Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Israel và một số giải pháp thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Israel là quốc gia có diện tích nhỏ, số dân không đông nhưng có tỷ lệ người dân đi du lịch nước ngoài trên tổng dân số khá lớn – bằng một nửa dân số Israel. Thị trường khách du lịch Israel là thị trường có nhiều tiềm năng nhưng số lượng Khách du lịch Israel đến Việt Nam chưa nhiều. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Israel và thời gian rảnh rỗi của nhóm khách lớn tuổi tăng lên nên những năm gần đây, khách Israel đi du lịch quốc tế càng nhiều hơn. Phần lớn khách Israel đi ra nước ngoài để tìm hiểu các nền văn hóa, nghỉ dưỡng biển nhiệt đới để tránh mùa đông. Trong khi đó, Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực có khí hậu ấm áp quanh năm, nhiều bãi biển đẹp, nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng thế giới, nhiều di sản thiên nhiên và văn hóa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận. Việt Nam cũng là điểm đến an toàn trong bối cảnh nhiều biến động chính trị xã hội như hiện nay. Các yếu tố đó có tầm quan trọng trong việc thu hút thị trường khách du lịch nói chung và thị trường khách Israel nói riêng.

Ngoài ra Việt Nam và Israel có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, hai bên có nhiều hợp tác trong kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật và quân sự. Đây cũng là một ưu thế trong việc thu hút thị trường khách Israel.

Hiện này khách du lịch Israel đến Việt Nam mới đạt con số 14.000 lượt khách / năm (2014) trong khi khách Israel đến Thái Lan gấp 10 lần con số đó.

Với tất cả những lý do nêu trên, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài này để nghiên cứu với hy vọng đóng góp phần lý luận và thực tiễn vào công tác thu hút khách du lịch của ngành.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2. Lịch sử nghiên cứu

Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) liên tục cập nhật số liệu hàng năm về tình hình du lịch thế giới và của các nước thành viên, xu hướng biến động của các thị trường gửi khách trong đó có thị trường khách du lịch Israel. Những nghiên cứu về thị trường khách du lịch Israel cũng đã được một số tổ chức nghiên cứu độc lập trên thế giới thực hiện hàng năm như Euromonitor International và tổ chức European Travel Commission .

Ở trong nước, hiện này việc nghiên cứu các thị trường khách Israel hầu như chưa có, thậm chí việc thống kê lượng khách Israel đến Việt Nam cũng chưa được quan tâm đúng mức. Đến thời điểm hiện tại chỉ có một số tác giả viết các bài báo giới thiệu về nền văn hóa và đặc trưng tính cách của con người Israel. Đầu năm 2015, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã tổ chức Hội thảo giới thiệu hai thị trường nguồn là Trung Đông và Ấn Độ, trong đó Trung Đông bao gồm hầu hết là các quốc gia Ả-rập và Israel. Đây có lẽ là lần duy nhất vấn đề thu hút khách du lịch Israel được chính thức đưa ra mặc dù các cơ quan chuyên môn không nhấn mạnh đến Israel trong nhóm Trung Đông và cũng chưa có nghiên cứu chuyên sâu cho thị trường khách Israel.

Cho đến nay chưa có công trình này nghiên cứu toàn diện và cụ thể về thị trường du lịch Israel. Vì vậy việc nghiên cứu đặc điểm thị trường khách Israel, thực trạng thu hút khách du lịch và đề xuất giải pháp thu hút khách du lịch ở các khía cạnh khác nhau nhằm thu hút khách Israel đến Việt Nam sẽ có một ý nghĩa nào đó hoạt động nghiên cứu và khai thác thị trường khách du lịch Israel. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm đem đến một cái nhìn tổng quát cùng những nghiên cứu phát hiện về đặc điểm thị trường khách Israel và thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp thu hút thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam, giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, các sinh viên và học viên ngành du lịch có cơ sở tham khảo, có thông tin hệ thống về thị trường khách du lịch Israel.

Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ sau:

  • + Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thị trường khách du lịch, những lý luận về thu hút khách du lịch quốc tế.
  • + Nghiên cứu đặc điểm thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam và thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.
  • + Khảo sát đánh giá các giải pháp thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam mà ngành du lịch Việt Nam đã thực hiện.
  • + Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách Israel đến Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là đặc điểm thị trường khách du lịch quốc tịch Israel và các giải pháp thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung tìm hiểu thị trường khách du lịch Israel với các đặc điểm tâm lý dân tộc, văn hóa, đặc điểm tiêu dùng và các giải pháp thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Phạm vi không gian của đề tài là tập trung nghiên cứu thị trường khách du lịch có quốc tịch Israel định cư trên đất nước Israel.

Thời gian trọng tâm nghiên cứu là 10 năm (2005  – 2015).

5. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục địch nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu sau đây sẽ được sử dụng:

Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Sẽ tiến hành thu thập thông tin từ sách báo trong và ngoài nước, nguồn internet của các cơ quan quản lý và kinh doanh du lịch Việt Nam và Israel, các trang web của Cộng đồng người Do Thái trên khắp thế giới, các diễn đàn du lịch trong và ngoài nước, các công trình nghiên cứu thị trường, văn hóa xã hội của nghiên cứu trước, các thông tin từ Tổng cục Du lịch Việt Nam, Tổng cục Thống kê Viêt Nam, Đại sứ quán Israel tại Việt Nam…

Phương pháp điều tra xã hội học thông qua phát phiếu điều tra cho khách du lịch Israel nhằm tập hợp những số liệu về đặc điểm thị trường khách du lịch Israel. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

