Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam từ khi nhà nước có chính sách mở cửa (1986) thu hút các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư đã có những nét khởi sắc, đặc biệt du lịch đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó nhà nước cũng như các công ty du lịch đã và đang hoàn thành sứ mệnh của mình cùng nhau quảng bá nét đặc sắc của đất nước và con người Việt Nam thông qua sản phẩm du lịch đến bạn bè năm Châu.
Đà Nẵng là một trong ba trung tâm du lịch chính trong cả nước và là trung tâm của sáu điểm, sáu di sản thế giới bao gồm Phong Nha – Kẻ Bàng, Cố Đô Huế, Nhã nhạc Cung Đình Huế, Phố Cổ Hội An, Thánh Địa Mỹ Sơn và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tạo nên điểm đến và điểm trung chuyển khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng cũng có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Núi Bà- núi Chúa, cáp treo Bà Nà, bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, cùng với những bãi biển đẹp như: biển Non Nước, Mỹ Khê, Thanh Khê, Nam Ô với dải cát dài phẳng, sạch đẹp và chưa bị ô nhiễm đã tạo nên một trung tâm du lịch chính tại miền Trung Việt Nam. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Thực tế nhiều năm qua đã cho thấy hoạt động của du lịch Đà Nẵng đã có những phát triển đáng khích lệ, lượng khách du lịch ngày càng tăng, bước đầu khẳng định được vị thế của mình trong du lịch Việt Nam và quốc tế. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đà Nẵng cũng đã xác định du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Trong bối cảnh mới hiện nay, khi lượng khách đến Đà Nẵng ngày càng tăng với mong muốn chất lượng dịch vụ cao và sản phẩm du lịch đa dạng thì Du lịch Đà Nẵng còn gặp nhiều hạn chế như: sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ chưa thật tốt….Cùng với một số tồn tại khác, thực trạng này chưa tạo ra những đảm bảo vững chắc cho sự phát triển ổn định của du lịch địa phương; đây là vấn đề nan giải cấp bách cần được giải quyết.
Với nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú, du lịch Đà Nẵng đang nảy sinh những vấn đề cần quan tâm hiện nay như:
- Du lịch Đà Nẵng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
- Du lịch Đà Nẵng chưa đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của khách, một mặt làm giảm sự hài lòng của khách, mặt khác bỏ qua nhiều cơ hội thu lợi từ khách.
- Du lịch Đà Nẵng phát triển với hiệu quả còn hạn chế.
- Du lịch Đà Nẵng phát triển còn ít chú trọng đến yếu tố bền vững của Sở Du Lịch và các doanh nghiệp du lịch.
Đặc biệt trong xu hướng hội nhập khi mà các lực lượng cần được huy động và sử dụng có hiệu quả nhằm tạo ra và cung ứng các sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao ở thị trường trong nước và quốc tế thì yêu cầu giải quyết những vấn đề trên ngày càng trở nên cấp bách hơn.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đến vấn đề này như:
- Nguyễn Đăng Trường, Ngô Trường Thọ, Dương Thị Thơ (2014), Nghiên cứu phát triển các loại hình và hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn TP.ĐN. Đề tài nghiên cứu khoa học.
- Hoàng Thanh Hiền và Nguyễn Thị Như Liên (2021), Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển du lịch Đà Nẵng. Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng.
Các đề án phát triển các sản phẩm du lịch cụ thể (sinh thái, tàu biển, văn hóa, lịch sử, lễ hội…) của Sở Du Lịch và các doanh nghiệp du lịch. Song nhìn chung vẫn chưa có công trình nghiên cứu ứng dụng nào đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện các yếu tố chất lượng dịch vụ nhằm thu hút du khách đến Đà Nẵng.Vì vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay là làm thế nào để đưa hình ảnh Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng đến với du khách, để mỗi du khách khi nhắc đến Việt Nam hình ảnh của Đà Nẵng là một phần không thể thiếu trong chuyến du lịch dài ngày từ TP.HCM ra HN. Với những lý do đó và gần 20 năm công tác trong ngành du lịch với vai trò là một hướng dẫn viên tôi thực sự mong muốn ngành du lịch của TP Đà Nẵng ngày càng phát triển bền vững thu hút thật nhiều du khách đến với thành phố biển xinh đẹp này, chính vì thế tôi chọn nghiên cứu đề tài: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐÀ NẴNG”. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận có liên quan đến du lịch, sản phẩm du lịch trên thành phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng quản lý ngành du lịch tại TP Đà Nẵng.
- Đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ DL trên địa bàn thành TP Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển du lịch Đà Nẵng
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp thu thập số liệu:
Việc thu thập toàn bộ số liệu thứ cấp liên quan đến đề tài là rất quan trọng, giúp cho ta có thể giảm bớt nhiều công sức, thời gian phải dành ra để tìm hiểu trên thực tại.
Phương pháp khảo sát thực địa:
Phương pháp này nhằm bổ sung các tài liệu còn thiếu, chưa cập nhật. Đồng thời kiểm tra mức độ chính xác của số liệu đã thu thập được. Căn cứ vào mục đích, nội dung nghiên cứu của đề tài để vạch ra lộ trình, tiếp xúc với các cơ quan, đơn vị chức năng làm du lịch tỉnh và ghi chép lại tất cả những vấn đề có liên quan đến đề tài.
Phương pháp tổng hợp phân tích thống kê:
Dựa trên tất cả các số liệu thống kê, tài liệu thu thập được từ hai phương pháp trên, tổng hợp lại, so sánh, rút ra nhận xét, kết luận
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ du lịch Đà Nẵng
- Phạm vi không gian nghiên cứu : Địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: được dựa trên
- Số liệu nghiên cứu: từ năm 2019 đến năm 2023.
- Định hướng cho phát triển DL Đà Nẵng: từ năm 2022 đến năm 2026.
5. Bố cục luận văn: Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Đề tài này được chia làm 3 chương như sau:
- Chương 1: Lý luận chung và kinh nghiệm phát triển du lịch
- Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tại thành phố Đà Nẵng
- Chương 3: Các giải pháp nhằm phát triển du lịch đà nẵng
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1 Khái niệm chung về du lịch
1.1.1 Khái niệm về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi gốc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy, có nhiều định nghĩa và khái niệm liên quan đến du lịch như sau:
Theo giáo sư Hangiker và Kraff định nghĩa tại Hội nghị lần thứ V của các nhà khoa học trong lĩnh vực DL trên TG thừa nhận là: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của cá thể, nơi họ lưu trú không phải là nơi họ ở thường xuyên và là nơi làm việc để kiếm tiền”. Theo Luật du lịch Việt Nam (2016): “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoản thời gian nhất định”.
Từ khái niệm trên, cho chúng ta nhận định rằng du lịch không chỉ đơn thuần của một hoạt động mà là tổng hòa nhiều mối quan hệ và hiện tượng nảy sinh từ điều kiện và tác động qua lại giữa các đối tượng là khách du lịch, tài nguyên du lịch và ngành du lịch. Nhu cầu du lịch của người du lịch là yếu tố dẫn đến sự phát sinh của toàn bộ hoạt động du lịch. Đối tượng trực tiếp của hành vi du lịch là di tích, cảnh quan và hàng lưu niệm. Sự tiếp xúc qua lại và tác động lẫn nhau giữa người du lịch và tài nguyên du lịch thông qua một cơ chế thị trường để tiến hành vận động mới có thể thực hiện, vì thế ngành du lịch làm trung gian môi giới giữa hai đối tượng ấy, làm hình thành thị trường du lịch, làm hài hòa và thực hiện quan hệ giữa sự tiêu dùng của người du lịch và khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch.
Bên cạnh đó du lịch là một hoạt động của con người ở một nơi khác không phải nơi cư trú thường xuyên, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định. Đồng thời, từ khái niệm về du lịch cho ta thấy rõ hơn du lịch là tổng hợp các mối quan hệ giữa khách du lịch, tài nguyên du lịch và ngành quản lý du lịch, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phát triển hoặc ngược lại của chủ thể này sẽ tác động trực tiếp đến các chủ thể còn lại. Chính vì thế, ngành du lịch cần phải có những giải pháp đồng bộ tác động lên các chủ thể này mới đảm bảo đưa hoạt động ngành du lịch phát triển một cách bền vững.
