Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai để phục vụ hoạt động du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

LỜI MỞ ĐẦU

Ngành Du lịch là một ngành Kinh tế ra đời khá sớm tuy nhiên du lịch cũng là một ngành kinh tế khá non trẻ trong nền kinh tế nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trên thực tế nhà nước ta đã và đang phấn đấu đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đưa đất nước mình ra khái danh sách những nước nghèo nàn lạc hậu, tạo dựng nền tảng vững chắc cho đất nước với một nền công nghiệp hiện đại thì du lịch cũng đóng mét vai trò hết sức quan trọng.

Du lịch là một ngành xuất khẩu tại chỗ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhắc đến du lịch, chúng ta không thể quên Thomas Cook – ông tổ của ngành Du lịch đã đặt nền móng cho sự phát triển các hãng du lịch hiện đại.Du lịch hiện đại phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới sau chiến tranh thế giới II mà đặc biệt là đầu những năm 60 của thế kỷ 20, ở nhiều quốc gia hàng ngàn công ty lữ hành và đại lý du lịch đã hình thành và phát triển. Chẳng hạn, ở Anh có trên 4000 công ty và đại lý du lịch, ở Mỹ có hơn 6000, ở Pháp có khoảng 1000…các công ty này có phạm vi và quy mô hoạt động rất rộng. Tính chất quốc tế của du lịch cũng đòi hỏi sù phối hợp trên quy mô lớn trong việc tổ chức, phục vụ, giải quyết tình huống. Do vậy, không chỉ có công ty lữ hành quốc gia mà cả những công ty lữ hành mang tầm cỡ quốc tế ra đời và phát triển.

Rất nhanh chóng ngành Du lịch phát triển mạnh mẽ từ Châu Âu đến các châu lục khác. Hiện nay, ngành Du lịch cũng phát triển rất mạnh mẽ ở Đông Nam á: Thái Lan, Malaysia, Philipin,… và Việt Nam còn là một quốc gia hứa hẹn nhiều tiềm năng du lịch. Những năm gần đây do điều kiện kinh tế phát triển chất lượng đời sống nhân dân được nâng cao về mọi mặt và xuất hiện nhiều nhu cầu mới: học tập, tiếp cận tri thức mới, vui chơi, giải trí, …những điều này đã góp phần tạo cho ngành Du lịch những lợi thế để phát triển. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Trong những năm qua nhờ chính sách mở cửa tạo cho Du lịch Việt Nam mét diện mạo mới, lượng khách du lịch quốc tế và nội địa tăng lên đáng kể : Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), trong 9 tháng đầu năm nay, tổng số khách du lịch đến Việt Nam đạt xấp xỉ 11,7 triệu lượt, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2023. Khách du lịch nội địa đạt 62,1 triệu lượt. Tổng thu từ khách du lịch đạt 451,2 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2023. Cũng theo số liệu khảo sát, lượng khách quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng không đạt 84%, số liệu thống kê năm 2023. Trong khi đó, đường bộ và đường thủy hiện vẫn được các du khách Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản ưa chuộng. Đại diện Tổng cục Du lịch cho biết ngành Du lịch tiếp tục phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế và nội địa, hoàn thành mục tiêu được giao trong năm 2024: Đón, phục vụ khoảng 15,7 triệu lượt khách quốc tế, 80-82 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt 620.000 tỷ đồng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

1. Lí do chọn đề tài

Ngày nay du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Bắt nhịp cùng sự đổi mới đất nước hơn 20 năm qua ngành du lịch đã có nhiều tiến bộ và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Những chỉ tiêu về lượng khách, thu nhập, tỷ trọng GDP và việc làm đã khẳng định vai trò của ngành Du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Việt Nam là một nước nông nghiệp, diện tích đất đai, sông ngòi lớn nên loại hình du lịch sinh thái đang được chú trọng phát triển với nhiều loại sản phẩm khác nhau để tạo nên một sức hút mới cho ngành du lịch.

Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế. Du lịch đang ngày càng nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch là những vấn đề nhận được nhiều sự chú ý và thảo luận rộng rãi. Một cách tiếp cận đa chiều về đánh giá chất lượng du lịch sẽ góp phần hình thành các giải pháp đúng đắn nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam

Sapa là thị trấn thuộc tỉnh Lào Cai, Việt Nam, đây là một điểm du lịch nổi tiếng từ đầu thế kỉ 20 đến nay. Tạo hóa thiên nhiên ưu ái ban tặng Sapa một bức tranh phong cảnh vừa lãng mạn vừa hũng vĩ, bao la với những rặng núi trùng điệp vờn mây đón gió, những thửa ruộng bậc thang ngút tầm mắt, những hàng thông đứng trầm lặng chứng kiến bao câu chuyện từ thuở Đông Dương trong lòng thị trấn,… Khí hậu Sapa quanh năm mát mẻ cùng những dấu ấn bản địa độc đáo – trong đó phải kể đến nhất là văn hóa của hai dân tộc thiếu số lớn tại Sa Pa là người H’mông và người Dao – kết hợp với không gian kiến trúc châu Âu cổ điển. Tất cả các yếu tố trên đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho các du khách muốn khám phá vùng đất này.

Sapa là một tỉnh miền núi phía bắc có nhiều sinh sống ở đây, mỗi dân tộc lại có một nét văn hóa riêng, một vẻ đẹp riêng. Người H’mông là dân tộc sinh sống đông nhất ở Sa Pa, bản làng người H’mông sinh sống đông nhất là Cát Cát – San Sả Hồ cách thị trấn Sa Pa 2 Km. Người H’mông ở Sapa có nền văn hóa và nhiều đặc điểm rất đặc biệt. Người H’mông có rất nhiều phong tục và nét đặc biệt trong phong tục và đời sống hàng ngày. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Là người học ngành văn hóa du lịch, lên em muốn tìm hiểu sâu hơn về văn hóa tộc người H’mong nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng của nền văn hóa dân tộc đối với du lịch. Từ nét văn hóa của người H’mong ở Sapa Lào cai cùng với Giảng viên hướng dẫn Cô: Vũ Thanh Hương em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình là : “Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai để phục vụ hoạt động du lịch.’’

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

2.1 Mục tiêu:

  • Tìm hiểu, khai thác văn hóa tộc người H’mong qua đó giữ gìn và phát triển văn hóa đó để phục vụ hoạt động du lịch.

2.2 Nhiệm vụ:

  • Nghiên cứu tổng quan về du lịch và văn hóa người  H’mong (vị trí địa lí, văn hóa, dân cư  …vv…)
  • Nghiên cứu thực trạng khai thác văn hóa tộc người H’mong phục vụ hoạt động du lịch.
  • Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm khai thác tốt hơn văn hóa tộc người H’mong phục vụ hoạt động du lịch.

3. Phương pháp nghiên cứu

  • Phướng pháp nghiên cứu thực địa
  • Phương pháp thu thập thông tin
  • Điều tra xã hội học

4. Đóng góp mới của đề tài

Đề tài khóa luận có những đóng góp chủ yếu sau đây:

  • Góp phần khai thác các yếu tố văn hóa đã và đang có, giữ gìn và phát triển các nét văn hóa theo hướng đề tài khai thác văn hóa tộc người H’mong để phục vụ hoạt động du lịch.
  • Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển văn hóa dân tộc H’mong, phát hiện được những thế mạnh và những hạn chế cần phải khắcphục.
  • Trình bày được thực trạng phát triển văn hóa du lịch ở địa bàn nghiên cứu
  • Đề xuất được định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển mạnh hơn .

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận được thực hiện tại huyện Sapa, Lào Cai. Đề tài nghiên cứu khai thác văn hóa tộc người H’mong. Khả năng và điều kiện phát triển văn hóa du lịch của tộc người H’mong để phục vụ hoạt động du lịch.

6. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương như sau:

  • Chương 1: Cơ sở lí luận về Văn Hóa, Du lịch.
  • Chương 2: Khai thác Văn hóa tộc người H’mong ở Lài Cai Sapa.
  • Chương 3: Một số giải pháp giữ gìn và khai thác nét văn hóa tộc người H’mong để phục vụ hoạt động du lịch

Chương 1 Cơ sở lí luận về Văn Hóa, Du lịch

1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa tộc người

1.1 Khái niệm về văn hóa

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai hóa , đời sống tộc người H’mong Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Đề xuất các phương pháp khai thác, giữ gìn nét văn hóa vốn có của dân tộc H’mong phục vụ du lịch.

Loại hình hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.

Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.

Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người nên sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của mỗi chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Do đó, văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Đây cũng là quy luật của xã hội có giai cấp, vì rằng phương thức sản xuất tinh thần, văn hóa không thể không phản ánh và không bị chi phối bởi phương thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác nhau.

Nói đến văn hóa là nói đến khía cạnh ý thức hệ của văn hóa, tính giai cấp của văn hóa và trên cơ sở đó hiều rõ sự vận động của văn hóa trong xã hội có giai cấp. Với cách tiếp cận như vậy, có thể quan niệm: nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế – chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa.

Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền. Văn hóa luôn có tính kế thừa, sự kế thừa trong văn hóa luôn mang tính giai cấp và được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh tế, chính trị của nó.

Một nền kinh tế lành mạnh được xây dựng trên những nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là điều kiện để xây dựng một nền văn hóa tinh thần lành mạnh, và nguợc lại, một nền kinh lế được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng của chế độ tư hữu với sự phân hóa sâu sắc thì sẽ không có được nền văn hóa lành mạnh.

Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa, thì chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hóa.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của nó trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của xã hội đó.

1.1.2. Định nghĩa văn hóa Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… “văn hóa” bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc. Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem văn hóa từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là góc độ hẹp, mà ông gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn này, văn hóa sẽ là kiến thức của con người và xã hội. Nhưng, ông không mặn mà với cách hiểu này vì hiểu như thế thì người nông dân cày ruộng giỏi nhưng không biết chữ vẫn bị xem là “không có văn hóa” do tiêu chuẩn văn hóa ở đây là tiêu chuẩn kiến thức sách vở. Còn góc nhìn thứ hai là “góc nhìn dân tộc học”. Với góc nhìn này, văn hóa được xem là toàn bộ cuộc sống -cả vật chất, xã hội, tinh thần- của từng cộng đồng; và văn hóa của từng cộng đồng tộc người sẽ khác nhau nếu nó được hình thành ở những tộc người khác nhau trong những môi trường sống khác nhau. Văn hóa sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sự kiểm soát của xã hội thông qua gia đình và các tổ chức xã hội, trong đó có tôn giáo.