6. Cấu trúc của luận văn

  • Chương 1: Lý luận chung về thị trường khách du lịch và hoạt động thu hút khách du lịch
  • Chương 2: Thị trường khách du lịch Israel và thực trạng hoạt động thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam
  • Chương 3: Đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút khách Israel đến Việt Nam

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH  VÀ HOẠT ĐỘNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH

1.1. Cơ sở lý luận về thị trường khách du lịch

1.1.1. Khái niệm khách du lịch và thị trường khách du lịch

Trong cuốn Giáo trình Kinh tế Du lịch của GS. TS Nguyễn Văn Đính và PGS. TS. Trần Thị Minh Hòa xuất bản năm 2006 đưa ra định nghĩa về khách du lịch như sau: “KDL phải là người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình. khách du lịch có thể khởi hành với mọi mục đích khác nhau, loại trừ mục đích lao động để kiếm tiền ở nơi đến. Như vậy những đối tượng sau không được thống kê là khách du lịch: Những người đến để làm việc, có hoặc không có hợp đồng lao động; những người đi học, người di cư, tỵ nạn, những người làm việc tại các lãnh sự quán, đại sứ quán, những người thuộc lực lượng Liên hợp quốc. Thời gian lưu lại nơi đến ít nhất 24 giờ nhưng không quá 1 năm”

Theo điều 4 của Luật Du lịch ban hành năm 2005, phần giải thích thuật ngữ, Khách du lịch được định nghĩa là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.

Ở đây, tác giả nghiên cứu thị trường khách du lịch nhất định, vì vậy sẽ dựa trên cơ sở lý luận về thị trường khách du lịch theo quan điểm marketing. Theo nghĩa hẹp thì thị trường du lịch  là thị trường nguồn khách du lịch, tức là vào một thời gian nhất định, thời điểm nhất định tồn tại người mua hiện thực và người mua tiềm năng có khả năng mua sản phẩm hàng hóa du lịch.

Phân loại theo đặc điểm không gian của cung và cầu du lịch thì có thị trường gửi khách là thị trường mà tại đó xuất hiện nhu cầu du lịch. Du khách xuất phát từ đó để đi đến nơi khác để tiêu dùng du lịch và thị trường nhận khách là thị trường mà tại đó đã có cung du lịch, có đầy đủ các điều kiện sẵn sàng cung ứng các dịch vụ tiêu dùng sản phẩm du lịch.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, học viên sẽ tập trung nghiên cứu dựa trên định nghĩa thị trường trên cơ sở phân loại theo đặc điểm không gian của cung và cầu mà cụ thể là thị trường gửi khách từ một quốc gia khác đến Việt Nam, trong đó sẽ tập trung nghiên cứu tiềm năng và xác định thị trường mục tiêu để từ đó đưa ra các giải pháp thu hút du khách đến Việt Nam.

1.1.2. Các nội dung nghiên cứu về thị trường khách du lịch

1.1.2.1. Nghiên cứu đặc điểm nhân khẩu của thị trường khách du lịch.

Nói đến nghiên cứu thị trường nói chung và thị trường khách du lịch nói riêng, người ta nghĩ ngay đến các hoạt động nghiên cứu tìm hiểu các nhóm người với quy mô khác nhau từ cấp khu vực, quốc gia đến các nhóm nhỏ hơn. Để nghiên cứu các đặc điểm của thị trường du lịch người ta tập trung nghiên cứu trước tiên là dựa trên nhân khẩu học, tức là dựa trên phân tích nghiên cứu các yếu tố thuộc nhân khẩu học như tuổi tác, giới tính, quy mô gia đình, thu nhập, nghề nghiệp, tôn giáo, học vấn và chủng tộc.

Các yếu tố nhân khẩu học là cơ sở phổ biến nhất để phân biệt các nhóm thị trường khách du lịch mục tiêu và phân tích một thị trường khách du lịch. Nguyên nhân là do những mong muốn, sở thích và mức độ sử dụng của người tiêu dùng thường gắn bó chặt chẽ với các yếu tố nhân khẩu học kể trên. Ví dụ như một nhóm người có cùng độ tuổi thường có những sở thích và điều kiện thực hiện các sở thích tương đồng với nhau. Lý do thứ hai là các yếu tố nhân khẩu học dễ đo lường hơn hầu hết các yếu tố khác. Ngay cả khi thị trường khách du lịch mục tiêu được xem xét không phải theo yếu tố nhân khẩu học (chẳng hạn như theo yếu tố tâm lý học hoặc yếu tố hành vi) thì vẫn cần thiết phải suy trở lại các đặc điểm nhân khẩu học để biết quy mô của thị trường mục tiêu, lựa chọn phương tiện truyền thông tiếp cận hiệu quả.

Người ta dựa vào tuổi tác để nghiên cứu thị trường khách du lịch mục tiêu vì tuổi tác có liên quan chặt chẽ đến một số quyết định tiêu dùng du lịch của khách. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Những người ở độ tuổi về hưu phổ biến là 60 tuổi ở một số quốc gia là căn cứ đề nghiên cứu các nhóm thị trường khách tiềm năng để khai thác bán các sản phẩm du lịch chữa bệnh và nghỉ dưỡng. Chúng ta không thể áp dụng các biện pháp thu hút nhóm hưu trí đối với các sản phẩm du lịch mạo hiểm hoặc khám phá các tuyến điểm mới được. Giới tính cũng là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu thị trường khách du lịch. Trong thị trường khách du lịch, giới tính sẽ ảnh hưởng tới một số hành vi tiêu dùng đối với một số loại hình du lịch đặc biệt như du lịch mạo hiểm, du lịch làm đẹp, chữa bệnh. Giới tính cũng ảnh hưởng tới các quyết định về điểm đến du lịch của du khách trong trường hợp các điểm đến đó có liên quan đến an ninh an toàn của du khách, các bất ổn về chính trị hay xã hội. Tìm hiểu đặc điểm thu nhập của thị trường khách du lịch là một hoạt đông có vai trò quan trọng bậc nhất của các nghiên cứu thị trường khách du lịch mục tiêu. Nhu cầu đi du lịch không phải là nhu cầu cơ bản của con người, nó chủ yếu xuất hiện khi có một số điều kiện, trong đó thu nhập của mỗi cá nhân hoặc cả một gia đình thay đổi theo chiều hướng tăng lên, khả năng đáp ứng nhu cầu đi du lịch sẽ cao lên  hoặc sẽ phát sinh nhu cầu đi du lịch của một số người mà trước đó chưa có.