1.1.2 Khái niệm về khách du lịch Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Ngành du lịch muốn hoạt động và phát triển thì đối tượng “khách du lịch” là nhân tố quyết định. Nếu không có “khách du lịch” thì các nhà kinh doanh du lịch không thể kinh doanh được, không có “khách du lịch” thì hoạt động của các nhà kinh doanh du lịch trở nên vô nghĩa.
Để nghiên cứu một cách đầy đủ và có cơ sở tin cậy cần tìm hiểu và phân tích một số định nghĩa về “khách du lịch” được đưa ra từ các Hội nghị quốc tế về du lịch hay của các tổ chức quốc tế có quan tâm đến các vấn đề về du lịch. Sau đây là một số định nghĩa về khách du lịch:
Theo nhà kinh tế học người Anh, ông Ogilvie cho rằng: “Khách du lịch là tất cả những người thỏa mãn 2 điều kiện: Rời khỏi nơi ở thường xuyên trong khoảng thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm mà không kiếm tiền ở đó”. Khái niệm này chưa hoàn chỉnh vì nó chưa làm rõ được mục đích của người đi du lịch và qua đó để phân biệt được với những người cũng rời khỏi nơi cư trú của mình nhưng lại không phải là khách du lịch.
Nhà xã hội học Cohen quan niệm: “Khách du lịch là một người đi tự nguyện, mang tính nhất thời, với mong muốn được giải trí từ những điều mới lạ và sự thay đổi thu nhận được từ một chuyến đi tương đối xa và không thường xuyên”.
Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam: Trong Pháp lệnh du lịch của Việt Nam ban hành năm 2010 có nói: “Khách DL là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.
1.1.3 Phân loại khách du lịch
Ngày 4-3-1993 theo đề nghị của Tổ chức du lịch thế giới (WTO), Hội đồng thống kê Liên hợp quốc (United Nations Statistical Commission) đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch. Khách du lịch quốc tế (International Tourist) bao gồm:
- Khách du lịch quốc tế đến (Inbound Tourist): gồm những người từ nước ngoài đến du lịch một quốc gia.
- Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound Tourist): gồm những người đang sống trong một quốc gia đi du lịch ra nước ngoài.
- Khách du lịch trong nước (Internal Tourist/Domestic Tourist): gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước.
Theo Pháp lệnh du lịch của Việt Nam ban hành năm 2010 thì Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế: Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
- Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
- Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Ngoài ra còn có các cách phân loại khác: theo nguồn gốc dân tộc, theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, theo khả năng thanh toán….
Trên đây chỉ là một số tiêu thức phân loại khách du lịch thường dùng. Mỗi tiêu thức đều có ưu, nhược điểm riêng vì vậy khi nghiên cứu khách du lịch cần kết hợp nhiều cách phân loại. Việc phân loại khách du lịch một cách đầy đủ, chính xác sẽ tạo tiền đề cho việc hoạch định các chiến lược, chính sách kinh doanh từ đó việc kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hơn.
Với luận văn của mình tác giả tập trung vào khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa đến Đà Nẵng du lịch.
Nghiên cứu kỹ hơn về tính cách , đặc điểm, văn hóa, sở thích, thói quen, nhu cầu DL của từng loại khách để đưa ra các giải pháp phù hợp cho từng loại khách.
1.1.4 Các loại hình du lịch:
Hiểu rõ từng loại hình du lịch để làm chương trình cho khách là những yêu cầu cần thiết không thể thiếu đối với những nhà tổ chức hoạt động du lịch.
- Du lịch nghỉ dưỡng
Nhằm thỏa mãn nhu cầu căng thẳng bận rộn trong công việc kiếm sống hằng ngày, những căng thẳng phát sinh trong công việc để giải phóng khỏi những suy nghĩ mệt mỏi, đầu óc được thảnh thơi.
- Du lịch tham quan
Nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết thêm về đất nước, con người, sản vật, tài nguyên của nơi du khách đến tham quan. Đối tượng của loại hình du lịch tham quan là nơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp, các khu lăng tẩm của những nhân vật lịch sử, các khu công trình kiến trúc cổ.
- Du lịch chữa bệnh
Để tổ chức loại hình du lịch này phải có tài nguyên thiên nhiên điều trị những loại bệnh đặc biệt: suối nước khoáng, suối nước nóng có đủ hàm lượng các chất hóa học điều trị bệnh nhưng không gây tác dụng phụ.
- Du lịch công vụ Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Khách nước ngoài nhận lời mời đến thăm viếng, đàm phán ngoại giao được sắp xếp tham gia một hoặc vài hoạt động du lịch. Loại du lịch này có doanh thu cao do đó cần xem đây là một hình thức du lịch quan trọng.
- Du lịch chuyên đề
Kết hợp du lịch với nghiên cứu khoa học. Đối tượng tham gia loại hình du lịch chuyên đề là những nhà khoa học, những chuyên gia nghiên cứu sâu về lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, bảo vệ môi trường.
- Du lịch thể thao
Các chuyên gia du lịch đã sử dụng hình thức du lịch này để tổ chức các hội thao nhằm giúp du khách thực hành các môn thể thao mà họ ưa thích. Các loại hình thể thao được tổ chức kết hợp với du lịch như lướt ván, đua thuyền, bơi lặn, thám hiểm dưới nước, leo núi, chơi golf…
- Du lịch tâm linh:
Là một hình thức du lịch phát triển rất mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Du khách theo loại hình du lịch này thường tìm đến các đình, chùa, các thắng tích tôn giáo để ngắm cảnh, cúng bái, cầu nguyện,…Tại đây, du khách sẽ hòa vào dòng tín đồ để cảm nhận vẻ yên bình, thanh thản ở những thắng tích tôn giáo nổi tiếng.
- Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn bảo tồn khá tốt nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu.
- Du lịch Team Building
Một xu hướng mới của du lịch Việt Nam hiện nay là Du lịch Teambuiding. Với việc xây dựng các tour kết hợp du lịch tham quan, nghỉ dưỡng với các chương trình nhằm xây dựng, tăng cường tinh thần đoàn kết, tập thể, loại hình du lịch này đang được nhiều doanh nghiệp, công ty yêu cầu nhằm nâng cao vai trò đoàn kết giữa các nhân viên với nhau. Du lịch team building là một loại hình phổ biến ở nước ngoài nhưng còn khá mới ở Việt Nam.
- Du lịch khám phá, mạo hiểm: Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Khách tham gia các chương trình tour này sẽ tới những nơi ít người qua hoặc những vùng thường chỉ dành cho người bản xứ. Tour này đòi hỏi sức khỏe tốt, khả năng chịu đựng và thích nghi cao cùng với các điều kiện dịch vụ ở mức tối thiểu.
Loại hình này thường phù hợp với khách trẻ và thích tự do khám phá.
- Du lịch Homestay (nghỉ nhà dân):
Homestay là loại hình du lịch mà du khách sẽ được ở và sinh hoạt chung nhà với người dân bản xứ như thành viên trong gia đình, để khám phá phong cách sống của người dân, trải nghiệm cuộc sống thường ngày của họ để biết được văn hóa của người dân nơi đó.
Trên đây là một số loại hình du lịch dành cho khách du lịch. Riêng đối với Đà Nẵng hiện nay chỉ chủ yếu phát triển một số loại hình du lịch như: tham quan, tắm biển, công vụ, tâm linh, sinh thái, thể thao…
Việc phân loại các loại hình du lịch kể trên có ý nghĩa rất quan trọng, sẽ giúp cho Đà Nẵng khai thác lợi thế, tiềm năng du lịch, xác định được thế mạnh của mình, từ đó đưa hoạt động du lịch ngày càng phát triển không ngừng.