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”…

Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ,… đến âm nhạc, pháp luật… Còn các định nghĩa của F. Boas, Nguyễn Đức Từ Chi, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống là văn hóa. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.

1.1.3. Đặc trưng và chức năng của văn hóa

  • Văn hóa phải có tính hệ thống: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.

Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của văn hóa xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng tính ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội – có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hóa (nền văn hóa).

  • Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là văn hóa có tính giá trị:

Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mọi mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan- phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.

Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.

  • Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh:

Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội do con người sáng tạo với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất hoặc tinh thần.

Do mang tính chất nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với   Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.

  • Văn hóa còn có tính lịch sử:

Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo nên văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng con người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận… Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị . Mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng là chức  năng điều chỉnh xã hội. Giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.

1.1.4. Khái niệm về tộc người và văn hóa tộc người

1.1.4.1. Khái niệm

  • Khái niệm về tộc người:

Tộc người (Ethnic) là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá văn hóa, có mối quan hệ nguồn gốc, có chung ý thức tự giác tộc người và tên tự gọi.

Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người có chung tiếng mẹ đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc – ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa này, tộc người là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung các đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đây đó trên thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ song lại cách xa nhau về nhiều mặt, như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia khác nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)… thì liệu họ có cùng một tộc người kg, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng một ngôn ngữ, hay họ là một tộc người được chia ra làm nhiều tộc người nhỏ?…

Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết với nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân chủng, ngôn ngữ, chính trị,… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn hoá chủ yếu – một nền văn hoá riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hoá riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình.

  • Văn hóa tộc người: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Đặc điểm thứ nhất của văn hoá tộc người là tính khép kín, biệt lập. Tính khép kín là đặc tính chung của các làng tiểu nông. Trước hết về mặt địa lý, các tộc người cư trú rải rác trên sườn núi, giao thông đi lại rất khó khăn nên càng tăng thêm tính biệt lập của tộc người. Tộc người chỉ bao gồm từ một đến vài ba dòng họ, các dòng họ này cư trú thành chòm xóm nên tạo ra sự xé lẻ của tộc đặc biệt, về thành phần tộc người. Tính khép kín của tộc người được đề cao. Kinh tế tộc người là kinh tế tự cung tự cấp. Một tộc nười cổ truyền có thể sản xuất ra tất cả các nhu yếu phẩm chỉ trừ muối và sắt. Kinh tế tộc người ít có sự trao đổi, mà lại khép kín trong làng nên nhu cầu giao lưu kinh tế ít có điều kiện phát triển. Do đó quá trình hình thành chợ vùng cao rất khó khăn. Những chợ sầm uất đông, có nhiều sản phẩm cũng là những chợ ở vùng biên giới (Phong Thổ – Lai Châu và Pha Long – Bắc Hà – Lào Cai). Còn các vùng Tây Bắc chỉ mới thành lập được vài ba chục năm nay.

Đặc điểm thứ hai của văn hoá tộc người là quản lý làng bằng cơ chế kết hợp giữa mệnh lệnh hành chính của chính quyền với tập quán pháp và hương ước của tộc. Trưởng tộc do dân bầu nhưng phải được thống lý chứng nhận. Trưởng tộc muốn quyết định những điều hệ trọng của làng phải tham khảo ý kiến của các già làng. Như vậy, cơ chế vận hành của làng, quyền lực của chính quyền và tính tự trị của làng. Sự ràng buộc người dân trong làng đều thông qua “luật” và “lệ”. Tuỳ theo từng lĩnh vực, người dân phải thiên về “luật” hoặc “lệ” nhiều hơn. Khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, đi lao dịch kiện cáo… thì người dân phải dựa và “luật”. Nhưng khi lao động công ích, ứng xử giao tiếp hàng ngày, người dân đều dựa vào các chuẩn mực của tập quán pháp và hương ước. Tuy nhiên các làng Hmông thường xa các trung tâm hành chính nên tính tự trị của làng cao. Và nhiều khi “phép vua thua lệ làng”.

Đặc điểm thứ ba của văn hoá tộc người là quan hệ dòng họ, quan hệ huyết thống nổi trội và nhiều khi chi phối quan hệ láng giềng. Sự phân bố các khu xóm, ngõ trong tộc người đều dựa theo nguyên tắc cùng dòng họ, cùng huyết thống. Mỗi dòng họ cư trú một chòm xóm riêng. Hệ thống tín ngưỡng, qui ước của dòng họ khá phong phú. Trong các lễ thức diễn ra ở tộc người, lễ thức cộng đồng dòng họ, gia đình phát triển hơn lễ thức của cộng đồng làng. Mọi ứng xử trong làng bên cạnh vấn đề dựa theo chuẩn mực của cộng đồng làng còn phải dựa theo chuẩn mực của dòng họ. Dư luận của làng nhiều khi không thống nhất mà còn có nhiều luồng đại diện cho các dòng họ khác nhau. Và quan hệ dòng họ còn vượt lên trên phạm vi cộng đồng làng, tạo thành sợi dây vô hình cố kết tộc người. Tuy nhiên, về các qui ước chung của làng xã, mọi thành viên thuộc dòng họ khác nhau trong làng của phải tôn trọng. Có như vậy quan hệ làng mới tồn tại không bị phá vỡ.

Đặc điểm thứ tư của văn hoá của một tộc người là thiếu tính ổn định. Nếu như các làng cư dân ruộng nước Tày, Thái, Giáy rất ổn định thì trái lại, làng của người Hmông cổ truyền luôn gắn liền với vấn đề du canh du cư. Bình quân một làng Hmông chỉ tồn tại từ 25 đến 30 năm là xảy ra sự chuyển cư một bộ phận dân làng hoặc cả làng. Nguyên nhân chính là do đất canh tác gần làng cạn kiệt, nương rẫy lại rất chật hẹp không đủ nuôi sống điểm dân cư đông đúc. Do đó qui mô của làng chỉ nhỏ, sức ép dân số tăng, tất yếu sẽ dẫn đến du canh. Người H’mông phải du canh dẫn đến du cư. Tính chất du cư thể hiện đậm nét ở làng Hmông. Đó là hệ thống nhà cửa không kiên cố. Nơi ở mật tập, ít chú ý đến các công trình chung. Hầu hết các gia đình H’mông không có vườn. Kinh tế vườn không phải là ngành kinh tế truyền thống của người H’mông. Do đó địa điểm lập làng chỉ thiên về nơi có khả năng canh tác truyền thống (phát rừng làm nương rẫy), gần nơi canh tác chứ ít chú ý đến vấn đề giao thông. Làng thiếu ổn định nên tạo ra nếp sống giản đơn, tạm bợ đối với người H’mông. Kiến trúc ngôi nhà hầu hết là làm kiểu nhà ngoãm. Chuồng gia súc, gia cầm ở ngày sát nơi ở của người H’mông. Ngay đến nới sinh hoạt tôn giáo, nơi thờ thần bản mệnh của người Tày, Việt là ngôi Đình. Còn nơi thờ thần “thổ địa” của người H’mông chỉ là tảng đảng đá to, hốc cây trong khu rừng cấm. Ngày lễ “nào xồng” của làng được diễn ra trên bãi cỏ trong rừng. Còn ngày hội “Gầu tào” của làng được tổ chức ngay sườn đồi, một khu đất tương đối bằng phẳng. Nhìn chung làng chưa có những kiến trúc công cộng đẹp, có qui mô.

1.1.4.2. Đặc trưng cơ bản của tộc người: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Để nhận thức chính xác và sâu sắc hơn về tộc người hay nhóm tộc người (group ethnique), điều quan trọng là phải hiểu được những đặc điểm của các yếu tố cấu thành của nó. Về vấn đề này, chúng ta có thể tiếp cận các yếu tố đặc trưng sau: Trước hết là yếu tố nhân chủng. Đây là yếu tố nền tảng của việc xác định nguồn gốc tộc người. Căn cứ vào yếu tố này chúng ta có thể xác định được các tộc người được sinh ra từ những bộ phận nào của nhân loại; chúng xuất hiện khi nào và hoà nhập vào nhau ra sao… Khi căn cứ vào yếu tố đặc trưng này, điều quan trọng là phải nc các thành phần lịch sử khác nhau của cư dân trong tộc người, chứ không phải chỉ là thu thập và phân tích các dữ liệu nhân chủng trực quan. Những thành phần cư dân ít nhiều có tính nguyên gốc, cùng với những thành phần cư dânđóng góp về sau làm thành cơ sở cho qt phát triển tộc người. Các phương hướng pha tạp, kết hợp kế cận hay chồng chéo của các thành phần cư dân sẽ soi sáng cho tình trạng hiện tại của tộc người.

Yếu tố dân số. Bất cứ tộc người nào cũng đều được xác định bằng số lượng người mà nó tập hợp. Chính vì vậy, những số liệu thống kê về dân số là đặc biệt quý giá để đo lường cả về mức độ tiến hoá của tộc người. Mặt hhác, chúng còn soi sáng cả về quá trình phát sinh, phát triển hay triển vọng của tộc người.

Yếu tố ngôn ngữ. Ngôn ngữ là tiêu chí cơ bản để phân biệt tộc người này với tộc người khác. Nó là sợi dây liên hệ đặc biệt giữa các thành viên của tộc người. Ngôn ngữ vừa là dấu hiệu bên ngoài, vừa là một yếu tố cấu kết bên trong của cộng đồng tộc người. Nó là sở hữu chung, tài sản chung của tộc người, là phương tiện chuyển tải nền văn hoá của tộc người.

Yếu tố lãnh thổ. Với tư cách là một xã hội toàn vẹn và tự lập, mỗi tộc người đều chiếm một phần lãnh thổ riêng trên bề mặt trái đất. Lãnh thổ là cái khung vật chất mà trong đó tộc người được cố định, thích nghi và cải biến môi trường tự nhiên. Lãnh thổ của các tộc người có sự khác nhau về hình thức và tuỳ thuộc vào khả năng và cung cách sinh sống của họ.

Yếu tố phương thức sản xuất. Mỗi tộc người đều hình thành trong nó một lối sống nhất định. Lối sống đó phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, phương thức sản xuất của riêng nó. Đó là công nghệ, tri thức, tín ngưỡng,…Phương thức sản xuất có khả năng chấn chỉnh lại lối sống tổng thể. Phương thức sản xuất là cái dễ biến đổi, nhưng là cái làm cho mỗi tộc người mang đặc trưng riêng, làm cho nó trở thành thuần nhất có cấu trúc riêng và phân biệt nó với các tộc người khác.