Một trong những yếu tố nhân khẩu học rất quan trọng trong nghiên cứu thị trường khách du lịch đó là yếu tố tôn giáo và chủng tộc. Tôn giáo và chủng tộc đối với một vài nhóm xã hội thì tách rời nhau. Không phải người theo cùng một tôn giáo có cùng một chủng tộc và không phải những người có cùng chủng tộc mà phải theo cùng một tôn giáo. Tôn giáo và chủng tộc ảnh hưởng lớn đến các quyết định đi du lịch của các thành viên. Vì hoạt động du lịch là hoạt động xã hội nên các cá nhân thực hiện các hoạt động đó sẽ phải chịu ảnh hưởng của các tác động xã hội như các xung đột tôn giáo, xung đột chủng tộc. Các tôn giáo có ảnh hưởng đến các quyết định đi du lịch vì nó có các luật lệ riêng trong việc tiêu dùng du lịch và tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Nó ảnh hưởng đến thời gian đi du lịch thông qua các ngày lễ của các tôn giáo khác nhau. Đặc biệt, tôn giáo và chủng tộc khác nhau sẽ quyết định việc lựa chọn điểm đến của du khách khác nhau. Tôn giáo và chủng tộc tuy thuộc yếu tố nhân khẩu học nhưng cũng là những yếu tố quyết định của nhóm tâm lý xã hội. Chính vì vậy tôn giáo và chủng tộc gần như chi phối các quyết định du lịch khi các điều kiện thời gian và thu nhập được đảm bảo.

1.1.2.2. Nghiên cứu đặc điểm tiêu dùng du lịch của thị trường khách du lịch

Nghiên cứu đặc điểm tiêu dùng của thị trường khách du lịch là nghiên cứu các đặc điểm của hành vi tiêu dùng sản phẩm dịch vụ du lịch của thị trường khách đó. Vậy hành vi tiêu dùng là gì? Theo Michael Solomon trong cuốn Consumer Behavior tái bản lần thứ 10 năm 1996 có định nghĩa hành vi tiêu dùng bao gồm các vấn đề liên quan đến quyết định tiêu dùng, ý kiến, kinh nghiệm làm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Hành vi tiêu dùng bao gồm tất cả các hoạt động liên quan tới việc tiếp nhận, tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ. Nó là cả một quá trình mà bắt đầu bằng việc ra quyết định và sau đó là các hoạt động tiêu thụ và sử dụng sản phẩm dịch vụ. Để nghiên cứu đặc điểm tiêu dùng của một thị trường khách du lịch, người ta phải xem xét thị trường khách du lịch một số vấn đề sau:

Động cơ đi du lịch được hiểu là những nhu cầu và mong muốn sinh lý và tâm lý học của con người bao gồm những thôi thúc bên trong con người và phát xuất ra thành các hành vi và hoạt động du lịch. Việc nghiên cứu động cơ đi du lịch của du khách của một thị trường khách du lịch sẽ làm tiền đề cho việc triển khai hầu hết các hoạt động thu hút khách du lịch và khai thác sau này: từ công tác điều tra thị trường, triển khai các hoạt động marketing, xây dựng và bán sản phẩm, hình thành kênh phân phối, tổ chức phục vụ khách. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Thời điểm đi du lịch của khách du lịch sẽ ảnh hưởng đến tính mùa vụ của sản phẩm du lịch tại điểm đến. Biết được thời điểm du lịch của khách du lịch sẽ tổ chức xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp, có chính sách quảng bá sản phẩm phù hợp và khai thác được tối đa sản phẩm du lịch của nhiều loại thị trường khách du lịch khác nhau trong cùng một năm.

Độ dài trung bình của chuyến du lịch ảnh hưởng đến tổng chi tiêu của khách du lịch trong một chuyến đi. Để đánh giá quy mô của một thị trường khách du lịch không những người ta chỉ dựa vào số lượt khác mà còn dựa vào độ dài trung bình của chuyến đi du lịch. Xét từ quan điểm  nghiên cứu một thị trường khách du lịch quốc tế đến một quốc gia, độ dài trung bình của chuyến đi thể hiện sự chi tiêu của du khách trong một quốc gia đó và nó còn biểu hiện sự quan tâm của khách du lịch tới một quốc gia và hiệu quả xây dựng sản phẩm, quảng bá sản phẩm liên vùng của một quốc gia.

Phương tiện vận chuyển mà một thị trường thường sử dụng cho chuyến du lịch cũng là một đặc điểm tiêu dùng du lịch của khách du lịch. Vận chuyển chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí cho chuyến đi và nó cũng quyết định nhiều đến chất lượng của sản phẩm dịch vụ, khả năng chi trả của du khách. Vì vậy nghiên cứu phương tiện vận chuyển của thị trường khách du lịch có vai trò quan trọng khi nghiên cứu đặc điểm tiêu dùng.