1.1.5 Sản phẩm du lịch
1.1.5.1 Khái niệm
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Theo luật Du lịch Việt Nam điều 4 chương 1: Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
1.1.5.2 Phân loại
Có hai loại sản phẩm du lịch cơ bản:
Sản phẩm du lịch hữu hình, tồn tại ở dạng vật thể: Ví dụ: Đồ lưu niệm, các món ăn, đồ uống khách du lịch sử dụng trong nhà hàng,… Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Sản phẩm du lịch vô hình, tồn tại ở dạng phi vật thể và chỉ có thể biết được thông qua cảm nhận của khách du lịch. Dạng sản phẩm này mang tính dịch vụ bao gồm những dịch vụ sau:
- Dịch vụ lưu trú và các dịch vụ bổ sung ở các cơ sở lưu trú.
- Các dịch vụ của các tổ chức du lịch.
- Dịch vụ giải trí công cộng ở các cơ sở du lịch.
- Dịch vụ lưu trú chữa bệnh và các dịch vụ tắm nghỉ gắn liền với nó.
- Các dịch vụ của các cơ sở thể thao.
- Các dịch vụ vận chuyển du lịch.
- Các dịch vụ và hàng hoá được bán ở các cơ sở.
- Du lịch ngoài dịch vụ cơ bản: làm đẹp, cắt tóc…
1.1.5.3 Đặc điểm
Sản phẩm du lịch tồn tại ở dạng vô hình (phi vật thể) là chủ yếu. Thành phần dịch vụ trong sản phẩm du lịch thường chiếm tới 80 – 90 về giá trị, còn sản phẩm là hàng hoá chiếm tỷ trọng khá nhỏ.
Sản phẩm du lịch được tạo ra căn bản nhờ yếu tố tài nguyên du lịch, vì vậy sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Khác với sản phẩm của các hàng hoá tiêu dùng thông thường, sản phẩm du lịch chỉ có thể ở tại chỗ, khách du lịch bắt buộc phải tìm đến nơi có sản phẩm du lịch. Đặc điểm này cho thấy sản phẩm du lịch là rất đặc biệt nhưng cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Phần lớn quá trình tạo ra sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm trong hoạt động du lịch là trùng nhau về cả không gian cũng như thời gian. Sản phẩm du lịch không thể lưu kho, cất trữ như sản phẩm của các hàng hoá thông thường.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn, mà có thể chỉ tập trung vào một thời điểm nhất định như cuối tuần (với hoạt động du lịch cuối tuần), trong ngày (với hoạt động phục vụ ăn uống trong nhà hàng), trong mùa (với các sản phẩm du lịch ở các địa phương có mùa du lịch),… Do đó, hoạt động du lịch thường mang tính mùa vụ khá rõ rệt và đây cũng là một trong những khó khăn lớn cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh.
1.1.5.4 Những yếu tố cơ bản của sản phẩm du lịch
Cũng như tất cả những sản phẩm khác, sản phẩm du lịch gồm nhiều yếu tố kết hợp với nhau để đáp ứng cho thị trường mục tiêu, thỏa mãn tối đa nhu cầu của du khách. Sản phẩm du lịch phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản như sau:
- Tài nguyên thiên nhiên: Khí hậu, cảnh đẹp thiên nhiên, núi rừng, bãi biển, sông suối…
- Tài nguyên nhân văn: Các di sản văn hóa, di tích lịch sử, phong tục tập quán, các lễ hội, công trình kiến trúc lịch sử, công trình kiến trúc tôn giáo… Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
- Các cơ sở vật chất phục vụ ngành du lịch: Khách sạn, nhà hàng, công viên, khu vui chơi giải trí…
- Các cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch: Hệ thống giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, y tế…
- Môi trường kinh tế và xã hội: Giá cả liên quan đến hoạt động du lịch, an toàn xã hội, trình độ dân trí, văn minh đô thị…
Môi trường kế cận: Những yếu tố thiên nhiên là nguồn để tạo nên sản phẩm du lịch, đòi hỏi chúng phải được bao bọc bởi những vùng đệm chung quanh thật lôi cuốn, có như vậy mới tạo nên những SPDL đa dạng, giá trị và bền vững. Đây sẽ là nơi mở rộng thêm các loại hình du lịch khác phục vụ nhu cầu tiềm ẩn của du khách.
Dân cư địa phương: Du lịch tạo điều kiện cho du khách tiếp xúc với dân cư địa phương. Thông thường du khách và dân địa phương có những lối sống và văn hóa khác nhau. Mối quan hệ giữa họ có thể làm phát sinh mâu thuẫn. Cho nên, thái độ của dân địa phương ảnh hưởng lớn đến sự cảm nhận của du khách đối với sản phẩm du lịch. Phần lớn, du lịch gồm những yếu tố kích thích tâm hồn và cảm xúc. Những khía cạnh như bầu không khí, cách cư xử, sự thân thiện là những yếu tố quyết định trong việc đánh giá một sản phẩm du lịch. Đây là vấn đề không nên coi nhẹ trong quá trình đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
Các dịch vụ công cộng phục vụ du lịch: Những yếu tố cơ bản của sản phẩm du lịch thường khó thay đổi, trong khi đó dịch vụ công cộng lại có thể dễ dàng thay đổi và chính các yếu tố đó đã góp phần to lớn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, gia tăng độ thỏa dụng cho du khách. Việc xây dựng một trung tâm hội nghị trong thành phố, một khu vui chơi giải trí, một khu thể thao, một công viên, trồng nhiều cây xanh trong thành phố… là những nhân tố làm thay đổi sản phẩm du lịch của một thành phố hoặc một điểm du lịch.
Cơ sở lưu trú, nhà hàng và các dịch vụ thương mại: Du khách là những người ra khỏi nhà ở của mình trong một thời gian nhất định, tạm thời rời bỏ công việc bận rộn của mình tìm đến một nơi để nghỉ ngơi, thư giãn. Du khách có thể ở trong khách sạn, nhà trọ hoặc ở trong các lều trại. Cơ sở lưu trú, nhà hàng sẽ là những yếu tố quan trọng làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm du lịch. Có những cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời, có khí hậu trong lành, mát mẻ bên cạnh là các khách sạn, nhà hàng sang trọng, ấm cúng, chắc chắn sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch có giá trị cho du khách.
Hạ tầng giao thông: Du lịch hàm ý một sự di chuyển của du khách ra khỏi nhà để đến chỗ lưu trú. Cho nên, các phương tiện giao thông, đường sá, sân bay, bến cảng… là những yếu tố vô cùng quan trọng để việc di chuyển đó có thể diễn ra trong những điều kiện tốt nhất (ít mệt, ít tốn thời gian) và chi phí thấp nhất. Những phương tiện đi lại trong trung tâm thành phố như xe bus, taxi, xích lô… và các điều kiện đi lại khác, là những vấn đề không thể coi thường bên trong sản phẩm du lịch.
1.1.6 Dịch vụ du lịch: Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
1.1.6.1 Khái niệm dịch vụ và dịch vụ du lịch v Dịch vụ:
Trong thực tế đời sống hàng ngày, các hoạt động dịch vụ luôn diễn ra rất đa dạng ở khắp mọi nơi và không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của dịch vụ trong đời sống xã hội. Tuy vậy, để có một khái niệm chuẩn về dịch vụ dường như vẫn còn là vấn đề đang cần bàn luận thêm. Thực tế cho tới nay vẫn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dịch vụ là “những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt”. Do nhu cầu trong thực tế đời sống đa dạng và phân công lao động xã hội nên có nhiều loại dịch vụ như dịch vụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phục vụ sinh hoạt công cộng (giáo dục, y tế, giải trí), dịch vụ cá nhân dưới hình thức những dịch vụ du lịch, giải trí…
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học theo Từ điển Wikipedia được hiểu là “những thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất”. Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ…và mang lại lợi nhuận.
- Dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch cũng dựa trên một số yếu tố cơ bản của dịch vụ, dưới đây là một số định nghĩa về dịch vụ du lịch như sau:
Theo Từ điển du lịch, lữ hành, lưu trú và ăn uống (nhà xuất bản Butterworth Heineman, 1993) định nghĩa rằng: “Dịch vụ du lịch là kết quả của các hoạt động kinh tế được thể hiện trong sản phẩm vô hình (phân biệt với hàng hoá vật chất) như lưu trú, vận chuyển, dịch vụ tài chính, thông tin liên lạc, y tế và các dịch vụ cá nhân khác”.