Yếu tố văn hoá và ý thức tộc người. Tộc người, với tư cách là công động người, tồn tại trên lãnh thổ của mình, có những nét độc đáo về văn hoá. Theo nghĩa rộng, văn hoá của tộc người là những cái “phi vật chất” bao gồm những di sản tinh thần của cộng đồng tộc người dưới tất cả các hình thức của nó. Nó dựa trên cái giá đỡ đặc biệt là ngôn ngữ. Bất cứ một thành viên nào của tộc người mà về mặt tinh thần được hình thành trước hết bởi ngôn ngữ thì đều có thể hoàn thiện thế giới quan của mình thông qua sự thanh lọc của văn hoá tộc người. Điều này tạo cho thành viên đó một nhân cách cơ sở mà trong nhiều trường hợp, anh ta không ý thức được. Nó tạo cho anh ta một tập hợp những tri giác, tình cảm và sự nhận biết về giá trị chung của cộng đồng tộc người. Đó chính là ý thức tộc người.

Yếu tố cơ sở kinh kế tộc người. Do cùng sinh sống trên một khu vực lãnh thổ đã hình thành nên cách ứng xử giống nhau trong sinh hoạt kinh tế, tạo ra một cơ sở kinh tế chung của tộc người. Từ đó, hình thành và phát triển các mối liên hệ, quan hệ kinh tế nội bộ tộc người. Mối liên hệ kinh tế là một trong những điều kiện để xuất hiện tộc người (cùng với lãnh thổ), là chất keo cố kết tộc người. Cơ sở kinh tế là đặc trưng, là nguyên nhân, điều kiện cho phát sinh, tồn tại của các loại hình thị tộc – bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự thay đổi các mối quan hệ và liên hệ kinh tế tộc người làm thay đổi các hình thái kinh tế – xã hội và ra đời các loại hình cộng đồng tộc người khác nhau.

Có các đặc trưng văn hóa tộc người. Quá trình sinh tồn, ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội đã tạo ra các đặc trưng văn hóa riêng của từng tộc người và trở thành bản sắc tộc người. Văn hóa tộc người thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao giờ cũng mang cốt cách, bản sắc riêng, phân biệt với văn hóa các tộc người khác. Đặc trưng văn hóa truyền từ đời này sang đời khác tạo sự cố kết tộc người, là yếu tố phân biệt tộc người sâu sắc nhất nên văn hóa là tiêu chí quan trọng nhất để xác định tộc người. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

1.1.4.3. Ngôn ngữ tộc người:

Có thể ví Việt Nam như hình ảnh thu nhỏ của bức tranh ngôn ngữ ở Ðông Nam á. Bởi lẽ, 54 dân tộc ở Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ của 5 ngữ hệ khác nhau ở khu vực Ðông Nam Á:

Ngữ hệ Nam Á, với 2 nhóm:

  • Nhóm ngôn ngữ Việt – Mường có 4 dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt.
  • Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ-me có 21 dân tộc: Khơ-me, Ba-na, Cơ-ho, Xơ-đăng, Hrê, Mnông, Xtiêng, Khơ-mú, Bru-Vân Kiều, Cơ-tu, Ta-ôi, Mạ, Gié-Triêng, Co, Chơ-ro, Xinh-mun, Kháng, Mảng, Rơ-măm, Brâu, Ơ-đu.
  • Ngữ hệ Nam đảo có 5 dân tộc: Gia-rai, Ê-đê, Chăm, Ra-glai, Chu-ru.
  • Ngữ hệ Thái – Ka-đai, với 2 nhóm:
  • Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Sán Chay (nhóm Cao Lan), Giáy, Lào, Lự, Bố Y.
  • Nhóm ngôn ngữ Ka-đai có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.
  • Ngữ hệ Hmông – Dao có 3 dân tộc: Hmông, Dao, Pà Thẻn.
  • Ngữ hệ Hán – Tạng, với 2 nhóm:
  • Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc: Hoa, Sán Dìu, Ngái, và nhóm Sán Chỉ (thuộc dân tộc Sán Chay).
  • Nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến có 6 dân tộc: Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Lô Lô, Cống, Si La.

Ðương nhiên, mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ của mình. Tiếng Việt, chữ Việt được sử dụng phổ thông và là ngôn ngữ chính thức trong lĩnh vực hành chính của quốc gia. Chữ Việt hiện dùng được sáng tạo từ thế kỷ 17, trên cơ sở dùng mẫu tự La-tinh. Bên cạnh đó, gần ba chục dân tộc thiểu số có chữ viết, nhưng khác nhau về nguồn gốc, cơ sở tự dạng, thời gian xuất hiện, tính hoàn thiện và mức độ phổ biến. Nhiều dân tộc mới có chữ viết sớm muộn khác nhau trong thế kỷ 20, cũng dùng hệ thống tự dạng La-tinh, như chữ của các dân tộc Ê-đê, Gia-rai, Hmông, Cơtu v.v.. Một số dân tộc đã sử dụng chữ viết từ lâu đời, theo 2 hệ thống văn tự hoàn toàn khác nhau: Thuộc hệ thống chữ Sanskrit/Pali là chữ Chăm cổ, chữ Thái cổ, chữ Khơ-me, chữ Lào, chữ Lự. Thuộc hệ thống chữ tượng hình là chữ Hán của người Hoa và trong quá khứ người Việt cũng sử dụng qua nhiều triều đại; đồng thời trên cơ sở chữ Hán một số dân tộc đã tạo ra chữ “nôm” cho mình, như: chữ Nôm của người Việt thời xưa, chữ Nôm của các dân tộc Dao, Giáy, Tày, Nùng, Sán Dìu v.v.. Chữ Nôm xưa kia từng được người Việt dùng trong giáo dục, văn học v.v.. Những dân tộc thiểu số có chữ “nôm” thường dùng loại chữ đó để chủ yếu ghi chép các bài lời cúng và viết trên các tranh thờ cúng. Nay vẫn còn nhiều sách cổ viết trên giấy bản hay giấy dó được lưu giữ trong các làng người Dao, Giáy, Tày, Nùng v.v., nhiều sách cổ viết trên lá buông tồn tại ở người Thái, Chăm, Khơ-me. ở Việt Nam còn thấy cả di tích loại chữ sơ khai gồm hàng loạt ký hiệu như kiểu hình vẽ ghi ý của người Pà Thẻn.

1.1.4.4. Các đặc trưng sinh hoạt văn hóa tộc người:

Văn hóa truyền thống các tộc người là một kho tàng các giá trị làm nên sự đa dạng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Với những phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng và những làn điệu dân ca, những truyện cổ dân gian, nhạc cụ truyền thống hay các trò chơi độc đáo. Nếp sinh hoạt hàng ngày của tộc người cũng chứa đựng nhiều điều thú vị, phản ánh đời sống của con người vùng cao. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Đồng thời cũng chứa đựng nét văn hóa từ xa xưa truyền lại. phản ánh những nét sinh hoạt của dân tộc độc đáo. Môi trường sống ở các triền núi cao, khí hậu lạnh khắc nghiệt đã ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc nhà ở của các tộc người. Từ quan niệm sống, môi trường đã hình thành nên nét độc đáo trong văn hóa kiến trúc. Như đối với tộc người H’mông ở Sapa Lào Cai có hai loại nhà là nhà trình tường lợp ngói và nhà gỗ lợp lá, tranh, vách..

1.1.4.5 Điều kiện tự nhiên của Sapa

  • Nguồn gốc tên gọi:

Tên Sa Pa có gốc từ tiếng H’Mông “Sa Pả” nghĩa chữ là Bãi Cát, là tên của vùng đất này, và nay còn lại một phần nằm ngoài thị trấn Sa Pa là Sa Pả của huyện Sa Pa. Cùng với các tên đó là loạt tên xã theo tiếng H’Mông như Lao Chải, San Sả Hồ, Sử Pán, Suối Thầu, Tả Giàng Phình,…

Từ hai chữ “Sa Pả”, người phương Tây phát âm không dấu, thành Sa Pa và họ đã viết bằng chữ Pháp hai chữ đó thành “Cha Pa” và một thời gian rất dài sau đó người ta dùng “Cha Pa” như một từ tiếng Việt. Về sau, từ này viết được thống nhất là Sa Pa.

Thị trấn Sa Pa trước đây có một mạch nước đùn lên màu đỏ đục, nên dân địa phương gọi là “hùng hồ”, tức “suối đỏ”.

  • Lịch sử:

Năm 1897, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định mở một cuộc điều tra về người dân tộc thiểu số miền núi vùng cao. Những đoàn điều tra đầu tiên đến Lào Cai vào năm.

Mùa đông năm 1903, trong khi tiến hành đo đạc xây dựng bản đồ, đoàn thám hiểm của Sở địa lý Đông Dương đã khám phá ra cảnh quan mặt bằng Lồ Suối Tủng và làng Sa Pả. Sự kiện này đánh dấu việc ra đời của thị trấn Sa Pa.

Năm 1905, người Pháp đã thu thập được những thông tin đầu tiên về địa lý, khí hậu, thảm thực vật… Sa Pa bắt đầu được biết tới với không khí mát mẻ, trong lành và cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng. Năm 1917, một văn phòng du lịch được thành lập ở Sa Pa và một năm sau, người Pháp bắt đầu xây dựng những biệt thự đầu tiên. Năm 1920, tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai hoàn thành, Sa Pa được xem như thủ đô mùa hè của Bắc Kỳ. Tổng cộng, người Pháp đã xây dựng ở Sa Pa gần 300 biệt thự.

Sa Pa bị tàn phá nhiều theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến năm 1947 và trong chiến tranh biên giới Việt – Trung [6] Hàng ngàn ha rừng thông bao phủ thị trấn bị đốt sạch, nhiều toà biệt thự cổ do Pháp xây cũng bị phá huỷ. Vào thập niên 1990, Sa Pa được xây dựng, tái thiết trở lại. Nhiều khách sạn, biệt thự mới được xây dựng. Từ 40 phòng nghỉ vào năm 1990, lên tới 300 vào năm 1995. Năm 2009, Sa Pa có khoảng 60 khách sạn lớn nhỏ với 1.500 phòng. Lượng khách du lịch tới Sa Pa tăng lên từ 2.000 khách vào năm 1991 đến 60.000 khách vào 2008.