Cơ cấu chi tiêu của chuyến du lịch của khách du lịch là một yếu tố quan trọng. Nhà quản lý du lịch xem xét cơ cấu chi tiêu của khách trong chuyến đi có thể nắm bắt được các sở thích chi tiêu, khả năng chi tiêu và mức độ chi tiêu cho các sản phẩm du lịch dịch vụ khác nhau trong chuyến đi, từ đó có kế hoạch xây dựng và quảng bá sản phẩm du lịch phù hợp, có chính sách thúc đẩy cho từng lĩnh vực của ngành du lịch, nâng cao hiệu quả khai thác khách.

Đặc điểm của đoàn khách du lịch cũng là một vấn đề quan trọng. Xem xét đặc điểm này, người nghiên cứu thị trường sẽ biết được khách du lịch từ một quốc gia thường đi du lịch với ai, quy mô và thành phần trong đoàn gồm những người nào. Mục đích ngoài việc tổ chức phục vụ tốt hơn thì việc nắm đặc điểm cơ cấu của các đoàn khách sẽ cho biết xu hướng chi tiêu và sử dụng dịch vụ du lịch.

Một đặc điểm tiêu dùng quan trọng nữa của thị trường khách du lịch là kênh thông tin mà thị trường khách thường tiếp nhận để thu thập thông tin cho chuyến du lịch của mình. Nghiên cứu tốt các thông tin ưa thích hoặc phổ biến mà một thị trường sử dụng cho chuyến du lịch sẽ khiến cho nhà quản lý du lịch có định hướng tốt hơn trong việc triển khai các chiến dịch thu hút khách từ thị trường đó, phát triển các thế mạnh trong phương tiện sử dụng để quảng bá và khắc phục những điểm yếu.

Hình thức tổ chức đi du lịch là đặc điểm cuối cùng trong đặc điểm tiêu dùng du lịch. Đây là đặc điểm rất quan trọng khi nghiên cứu một thị trường.

Khách du lịch có thể tự tổ chức chuyến đi du lịch toàn phần hoặc một phần, phần còn lại thuê qua các công ty tổ chức du lịch. khách du lịch cũng có thể thuê hoàn toàn một công ty lữ hành tổ chức chuyến đi cho mình. Mỗi một hình thức có những đặc trưng riêng, từ mức độ chi tiêu, mức độ hiểu biết điểm đến của khách du lịch, sự linh hoạt của thời điểm đi du lịch và đặc biệt hình thức tổ chức đi du lịch ảnh hưởng lớn đến cơ cấu chi tiêu trong thời gian đi du lịch.

1.2. Hoạt động thu hút khách du lịch của điểm đến Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

1.2.1. Nghiên cứu thị trường, xác định thị trường mục tiêu

Trong tác phẩm Marketing căn bản  (2007), Philip Kotler đã phân tích các yêu cầu nghiên cứu thị trường, các bước lựa chọn thị trường mục tiêu nói chung. Áp dụng vào marketing du lịch lịch nhằm thu hút nguồn khách đến một quốc gia, tác giả sẽ đi vào liên hệ các luận điểm marketing cơ bản này cho ngành du lịch. Để thực hiện các giải pháp thu hút khách du lịch hiệu quả, cần phải tổ chức nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục tiêu. Việc này giúp cho các tổ chức hoạt động kinh doanh du lịch, các quốc gia tổ chức hoạt động xúc tiến thu hút du khách có thể tiết kiệm thời gian và chi phí tiếp cận được tới thị trường khách du lịch phù hợp với sản phẩm du lịch hiện có hoặc sẽ phát triển trong tương lai.

Những khái niệm chủ yếu trong việc đo lường nhu cầu là nhu cầu của thị trường và nhu cầu người bán sản phẩm du lịch. Nhu cầu của thị trường đối với một sản phẩm du lịch là tổng khối lượng sản phẩm du lịch mà nhóm khách hàng nhất định sẽ mua tại một địa bàn nhất định và trong một thời kỳ nhất định với một môi trường marketing nhất định và chương trình marketing nhất định. Dự báo thị trường thể hiện nhu cầu dự kiến của thị trường, chứ không phải nhu cầu cực đại của thị trường.

Ðánh giá nhu cầu hiện tại 

Những người phụ trách marketing sẽ cần ước tính tổng tiềm năng của thị trường, tiềm năng thị trường khu vực, tổng mức tiêu thụ của ngành và các thị phần. Tổng tiềm năng của thị trường là số lượng tiêu thụ cực đại mà tất cả các công ty có thể có được trong một ngành và trong một thời kỳ nhất định, với một mức nỗ lực marketing của ngành đã định và môi trường nhất định.

Người bán sản phẩm du lịch cũng cũng có được những dự báo do các chuyên gia thực hiện. Các chuyên gia ở đây bao gồm các đại lý, những người phân phối, những người cung ứng, các cố vấn marketing và các hiệp hội du lịch. Nhiều nhà cung cấp dịch vụ du lịch thường sử dụng những dự báo kinh tế và ngành của những tổ chức du lịch uy tín trên thế giới hoặc của các công ty chuyên về thu thập số liệu và phân tích dự báo