Và trong điều 4, chương I Luật Du lịch Việt Nam khẳng định: “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”, định nghĩa này không chỉ khẳng định dịch vụ du lịch là đầu ra của các hoạt động du lịch, mà còn bao hàm cả các dịch vụ được cung cấp bởi ngành du lịch.
1.1.6.2 Đặc điểm
Dưới đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết từng đặc tính của dịch vụ du lịch:
Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) thông thường thì quá trình sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không cùng trong một thời điểm. Người ta có thể sản xuất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác với nơi bán và tiêu dùng.
Còn đối với dịch vụ du lịch thì gần như thời gian sản xuất ra sản phẩm du lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm. Bản thân sản phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên không thể đem sản phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hoá vật chất thông thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hàng ngày. Do tính đồng thời, trùng khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ như một chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm được chào bán cho khách du lịch thì thời gian ấy chính là lúc sản phẩm du lịch vừa được hình thành đồng thời với hành trình của khách và cảm nhận của khách về chất lượng sản phẩm. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung – cầu cũng không thể tách rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự ăn khớp giữa cung và cầu trong du lịch là hết sức quan trọng.
Đây là tính chất quan trọng nhất của sản xuất dịch vụ du lịch. Tính phi vật chất đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước. Khách du lịch chỉ có thể được sử dụng sản phẩm dịch vụ du lịch khi họ chính thức bắt đầu mua sản phẩm và thông qua cảm nhận của họ, sản phẩm du lịch phi vật chất đó là hoàn hảo, tốt hay không tốt. Đánh giá qua cảm nhận của khách hoàn toàn do cảm nhận chủ quan hay khách quan của khách du lịch. Đó là đặc tính rất đặc biệt. Cho nên đối với du khách thì dịch vụ du lịch là trừu tượng khi mà họ chưa một lần tiêu dùng nó.
Dịch vụ du lịch luôn được sử dụng song hành, đồng thời với những sản phẩm vật chất, có thể nhìn thấy được nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình. Du khách thực sự rất khó đánh giá dịch vụ.
Mối quan hệ mật thiết giữa khách hàng và nhà sản xuất trong sự tác động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức độ làm nghề, khả năng cũng như ý nguyện của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ. Ngoài những đặc tính kinh tế, vai trò phục vụ của con người (những người phục vụ trực tiếp cũng như gián tiếp trong du lịch) đóng một vai trò rất quan trọng cho việc tạo nên ấn tượng tốt, xấu trong cảm giác, sự tin tưởng, tình thân thiện về cá nhân, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn như khi mua những hàng hoá tiêu dùng khác.
Khách du lịch có được một ấn tượng rất tốt đẹp về chuyến đi của họ không có nghĩa là thứ tạo nên ấn tượng đó là vẻ đẹp thiên nhiên, sự sang trọng của khách sạn, những món ăn ngon và những trò tiêu khiển, giải trí hấp dẫn, mà còn là sự hài lòng, sự thoả mãn sau một chuyến đi với những điều kiện dịch vụ tuyệt hảo, sự tận tình, chu đáo và thân thiện của những người phục vụ trong suốt cuộc hành trình,…
Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện được ý nguyện của khách hàng. Trong những trường hợp này thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kỹ thuật, sản xuất và tiêu dùng những loại dịch vụ này đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ những chức năng truyền thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị trường. Người tiêu dùng đồng thời trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ. Người tiêu dùng tham gia hoặc là về mặt thể chất, trí tuệ hay là về mức độ tình cảm trong quá trình tạo ra dịch vụ, xác định thời gian cũng như các khả năng sản xuất. Các vấn đề có tính chất biểu trưng đó có thể thấy được tại các quán ăn nhanh Mcdonald, khách sạn, cửa hàng, ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ giao thông vận tải. Ở đây, sự tham gia về trí tuệ của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ này được xác định như sự phối hợp cùng sản xuất. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Đó là sự khác biệt rõ nét nhất với các hàng hoá vật chất thông thường mà con người hàng ngày vẫn tiêu dùng, sử dụng. Với các mặt hàng được sản xuất ra tại một thời điểm và sau đó được đem bán tới người tiêu dùng ở một thời điểm khác thông qua các kênh phân phối sản phẩm, thì người tiêu dùng chỉ cần bỏ tiền ra mua hàng hoá đó là được quyền sở hữu sản phẩm.
Nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang mua quyền đối với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du lịch được ở trong những khách sạn sang trọng, được sử dụng phương tiện vận chuyển để đi lại, được chơi các trò chơi giải trí hấp dẫn, được thoải mái tắm và nghỉ ngơi trên bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với chúng.
Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được, khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến các cơ sở du lịch.Chẳng hạn, dịch vụ du lịch là một cơ sở lưu trú hay dịch vụ tài nguyên du lịch.
Do đó để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn địa điểm thoả mãn các điều kiện tự nhiên: địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi trường sinh thái và điều kiện xã hội: dân số, dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở hạ tầng.
Đặc điểm này của dịch vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở (doanh nghiệp) du lịch tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để thu hút được du khách đến với điểm du lịch.
Dịch vụ có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ: các khách sạn ở các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông khách vào mùa hè, các nhà hàng trong khách sạn thường đông khách ăn vào trưa hoặc chiều tối, hoặc các khách sạn gần trung tâm thành phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần. Chính đặc tính này của dịch vụ dẫn đến tình trạng cung cầu dịch vụ dễ mất cân đối vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi cao điểm. Vì vậy, các đơn vị thường đưa ra các chương trình khuyến mại khách đi nghỉ trái vụ khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lý tốt hàng chờ khi cầu tăng.
Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ trọn gói bao gồm:
Dịch vụ cơ bản: là những dịch vụ chính mà nhà cung ứng du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng, bar …
Dịch vụ b sung: là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn các nhu cầu không bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng phải có trong chuyến hành trình của du khách. Nhiều khi dịch vụ bổ sung lại có tính chất quyết định cho sự lựa chọn của khách và có ảnh hưởng quan trọng đến sự thoả mãn toàn bộ của khách hàng đối với dịch vụ trọn gói của doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu khách sạn có số lượng dịch vụ bổ sung càng phong phú, chất lượng của dịch vụ cao thì ngay cả khi giá cả không rẻ khách vẫn đến đông và khi đó khách sạn kinh doanh sẽ rất có hiệu quả vì hệ số sử dụng phòng cao, khách lưu trú dài ngày và tỷ lệ khách quay lại thường cao hơn so với loại khách sạn có ít dịch vụ.
Dịch vụ đặc trưng: là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu đặc trưng của du khách như tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí…. Việc thoả mãn các nhu cầu này cũng chính là nguyên nhân và là mục đích của chuyến du lịch. Tính chất trọn gói của dịch vụ du lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và tổng hợp của du khách. Mặc khác nó cũng đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất lượng dịch vụ.
1.2. Phát triển du lịch: Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
1.2.1 Khái niệm phát triển du lịch
Du lịch được tạo thành từ những mắt xích, như giao thông vận chuyển, thương mại, dịch vụ… Bản thân ngành du lịch không thể đứng một mình để phát triển mà cần liên kết với các ngành khác nhằm tạo ra sức cạnh tranh để phát triển. Phát triển du lịch đã trở thành mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên để phát triển du lịch mang tính lâu dài thì phải tính đến yếu tố bền vững. Phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Vì vậy quan điểm phát triển du lịch cần được vận dụng trong việc tổ chức quản lý, triển khai đánh giá các hoạt động du lịch và trong việc nghiên cứu tiến hành quy hoạch du lịch.
Theo Hội đồng thế giới về Môi trường và phát triển (WCED): “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
Theo Khoản 21, Điều 4, Chương I – Luật Du lịch Việt Nam (năm 2016): “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”.