  • Vị trí địa lý:

Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai có diện tích tự nhiên 68.329 ha, chiếm 8,24 % diện tích tự nhiên của tỉnh, nằm trong toạ độ địa lý từ 220 07’04’’ đến 220 28’46’’ vĩ độ bắc và 1030 43’28’’ đến 104004’15’’ kinh độ đông. Phía bắc giáp huyện Bát xát, phía nam giáp huyện Văn Bàn, phía đông giáp huyện Bảo Thắng, phía tây giáp huyện Than Uyên và Tỉnh Lai Châu.

Huyện Sa Pa có 17 xã và một thị trấn. Thị trấn Sa Pa là trung tâm huyện lỵ nằm cách thị xã Lào Cai 35 km về phía Tây Nam. Nằm trên trục quốc lộ 4D từ Lào Cai đi Lai Châu, Sa Pa là cửa ngõ giữa hai vùng đông bắc và tây bắc.

  • Địa hình: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Sa Pa có địa hình đặc trưng của miền núi phía Bắc, độ dốc lớn, trung bình từ 35 – 400, có nơi có độ dốc trên 450, địa hình hiểm trở và chia cắt phức tạp. Nằm ở phía Đông của dãy Hoàng Liên Sơn, Sa Pa có độ cao trung bình từ 1.200 m đến 1.800 m, địa hình nghiêng và thoải dần theo hướng Tây – Tây Nam đến Đông Bắc. Điểm cao nhất là đỉnh Phan Xi Păng cao 3.143 m và thấp nhất là suối Bo cao 400 m so với mặt biển. Địa hình của Sa Pa chia thành ba dạng đặc trưng sau:

Tiểu vùng núi cao trên đỉnh: Gồm các xã Tả Giàng Phình, Bản Khoang, Tả Phìn, San Sả Hồ. Diện tích của vùng 16.574 ha, chiếm 24,42 % diện tích tự nhiên của huyện. Độ cao trung bình của khu vực từ 1.400 – 1.700 m, địa hình phân cắt, độ dốc lớn và thung lũng hẹp tạo thành một vùng hiểm trở.

Tiểu vùng Sa Pa – Sa Pả: Gồm các xã Sa Pả, Trung Chải, Lao Chải, Hầu Thào, Tả Van, Sử Pán và Thị trấn Sa Pa có diện tích 20.170 ha, chiếm 29,72 % diện tích của huyện. Đây là tiểu vùng nằm trên bậc thềm thứ hai của đỉnh Phan Xi Păng, độ cao trung bình là 1.500 m, địa hình ít bị phân cắt, phần lớn có kiểu đồi bát úp.

Tiểu vùng núi phân cắt mạnh: Gồm 7 xã phía Nam của huyện là Bản Phùng, Nậm Sài, Thanh Kim, Suối Thầu, Thanh Phú, Nậm Cang và Bản Hồ có diện tích 31.120 ha, chiếm 45,86 % diện tích của huyện. Đặc trưng của vùng là kiểu địa hình phún xuất núi cao, đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp sâu.

  • Khí hậu thời tiết:

Sa Pa nằm sát chí tuyến trong vành đai Á nhiệt đới Bắc bán cầu, có khí hậu ôn đới lạnh với hai mùa điển hình. Mùa hè mát mẻ, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, mùa đông lạnh giá, ít mưa kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau .

Do ảnh hưởng của các yếu tố địa hình, địa mạo phức tạp, bị chia cắt mạnh và với vị trí địa lý đặc biệt nên khí hậu Sa Pa có các đặc trưng cơ bản sau :

Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 15,40 C, nhiệt độ trung bình từ 18 – 200 C vào tháng mùa hè, vào các tháng mùa đông 10 – 120 Nhiệt độ tối cao tuyệt đối 330 C vào tháng 4, ở các vùng thấp. Nhiệt độ xuống thấp nhất từ tháng 2 năm sau, thấp nhất vào tháng 1 là 00 C (cá biệt có những năm xuống tới -3,20 C). Tổng tích ôn trong năm từ 7.500 – 7.8000 C. Tuy nhiên do đặc điểm địa hình của các khu vực khác nhau nên tạo ra các vùng sinh thái khác nhau và có nhiệt độ khác nhau trong cùng một thời điểm.

Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm của Sa Pa biến động trong khoảng 1.400 – 1.460 giờ. Số ngày nắng không đều giữa các tháng, mùa hè số giờ nắng nhiều, tháng 4 hàng năm từ 180 – 200 giờ, tháng 10 số giờ nắng ít nhất, khoảng 30 – 40 giờ.

Độ ẩm: Độ ẩm không khí tương đối bình quân hàng năm từ 85 – 90 %, độ ẩm thấp nhất vào tháng 4 khoảng 65 % – 70 %. Do sương mù nhiều, càng lên cao càng dày đặc, đặc biệt trong những thung lũng kín và khuất gió khí hậu ẩm ướt hơn các khu vực khác. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Lượng mưa: Tổng lượng mưa bình quân hàng năm khoảng 2.762 mm, cao nhất 3.484 mm và phân bố không đều qua các tháng; mưa cũng phụ thuộc vào địa hình từng khu vực, càng lên cao mưa càng lớn. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm khoảng 80 % lượng mưa cả năm. Các tháng ít mưa có lượng mưa trung bình từ 50 – 100 mm/tháng. Mưa đá hay xảy ra vào các tháng 2, 3,4 và không thường xuyên trong các năm.

Gió: Sa Pa có hai hướng gió chính và được phân bố theo hai mùa, mùa hè có gió Tây và Tây Bắc, mùa đông có gió Bắc và Đông Bắc. Với địa hình đồi núi phức tạp và nằm sâu trong lục địa, Sa Pa ít chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa mà chủ yếu là gió địa hình diễn ra cục bộ theo từng khu vực, tốc độ gió trung bình đạt 2,2 m/s, mạnh nhất có thể lên tới 19,7 m/s. Ngoài ra huyện Sa Pa còn chịu ảnh hưởng của gió Ô Quí Hồ (gió địa phương) cũng rất khô nóng, thường xuất hiện vào các tháng 2, 3, 4.

Giông: Hay gặp vào mùa hè, sau mỗi cơn giông thường có mưa to kéo theo lũ nguồn, lũ quét ở những khu vực có địa hình cao, dốc.

Sương: Sương mù thường xuất hiện phổ biến trong năm, đặc biệt vào mùa đông một số nơi có mức độ rất dày. Trong các đợt rét đậm, ở những vùng núi cao và thung lũng kín gió còn có cả sương muối, băng giá, tuyết. mỗi đợt kéo dài 2 – 3 ngày, gây ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông, lâm nghiệp.

Do địa hình cao, chia cắt phức tạp, phía Tây và Tây Nam được dãy Hoàng Liên Sơn bao bọc, khí hậu Sa Pa có những nét điển hình riêng và phân chia thành hai vùng khí hậu là vùng cao và vùng thấp, tạo nên sự đa dạng về sản xuất nông lâm nghiệp. Khí hậu Sa Pa mát mẻ và trong lành là nơi nghỉ mát lý tưởng của khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên các hiện tượng tuyết rơi, băng giá, mưa đá, sương muối cũng ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.

  • Thuỷ văn :

Sa Pa có mạng lưới sông suối khá dày, bình quân khoảng 0,7 -1,0 km/km2 , với hai hệ thống suối chính là hệ thống suối Đum và hệ thống suối Bo.

Hệ thống suối Đum có tổng chiều dàu khoảng 50 km, bắt nguồn từ vùng núi cao phía Bắc dãy Hoàng Liên Sơn được phân thành hai nhánh chính và phân bố ở hầu hết các xã phía Bắc và Đông Bắc gồm các xã Sa Pả, Trung Chải, Tả Phìn với tổng diện tích lưu vực khoản 156 km2 .

Hệ thống suối Bo có chiều dài khoảng 80 km, bắt nguồn từ các núi cao phía Nam dãy Hoàng Liên Sơn với diện tích lưu vực khoảng 578 km2 chạy dọc theo sườn phía Tây và Tây Nam của dãy Hoàng Liên Sơn gồm các xã San Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ, Nậm Sài, Thanh Phú, Hầu Thào, Thanh Kim và Bản Phùng.

Các suối hầu hết có lòng hẹp, dốc, thác ghềnh nhiều, lưu lượng nước thất thường và biến đổi theo mùa, mùa mưa thường có lũ lớn với dòng chảy khá mạnh (suối Bo 989 m/s) dễ gây nên các hiện tượng lũ ống, lũ quét, nhất là đối với vùng thấp. Mùa khô các suối thường cạn.

  • Dân cư:
  • Đây là nơi sinh sống của dân cư 6 dân tộc: Kinh, H’mong, Dao đỏ, Tày, Giáy, Xá Phó.
  • Các dân tộc ở Sa Pa đều có những lễ hội văn hóa mang nét đặc trưng:
  • Hội roóng pọc của người Giáy vào tháng giêng âm lịch.
  • Hội sải sán (đạp núi) của người H’Mông.
  • Lễ tết nhảy của người Dao diễn ra vào tháng tết hàng năm.
  • Những ngày phiên chợ ở Sa Pa nhộn nhịp vào tối thứ bảy kéo dài đến chủ nhật hàng tuần. Chợ Sa Pa có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách từ phương xa tới. Người ta còn gọi nó là “chợ tình Sa Pa” vì ở đây nam nữ thanh niên người dân tộc H’Mông, Dao đỏ có thể nhờ âm thanh của khèn, sáo, đàn môi, kèn lá hay bằng lời hát để tìm hay gặp gỡ bạn tình.

1.2. Khái quát chung về du lịch: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

1.2.1. Định nghĩa về du lịch:

Tổ chức du lịch thế giới (WTO) World Tourist Organization năm 1995 đưa ra thuật ngữ: “Du lịch là các hoạt động của con người liên quan đến việc dịch chuyển tạm thời của con người đến  một điểm đến nào đó bên ngoài nơi mà họ sống và làm việc thường xuyên cho mục đích giải trí,và các mục đích khác.

Luật Du lịch của Việt Nam (2011)định nghĩa:“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Qua hai khái niệm cơ bản trên có thể hiểu, con người có nhu cầu đi du lịch là để khám phá, tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng,…tại các điểm đến du lịch ngoài nơi cư trú của khách du lịch. Và trong luận văn, tác giả  sử dụng định nghĩa về “du lịch” theo Luật Du lịch của Việt Nam (2011) để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

Du lịch là ngành không khói, ít gây ô nhiễm môi trường, giúp khách du lịch vừa được nghỉ ngơi, giảm strees vừa biết thêm nhiều điều hay mới lạ mà khách chưa biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan…).

Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Nhu cầu về du lịch càng tăng thì vấn đề bảo vệ môi trường cần phải được coi trọng. Có một dạng du lịch nữa, đó là du lịch xúc tiến thương mại, vừa đi du lịch vừa kết hợp làm ăn, cũng rất phổ biến tại Việt Nam.

1.2.3. Ý nghĩa mà du lịch mang lại: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Du lịch khám phá “thế giới bên ngoài”: Nếu cả một ngày 24 tiếng đồng hồ, 1 tháng 30 ngày, 1 năm 365 bạn cứ “ru rú” trong nhà, di chuyển đúng 1 hành trình từ nhà đến cơ quan, từ cơ quan về nhà, từ nhà đến trường học, từ trường học về nhà… thì chắc chắn thỉnh thoảng bạn sẽ thấy cuộc sống tẻ nhạt và buồn chán. Và bạn chẳng thể nào hình dung ra, “ngoài kia”, thế giới bên ngoài có gì hay, vui, lạ, đẹp. Nếu bạn đang trong tình trạng như vậy thì hãy tạm ngưng, tạm gác mọi công việc sang một bên và đi du lịch 1 chuyến, để khám phá thế giới bên ngoài “chuyển động đến đâu rồi”.

Du lịch sẽ làm cho “thế giới nhỏ lại. Mỗi nơi bạn đặt chân đến sẽ chấm 1 điểm mốc trên bản đồ thế giới và bạn sẽ không còn thấy thế giới này quá rộng hay quá bao la. Văn hóa nơi bạn sống và văn hóa nơi bạn đến du lịch khác xa nhau thế nào, nhưng chỉ một-bước-chân, một hành trình bạn cũng có thể khám phá được. Bạn sẽ biết được sơ lược về cảnh quang, con người, cách sống, phong tục, cuộc sống của những nơi mà mình đặt chân đến. Chắc chắn bạn sẽ được mở rộng tầm mắt và hiểu hơn về thế giới mình đang sống. Và lúc đó, sau mỗi hành trình bạn sẽ cảm thấy dường như thế giới đang nhỏ lại từng ngày, sau mỗi chuyến đi du lịch của bạn.

Du lịch văn hóa là tập hợp các du lịch liên quan đến sự tham gia của người du lịch với nền văn hoá của một quốc gia hoặc vùng, đặc biệt là lối sống của người dân ở những khu vực địa lý, lịch sử của những người đó, nghệ thuật, kiến trúc, , và các yếu tố khác đã giúp hình thành cách sống của họ.

Du lịch văn hoá bao gồm du lịch ở khu vực thành thị, đặc biệt là các thành phố lịch sử hoặc lớn và các cơ sở văn hoá của họ như bảo tàng và nhà hát. Nó cũng có thể bao gồm du lịch ở nông thôn thể hiện truyền thống của các cộng đồng văn hoá bản xứ (lễ hội, lễ nghi), các giá trị và lối sống của họ, cũng như những hẻm núi như du lịch công nghiệp và du lịch sáng tạo.

Nói chung người ta thường đồng ý rằng khách du lịch văn hoá chi tiêu đáng kể so với khách du lịch tiêu chuẩn. Hình thức du lịch này cũng ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới, và một báo cáo gần đây của OECD đã nhấn mạnh vai trò của du lịch văn hoá trong phát triển khu vực ở các khu vực khác nhau trên thế giới.

Du lịch văn hoá được định nghĩa là “sự di chuyển của con người đến các điểm du lịch văn hoá xa nơi thường trú của họ, với mục đích thu thập thông tin và kinh nghiệm mới để đáp ứng nhu cầu văn hoá của họ”. ở châu Âu. CABI, Wallingford. Những nhu cầu văn hoá này có thể bao gồm việc củng cố bản sắc văn hoá của một người bằng cách quan sát “những người khác” kỳ lạ. Du lịch văn hoá có một lịch sử lâu dài, và với nguồn gốc của nó trong Grand Tour được cho là hình thức ban đầu của du lịch. Đây cũng là một trong những hình thức du lịch mà hầu hết các nhà hoạch định chính sách dường như đặt cược vào tương lai. Ví dụ, Tổ chức Du lịch Thế giới khẳng định du lịch văn hoá chiếm 37% du lịch toàn cầu, và dự báo rằng nó sẽ tăng trưởng ở mức 15% mỗi năm. Những con số như vậy thường được trích dẫn trong các nghiên cứu về thị trường du lịch văn hoá (ví dụ Bywater, 1993), nhưng ít khi được ủng hộ với nghiên cứu thực nghiệm. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Một nghiên cứu gần đây về thói quen tiêu dùng văn hoá của người châu Âu (Ủy ban châu Âu năm 2008) chỉ ra rằng người ta đã đến thăm các viện bảo tàng và phòng triển lãm ở nước ngoài gần như thường xuyên ở nhà. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của du lịch văn hoá như một nguồn tiêu thụ văn hoá. Việc khái quát hoá tiêu dùng văn hoá vào kỳ nghỉ, tuy nhiên, chỉ ra một trong những vấn đề chính của việc xác định du lịch văn hoá. Sự khác biệt giữa các chuyến thăm văn hoá vào kỳ nghỉ (du lịch văn hoá) và các cuộc viếng thăm văn hoá được thực hiện trong thời gian rảnh rỗi ở nhà là gì? Phần lớn các nghiên cứu do Hiệp hội Giải trí Du lịch và Du lịch (ATLAS) thực hiện trên thị trường du lịch văn hoá quốc tế (Richards 1996, 2007) đã làm nổi bật mức độ liên tục cao giữa tiêu dùng văn hoá trong nước và trong kỳ nghỉ.

Mặc dù những vấn đề này, các nhà hoạch định chính sách, ban quản lý du lịch và các nhà quản lý văn hoá trên thế giới vẫn tiếp tục coi du lịch văn hoá là một nguồn tiềm năng tăng trưởng du lịch quan trọng. Có một nhận thức chung là du lịch văn hoá là một ngành du lịch “tốt” thu hút du khách chi tiêu cao và ít gây thiệt hại cho môi trường hoặc văn hoá địa phương trong khi đóng góp rất nhiều vào nền kinh tế và hỗ trợ văn hoá. Tuy nhiên, các nhà bình luận khác cho rằng du lịch văn hoá có thể gây hại nhiều hơn lợi ích, cho phép du khách văn hoá thâm nhập vào môi trường văn hoá nhạy cảm như là nhân viên bảo vệ trước của du khách.

Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Khi xác định hướng đi “văn hóa gắn với du lịch”, người làm du lịch phải có một trình độ nhất định, được đào tạo bài bản về văn hóa nghệ thuật, để có thể tạo được những hiệu ứng từ các hoạt động biểu diễn, lưu lại được những giá trị và ấn tượng văn hóa trong lòng du khách, chứ không chỉ khai thác ánh sáng, âm thanh, mầu sắc đơn thuần…

1.3. Vai trò văn hóa tộc người và vấn đề phát triển du lịch:

  • Vai trò văn hóa tộc người:

Văn hóa tộc người biểu hiện sự phong phú, đa dạng và đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Ðây là công lao, kết quả sáng tạo của hơn 50 dân tộc anh em, là sản phẩm tinh thần ra đời từ tình cảm tâm hồn của nhiều cộng đồng cư trú trong những hoàn cảnh thiên nhiên địa lý khác nhau. Về hoàn cảnh xã hội, Văn hóa tộc người đại diện cho các thời kỳ văn hóa: tiền giai cấp, phong kiến sơ kỳ và phong kiến phát triển.

  • Về hệ ngôn ngữ, Văn hóa tộc người đại diện cho các ngữ hệ: Austronesie, Austroasiatique, Tày – Thái,
  • Tạng – Miến, H’mông – Dao,…
  • Về khu vực văn hóa, Văn hóa tộc người bao gồm cả văn hóa Ðông – Nam Á và văn hóa Bắc Á, lại chịu ảnh hưởng của văn hóa Nam Á.
  • Do những ưu thế vừa nói trên, Văn hóa tộc người có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng giáo dục con người Việt Nam XHCN.

Các hệ ngôn ngữ của tộc người nước ta, là hệ ngôn ngữ phổ biến ở các nước Ðông – Nam Á, gắn bó với các nền văn hóa của các quốc gia có ngôn ngữ tương ứng trong khu vực, vì vậy, Văn hóa tộc người có vai trò quan trọng trong việc giao lưu văn hóa, tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau, đặc biệt đối với các nước ASEAN.

  • Vấn đề phát triển du lịch: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Trong du lịch luôn đề cao vai trò của người dân bản địa. Người dân phải thực sự là chủ nhân có quyền tham gia các hoạt động du lịch và phải được hưởng lợi từ các hoạt động du lịch. Các doanh nghiệp nhà nước chia sẻ quyền lợi cho cộng đồng các tộc người thiểu số thông qua hệ thống các dịch vụ thuộc cộng đồng như nhà nghỉ của người dân (homestay), bán sản phẩm đồ thủ công, cung cấp dịch vụ ăn uống, đi lại…

Du lịch là sự kết hợp của 4 nhóm nhân tố: Du khách, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, cư dân bản địa, chính quyền cơ sở. Du khách muốn thỏa mãn các nhu cầu du lịch thì phải có các doanh nghiệp cung cấp, có người dân bản địa tham gia, và được chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi trong quản lý, định hướng. Người dân muốn thu được nhiều lợi nhuận qua hệ thống dịch vụ đều thành lập ban đại diện của những gia đình tham gia dịch vụ du lịch. Ban đại diện là đầu mối nhằm quản lý các dịch vụ lưu trú, ăn nghỉ, sinh hoạt… Đặc biệt, ban đại diện có quyền thống nhất về giá cả nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp bắt chẹt từng hộ gia đình, ép các hộ gia đình giảm giá để thu lợi ích riêng của doanh nghiệp.