Thị trường, khúc thị trường và nhóm nhỏ thị trường 

Mọi thị trường đều có thể được phân ra thành các khúc thị trường, các nhóm nhỏ thị trường và cuối cùng là từng cá nhân. Khúc thị trường là những nhóm lớn có thể nhận biết được trong một thị trường, chẳng hạn như những người mua chương trình du lịch dài ngày, những người mua chương trình du lịch hạng sang…Các khúc thị trường thường thu hút một số đối thủ cạnh tranh, trong khi đó nhóm nhỏ thị trường chỉ thu hút một hay một vài đối thủ cạnh tranh. Những người làm marketing trên nhóm nhỏ thị trường chắc chắn hiểu được những nhu cầu của nhóm nhỏ thị trường đó đến mức độ là các khách hàng của họ sẵn sàng trả giá cao hon. Những công ty năng động đang chuyển nhanh qua marketing nhóm nhỏ thị trường. Hiện nay Tập đoàn khách sạn Accor có nhiều loại khách sạn như Sofitel, Novotel, Pullman, Mercure, mỗi khách sạn nhằm phục vụ một nhóm khác hàng khác nhau [Phillip Kotler, 2009]. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Ðể phân khúc thị trường người tiêu dùng người ta sử dụng những biến khác nhau. Những biến này thuộc hai nhóm lớn. Một số người nghiên cứu cố gắng hình thành các khúc thị trường, bằng cách xem xét những đặc điểm của người tiêu dùng. Họ sử dụng phổ biến những đặc điểm nhân khẩu học, địa lý và tâm lý. Sau đó họ nghiên cứu xem những nhóm khách hàng đó có những nhu cầu hay phản ứng với sản phẩm khác nhau không. Ví dụ, họ có thể nghiên cứu và những thái độ khác nhau của người hành nghề luật sư, những viên chức nhà nước và những nhóm người khác đối với sự an toàn của một chuyến du lịch mạo hiểm.

Xác định thị trường mục tiêu 

Xác định thị trường mục tiêu là quyết định phân biệt các nhóm khác nhau tạo nên thị trường và phát triển những sản phẩm và marketing hỗn hợp tương ứng cho từng thị trường mục tiêu. Việc phân khúc thị trường làm bộc lộ những khúc thị trường có khả năng khai thác. Bây giờ người bán sản phẩm du lịch phải đánh giá các khúc thị trường khác nhau và quyết định lấy bao nhiêu khúc thị trường và những khúc thị trường nào làm mục tiêu. Khi đánh giá các khúc thị trường khác nhau, phải xem xét ba yếu tố cụ thể là quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường, mức độ hấp dẫn về cơ cấu của khúc thị trường, những mục tiêu và nguồn tài nguyên của người bán sản phẩm du lịch.

Có những khúc thị trường có khối lượng tiêu thụ lớn và đem lại doanh thu cao hoặc đem lại số lượt khách nhiều. Mức tăng trưởng của thị trường mục tiêu thường là một đặc điểm hấp dẫn, vì nói chung, các người bán sản phẩm du lịch đều muốn có mức tiêu thụ và lợi nhuận ngày càng tăng. Song các đối thủ cạnh tranh sẽ nhanh chóng xâm nhập những khúc thị trường đang tăng trưởng và làm giảm đi khả năng sinh lời của chúng.

Sau khi đánh giá các khúc thị trường khác nhau và đánh giá năng lực của bản thân nhà cung cấp dịch vụ du lịch, bước tiếp theo là lựa chọn khúc thị trường xem sẽ phục vụ bao nhiêu thị trường và là  những thị trường nào, tức là lựa chọn thị trường mục tiêu. Sau đó nhà cung cấp dịch vụ du lịch sẽ cân nhắc phục vụ thị trường mục tiêu như thế nào. Họ có thể phục vụ một thị trường mục tiêu riêng biệt với một hoặc một số sản phẩm du lịch hoặc một số thị trường mục tiêu để phục vụ một sản phẩm riêng biệt. Ví dụ đối với việc thu hút khách du lịch từ một quốc gia khác đến Việt Nam, dựa trên chiến lược phát triển sản phẩm du lịch biển đảo, Việt Nam có thể hướng tới các nhóm thị trường khách trung lưu của quốc gia đó đi nghỉ tại những bãi biển hàng đầu của Việt Nam trong những khu nghỉ dưỡng đẳng cấp quốc tế.

1.2.2. Các hoạt động nhằm thu hút khách du lịch Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

1.2.2.1. Các giải pháp về cơ chế, chính sách

Các cơ chế, chính sách của chính phủ có tác động rất lớn đối với sự phát triển của ngành du lịch nói chung và đối với hiệu quả của các hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế nói riêng. Các quốc gia có nền kinh tế du lịch phát triển đều đã và đang có các chính sách hỗ trợ phát triển du lịch của chính phủ các quốc gia đó.

Các chính sách chính phủ ban hành để vận hành nền kinh tế xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của du lịch. Chúng sẽ quyết định số lượng khách đến, việc sử dụng và bảo tồn hiệu quả các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, sử dụng và đào tạo hiệu quả nguồn nhân lực, thu hút đầu tư ngành từ nước ngoài, quyết định chi phí marketing du lịch quốc gia, các chính sách về doanh nghiệp du lịch, thuế, tiền lương, bảo hiểm.

Xét từ góc độ thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, chính sách của chính phủ có ảnh hưởng quyết định đến số lượt khách thăm Việt Nam thông qua chính sách về miễn thị thực nhập cảnh đối với một số quốc tịch hoặc chính sách hạn chế nhập cảnh đối với một số quốc tịch. Việc xin thị thực nhập cảnh một quốc gia đối với công dân tại một số nước nhất định thường tạo ra một số khó khăn ban đầu cho chuyến du lịch của các công dân đó. Việc xin visa thường mất một số ngày nhất định để nhận kết quả, không phải ở thành phố nào nơi khách du lịch xin thị thực cũng có sứ quán và lãnh sự quán của nước điểm đến nên việc giao dịch giấy tờ gặp nhiều trở ngại. Ngoài ra còn có một số rào cản về chính trị, văn hóa và tôn giáo khiến cho việc nhập cảnh vào một nước trở nên khó khăn hơn, Nhà nước có thể có những chính sách hạn chế các rào cản này.