1.2.2 Các nguyên tắc phát triển du lịch
Sử dụng nguồn lực một cách bền vững: Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa – xã hội là rất cần thiết, nó giúp cho việc kinh doanh phát triển lâu dài. DL là ngành kinh tế có sự định hướng rõ rệt.
Tài nguyên du lịch lại được coi là sản phẩm du lịch quan trọng nhất, là mục đích chuyến đi của du khách. Nhưng nhiều loại tài nguyên du lịch không thể đổi mới, tái chế hay thay thế được. Hoạt động du lịch đã mang lại hiệu quả về nhiều mặt, nhưng cũng gây nhiều tác động tiêu cực như: làm cạn kiệt, suy giảm tài nguyên môi trường…
Vì vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch cần xây dựng những phương cách, chiến lược bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên du lịch theo hướng tiết kiệm, hợp lý để lưu lại nguồn tài nguyên cho thế hệ tương lai.
Duy trì tính đa dạng: Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa – xã hội là hết sức quan trọng đối với du lịch bền vững lâu dài; là cơ sở cho việc tồn tại, phát triển của ngành du lịch. Trong quá trình xây dựng và thực hiện các dự án quy hoạch du lịch, cũng như sự phát triển du lịch do nhiều nguyên nhân khác nhau nên dễ làm mất đi tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa – xã hội. Vì vậy trong quá trình quy hoạch du lịch cần xây dựng thực hiện các phương cách, chiến lược nhằm duy trì bảo tồn được tính đa dạng của tự nhiên và văn hóa xã hội. Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải: Sự tiêu thụ quá mức tài nguyên thiên nhiên và các tài nguyên khác không chỉ dẫn đến sự hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên mà còn không đảm bảo nguồn tài nguyên cho sự phát triển lâu dài của ngành Du lịch. Các chất thải của phương tiện vận chuyển khách, chất tẩy rửa, dầu ăn, nước thải từ dịch vụ giặt đồ và nấu ăn, cùng với lượng chất thải khác từ các dịch vụ phục vụ du khách, cũng như của du khách. Nếu chúng không được thu gom sử lý đúng yêu cầu kỹ thuật, hoặc tái chế sẽ là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường. Do vậy, đối với các địa phương và các quốc gia hoạt động du lịch càng phát triển thì lượng du khách càng nhiều dẫn đến lượng chất thải từ hoạt động này cũng ngày càng nhiều. Các dự án quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch được triển khai không có đánh giá tác động môi trường hoặc không thực thi những kiến nghị về đánh giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự tiêu dùng lãng phí tài nguyên. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Chính điều này đã gây ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và xáo trộn về văn hóa – xã hội. Nhiều dự án quy hoạch du lịch không có kế hoạch, hay lập kế hoạch kém dẫn đến việc cộng đồng địa phương cùng với các cơ quan nhà nước phải làm công việc phục hồi tổn thất về môi trường.
Do vậy việc quy hoạch phát triển du lịch đúng đắn ngay từ khi lập dự án phải tiến hành đánh giá tác động từ hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường, từ đó dự kiến những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm lượng chất thải vào môi trường là cần thiết.
Hợp nhất quy hoạch du lịch vào quá trình quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội: Du lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, nó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhiều ngành kinh tế – xã hội. Ngành du lịch mang lại hiệu quả trực tiếp và gián tiếp đối với các ngành kinh tế – xã hội. Do vậy cần hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược của địa phương và quốc gia. Quy hoạch phát triển du lịch là một bộ phận của quy hoạch kinh tế – xã hội, nó làm tăng khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của ngành du lịch.
Khi sự phát triển du lịch là một bộ phận hợp nhất của quy hoạch, kế hoạch phát triển cấp quốc gia hoặc địa phương, nếu coi việc phát triển du lịch là một tổng thể thì sẽ mang lại lợi ích tối đa và dài hạn hơn cho nền kinh tế – xã hội quốc gia và địa phương và cho cả phát triển du lịch. Điều này sẽ khuyến khích việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác tài nguyên môi trường du lịch hiệu quả hơn, vừa góp phần hấp dẫn du khách và nâng cao đời sống cộng đồng địa phương. Khi hòa nhập phát triển quy hoạch du lịch vào quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia và địa phương, ngành du lịch sẽ được đầu tư, phát triển phù hợp, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Do vậy trong quá trình quy hoạch du lịch cần phải tính đến sự hòa hợp quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Hỗ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng vốn thuộc quyền sở hữu của người dân bản địa như đường giao thông, điện nước, hệ thống xử lý chất thải, thông tin liên lạc… có thể không chỉ phục vụ riêng cho ngành du lịch nhưng vẫn thúc đẩy du lịch phát triển. Hoạt động du lịch một mặt mang lại hiệu quả tích cực kinh tế – xã hội của địa phương, mặt khác cũng để lại hiệu quả tiêu cực cho tài nguyên môi trường và kinh tế – xã hội của địa phương. Do vậy, ngành du lịch có trách nhiệm đóng góp một phần cho phát triển kinh tế địa phương, trong quá trình hoạch định các giải pháp chính sách khi quy hoạch du lịch cần phải tính đến đóng góp từ thu nhập du lịch cho kinh tế địa phương và quốc gia. Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường; mà còn góp phần duy trì, phát triển du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tạo ra sự hấp dẫn với du khách.
Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch. Dân cư, nền văn hóa, môi trường, lối sống và truyền thống của địa phương là những nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch tới điểm du lịch. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch có thể giúp cho họ xóa đói, giảm nghèo góp phần thu được nhiều ngoại tệ, có lợi cho cả cộng đồng địa phương và khách du lịch, đồng thời cũng nâng cao triển vọng phát triển lâu dài của sản phẩm du lịch.
Do vậy ngay từ đầu khi tiến hành quy hoạch du lịch cần phải tính đến các phương cách, chiến lược để thu hút cộng đồng địa phương vào hoạt động DL. Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng liên quan: Việc lấy ý kiến của cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan khác nhau, các doanh nghiệp du lịch là rất cần thiết. Đây là một bước nhằm nâng cao nhận thức của các bên tham gia với các dự án quy hoạch, cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi. Đồng thời, điều này giúp cho các bên tham gia có thể ủng hộ cho việc thực hiện các dự án quy hoạch. Do vậy, trong quá trình triển khai các dự án quy hoạch du lịch cần vận dụng nguyên tắc này trong điều tra xã hội học, lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan vừa để giải tỏa các mâu thuẫn tiềm ẩn; vừa tìm thấy các nguyên nhân bất đồng, những vấn đề cần giải quyết; góp phần thu hút các bên tích cực tham gia vào việc thực hiện dự án quy hoạch du lịch. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Đào tạo nhân viên: Nguồn nhân lực du lịch là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, nó quyết định sự phát triển du lịch bền vững. Để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, các dự án quy hoạch ngay từ đầu cần phải hoạch định các chiến lược, giải pháp để đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm: Để thực hiện được các mục tiêu phát triển du lịch bền vững, các dự án quy hoạch du lịch cần hoạch định các chiến lược, marketing, quảng bá cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nâng cao sự tôn trọng của du khách với môi trường tự nhiên, văn hóa – xã hội tại điểm đến, đồng thời làm tăng sự thỏa mãn của du khách.
Tiến hành nghiên cứu: Thông tin số liệu để xây dựng dự án và ngay cả khi dự án được thực hiện đều không sẵn có. Để các dự án quy hoạch có hiệu quả, ngay từ thời kỳ tiền dự án đến khi thực hiện dự án cần: đầu tư nhiều cho công tác điều tra, giám sát, thống kê, so sánh tổng hợp mới có thể xây dựng được các mục tiêu, các định hướng, các giải pháp của dự án phù hợp. Công tác nghiên cứu còn giúp cho việc nhận thức rõ được những thiếu sót, hạn chế của dự án quy hoạch để từ đó có những giải pháp kế hoạch điều chỉnh bổ sung kịp thời.
