ riêng lẻ và kết hợp đặt các tour khi đến Việt Nam. Thời lượng chương trình du lịch khoảng 3 tuần, trong đó mỗi khu vực khoảng 07 ngày. Các điểm du lịch chính ở miền Bắc là Hà Nội, Hạ Long, Cát Bà và Sa Pa; ở miền Trung là Phong Nha-Kẻ Bàng, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Mỹ Sơn, Nha Trang, Phan Thiết; ở miền Nam là Tp. HCM, sông nước đồng bằng sông Cửu Long và địa đạo Củ Chi. Chương trình khám phá Việt Nam cũng có thể rút ngắn hoặc thêm thời gian ở mỗi miền tùy theo thời gian và nhu cầu của khách. Việt Nam không chịu nhiều áp lực cạnh tranh đối với phân khúc này do ưu thế về sự đa dạng các điểm đến cùng với sự mới mẻ, hấp dẫn riêng của từng vùng, đa số vẫn còn các giá trị nguyên sơ, chưa bị thương mại hóa như ở các nước khác.

3.2.2.2. Các giải pháp về giá Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Giá của sản phẩm du lịch là yếu tố rất nhạy cảm trong việc quyết định lựa chọn đi du lịch của khách và ảnh hưởng đến lợi nhuận, chiến lược phát triển của các doanh nghiệp.  Căn cứ vào các đặc điểm của thị trường khách du lịch israel, kết quả điều tra của tác giả và kết quả nghiên cứu thứ cấp của Tổng cục thống kê Việt Nam, Du lịch Việt Nam cần có các chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và tổ chức du lịch có thể có những chính sách về giá sản phẩm du lịch phù hợp, đảm bảo thu hút tốt nguồn khách từ thị trường phi truyền thống Israel và đồng thời đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp. Cần có sự phối hợp giữa các ngành trong việc tạo ra cơ chế về giá linh hoạt nhằm nâng cao tính cạnh tranh với các điểm đến trong khu vực. Thực tế cho thấy, đối với đặc thù của thị trường Israel, yếu tố về giá luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút thị trường này đối với các sản phẩm du lịch của Việt Nam.

3.2.2.3. Các giải pháp về kênh phân phối

Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam cần phát triển đồng thời kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp để khách du lịch Israel có thể dễ dàng lựa chọn.

Các kênh phân phối trực tiếp rất có hiệu quả đối với nhóm khách Israel trẻ.

Họ có thể dễ dàng đặt dịch vụ qua trang web của doanh nghiệp lữ hành Việt Nam nếu đạt được các yếu tố giá cả.v.v. Do không qua khâu trung gian nên việc đặt dịch vụ online sẽ thu hút khách du lịch thanh niên Israel vì giảm được chi phí, có thể tìm kiếm được sản phẩm du lịch rẻ.. Kênh phân phối trực tiếp cũng có ý nghĩa không nhỏ đối với một số công ty lữ hành vì các công ty lữ hành Israel cũng thường xuyên tìm kiếm đối tác có mức giá hợp lý thông qua các giao dịch online.

Các kênh phân phối gián tiếp: các doanh nghiệp du lịch Việt Nam nên coi việc duy trì và phát triển mối quan hệ với các đối tác lữ hành Israel là nhiệm vụ hàng đầu vì đặc điểm tâm lý dân tộc Do Thái rất coi trọng các mối quan hệ làm ăn lâu dài. Việc tham gia hội chợ du lịch quốc tế, mở các chuyến Famtrip, cho các công ty du lịch Israel là những biện pháp hữu hiệu để tập trung thu hút qua kênh gián tiếp. Ngoài ra việc đảm bảo giữ hình ảnh du lịch trong mắt du khách Israel cũng chắc chắn sẽ gây hiệu quả tốt trong việc giới thiệu thông tin du lịch của các du khách với nhau. Người Israel có tiếng là chịu nghe lời khuyên của những người cùng tôn giáo, cùng dân tộc.