Vấn đề thiết yếu trong du lịch là loại hình du lịch dựa vào tài nguyên của cộng đồng, do cộng đồng chủ động tham gia xây dựng sản phẩm quản lý và vì lợi ích của cộng đồng. Du lịch được xây dựng và phát triển ở vùng người Thái ở bản Lác, huyện Mai Châu (Hòa Bình) vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Đến năm 2.000, người Tày ở bản Dền, xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai cũng triển khai xây dựng mô hình du lịch cộng đồng.Sau 20 năm phát triển, đến nay, du lịch cộng đồng được xây dựng thành công ở vùng người Thái, người Tày, người Dao, H’mông tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Thái Nguyên…

Các điểm du lịch cộng đồng, như: bản Cát Cát( Sapa, Lào Cai), bản Lác, bản Văn (huyện Mai Châu, Hòa Bình), bản Áng (huyện Mộc Châu, Sơn La), bản Mển, Phiêng Lơi (Điện Biên), Quản Bạ (Hà Giang)…

Du lịch đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo nguồn sinh kế mới cho người dân vùng cao. Được biết, các điểm du lịch ở Sa Pa (Lào Cai) có tốc độ xóa đói, giảm nghèo nhanh gấp 3 lần so với các thôn, bản không có du lịch. Năm 2021, số hộ nghèo ở huyện Mai Châu (Hòa Bình) chiếm 20%, trong khi ở các điểm du lịch cộng đồng, số hộ nghèo chỉ chiếm từ 4-5%. Nguồn thu của các hộ làm dịch vụ du lịch cao gấp từ 5-10 lần so với các hộ không làm du lịch.

Du lịch của các tộc người đang trong xu thế chung phải hướng về phát triển du lịch bền vững. Vì vậy, các điểm du lịch không nên chỉ hướng tới việc thu hút quá nhiều khách, dẫn đến tình trạng quá tải. Các ban quản lý du lịch phối hợp với các hãng lữ hành nên tổ chức cho du khách đến tham quan, bình quân mỗi năm mỗi điểm đón từ 1-3 vạn khách. Các điểm du lịch không đón nhiều du khách nhằm đảm bảo môi trường, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.

1.4 Các bài học kinh nghiệm trong khai thác văn hóa tộc người trên thế giới và Việt Nam Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

1.4.1 Trên thế giới:

Du lịch văn hóa là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với Việt Nam song đã có một lịch sử lâu dài trên thế giới. Có rất nhiều quốc gia thế giới khai thác hiệu quả loại hình này trong đó có các quốc gia Đông Nam Á.

Quan trọng hàng đầu khi khai thác văn hóa tộc người là phải tôn trọng, bảo tồn các giá trị văn hóa; tạo được bản sắc riêng của đất nước, địa phương mình:

Campuchia: là một ví dụ điển hình về thành công trong bảo tồn nguyên vẹn giá trị để phát triển du lịch. Xác định thế mạnh quốc gia là văn hóa- lịch sử với các đặc trưng như: văn hóa Angkor, ẩm thực Khmer, các đền chùa…quốc gia này đã tiến hành bảo tồn các điểm di tích gần như nguyên gốc, gìn giữ được những nét văn hóa đặc trưng, nguyên thủy. Để đảm bảo được điều đó, ngoài việc áp dụng đúng các nguyên tắc, kỹ thuật trong bảo tồn, Campuchia còn có chính sách khá toàn diện, đồng bộ trong việc ưu tiên bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử. Cụ thể khi lượng khách đến Angkor quá đông, quốc gia này đã có biện pháp hạn chế lượng khách du lịch, thời gian tham quan để không làm hư hỏng các di tích. Bên cạnh đó kiến trúc xung quanh các khu vực du lịch văn hóa cũng được quy hoạch, đảm bảo về chiều cao tối đa hay nâng cấp các tuyến đường song vẫn giữ những cây cầu cổ.

Tại Thái Lan, một đất nước vốn nổi tiếng luôn làm hài lòng khách đến và khiến du khách thấy được như đang ở quê hương mình, việc bảo tồn nguyên vẹn các giá trị văn hóa cũng hết sức được coi trọng. Ví dụ: tại Chiang Mai, kinh đô của Vương quốc Lanna trước đây, nơi được biết đến là “Đóa hồng phương Bắc” của Thái, các bản sắc văn hóa cách đây hàng trăm năm còn được lưu giữ khá nguyên vẹn. Đó là việc giữ gìn tiếng địa phương (tiếng Kham Muang được sử dụng song song với tiếng Thái), trang phục truyền thống, làm các mặt hàng thủ công. Hàng trăm ngôi đền,chùa cũng được gìn giữ kiến trúc, cảnh quan, tạo nên nét đặc trưng riêng, không thể trộn lẫn. Đặc biệt, trong năm 2021, Thái Lan đẩy mạnh du lịch văn hóa với trọng tâm là khám phá bản sắc, các giá trị cốt lõi của người Thái. Ở đây du khách được trải nghiệm, tham gia các lớp học nấu ăn, massage theo đúng truyền thống Thái mà du khách sẽ không thể tìm thấy được ở bất cứ một nơi nào khác.

Ở Bali: trở thành điểm đến nổi bật nhất của Indonesia, tiêu biểu cho thành công của du lịch văn hóa là bởi đất nước này luôn tôn trọng lối sống, tập quán, văn hóa của người bản địa và gìn giữ nó, tạo nên một bản sắc riêng.

Thứ hai đó là hoạt động quảng bá du lịch:

Trong hoạt động này, sự sáng tạo, táo bạo, chuyên nghiệp là chìa khóa của thành công.Chúng ta vẫn thường viện dẫn ngân sách eo hẹp khiến hoạt động quảng bá tại nước mình nói chung, địa phương mình nói riêng không hiệu quả. Qủa thực so với con số hàng trăm triệu USD chi cho quảng bá, xúc tiến du lịch hàng năm của Singapore, Thái Lan, Maylaysia,…thì chi phí của chúng ta cho công tác này còn quá thấp. Tuy nhiên bài học từ Phillipines cho thấy, nhiều khi không cần chi phí cao cũng có thể thu lại hiệu quả. Đất nước này trước đây vốn biết đến với lượng khách quốc tế còn thấp, chi phí cho quảng bá du lịch không quá 10 triệu USD. Với khoản kinh phí khiêm tốn, đất nước này đã nghĩ ra một chiến lược quảng bá hiệu quả, ít tốn kém nhờ dựa vào mạng xã hội trong chiến dịch “It’s more fun in Philippines”. Philippines là nước có số lượng tài khoản mạng xã hội lớn (hàng chục triệu tài khoản Facebook, Twitter, Instargam), khả năng sử dụng tiếng Anh tốt và có một lượng lớn người sinh sống ở nước ngoài. Nắm bắt điều này, chiến dịch đã lôi kéo được đông đảo người tham gia đồng thời gợi lên sự tự hào văn hóa trong mỗi người dân để mỗi cá nhân là một đại sứ du lịch. Bằng việc đưa ra slogan và một vài mẫu hình ảnh đăng lên mạng, cho phép người dùng tải về và tự thiết kế theo cách của riêng mình, sau 24h, thông điệp này đã có 10.000 lượt chia sẻ và lượng khách du lịch sau đó tăng lên khoảng 16%. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Sử dụng truyền thông kỹ thuật số được ghi nhận là xu hướng hiện nay các quốc gia đang hướng tới trong công tác quảng bá. Ngoài chiến dịch của Philippines đề cập ở trên, Thái Lan cũng là đất nước khai thác mạnh các công cụ truyền thông đại chúng. Năm 2021, Thái Lan triển khai chiến dịch quốc gia Discover Thainess, hướng đến để du khách trải nghiệm cuộc sống người dân bản địa, từ đó cảm nhận sự tử tế của người dân, phong tục, văn hóa Thái Lan. Trong chiến dịch này, Thái Lan tổ chức cuộc thi “One and Only” (Một và duy nhất) kêu gọi thể hiện những đặc trưng riêng có, độc đáo của người Thái và văn hóa Thái. Chương trình tiến hành đăng tải các clip biểu diễn 5 nội dung: Muay Thái, nói tiếng Thái, làm vòng hoa kiểu Thái, múa truyền thống Thái, ẩm thực Thái để người tham gia chọn 1 trong 5 và làm theo. Những đối tượng thường sử dụng mạng xã hội được khuyến khích tham gia, chia sẻ. Chiến dịch Discover Thainess cũng đã được khởi động truyền thông, quảng bá từ năm 2020. Với một ý tưởng đầy táo bạo, Tổng cục Du lịch Thái Lan đã cho đăng tải clip “I hate Thailand”(Tôi ghét Thái Lan) dưới dạng ẩn danh. Sau khi đăng trên Youtube vài ngày lượt xem lên tới hàng triệu. và nhiều ý kiến phản hồi thể hiện sự thích thú với cách làm này.

Một bài học khác không kém quan trọng là cần xác định thị trường, đối tượng du khách để có đầu tư quảng bá phù hợp. Sau thống kê lượng khách hàng năm, cần thống kê lượng khách chủ yếu đến từ đâu để tiến hành đẩy mạnh đầu tư vào khu vực đó, hay mở các văn phòng đại diện du lịch tại các quốc gia tiềm năng như cách của Thái Lan vẫn làm. Năm 2021, Indonesia cũng chi một nửa ngân sách quảng bá (trong tổng ngân sách 95 triệu USD, với chiến dịch Tuyệt vời Indonesia tập trung quảng bá văn hóa, con người, ẩm thực… đất nước) vào thị trường các nước Đông Nam Á do nhận thấy 40% lượng khách quốc tế của nước này đến từ đây. Trong khi đó năm 2021, Thái Lan đẩy mạnh quảng bá ở Trung Đông với việc tổ chức sự kiện quảng bá chiến dịch Discover Thainess tại Dubai. Quyết định này được đưa ra sau khi nhận thấy sự tăng trưởng mạnh của lượng khách đến từ Trung Đông và đồng thời đây là đối tượng chi tiêu mạnh nhất khi tới Thái Lan. Cùng với quảng bá, nước này còn nghiên cứu kỹ lưỡng văn hóa, phong tục Hồi giáo để từ đó bổ sung nơi cầu nguyện, thức ăn phù hợp với đạo Hồi, tăng cường đội ngũ trong nghề có thể sử dụng tiếng Ả rập…

Những yêu cầu về tính sáng tạo, chuyên nghiệp này đưa chúng ta quay lại vấn đề nguồn nhân lực cho du lịch văn hóa. Chỉ khi chúng ta đào tạo, tuyển chọn được đội ngũ làm nghề có kiến thức, kỹ năng, sự sáng tạo mới có hy vọng phát triển du lịch văn hóa hiệu quả. Các quốc gia có du lịch phát triển trong khu vực đều cho thấy khi đưa ra chương trình, chiến dịch dịch du lịch văn hóa nào họ cũng luôn khảo sát thực tế kỹ lưỡng; phân tích thế mạnh, điểm yếu; bàn bạc tìm phương án; tổ chức hội thảo trao đổi về các phương án; tiến hành thử nghiệm và áp dụng nếu hiệu quả.