1.3 Những nhân tố tác động đến sự phát triển của hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch của một quốc gia, một địa phương và doanh nghiệp DL chỉ có thể phát triển được trong những điều kiện nhất định. Có những điều kiện mang tính chất toàn cầu, có những điều kiện mang tính chất khu vực và quốc gia và có những điều kiện mang tính chất ngành DL hoặc cộng đồng dân cư địa phương. Trước hết, một quốc gia muốn phát triển mạnh mẽ hoạt động du lịch, cần phải có những điều kiện cơ bản sau:
1.3.1 Điều kiện xã hội an ninh và an toàn:
Bất cứ một đất nước hoặc một vùng lãnh thổ hoặc địa phương nào không đảm bảo được điều kiện về an ninh, an toàn cho khách du lịch thì không thể phát triển hoạt động du lịch. Con người đi du lịch với nhiều mục đích trong đó có mục đích được đảm bảo an ninh, an toàn tính mạng, thoải mái về tinh thần, vì thế những địa điểm du lịch dù có nổi tiếng đến đâu, nhưng điều kiện trên không đảm bảo thì không thể nào thu hút được khách du lịch. Khu du lịch Bali (Indonexia) nổi tiếng trong khu vực và trên thế giới thu hút rất nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới, nhưng chỉ một sự kiện khủng bố tại khu du lịch này, số lượng khách đã giảm sút nghiêm trọng. Trong những năm qua, số lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam không ngừng tăng và nước ta được đánh giá là” điểm đến du lịch an toàn và thân thiện của khu vực và thế giới”.
1.3.2. Tài nguyên du lịch: Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Đến với Đà Nẵng, du khách sẽ có dịp tham quan các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà… và thoả thích bơi lội trên các bãi biển trải dài hàng chục km, được coi là một trong 6 bãi biển sạch đẹp nhất của hành tinh. Đà Nẵng còn là trung điểm của “Hành trình Di sản Văn hoá thế giới”, chỉ trong bán kính chưa đầy 200 km, bạn đã có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 05 Di sản Văn hoá thế giới: Thánh địa Mỹ Sơn, Phố Cổ Hội An, Cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế và Di tích Động Phong Nha.
Có thể nói, tiềm năng du lịch của Đà Nẵng là hết sức phong phú và to lớn. Trong những năm qua, nhất là từ khi Đà Nẵng trở thành Đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương, nơi đây được coi là điểm phát triển năng động với tốc độ cao trong khu vực, có cơ sở hạ tầng hoàn hảo, cơ chế đầu tư thông thoáng và hệ thống dịch vụ phụ trợ của du lịch ngày càng được cải thiện, phù hợp với một đô thị phát triển theo hướng hiện đại.
1.3.3. Chương trình kích cầu và xúc tiến du lịch
- Kích cầu du lịch
Tình hình kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, tác động mạnh mẽ tới lĩnh vực du lịch đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi ngành phải nỗ lực cao độ để vượt qua khó khăn, thách thức to lớn hiện nay. Do đó, việc đề ra Chương trình kích cầu du lịch nhằm kích thích nhu cầu du lịch để thúc đẩy tăng trưởng khách du lịch và thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ là cần thiết.
Kích cầu là một trong những biện pháp hữu hiệu để vực dậy ngành du lịch Việt Nam. Được phát động lần đầu vào năm 2020, tại thời điểm khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chi tiêu và hạn chế nhu cầu du lịch của người dân, thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các điểm đến trong và ngoài nước, việc phát động chương trình kích cầu sẽ góp phần thúc đẩy du lịch Việt Nam tăng trưởng ổn định.
Xây dựng và triển khai đồng bộ chương trình kích cầu du lịch nhằm tận dụng cơ hội, đối phó với những khó khăn, thách thức nhằm thúc đẩy tăng trưởng khách du lịch, gắn kết phát triển du lịch với phát triển thương mại dịch vụ, kích cầu tiêu thụ hàng hóa nội địa, đặc biệt là các hàng hóa được sản xuất tại các địa phương, góp phần khắc phục những khó khăn kinh tế trong nước, hỗ trợ các ngành thương mại dịch vụ phát triển và tạo đà tăng trưởng du lịch bền vững trong các năm tiếp theo.
Để kích cầu du lịch hiệu quả, điều quan trọng là cần phải cải thiện chất lượng dịch vụ, nâng cao tính chuyên nghiệp và thái độ thân thiện trong phục vụ khách du lịch để tăng lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường thu hút khách du lịch. Ngoài ra, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, giá cả là yếu tố được đặt lên hàng đầu khi khách mua tour. Việc kích cầu đã tạo ra những sự hợp tác liên hoàn, hình thành những liên minh kích cầu trên toàn quốc để tạo nên những sản phẩm tốt, giá thành rẻ. Bên cạnh đó, kích cầu cũng làm giảm bớt tính mùa vụ vốn tồn tại từ lâu trong ngành du lịch. Nếu như trước đây du khách chủ yếu đi du lịch vào mùa hè thì nay đến tháng 9 – 10 vẫn có những đoàn khách đặt tour.
Theo báo cáo mới đây của bộ phận thống kê ASEAN (ASEAN Stats), ngành du lịch Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu trong thập niên vừa qua như: tốc độ tăng bình quân 9,8 /năm; đứng thứ tư trong khu vực ASEAN về thu hút du khách quốc tế; nguồn ngoại tệ thu được từ du lịch trong những năm gần đây cũng tăng lên nhanh chóng.
- Xúc tiến du lịch Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Cũng như bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào, đối với ngành du lịch hoạt động xúc tiến quảng bá có ý nghĩa to lớn trong quá trình hoạt động sản xuất của ngành du lịch.
Trong thời điểm hiện nay, cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt thì hoạt động xúc tiến quảng bá cũng có ảnh hưởng đến mức doanh thu của ngành. Để thu hút được nguồn khách, những nhà kinh doanh du lịch bao gồm cả Nhà nước, địa phương hay doanh nghiệp du lịch đều phải dùng nhiều biện pháp để cạnh tranh trên thị trường du lịch. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, một trong những biện pháp quan trọng nhất cần thực hiện đó là tiến hành thường xuyên công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến du lịch, giới thiệu hình ảnh của đất nước, con người, quê hương với những nét độc đáo, đặc sắc và hấp dẫn, để tạo ra sức thu hút khách du lịch, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản đòi hỏi trong hoạt động du lịch cần thiết phải tổ chức công tác tuyên truyền, quảng cáo và xúc tiến.
Tìm hiểu từ thực tế cho thấy, các khu, điểm du lịch, hay cơ sở phục vụ du lịch chỉ có ở vị trí cố định. Nếu không có những thông tin, tuyên truyền, quảng cáo bằng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các tập gấp, sách giới thiệu về du lịch, các băng, đĩa hình ảnh…; hay những cuộc xúc tiến quảng bá về du lịch, thì không dễ gì con người biết đến các khu, điểm, cơ sở du lịch của địa phương mình với các dịch vụ kèm theo của chúng.
Mặt khác, khi có cùng một nhu cầu về đi du lịch, nhưng con người dễ thay đổi nơi đến về du lịch, do sự tác động mạnh mẽ của tuyên truyền, quảng cáo. Vì vậy, tuyên truyền, quảng cáo và xúc tiến du lịch được xem như một biện pháp hữu hiệu để cạnh tranh thu hút nguồn khách.
Để công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch của thành phố mình đạt được hiệu quả cao nhất và thu hút được du khách trong thời gian tới, cơ quan xúc tiến về du lịch cần phải có giải pháp, kế hoạch cụ thể để phối hợp chặt chẽ với các đơn vị kinh doanh du lịch; quan tâm đến việc tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo về xúc tiến quảng bá, xúc tiến đầu tư vào các lĩnh vực du lịch ở tại địa phương mình; tham gia các cuộc xúc tiến quảng bá hình ảnh tại khu vực, tại các thành phố trung tâm, tại các tỉnh bạn…, để nhằm góp phần thu hút khách du lịch đến du lịch tại địa phương mình ngày một đông hơn.