Chính phủ cũng có vai trò quyết định đối với một số lĩnh vực du lịch nhạy cảm ví dụ như việc đầu tư và kinh doanh sòng bạc. Kinh doanh sòng bài là một hình thức thu hút khách du lịch khá hiệu quả tại một số quốc gia hiện nay. Việc chính phủ có thể ban hành một chính sách phù hợp nhằm quản lý hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội đối với các sòng bài có thể khiến thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch, tăng nguồn khách cao cấp, sử dụng dịch vụ cao cấp, góp phần thu hút thêm nhiều du khách quốc tế.

Các chính sách của chính phủ đối với lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế doanh thu từ hoạt động du lịch, ưu đãi thuế đối với đầu tư du lịch có tác động đối với cầu du lịch của khách quốc tế đến một nước. Trong giai đoạn cạnh tranh mạnh giữa các quốc gia khi muốn trở thành các điểm du lịch hàng đầu, các chính sách về thuế có thể làm tăng chi phí sản phẩm du lịch, tăng chi phí doanh nghiệp khiến cầu giảm xuống và nguồn khách chuyển hướng sang các nước lân cận có giá sản phẩm dịch vụ cạnh tranh hơn do có chính sách ưu đãi về thuế.

Cơ chế chính sách của chính phủ cũng quyết định việc thu hút đầu tư du lịch từ các nhà đầu tư du lịch quốc tế và cả trong nước. Để khuyến khích đầu tư cho du lịch, chính phủ thường có các cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, đất đai cho các doanh nghiệp. Việc xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch, vận hành các hãng hàng không cần một số vốn lớn nên nếu nhà nước không có chính sách phù hợp để thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài thì khó có thể hoàn chỉnh được hệ thống dịch vụ phục vụ khách du lịch quốc tế, tạo tiền đề cho việc thu hút khách du lịch quốc tế về sau.

Các cơ chế chính sách của nhà nước trong quy hoạch phát triển vùng miền trong ngắn hạn và dài hạn có tác động lớn đến quy hoạch phát triển ngành du lịch. Việc xây dựng vùng trọng điểm du lịch, thành phố du lịch, các cảng biển, sân bay quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng cho các hoạt động thu hút Khách du lịch. Lúc này nhà nước không những đóng vai trò là người ban hành cơ chế chính sách mà còn là người thực hiện xây dựng, đầu tư các công trình quy hoạch mang tính quốc gia có tác dụng thu hút khách du lịch. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Để thực hiện một chiến dịch thu hút khách quốc tế thì nhà nước với vai trò quản lý điểm đến phải có các hoạt động marketing để tăng lượng khách du lịch về số lượng cũng như chất lượng. Nhà nước là cơ quan thực hiện các chiến dịch quảng cáo tiếp thị cho quốc gia trên cơ sở chi phí duyệt hàng năm từ ngân sách cấp cho ngành hoặc theo từng chương trình cấp quốc gia. Chi phí cho các hoạt động truyền thông, quảng cáo, tổ chức xúc tiến thường rất lớn.  Ta mặc định các chi phí marketing đó được sử một cách hợp lý thì việc quyết định mức chi tiêu cho hoạt động marketing quốc gia sẽ quyết định đến quy mô của các hoạt động, từ đó có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả của hoạt động thu hút khách du lịch.

Một trong những nhân tố quan trọng để thu hút khách du lịch quốc tế là vai trò của các doanh nghiệp tư nhân. Để tổ chức thu hút khách du lịch hiệu quả và bền vững, nhà nước phải có những chính sách khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp du lịch của tư nhân thông qua việc khuyến khích thành lập và phát triển các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, hạn chế các doanh nghiệp kinh doanh du lịch không hiệu quả. Nhà nước cũng có trách nhiệm tạo ra cơ chế phối hợp hiệu quả giữa doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức du lịch thuộc chính phủ hoặc không thuộc chính phủ.

Các chính sách của nhà nước trong việc đảm bảo tự do tôn giáo, tôn trọng tín ngưỡng và chủng tộc khác biệt, đảm bảo an ninh an toàn điểm đến, chống kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, giới tính cũng là tiền đề hỗ trợ cho các chính sách thu hút du khách, phá bỏ rào cản về văn hóa và địa lý giữa các quốc gia, nhất là trong quá trình đi tìm kiếm thị trường khách mới.

1.2.2.2. Các giải pháp marketing

Ngoài việc ban hành các chính sách và tạo ra cơ chế thuận lợi cho hoạt động phát triển du lịch nói chung và hiệu quả của hoạt động thu hút khách du lịch nói riêng. Nhà nước mà đại diện là các cơ quan quản lý du lịch sẽ phải thực hiện các hoạt động marketing nhằm thu hút khách du lịch quốc tế. Tùy theo tình hình thực tế, định mức chi phí marketing và nhu cầu phát triển du lịch theo từng mức độ khác nhau, một chiến lược marketing hợp lý hiệu quả phải được đặt ra để thực hiện.

Để đạt một số lượt khách nào đó từ một thì trường bất kỳ thì cơ quan quản lý nhà nước hoặc doanh nghiệp du lịch sẽ phải phân tích vị trí của doanh nghiệp mình, của điểm đến mà mình quản lý, nghiên cứu thị trường và các phân đoạn thị trường. Các công việc đó là những phương cách để đạt đến mục tiêu thu hút khách. Hệ thống các công việc đó chính là việc lập ra chiến lược marketing và việc thực hiện chiến lược đó được coi là xương sống của hoạt động thu hút khách du lịch. Việc thực hiện chiến lược marketing bao gồm việc lựa chọn thị trường mục tiêu, các biện pháp truyền thông quảng bá, các kênh phân phối và chiến lược về giá cả hay nói cách khác nó là sự kết hợp giữa việc xác định thị trường mục tiêu và marketing hỗn hợp.