Văn hóa, nếu muốn khai thác đưa vào phát triển du lịch luôn đòi hỏi sự hiểu biết, tinh tế nếu không sẽ có tác dụng ngược lại bởi đó là những gì tinh túy, thiêng liêng; là hồn cốt của con người, của dân tộc.

1.4.2 Ở Việt Nam: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Khai thác văn hóa là một lĩnh vực rộng và phức tạp, vì vậy, kinh nghiệm khai thác văn hóa ở các nước trên thế giới rất cần thiết và bổ ích. Vấn đề đặt ra là từ những kinh nghiệm đó chúng ta cần nghiên cứu, lựa chọn những gì phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách văn hóa trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và yêu cầu phát triển của nước nhà trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trên quan điểm đó, chúng tôi lựa chọn kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu trên thế giới để rút ra những bài học cụ thể cho việc khai thác văn hóa tộc người ở Việt Nam.

  • Khai thác văn hóa tộc người Dao ở Sapa phục vụ du lịch

Ở vùng núi cao, người Dao Sa Pa tỉnh Lào Cai Việt Nam biết phát huy lợi thế di sản văn hoá phong phú, giàu bản sắc trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Tìm hiểu quá trình “xây dựng di sản văn hoá trở thành sản phẩm du lịch” của người Dao Sa Pa nhằm mục đích tìm hiểu kinh nghiệm phát huy lợi thế bản sắc văn hoá dân tộc nhằm phát triển sản phẩm du lịch. Đồng thời cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa vấn đề khai thác tài nguyên du lịch với bảo vệ văn hoá truyền thống, xây dựng phương thức phát triển du lịch bền vững

  • Người Dao khơi dậy nghề thủ công truyền thống:

Người Dao ở Sa Pa có nhiều nghề thủ công truyền thống có giá trị văn hoá cao như nghề chạm khắc bạc, nghề thêu dệt thổ cẩm làm trang phục, nghề rèn đúc, nghề làm đồ mộc…Tuy nhiên, các nghề này chỉ là nghề phụ mang tính chất hỗ trợ cho trồng trọt là chính. Sản phẩm của các nghề thủ công này chưa trở thành sản xuất hàng hoá mà chỉ mang nặng tính tự cung tự cấp, đáp ứng riêng cho nhu cầu của từng gia đình. Nhưng từ khi du lịch phát triển, người Dao ở Sa Pa đã lựa chọn một số nghề để đầu tư tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm cho du lịch. Điền hình là nghề thêu dệt thổ cẩm. Hội phụ nữ các xã Tả Phìn, Suối Thầu, Nậm Cang đã tổ chức các câu lạc bộ sản xuất thổ cẩm. Câu lạc bộ của hội phụ nữ xã Tả Phìn có đến 300 hội viên tham gia. Câu lạc bộ sản xuất thổ cẩm của phụ nữ xã Nậm Cang có gần 100 hội viên tham gia…Các câu lạc bộ này được các tổ chức phi chính phủ tư vấn về mẫu mã sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm bước đầu. Chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn, tổ chức lớp dạy nghề miễn phí cho người dân. Nhờ vậy mỗi người tham gia sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch đều có thu nhập cao. Bình quân mỗi người thu nhập từ 300.000 – 500.000đ/tháng. Có một số hội viên như các chị Lý Mẩy Chạn, Lý Tả Dùng, Lý Mẩy Pham, Chảo Mẩy Cói…của xã Tả Phìn thu nhập mỗi năm từ 4 – 7 triệu đồng nhờ bán các sản phẩm cho du khách. Một số hội viên vừa sản xuất vừa trực tiếp bán sản phẩm mỗi tháng cũng thu nhập từ 1 – 2 triệu đồng. Đây là mức thu nhập rất cao của một lao động người Dao ở Sa Pa.

Nguyên tắc sản xuất nghề thủ công cũng như thêu dệt sản phẩm du lịch phải đảm bảo các yếu tố như kế thừa di sản văn hoá truyền thống. Trong nghề thêu dệt thổ cẩm phụ nữ người Dao đều giữ gìn một số hoa văn cổ độc đáo có dấu ấn riêng của văn hoá tộc người. Các hoạ tiết hoa văn phổ biến là thêu hình cây thông, thêu hình thầy cúng, hình cây đèn trong lễ cấp sắc hoặc dấu ấn về Bàn vương, hình tượng dấu chân của con chó…Người Dao cũng giữ gìn bảng màu truyền thống gồm có 4 màu chủ đạo là vàng, đen, đỏ, trắng. Trong đó, đề cao cách phối màu đối chọi của hoa văn truyền thống như màu đỏ đi liền với màu trắng, màu vàng thêu liền kề với màu trắng, màu trắng trên nền vải chàm đen…Phương pháp sử dụng màu đối chọi như vậy càng làm nổi bật hoạ tiết hoa văn tạo ra chất rực rỡ và hấp dẫn của hoa văn người Dao. Tuy nhiên, sản phẩm nghề thêu dệt thổ cẩm thì lại sản xuất đa dạng, phù hợp với nhu cầu của du khách như các sản phẩm làm đệm, gối, túi đeo điện thoại di động, ví, mũ, túi xách tay, ba lô du lịch… Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Trong nghề chạm khắc bạc cũng vậy, người Dao sản xuất đa dạng hoá các sản phẩm như nhẫn, vòng tay, sợi dây chuyền bạc, các hình kỷ niệm bằng bạc…Nhưng mô típ hoa văn chạm khắc trên bạc vẫn là các mô típ hoa văn cổ truyền. Đồng thời một số cơ sở chạm khắc bạc chỉ sản xuất sản phẩm bằng bạc nguyên chất nhằm giữ uy tín của bạc trắng chứ không sản xuất các loại sản phẩm bằng nhôm, hợp kim.

Người Dao ở Tả Phìn, Nậm Cang Sa Pa trước đây có nghề làm trống, nghề đóng đồ mộc ghép các thùng gỗ đựng nước…Nhưng sản phẩm của đồ mộc chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân. Ngày nay, qua tìm hiểu nhu cầu của du khách thấy nghề làm mộc có thể sản xuất ra nhiều đồ lưu niệm giá trị nên ông Lý Phủ Kinh ở Tả Phìn đã tập hợp một số nghệ nhân thành lập câu lạc bộ sản xuất các loại trống và đồ lưu niệm. Hiện nay, câu lạc bộ sản xuất của ông đã làm ra rất nhiều loại trống khác nhau theo nhu cầu của du khách như các loại trống nhỏ làm đồ lưu niệm, các loại trống trung bình đến các loại trống lớn làm vật trang trí trong các nhà hàng, khách sạn…Sản phẩm của câu lạc bộ đã có thương hiệu, uy tín trên thị trường, được bày bán ở nhiều cửa hàng ở thành phố Lào Cai và huyện Sa Pa và các cửa hàng bán đồ lưu niệm tại Hà Nội, thành phố Hạ Long. Trung bình mỗi một tháng câu lạc bộ sản xuất trống của ông Lý Phủ Kinh sản xuất được từ 20 – 40 chiếc trống trung bình và trống đại và nhiều trống nhỏ làm đồ lưu niệm. Mỗi tháng các nghệ nhân của câu lạc bộ đều có thu nhập từ 1,5 – 2 triệu đồng một người.

Nhìn chung, các nghề thủ công phục vụ khách du lịch của người Dao Sa Pa đã được khôi phục và phát triển. Nhờ có du lịch nên nghề thủ công truyền thống của người Dao đã trở thành hàng hoá, sản phẩm du lịch chứ không chỉ là những sản phẩm tự cung tự cấp cho gia đình. Tuy nhiên, các sản phẩm nghề thủ công phục vụ du lịch của người Dao dù có đa dạng, phong phú nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc cụ thể:

Các sản phẩm thủ công đều kế thừa kỹ thuật, hoạ tiết, thẩm mĩ truyền thống. Đặc biệt, nhiều sản phẩm của nghề thêu dệt thổ cẩm, chạm khắc bạc đều nhằm chuyển tải bản sắc văn hoá người Dao thông qua các hoạ tiết, các biểu tượng giàu tính thẩm mĩ.

Các sản phẩm thủ công này đều đảm bảo nguyên tắc sản phẩm bằng thủ công, không sử dụng máy móc, không sử dụng đồ sản xuất công nghiệp làm nguyên vật liệu. Các sản phẩm thêu dệt thổ cẩm đều thêu bằng tay và dùng vải thô với các khung dệt cổ truyền chứ không dùng sản phẩm dệt của máy móc hiện đại.

Các sản phẩm thủ công đều đa dạng hoá về mẫu mã, chủng loại đáp ứng với nhu cầu hiện tại của du khách.

Các sản phẩm thủ công đều gọn nhẹ, dễ chuyên chở và giá thành không quá đắt mục đích nhằm bán được nhiều sản phẩm.

  • Khơi dậy dịch vụ tắm lá thuốc:

Trước đây người Dao là dân tộc rất giỏi về y học cổ truyền, sử dụng dược liệu chữa bệnh nổi tiếng trong cộng đồng các dân tộc ở Sa Pa. Phụ nữ người Dao đều có kho tàng tri thức về dược học, nhiều người trở thành những người thầy thuốc nổi tiếng. Trong cuộc sống thường ngày của xã hội người Dao cổ truyền, người Dao đã sử dụng tắm lá thuốc để đảm bảo sức khoẻ của các thành viên gia đình. Nhưng hiện nay, nhằm đáp ứng nhu cầu du khách, người Dao đã phát huy việc lấy lá chế biến thuốc tắm trở thành hàng hoá phục vụ du lịch. Riêng ở thôn Sả Xéng xã Tả Phìn huyện Sa Pa có 11 hộ kinh doanh nghề tắm lá thuốc. Các thôn Nậm Tống, Nậm Cang, Giàng Tà Chải…đều có các hộ kinh doanh dịch vụ tắm lá thuốc. Bình quân mỗi gia đình mỗi tháng cũng thu nhập được từ 500.000 – 2 triệu đồng từ dịch vụ lấy và chế biến thuốc lá cho du khách tắm.