3.2.2.4. Nhóm giải pháp về xúc tiến, quảng bá

Ưu tiên trước hết đến nhóm khách du lịch với mục đích nghỉ dưỡng với mức chi tiêu cao, thời gian lưu trú dài với nội dung quảng bá tập trung vào các khu nghỉ dưỡng biển đảo kết hợp các điểm văn hóa, lịch sử ở các miền. Độ tuổi đối với phân khúc này khá rộng, tuy nhiên nên tập trung vào lứa tuổi từ trung niên (khoảng 40) trở lên với mục đích nghỉ ngơi, thư giãn và người đã nghỉ hưu (60 trở lên) với mục đích chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần. Đối với nhóm khách này, có thể chúng ta sẽ sử dụng các slogan chú trọng đến nhu cầu tham quan tìm hiểu văn hóa, các công trình kiến trúc, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số hoặc các vùng văn hóa đặc trưng như Hội An, đồng bằng sông Cửu Long.

Tiếp theo chúng ta hướng đến đối tượng đi du lịch với mục đích tìm hiểu, khám phá tự do, tự đặt dịch vụ riêng lẻ hoặc kết hợp dịch vụ riêng lẻ với các tour tại điểm. Đối tượng này có mức chi tiêu thấp hơn nhưng lưu trú dài ngày, thường đi xuyên Việt đến nhiều điểm đa dạng khách nhau. Cách tiếp cận chủ yếu qua internet, các diễn đàn du lịch online, các cuốn sách travel guide book của các hãng nước ngoài và thông tin của các hãng hàng không.

3.2.3. Các giải pháp bổ trợ Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Các giải pháp về đào tạo, giáo dục: Mặc dù du khách Israel chưa phải là nguồn khách trọng điểm của ngành du lịch Việt Nam và ngôn ngữ sử dụng được cho việc phục vụ các đoàn khách Israel là tiếng Anh không phải là ngôn ngữ hiếm nhưng chúng ta cần đánh giá lại thực trạng nguồn nhân lực phục vụ thị trường khách du lịch Israel. Trong việc phục vụ khách Israel, tiếng Hebrew không quá quan trọng để sử dụng trong hướng dẫn viên và các chỉ dẫn, tuy nhiên vì đặc trưng của người Israel là rất quý mến ai đó biết chút ít về thứ ngôn ngữ của họ nên chúng ta cần chú trọng đào tạo một số nhân lực thông thạo tiếng Hebrew để sử dụng trong công tác thu hút và phục vụ khách du lịch Israel. Việc mở những lớp đào tạo ngắn hạn cho những cán bộ nhân viên đang làm việc trong ngành du lịch những kiến thức về văn hóa, ẩm thực, tôn giáo của người Israel là điều có thể làm được và cần thiết. Chúng ta có thể đề nghị Đại sứ quán Israel tại Việt Nam hỗ trợ hướng dẫn các khóa về ngôn ngữ, về đất nước và con người Israel. Các sở du lịch địa phương đặc biệt là các thành phố lớn và các tỉnh thành phố ven biển cần chủ động lập kế hoạch cụ thể đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức phục vụ các đoàn khách Israel nói chung và các đoàn khách Do thái cao cấp nói riêng. Ngoài ra các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp kinh doanh lữ hàng, khách sạn và nhà hàng cần trang bị kiến thức cho các cán bộ công nhân viên về đất nước con người, ngôn ngữ, văn hóa Israel, trang bị kiến thức tin học, tiếng Anh, luật quốc tế và những lưu ý về các quy định của đạo Do thái áp dụng cho người Do thái. Xóa bỏ các thành kiến hoặc nhầm lẫn của người dân địa phương và thậm chí của một số doanh nghiệp và cơ quan quản lý du lịch đối với khách du lịch Israel.

Giải pháp liên ngành: Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp với Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động và Thương binh xã hội triển khai đưa ẩm thực Israel vào trong giáo trình giảng dạy nghề nấu ăn tại các trường trung cấp và cao đẳng nghề du lịch. Như chúng ta đều biết ẩm thực là nhân tố quan trọng bậc nhất trong mỗi chuyến du lịch vì vậy nếu chúng ta đi trước được vấn đề này thì sẽ có cơ hội tốt hơn trong việc đón khách Israel. Các ngành dịch vụ hỗ trợ cho ngành Du lịch như thông tin liên lạc, giao thông vận tải, ngân hàng phối hợp với ngành Du lịch trong việc tạo thu hút khách du lịch Israel. Một hệ thống hạ tầng tốt cùng các dịch vụ hỗ trợ hoàn hảo sẽ không những tạo điều kiện phục vụ khách du lịch tốt hơn mà còn giúp thúc đẩy khả năng thu hút khách du lịch.