1.3.4. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Nguồn nhân lực phục vụ du lịch là điều kiện có tính chất quyết định đến việc phát triển hoạt động du lịch. Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực du lịch bao gồm tất cả những người trực tiếp (những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các doanh nghiệp du lịch, các đơn vị sự nghiệp trong ngành du lịch) và gián tiếp tham gia vào quá trình phục vụ khách du lịch (các cơ quan, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư nơi khách du lịch đến thăm quan). Du lịch là ngành dịch vụ, trước hết phụ thuộc vào con người với trí tuệ cao, khả năng sáng tạo các ý tưởng mới lớn. Con người làm du lịch đòi hỏi phải có kỹ năng nghề nghiệp cao, kỹ năng giao tiếp tốt, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc và giỏi ngoại ngữ. Chính vì vậy, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch là điều kiện không thể thiếu được nhằm phát triển ngành du lịch.
1.3.5. Hợp tác du lịch vùng và quốc tế
Trong lĩnh vực lữ hành, để thu hút khách du lịch nhiều hơn, việc tăng cường khả năng liên kết ngành, vùng nhất là trong lĩnh vực du lịch ngày càng trở thành nhu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới. Đây là một trong 5 nội dung chính của Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Việc liên kết thành vùng du lịch, với sự tham gia của nhiều địa phương là một trong những hướng hợp tác được nhiều địa phương quan tâm đến. Sự liên kết hợp tác vùng không chỉ giúp các địa phương kết nối, xây dựng thành một tuyến tour, điểm đến du lịch mà còn giúp các địa phương trong nhóm liên kết tiết kiệm được chi phí quảng bá, xúc tiến.
Ngoài ra, sự hợp tác giữa ngành du lịch với các bộ, ban ngành khác liên kết chặt chẽ đã tránh sự trùng lặp về sản phẩm du lịch ở các địa phương đã giúp cho sản phẩm, dịch vụ du lịch của Việt Nam đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao hơn của du khách.
Để hoạt động lữ hành được triển khai có hiệu quả, cần liên kết chặt chẽ thêm với các ngành khác như: giao thông, thể thao, văn hóa, bảo hiểm, y tế…Và việc phối hợp giữa các ngành muốn đạt hiệu quả cao, cần phải xây dựng hệ thống văn bản pháp luật cụ thể, hợp lý .
Sự liên kết ấy không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà còn là sự liên kết quốc tế giữa các nước trong khu vực nhằm khuyến khích phát triển du lịch song phương, tăng cường trao đổi đoàn; trao đổi thông tin về du lịch và các lĩnh vực có tác động đến du lịch; nghiên cứu, thực hiện các dự án về du lịch, khuyến khích giúp đỡ kỹ thuật, trao đổi chuyên gia, dịch vụ, các hoạt động thúc đẩy du lịch; tập trung phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong quy hoạch…
1.3.6. Cơ sở hạ tầng và vật chất trong du lịch Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Cùng với tài nguyên du lịch, lao động du lịch, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nguồn lực quan trọng để phát triển ngành du lịch, nó tạo nên thế đứng vững chắc.
Vậy chúng ta có thể hiểu cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, công trình điện nước; hệ thống các cơ sở phục vụ ăn uống, lưu trú; mạng lưới cửa hàng thương nghiệp, các cơ sở thể thao, các cơ sở y tế, các công trình phục vụ hoạt động thông tin văn hóa, các cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác … Đây là những cơ sở có tính quyết định đến việc đón tiếp và phục vụ khách du lịch và khai thác các tài nguyên du lịch của địa phương và của đất nước. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch. Chính vì nó có vai trò quan trọng như vậy nên sự phát triển du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật.
Du lịch là một ngành sản xuất đa mặt hàng, đa sản phẩm, điều đó kéo theo sự đa dạng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật. Du khách thật sự ấn tượng, muốn khám phá một điểm du lịch, một vùng du lịch một khi hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tại nơi đó (Cũng có nghĩa là một sản phẩm du lịch) được hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu của họ. Điều này nói lên mối quan hệ khắng khít, chặc chẽ giữa tài nguyên du lịch tạo cho một chương trình du lịch ấn tượng, hoàn hảo.
Cơ sở vật chất có tác động tới mức độ sử dụng tài nguyên du lịch và việc bảo vệ, giữ gìn chúng. Điểm du lịch khu du lịch của một địa phương, một quốc gia chỉ thực sự thu hút khách khi có hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn thiện. Đó là yếu tố quyết định thời gian lưu lại của du khách, và làm tăng thêm doanh thu cho cơ sở kinh doanh du lịch khi khách tiêu thụ các sản phẩm du lịch khác. Sự lưu lại của khách cũng đồng nghĩa với mức độ sử dụng, tác động vào tài nguyên du lịch tăng. Điều này đặt ra vấn đề bảo vệ tài nguyên du lịch để tạo nên tính liên tục trong quy trình phục vụ khách du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật làm tăng lưu lượng khách, và tần suất hoạt động của các điểm du lịch, nghĩa là cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò như là động cơ kích thích sự đi du lịch của du khách, cũng như sự tiêu thụ sản phẩm du lịch.
1.3.7 Cơ chế, chính sách và luật pháp của Nhà nước về phát triển hoạt động du lịch.
Nhận thức vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế-xã hội nhiều nước đã xác định “phát triển du lịch là quốc sách”, hoặc “đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”, việc xây dựng các cơ chế, chính sách và luật pháp tạo điều kiện cho du lịch phát triển là điều kiện mang tính quyết định. Đó là việc xây dựng cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho: khách du lịch quốc tế vào-ra, cho việc đầu tư, liên doanh, liên kết các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, cho việc phát triển các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, việc phát triển cơ sở hạ tầng cho hoạt động du lịch phát triển… Nhiều nước xây dựng cơ chế miễn thị thực cho khách du lịch nước ngoài nhằm thu hút nhiều khách hoặc có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khách sạn và du lịch… Xây dựng Luật Du lịch, Luật Khách sạn, Luật Hướng dẫn viên du lịch, Luật Đại lý du lịch… để tạo một môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch phát triển.
1.4. Kinh nghiệm phát triển du lịch của các nước và tại Việt Nam Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Việc tham khảo mô hình phát triển du lịch của các nước điển hình trên thế giới là một việc rất cần thiết để làm cơ sở cho việc hình thành các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch nhằm thu hút khách quốc tế đến với thành phố Đà Nẵng. Dưới đây là những bài học kinh nghiệm có giá trị lớn để học hỏi, nghiên cứu và rút ra bài học kinh nghiệm, cụ thể là:
1.4.1 Kinh nghiệm phát triển du lịch ở các nước
Để phát triển một nền công nghiệp du lịch mang tính bền vững Đà Nẵng cũng cần tham khảo cách làm du lịch của một số nước.
1.4.1.1 Thái Lan
Trong những năm gần đây với định hướng, chính sách đúng đắn đã đưa hoạt động du lịch của Thái Lan thu hút lượng khách rất lớn. Ưu thế của Thái Lan là nền kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được đầu tư, đồng thời chất lượng dịch vụ khách sạn tốt. Trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đất nước giai đoạn 1997-2014, Thái Lan đã xác định phát triển du lịch theo hướng ưu tiên bảo vệ, bảo tồn các tài nguyên và tài sản du lịch, phục vụ cho phát triển du lịch.
Trong quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã khiến cho hoạt động của con người thường xuyên trong những bức tường, do đó xu thế người dân muốn đi du lịch đến những vùng đất thiên nhiên, mang tính nguyên sơ. Từ xu thế này, phong trào khôi phục lại giá trị nguyên bản của văn hóa và đất nước Thái Lan được Chính Phủ phát động mạnh để kêu gọi các làng mạc ở vùng nông thôn giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ, bảo vệ cây cối, giảm thiểu tiếng ồn và giữ gìn phong cách kiến trúc của Thái Lan để phát huy tính đặc thù của dân tộc. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng hỗ trợ các cộng đồng bản địa duy trì sức hấp dẫn của của các điểm du lịch, phối hợp với Cục bảo tồn rừng từ các cơ quan ở địa phương triển khai chương trình giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về du lịch cho các tầng lớp nhân dân của đất nước Thái Lan nhằm phát huy tính văn hóa trong du lịch.