  • Khai thác nhà ở thành nhà nghỉ cộng đồng: Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

Nhà người Dao truyền thống thường chật hẹp và ít có công trình vệ sinh. Nhưng hiện nay, trước nhu cầu du khách thích nghỉ tại bản làng nên nhiều hộ gia đình người Dao đã tu sửa ngôi nhà trở thành nhà nghỉ cộng đồng phục vụ du khách (homestay). Năm 2011, ở xã Tả Phìn huyện Sa Pa chỉ có 2 gia đình tu sửa ngôi nhà của mình thành nhà nghỉ cộng đồng thì đến nay đã có 11 hộ gia đình làm dịch vụ homestay. Ở Nậm Cang, Bản Hồ, Nậm Sài cũng có nhiều hộ xây dựng ngôi nhà mới hoặc tu sửa nhà cũ trở thành nhà nghỉ cộng đồng. Các ngôi nhà này đều giữ kiến trúc, khuôn viên, mặt bằng, kết cấu bên trong giống như ngôi nhà cổ truyền. Nhưng làm thêm 1, 2 gian ở phía trước cửa nhà làm nhà nghỉ cho du khách vì quan niệm các du khách không làm ảnh hưởng đến bàn thờ tổ tiên và sinh hoạt của các thành viên gia đình truyền thống. Các phòng nghỉ đều bố trí như kiểu nhà nghỉ bình dân, có đồ dùng mới, tủ, bàn ghế, ti vi và có công trình vệ sinh khép kín. Tuy nhiên, vật liệu xây dựng đều là những vật liệu truyền thống gỗ, tre, không sử dụng các vật liệu hiện đại như xi măng, gạch, ngói. Như vậy, người Dao vẫn giữ được kiến trúc và nếp sống truyền thống trong ngôi nhà đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho du khách sử dụng các dịch vụ của kiểu nhà nghỉ (có ti vi, có hệ thống vệ sinh đảm bảo). Nhờ vậy, số du khách nghỉ tại các nhà nghỉ truyền thống của người Dao tăng rất nhanh. Năm 2011 mới có 200 du khách nghỉ tại các nhà nghỉ cộng đồng ở Tả Phìn thì đến năm 2014 đã tăng lên 514 du khách, và năm 2015 là 1.187 du khách đã nghỉ tại 11 nhà nghỉ của người Dao ở thôn Sả Séng. Ở Nậm Cang, Bản Hồ, Giàng Tà Chải có vị trí xa trung tâm huyện lỵ nên số du khách nghỉ tại các nhà nghỉ cộng đồng đều tăng nhanh. Bình quân mỗi nhà nghỉ ở các vùng này mỗi năm cũng đón từ 300 – 500 lượt du khách.

Bên cạnh các dịch vụ phục vụ du lịch trên, người Dao ở Sa Pa còn biết phát huy di sản văn hoá truyền thống tạo thành nhiều sản phẩm và các yếu tố của sản phẩm du lịch. Các thôn bản người Dao được chọn làm điểm du lịch đều xây dựng các đội văn nghệ dân gian, khai thác các di sản dân ca dân vũ truyền thống của người Dao xây dựng thành các tiết mục, chương trình văn nghệ. Đội văn nghệ xã Tả Phìn huyện Sa pa đã khai thác các điệu múa chuông, múa kiếm, múa đèn, các điệu nhảy trong lễ “pút tồng”, các điệu nhảy “bát quái” để xây dựng các chương trình văn nghệ phục vụ du khách. Đội văn nghệ ở thôn Nậm Cang xã Nậm Cang lại trích đoạn một số nghi thức độc đáo trong lễ “chải miến”, lễ cấp sắc hoặc sử dụng các làn điệu kèn pí lè xây dựng các chương trình văn nghệ. Đội nhạc kèn pí lè đóng vai trò rất quan trọng trong lễ cưới của người Dao truyền thống. Từ nghi thức đi đón dâu, chào đoàn nhà gái, mời thống gia, răn dạy cô dâu, lễ báo tổ tiên…cho đến lễ mời ăn tiệc cưới, mời hát trong đám cưới…đều sử dụng nhạc kèn pí lè. Các đội văn nghệ của người Dao đã phát huy các làn điệu kèn truyền thống trở thành các điệu kèn đón chào du khách, mời tiệc du khách, tặng quà du khách…Nhờ khai thác các chất liệu dân gian truyền thống nên các chương trình biểu diễn nghệ thuật phục vụ du khách đều giàu bản sắc và hấp dẫn. Ở các điểm du lịch của người Dao ở Sa pa đã phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức quảng bá các ngày lễ, các ngày hội, các ngày sinh hoạt cộng đồng cho du khách. Các sinh hoạt này đã được các hãng lữ hành xây dựng thành các sản phẩm du lịch chào bán cho khách quốc tế. Đặc biệt du khách rất thích xem các cảnh hát giao duyên, các lễ cưới, lễ “pút tồng”…của người Dao.

Các làng người Dao ở Sa Pa đang xây dựng trở thành những điểm sáng về du lịch cộng đồng. Du lịch cộng đồng đã hình thành và phát triển, mỗi năm đều đón nhiều du khách, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Có được những thành quả như vậy là nhờ người Dao ở Sa Pa đã xây dựng thành công mô hình du lịch cộng đồng có sự liên kết chặt chẽ của “4 nhà”. Nhà nước định hướng và xây dựng chính sách quản lý phát triển du lịch cho toàn vùng. Các gia đình người dân tham gia làm du lịch đều có quyền lợi và nghĩa vụ bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. Các nhà doanh nghiệp tăng cường quảng bá đưa du khách đến tham quan. Các nhà tư vấn (nhất là tổ chức phi chính phủ SNV) đã góp phần tư vấn cho người dân các biện pháp phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời các điểm du lịch cộng đồng người Dao ở Sa Pa không chỉ coi trọng chất liệu truyền thống để xây dựng các sản phẩm du lịch, mà quan trong hơn là thực hành các di sản văn hoá ngay tại cộng đồng theo hướng phát triển du lịch bền vững. Bản sắc văn hoá dân tộc trở thành nguồn lực cho du lịch cộng đồng người Dao phát triển. Ngược lại, du lịch càng phát triển thì càng khuyến khích người dân bảo tồn được di sản văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

1.5 Phát triển du lịch từ văn hóa tộc người Chăm ở Ninh Thuận:

Ninh Thuận là tỉnh có đông người Chăm sinh sống nhất so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Vì thế, văn hóa Chăm ở đây khá đậm đặc, thể hiện qua chữ viết, trang phục, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, nghề gốm, dệt thổ cẩm. Nghệ thuật dân ca và múa Chăm đã trở thành di sản của văn hóa Việt Nam. Đến nay, người Chăm vẫn giữ các nghi lễ như: lễ Katê, lễ Rija Nưgar, lễ Rija Praung, lễ khai mương, lễ xuống gặt, lễ mừng cơm mới… Không gian văn hóa Chăm có sức lôi cuốn đặc biệt, từ phong tục tập quán theo chế độ mẫu hệ, đến những nghi lễ, tín ngưỡng cùng nhiều nghệ thuật dân gian truyền thống khác.

Về văn hóa phi vật thể, người Chăm ở Ninh Thuận có hơn 100 lễ hội diễn ra quanh năm và vẫn đang được bảo tồn nhờ ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của chính cư dân bản địa. Bên cạnh đó, theo thống kê có khoảng 17.000 bài viết, đầu sách nghiên cứu về văn hóa Chăm ở các lĩnh vực như nhân học, sử học, diễn xướng dân gian, các lễ hội… đã được sưu tầm, nghiên cứu. Tỉnh cũng đã có chủ trương bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống, kết hợp khai thác tiềm năng du lịch làng nghề, khi phê duyệt đề án Chiến lược marketing gốm mỹ nghệ Bàu Trúc giai đoạn 2016 – 2021 và tầm nhìn đến năm 2030. Hiện làng nghề Bàu Trúc cùng nghệ thuật làm gốm của người Chăm đang được làm hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới.

Từ tiềm năng sẵn có, Ninh Thuận đã xây dựng nhiều chương trình du lịch gắn liền với không gian văn hóa Chăm, trong đó có loại hình du lịch homestay. Khách cùng ăn, ở, sinh hoạt với người địa phương, đắm mình trong các chương trình ca múa dân gian, nhạc kịch truyền thống lâu đời của người Chăm, trải nghiệm cách dệt thổ cẩm (Mỹ Nghiệp) và làm gốm (Bàu Trúc) bằng phương pháp thủ công… Loại hình du lịch này được khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài yêu thích. Ngoài ra, tỉnh còn phối hợp với các tỉnh, thành phố ở miền Trung có di sản văn hóa Chăm như Bình Định, Nha Trang…, xây dựng các chương trình du lịch về thăm làng Chăm, tham gia các lễ hội theo mùa…; kết hợp du lịch văn hóa Chăm với các loại hình du lịch khác nhằm đưa du lịch văn hóa Chăm trở thành một mắt xích quan trọng trong các sản phẩm du lịch ở Ninh Thuận.

Xác định sự đón tiếp niềm nở, thái độ hiếu khách, phục vụ tận tình của người địa phương sẽ tạo ra ấn tượng tốt đẹp trong lòng khách tham quan, Ninh Thuận đang xây dựng chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, bảo tồn, hướng dẫn viên có chuyên môn sâu và đam mê văn hóa Chăm, thông thạo ngoại ngữ. Ngoài ra, tỉnh cũng đẩy mạnh nghiên cứu cung và cầu du lịch đối với văn hóa Chăm, nhằm tạo ra các sản phẩm độc đáo, đa dạng và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Tiểu Kết Chương 1

Ngày nay, du lịch được xem là ngành kinh tế không khói quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Du lịch trở nên phổ biến và là nhu cầu không thể thiếu của con người khi đời sống tinh thần của họ ngày càng phong phú

Văn hóa là cội nguồn, là tương lai của dân tộc, nó xác định chỗ đứng của một quốc gia dân tộc trên thị trường thế giới. Chính vì thế, muốn được thế giới biết đến mình thì một quốc gia cần phải xây dựng cho mình một nền văn hóa tiêu biểu, đậm đà bản sắc dân tộc. Hoạt động du lịch chính là một trong những phương tiện để thực hiện mục đích đó.

Chương 1 là những cơ sở lí luận, những tìm hiểu chung về văn hóa, du lịch   và du lịch văn hóa. Trong đó đã tìm hiểu về các khái niệm văn hóa, đặc trưng của  văn hóa, khái niệm về du lịch, du lịch văn hóa, mối quan hệ giữa du lịch và văn  hóa. Đây là phần tổng quan về lí luận để đi tới tìm hiểu những vấn đề cụ thể của đề tài. Luận văn: Khai thác văn hóa tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Khai thác Văn hóa tộc người H’mong ở Lài Cai Sapa

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993