3.3 Một số kiến nghị Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Khách du lịch Israel có xu hướng đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng, đặc biệt có mức chi tiêu cao trên thế giới. Nhiều nước láng giềng và trong khu vực ASEAN thuộc nhóm các điểm đến yêu thích nhất của khách du lịch Israel như Thái Lan, Căm-puchia và Lào. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã nêu rõ định hướng tập trung vào chất lượng khách, hướng đến đối tượng có khả năng chi trả cao. Israel cũng là một trong những thị trường ưu tiên đối với du lịch Việt Nam trong thành phần khối Trung Đông nói chung. Căn cứ vào những lý do đó, tác giả tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm của thì trường khách du lịch Israel và các kinh nghiệm thực tế phục vụ khách Israel nhằm đưa ra một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý Du lịch Việt Nam như sau:

Tăng cường phối hợp liên ngành và liên vùng: Cơ quan quản lý ngành là Tổng cục Du lịch thúc đẩy phối hợp liên ngành hỗ trợ phát triển du lịch, đặc biệt là các chính sách liên quan đến thị thực cho khách du lịch Israel; chủ động phối hợp với các địa phương có tiềm năng đón khách du lịch Israel nhằm cụ thể hóa các chính sách và điều kiện phục vụ khách du lịch Israel.

Thành lập tổ công tác thị trường Trung Đông và Israel: Cùng với việc thực hiện đề án thu hút khách du lịch Trung Đông, cần đưa tổ công tác thị trường Israel như là một nhóm đặc thù do những khác biệt về tôn giao và chính trị. Tổ này cần có đề xuất cơ chế hoạt động, nhân sự cụ thể và dự toán kinh phí hoạt động chi tiết. Trước mắt, tổ công tác sẽ đảm nhiệm công tác cập nhật, nghiên cứu thị trường khách du lịch Israel, cung cấp, phối hợp, tham mưu cho cơ quan quản lý về các vấn đề khai thác thị trường khách Israel, sau đó lẽ là tư vấn hướng dẫn cho các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh du lịch thu hút và khai thác nguồn khách này.

Huy động nguồn lực tài chính: Cục Xúc tiến Du lịch thuộc Tổng cục Du lịch Việt Nam cần có đề án hoàn chỉnh cho dự án đầu tư tài chính cho các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam đối với từng thị trường cụ thể. Đối với thị trường Israel, do đây là quốc gia đặc thù tuy cùng nhóm địa lý với các nước trong khu vực Trung Đông nhưng không có nhiều tương đồng. Vì vậy đề án tài chính cho xúc tiến quảng bá cần chi tiết và cụ thể. Đối với các nhóm hành động yêu cầu vượt quá khả năng chi của ngân sách, cần huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp trong ngành để phối hợp cùng thực hiện và có chính sách ưu đãi riêng cho các doanh nghiệp đó. Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Tăng cường nhân sự chuyên trách về thị trường Israel: Cơ quan Tổng cục Du lịch cần phải có phương án bổ sung nhân sự chuyên trách Israel cho Vụ thị trường nhằm thực hiện công tác nghiên cứu thị trường, xây dựng sản phẩm và xúc tiến quảng bá du lịch. Nhân sự này phải có kiến thức sâu rộng về đất nước và con người Israel. Hiểu biết sâu sắc về lịch sử, đặc điểm tôn giáo người Israel, có khả năng sử dụng ngôn ngữ Hebrew – ngôn ngữ chính thức của đất nước Israel.

Ngoài việc chú trọng tới các hội chợ du lịch quốc tế, cơ quan xúc tiến du lịch Việt Nam cần quan tâm tới các hội chợ du lịch cấp vùng. Như hội chợ International Mediterranean Tourism Market được Tổng cục Du lịch Israel tổ chức hàng năm tại Tel Aviv.