Ở phần trên chúng ta đã tìm hiểu về việc nghiên cứu thị trường và xác lập thị trường mục tiêu. Marketing hỗn hợp là công cụ để tiếp cận thị trường khách du lịch.

Marketing hỗn hợp bao gồm các nhân tố có thể kiểm soát được được chọn lọc để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng [Alistair Morison, 1996]. Các yếu tố phổ biến trong marketing hỗn hợp bao gồm chiến lược về sản phẩm, giá cả, kênh phân phối, và truyền thông quảng bá. Mặc dù biện pháp marketing hỗn hợp thường hay được các doanh nghiệp áp dụng, nhưng với quy mô quốc gia và vai trò quản lý nhà nước, marketing hỗn hợp sẽ được thực hiện theo một quy mô khác về mặt huy động nguồn lực và thời gian triển khai. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Chính sách về sản phẩm: Như các sản phẩm thuần túy khác, sản phẩm du lịch có một vòng đời sống bao gồm các giai đoạn : giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn trưởng thành và giai đoạn suy thoái. Các kinh doanh và quản lý du lịch của một quốc gia phải nghiên cứu kỹ về vòng đời của nhóm sản phẩm du lịch mà họ thu hút khách du lịch để có những bước tiếp cận khách hàng hợp lý trong việc xây dựng sản phẩm, phối hợp quảng bá sản phẩm đó.

Chính sách về giá: Giá cả là số tiền khách hàng trả cho sản phẩm. Giá cả rất quan trọng vì nó sẽ quyết định lợi nhuận và sau đó là sự sống còn của doanh nghiệp và tổ chức du lịch và hiệu quả của điểm đến du lịch. Hơn nữa giá cả có tác động trực tiếp đến cầu sản phẩm dịch vụ. Để thu hút khách du lịch không thể coi nhẹ yếu tố giá sản phẩm dịch vụ du lịch. Đối với quy mô quốc gia, việc định giá trong marketing hỗn hợp không phải là quyết định mức giá nào cho từng loại sản phẩm mà là kết hợp các cơ chế chính sách áp dụng cho từng vùng, từng lĩnh vực trong việc tính giá thành sản phẩm làm cơ sở để các doanh nghiệp có thể đưa ra được các mức giá phù hợp cho từng thời kỳ, từng loại sản phẩm.

Chính sách quảng bá trong du lịch tất cả các phương pháp truyền thông có thể sử dụng để cung cấp thông tin về sản phẩm hoặc điểm đến nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng tiềm năng. Các hoạt động quảng bá bao gồm quảng cáo, tham gia triển lãm, liên kết, các chương trình xúc tiến, các chương trình khuyến mại giảm giá, ưu đãi, các chuyến famtrip,.. Quảng cáo bao gồm truyền thông phải trả tiền qua truyền hình, phát thanh, điện ảnh, internet, ấn phẩm và biển quảng cáo ngoài trời. Ngoài quảng cáo thì tổ chức quan hệ công chúng bao gồm tổ chức thông cáo báo chí, hợp đồng tài trợ, triển lãm, hội nghị, hội thảo, hội chợ du lịch và tổ chức sự kiện. Quảng cáo truyền miệng (là bất kỳ thông tin không chính thức được nghe kể lại từ những khách bình thường về sản phẩm du lịch. Quảng cáo truyền miệng có vai trong quan trọng trong việc thu hút khách, tuy nhiên có được những quảng cáo truyền miệng tích cực từ du khách, các tổ chức du lịch phải tổ chức thực hiện tốt tất cả các khâu trong việc tuyên truyền, bán sản phẩm và hậu mãi chứ không chỉ bó gọn trong giai đoạn quảng bá.

Chính sách phân phối là quá cung cấp sản phẩm tại một địa điểm thuận tiện cho người tiêu dùng. Do đặc thù của sản phẩm du lịch quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm du lịch diễn ra đồng thời. Khác với các sản phẩm thông thường khác, việc sản xuất hầu hết các dịch vụ du lịch chỉ được thực hiện khi khách du lịch có mặt tại nơi cung cấp dịch vụ; việc tiếp nhận và tiêu dùng sản phẩm du lịch của khách du lịch cũng được thực hiện đồng thời với quá trình sản xuất. Sản phẩm du lịch có tính không thể chuyển dịch. khách du lịch chỉ có thể tiến hành tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ du lịch tại nơi sản xuất chứ không phải như những sản phẩm vật chất khác là có thể chuyển khỏi nơi sản xuất đến nơi khác để tiêu thụ. Chính vì đặc điểm này mà vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện hoạt động thu hút khách du lịch là vô cùng quan trọng. Nó không giới hạn trong các hoạt động marketing đơn thuần nữa mà có quan hệ trực tiếp tới các quyết sách lớn của cơ quan nhà nước như việc ban hành các chính sách về xuất nhập cảnh, việc khuyến khích mở các đường bay mới, xây dựng các cảng hàng không và biển quốc tế, xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp cho việc phát triển du lịch.

1.2.2.3. Các giải pháp bổ trợ khác Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Để thu hút một cách có hiệu quả khách du lịch quốc tế đến, ngoài các giải pháp về cơ chế chính sách đối với ngành du lịch, các giải pháp kỹ thuật về marketing thì còn có một số giải pháp bổ trợ khác.