Về các chương trình FAM & Press: Mỗi năm độc lập hoặc liên kết với Việt Nam Airline mời 01 đoàn FAM & Press trip của Israel đến Việt Nam khảo sát và đưa tin về du lịch Việt Nam vào giữa năm để quảng bá cho mùa khách du lịch nghỉ dưỡng vào đầu năm sau, giới thiệu tập trung vào các sản phẩm du lịch biển ở khu vực miền Trung và đảo ở Nhà Trang, Phú Quốc kết hợp với các điểm đến nổi tiếng khác như Hạ Long, Sapa. Chúng ta nên coi việc xây dựng thương hiệu, quảng bá định vị hình ảnh du lịch Việt Nam tới thị trường Israel là ưu tiên quan trọng. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên phối hợp với các nước Thái Lan, Lào, Căm-pu-chia và Myanmar  tổ chức các chương trình quảng bá liên kết, tổ chức các famtrip và presstrip liên kết. Các chương trình này tổ chức tại một trong các thành phố lớn của Israel, cùng phối hợp với các cơ quan đại diện ngoại giao và các hãng hàng không.

Tổng cục Du lịch Việt Nam nên thường xuyên tổ chức các Lễ hội ẩm thực Việt Nam tại Israel trên cơ sở phối hợp giữa Đại sứ quán, Lãnh sự quán Việt Nam tại Israel và Vietnam Airlines. Bên cạnh đó cần tổ chức các chương trình dạy nấu ăn món Việt, thi nấu ăn món Việt tại Israel, từ đó nhằm đem đến cho du khách tiềm năm Israel một hình ảnh Việt Nam rõ nét hơn thông qua thông điệp ẩm thực. Tổng cục Du lịch cần có kế hoạch liên kết các trang web quảng bá du lịch Việt Nam với các trang web nổi tiếng về du lịch và tư vấn du lịch trên thế giới thông qua sự hỗ trợ tư vấn dịch vụ của các công ty chuyên về truyền thông và marketing online mạnh trong nước và trên thế giới.

Tổng cục Du lịch Việt Nam, các cơ quan văn hóa, ngoại giao và các doanh nghiệp du lịch nên coi internet như là một công cụ đắc lực cho việc quảng bá hình ảnh về du lịch Việt Nam. Các kênh quảng có thể qua hình ảnh, đoạn video, qua các kênh xã hội. Đặc điểm của người Israel là sử dụng internet rất phổ biến. Các clip quảng bá phải dựa trên đặc tính của khách du lịch Israel là những người khó tính, bảo thủ, khôn ngoan và quan tâm đến các yếu tố văn hóa.  Hiện nay Đại sứ quán Israel tại Việt Nam có rất nhiều hoạt động nhằm giới thiệu đất nước và con người Israel với nhân dân Việt Nam. Chúng ta cần học hỏi ngay từ phía nước bạn để có thể đa dạng hóa các kênh truyền thông thông tin nhằm thúc đẩy hơn nữa lượng khách Israel vào Việt Nam.

Cần phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Tel Aviv, các Hội tu nghiệp sinh Việt Nam tại Israel và Vietnam Airlines nhằm khuyến khích mỗi sinh viên Việt Nam có thể chủ động giới thiệu về Du lịch Việt Nam thông qua các sự kiện giao lưu văn hóa giữa người Việt và người Israel tại Israel. Tổng cục Du lịch sẽ hỗ trợ các thông tin và phương tiện quảng bá thông qua cung cấp các posters, tờ rơi, đĩa CD cho Đại sứ quán, Lãnh sự quán hoặc gửi trực tiếp cho các tổ chức, cá nhân từ Việt Nam nếu có nhu cầu và đề nghị. Các poster tờ rơi và đĩa CD nhất định phải có các trang thông tin bằng tiếng Hebrew. Điều này để nhằm gây cảm tình với du khách Israel và hơn nữa để chứng tỏ chúng ta cũng sử dụng văn hóa và ngôn ngữ như là một biện pháp trong xúc tiến thu hút khách du lịch. Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Cần đầu tư, nâng cấp website quảng bá xúc tiến du lịch nhằm tập trung quảng bá các sản phẩm du lịch biển đảo, du lịch văn hóa-lịch sử và du lịch sinh thái gắn với cộng đồng nhằm thu hút khách du lịch quốc tế nói chung, khách du lịch Israel nói riêng. Nội dung các trang thông tin cần phát huy các yếu tố được coi là điểm mạnh của Du lịch Việt Nam đối với thị trường khách du lịch Israel, bao gồm: Ổn định chính trị, sự thân thiện, phong cảnh thiên nhiên, khu du lịch biển, bản sắc văn hóa, món ăn, khí hậu/thời tiết đa dạng, bề dày lịch sử truyền thống, nhiều di sản thế giới tự nhiên và văn hóa, vật thể và phi vật thể. Cần cân nhắc lập một website giới thiệu du lịch Việt Nam bằng một nhóm ngôn ngữ Trung Đông như tiếng Ả-rập và tiếng Hebrew và lập các tài khoản mạng xã hội như facebook, twitter để quảng bá rộng rãi hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Để quảng bá một cách có hiệu quả qua kênh thông tin các trang mạng xã hội và trang web xúc tiến du lịch, cần có ngân sách tài chính phù hợp nhằm hỗ trợ tốt nhất các yêu cầu về marketing online – hình thức rất phổ biến hiện nay trên thế giới, đặc biệt trong quá trình cạnh tranh của các điểm đến thông qua internet. Chúng ta cần phải có những động thái chủ động hơn nữa trong lĩnh vực này nếu không sẽ khó cạnh tranh với các điểm đến khác trong khu vực và trên tầm thế giới, đặc biệt khi mà thị trường khách chúng ta đang nghiên cứu tìm hiểu và khai thác là Israel – một đất nước sử dụng internet phổ biến.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu những đặc điểm thị trường khách du lịch Israel, nghiên cứu dụ báo xu hướng biến động của nguồn khách Israel đi du lịch nước ngoài và đến Việt Nam, kinh nghiệm phục vụ khách Israel của chính tác giả trong 10 năm qua, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút hiệu quả thị trường khách Israel đến Việt Nam và kiến nghị đến cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch một số nội dung nhằm thực hiện các giải pháp đó, góp phần thúc đẩy thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam. Tác giả mong muốn những giải pháp và kiến nghị này được thực hiện để tạo tiền đề cho các công ty lữ hành, doanh nghiệp lưu trú, ăn uống có cơ hội nhiều hơn trong việc phục vụ khách du lịch Israel, đa dạng nguồn khách hơn nữa trong bối cảnh biến động về nguồn khách du lịch đến Việt Nam.

KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Israel là quốc gia có nền kinh tế phát triển, là một trong 36 quốc gia thành viên của tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Công dân Israel có nhu cầu đi du lịch nước ngoài cao và có khả năng chi trả tốt. Do vậy, mặc dù Israel có số dân không đông song cũng là một thị trường tiềm năng cho nhiều điểm đến du lịch trên thế giới.

Trong vòng 5 năm trở lại đây, số lượng khách Israel đến Việt Nam tăng đều đặn từ 3% đến 12 %, mặc dù vậy số lượng khách du lịch Israel vào Việt Nam còn quá ít so với khách Israel đi du lịch nước ngoài. So sánh với Thái lan là điểm đến cùng khu vực với nước ta, hàng năm họ cũng đón 130.000 lượt khách du lịch Israel.

Việt Nam có điều kiện tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phù hợp với nhu cầu của du khách Israel, có tình hình chính trị an ninh ổn định, con người Việt Nam thân thiện, không thành kiến nhưng đến giờ kết quả vẫn chưa hoàn toàn tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân một phần là do ngành du lịch và các doanh nghiệp du lịch chưa nắm rõ được các đặc điểm của thị trường du lịch Israel, chú chú trọng đúng mức tới các thị trường có số dân ít so với các thị trường truyền thống có số dân đông. Chúng ta cũng chưa có đầy đủ các giải pháp để phát triển đồng bộ ngành du lịch để sẵn sàng đón tiếp các thị trường cấp cao và không phải là thị trường truyền thống.

Tiềm năng và một số giải pháp thu hút khách du lịch Israel tới Việt Nam là công trình nghiên cứu dựa trên những khảo sát về thực trang tiếp đón khách Israel, thực trạng số liệu thu thập từ các cơ quan nghiên cứu và thống kê từ đó đưa ra những biện pháp đề xuất nhằm thu hút nhiều khách du lịch Israel hơn nữa đến Việt Nam.