Giải pháp đào tạo, giáo dục: Cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp có thể phối hợp với cơ quan quản lý giáo dục dạy đề tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ trong ngành du lịch. Chất lượng nguồn nhân lực làm việc trong ngành trước hết có thể nâng cao chất lượng phục vụ và như vậy sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, phục vụ khách một cách tốt hơn chuyên nghiệp hơn, đẩy mạnh quảng cáo truyền miệng và làm cơ sở để các chương trình truyền thông quảng bá có căn cứ thu hút khách du lịch. Chất lượng nguồn nhân lực của chính các cơ quan xúc tiến, truyền thông cũng có tác động không nhỏ đối với các chương trình thu hút du khách.

Giải pháp liên ngành: Cần thúc đẩy công tác ngoại giao với các quốc gia và tổ chức trên thế giới, trực tiếp và gián tiếp thu hút thêm nguồn khách du lịch. Thiết lập và củng cố quan hệ ngoại giao với một quốc gia ngoài mục tiêu là nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế thúc đẩy giao lưu văn hóa, kinh tế mà còn tạo ra dòng khách du lịch di chuyển giữa các bên, khai thác tối đa các nhóm khách trong thị trường mục tiêu. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự, giáo dục cũng là biện pháp tốt để thu hút nguồn khách công vụ giữa hai nước tạo tiền đề mở rộng mối quan hệ, mở rộng phạm vi hiểu biết lẫn nhau, gia tăng lượng khách tiềm năng và góp phần tăng hiệu quả của các biện pháp marketing trong việc thu hút khách.

1.2.3. Kinh nghiệm thu hút khách du lịch Israel của Thái Lan

Thái Lan là một nước trong khu vực có thành công nhất định trong trong việc thu hút khách du lịch Israel. Năm 2013 theo số liệu của Tổng cục Du lịch Thái Lan, tổng lượt khách du lịch Israel đến Thái Lan là 133.000 khách gấp 10 lần so với Việt Nam, tổng chi tiêu cho du lịch của khách Israel tại Thái Lan đạt gần 10 triệu đô-la Mỹ.

Thái Lan là nước quan tâm đến việc tham gia các hội chợ du lịch thế giới.

Họ cho đây là kênh chủ yếu để thu hút khách du lịch cá nhân và các hãng gửi khách. Ngoài các sự kiện hội chợ du lịch tầm thế giới, Thái Lan thường xuyên tham gia hội chợ hàng năm International Mediterranean Tourism Market (IMTM) nhằm khai thác nguồn khách Trung Đông nói chung và Israel nói riêng. Thái Lan cũng ủy quyền cho hãng hàng không Bangkok Airways làm đại diện tại các hội chợ khu vực Trung Đông và Israel. Thái Lan ban hành chính sách miễn thị thực đối với khách du lịch Israel đi bằng đường hàng không là 30 ngày và đường bộ là 15 ngày lưu trú tại Thái lan. Đây là chính sách khá mở nhằm thu hút thị trường khách Israel.

Hai hãng hàng không đại diện của Thái Lan là Thai Airways và Bangkok Airways liên kết với các hãng hàng không Israel như El Ah Airlines thường xuyên có các chuyến bay chuyển khách Israel đi du lịch nước ngoài đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Thái Lan thường xuyên tổ chức các chuyến famtrip, presstrip cho các đối tác Israel và các nước trong khu vực đến tham quan, đánh giá các điểm du lịch của Thái Lan. Chuyến presstrip của các hãng truyền thông Israel đến Pattaya năm 2014 do cơ quan Tổng cục du lịch Thái Lan phối hợp với Tổng cục Du lịch Israel và Hãng hàng không Jordanian tháng 5 năm 2015 là một ví dụ điển hình cho hoạt động quan hệ công chúng chủ động của Thái lan. Tổng cục du lịch Thái Lan, Bộ Du lịch và Khách sạn Myanmar, Hãng hàng không Bangkok Airways cũng phối hợp tổ chức Mega Joint Famtrip thu hút 50 hãng lữ hành và truyền thông trong đó có các đơn vị của Israel tham dự.

Thái Lan cũng tập trung vào việc đa dạng hóa sản phẩm du lịch, phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng dựa trên tài nguyên thiên nhiên và nhân văn sẵn có nhằm thu hút khách du lịch Israel. Trong đó, Thái Lan xây dựng và quảng bá các sản phẩm du lịch chữa bệnh, sinh thái, ẩm thực và mua sắm. Đây là những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách du lịch Israel.

Tiểu kết chương 1 Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã điểm lại các nội dung nghiên cứu thị trường khách du lịch trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm nhân khẩu, đặc điểm tiêu dùng. Đây là những kiến thức cơ bản nhất khi nghiên cứu một thị trường khách du lịch. Trong quá trình phân tích, hệ thống lại, tác giả cũng đã cố gắng đi sâu những kiến thức thực sự phục vụ đề tài nghiên cứu. Tác giả đã nêu ra các nội dung cơ bản của công tác xác định thị trường mục tiêu và công tác thu hút khách du lịch từ một thị trường khách nhất định. Sau đó tác giả phân tích về mặt lý thuyết ba nhóm giải pháp về mặt nguyên tắc cần phải thực hiện trong quá trình thu hút khách du lịch đến một điểm đến. Các nhóm giải pháp này khi áp dụng vào tình hình thực tế sẽ được kết hợp hoặc điều chỉnh sao cho phù hợp. Cuối cùng, để hỗ trợ cho hệ thống lý luận về thị trường, nghiên cứu thị trường và áp dụng các giải pháp thu hút khách, tác giả đã sưu tầm một số kinh nghiệm của nước láng giềng Thái Lan trong việc thu hút khách du lịch Israel nhằm làm rõ thêm phần lý luận và làm tiền đề nghiên cứu cũng như đưa ra đề xuất ở những chương sau. Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993