Để giải quyết các vấn đề trên, tác giả đã tập trung nghiên cứu một số nội dung sau:

  1. Tổng hợp các đặc điểm của thị trường khách Israel một cách có hệ thống, trên cơ sở tham khảo các nguồn thông dữ liệu đáng tin cậy về phong tục tập quan, đặc điểm tâm lý, thói quen tiêu dùng, tôn giáo Do thái, các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội tác động đến động cơ đi du lịch nước ngoài của người Israel.
  2. Tập trung nghiên cứu đặc điểm của thị trường khách du lịch Israel vào Việt Nam , các đánh giá của du khách Israel đối với điểm đến Việt Nam, thực trạng phục vụ và hiện trạng dịch vụ du lịch cung cấp cho khách Israel giai đoạn từ 2005 đến nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ ra những thuận lợi và khó khăn khi tiếp cận thị trường này nhằm tiến tới đưa ra giải pháp tốt hơn cho hoạt động thu hút khách du lịch Israel.
  3. Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút thị trường khách Israel đến Việt Nam thông qua phân tích các cơ hội, thách thức, thuận lợi và khó khăn. Trong đó nhấn mạnh đến xu thế chung của du lịch toàn cầu, phân tích một vài đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong việc tiếp đón khách Israel.
  4. Để nghiên cứu đặc điểm thị trường khách du lịch Israel, tác giả luận văn đã thu thập thông tin thứ cấp từ các tài liệu nước ngoài, từ các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước. Về mặt thực trạng khai thác, tác giả dựa vào 2 nguồn số liệu: nguồn số liệu sơ cấp từ 357 phiếu điều tra khách du lịch Israel của tác giả, nguồn thông tin thứ cấp từ 29 phiếu của Tổng cục Thống kê Việt Nam nghiên cứu về chi tiêu du lịch của khách nước ngoài tại Việt Nam năm 2013. Các thông tin được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy, được xử lý và phân tích theo phương pháp khoa học. Vì vậy các nhận xét đưa ra đều mang tính hệ thống, khoa học và thống nhất. Từ các nghiên cứu mang tính lý thuyết và thực tiễn, các giải pháp đưa ra nhằm thu hút thị trường khách du lịch Israel của tác giả là có căn cứ khoa học, có thể áp dụng được vào tình hình thực tế. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu có hạn, các giải pháp tác giả đưa ra trong luận văn chưa đầy đủ nhưng về cơ bản đó là những giải pháp chủ yếu trong việc thu hút thị trường khách du lịch Israel.

Tác giả cũng hy vọng rằng các kết quả nghiên cứu cũng như các đề xuất giải pháp và kiến nghị sẽ được áp dụng vào thực tiễn góp phần vào sự phát triển của ngành du lịch nước ta. Tác giả cũng hy vọng luận văn này là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý du lịch, các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp, học viên và sinh viên đang tìm hiểu về thị trường khách nói chung và thị trường Israel nói riêng. Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

Để hoàn thành được luận văn này, tác giả đã nhân được sự giúp đỡ của các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đặc biệt tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành tới PGS. TS. Trần Đức Thanh, người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tác giả cũng xin cảm ơn các thầy cô trong khoa Du lịch đã giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu để tác giả hoàn thành được luận văn của mình. Chân thành cảm ơn các cán bộ công tác tại Cục xúc tiến Du lịch Việt Nam, Tổng cục Thống kê Việt Nam, Đại sứ quán Israel tại Việt Nam đã giúp đỡ cung cấp thông tin và số liệu tham khảo. Xin cảm ơn gia đình, cơ quan và bạn bè đã động viên giúp đỡ và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành được luận văn đúng theo tiến độ và yêu cầu.

Với thời gian và khả năng có hạn cùng một só điều kiện khách quan, luận văn sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Kính mong các thầy cô, bạn bè đồng nghiệp và những người quan tâm tới đề tài này góp ý với tác giả để tác giả có thể hoàn thiện nghiên cứu của mình trong một tương lai không xa. Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993