Trong các năm gần đây, du lịch Thái Lan phát triển là do có nhiều giải pháp rất sáng tạo, độc đáo, hữu hiệu và tích cực để thu hút khách, trong đó có có việc đẩy mạnh những chương trình quảng cáo, khuyến mãi rất mạnh, có sức hút tốt đến khách du lịch như chương trình Thai-Amazing, du lịch kiến tạo nên hòa bình, “Road Show” quảng bá mạnh mẽ tại Tokyo, Osaka và Fukuoka, “Smooth as silk” nhằm thu hút khách đến du lịch Thái Lan thông qua chương trình khuyến mãi vé của Thai Airways.
1.4.1.2 Singapore Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Đây là một đất nước có diện tích không lớn (627 Km2) nhưng là một đảo quốc phát triển mạnh về kinh tế và là một trong những trung tâm du lịch nhộn nhịp nhất của Đông Nam Á. Nơi đây được xem là một trong những nơi kinh doanh du lịch phát triển và hiệu quả nhất. Khi đến đất nước này đều nổi bật nhất là vấn đề bảo vệ môi trường nơi đây được bảo vệ rất tốt, họ biến những những tấc đất nhỏ bé của mình thành những thảm hoa cây cỏ trông rất đẹp mắt và quyến rũ du khách, làm cho du khách có cảm tưởng như đang thưởng thức một khung cảnh thiên nhiên hoang dã. Việc bảo vệ môi trường được thực hiện rất nghiêm ngặt, có những hình thức quản lý về hành chính, kinh tế đối với các hành vi vi phạm làm ô nhiễm môi trường thông qua các lực lượng bảo vệ của nhà nước. Bên cạnh, các dịch vu du lịch được phục vụ rất chu đáo, thuận tiện, nhanh chóng. Nơi đây còn là nơi an toàn của Châu Á do người dân ở đây có trình độ dân trí cao và ý thức rất tốt.
Thông qua việc đẩy mạnh quảng bá, các chương trình khuyến mãi, Singapore đã thu hút được lượng khách đến nơi đây ngày càng đông. Vì nơi đây là một điểm du lịch lý tưởng của du khách. Điều này đáng cho chúng ta học hỏi thông qua các vấn đề bảo vệ môi trường, sinh thái, thiên nhiên và nâng cao dân trí để đáp ứng tốt vấn đề văn hóa trong du lịch.
1.4.2 Kinh nghiệm phát triển du lịch ở Việt Nam Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Trên kinh nghiệm phát triển du lịch của một số nước trên thế giới đã và đang mang lại những thành công nhất định, từ đó chúng ta có những bài học thiết thực hơn và mang những kinh nghiệm đó áp dụng cho sự phát triển du lịch của nước nhà. Tuy nhiên, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du lịch của các địa phương cũng cho Đà Nẵng những bài học quý giá về việc phát triển du lịch của mình.
1.4.2.1 Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh tiền thân là mảnh đất Sài Gòn, từng được mệnh danh là hòn ngọc viễn đông năm xưa. Ngày nay, vai trò của TP.HCM càng nổi bật hơn nữa trong quá trình xây dựng và phát triển. Đây là khu vực năng động nhất của cả nước về tốc độ đô thị hóa, về năng lực sản xuất và tiếp thu những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, là một trong những nơi dẫn đầu của cả nước trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra, TP.HCM còn là nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp và triển khai nhiều dự án đầu tư nước ngoài và nơi đây cũng tập trung nhiều hoạt động dịch vụ phát triển rất nhanh chóng. Từ đó, đã thu hút lượng khách du lịch lớn đến đây hằng năm nhất là lượng khách quốc tế đạt cao nhất so với các địa phương khác trong cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh còn là nơi diễn ra sự giao lưu văn hóa Đông-Tây, vì thế người dân thành phố sẽ tiếp thu và hội nhập rất nhanh với sự tiến bộ của những nền văn minh khác nhau trên thế giới. Đây là một lợi thế của thành phố trong tiến trình hội nhập. Mặt khác, với chức năng là một trung tâm văn hóa giáo dục của cả nước nên thành phố Hồ Chí Minh còn tập trung đông đảo đội ngũ trí thức và các nhà khoa học. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch của TP.HCM dễ dàng bước vào công cuộc phát triển bền vững trên cơ sở tranh thủ nguồn tri thức quý báu từ đội ngũ này trong việc quy hoạch, thiết lập các chiến lược và chính sách phát triển du lịch.
Bên cạnh đó, nơi đây còn là vùng đất gắn liền với bao sự kiện lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ khi thực dân Pháp bắt đầu thực hiện chính sách đô hộ. Vì vậy, nguồn tài nguyên du lịch văn hóa của khu vực này rất phong phú, đồng thời đó cũng là nơi đã từng hình thành nền văn minh sông nước. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Du lịch TP.HCM có tốc độ tăng trưởng ổn định, quy mô hoạt động ngày càng lớn, đóng góp có hiệu quả vào kinh tế thành phố.
Trong năm 2024, tình hình kinh tế – xã hội chuyển biến tích cực với sự tập trung chỉ đạo của Chính phủ, trong việc triển khai các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Tình hình kinh tế – xã hội thành phố năm 2024 duy trì tăng trưởng hợp lý, các chỉ số sản xuất công nghiệp, doanh thu hàng hóa-dịch vụ đều có tốc độ tăng khá hơn cùng thời điểm năm 2023.
Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn là một trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ của cả nước. Bên cạnh đó thì thành phố cũng là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, về quy mô thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 0,6% diện tích, 8,3% dân số nhưng đã đóng góp 20 tổng sản phẩm quốc nội.
Năm 2024, tổng sản phẩm trên địa bàn TP.HCM (GDP) ước đạt 764.444 tỷ đồng tăng 9,3 so năm trước, tuy không đạt kế họach đề ra nhưng đã tăng 0,1 điểm phần trăm so với mức của năm 2023. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân của cả năm 2024 (so với giá bình quân 2023) tăng 3,67. GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 4.513 USD/người, vượt kế hoạch đề ra là 4.000 USD/người. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của TP.HCM có tốc độ cao gấp 1,7 lần so với bình quân cả nước (ước 5,6 /năm).
Được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố, trong năm 2024 ngành du lịch thành phố đã triển khai nhiều giải pháp thiết thực ,thúc đẩy du lịch trên địa bàn phát triển với tổng doanh thu du lịch (lữ hành, khách sạn, nhà hàng) ước đạt 83.191 tỷ đồng, tăng 17 so cùng kỳ, chiếm 44 tổng doanh thu du lịch Việt Nam (ước đạt 190.000 tỷ đồng, tăng 18 so cùng kỳ). Để đạt được mức tăng trưởng trên, các đơn vị khách sạn, lữ hành đã có nhiều chương trình khuyến mãi, giảm giá… đặc biệt thành phố cũng đã tổ chức nhiều lễ hội vào dịp cuối năm thu hút du khách.
1.4.2.2 Hội An
Phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới từ năm 2010. Trải qua 14 năm với danh hiệu Di sản văn hóa thế giới, nơi này không chỉ vẫn lưu giữ hoàn hảo được nét điển hình của một cảng thị châu Á truyền thống mà lối sống, giá trị văn hóa phi vật thể đặc trưng của phố Hội vẫn được gìn giữ. Môi trường du lịch an toàn cùng với xây dựng những sản phẩm du lịch gắn với nét văn hóa truyền thống, nổi bật nhất là tái hiện đêm rằm phố cổ đã biến Hội An trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn nhất trên bản đồ du lịch Việt Nam. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Lấy việc khôi phục lại những nghi thức giao tiếp truyền thống, tái hiện sinh hoạt dân gian của người dân phố Hội thế kỷ XVIII, XIX khiến khi đêm xuống, Hội An trở nên thực sự khác lạ.
Những canh hát bài chòi dập dìu níu chân du khách, những trò chơi dân gian diễn ra ở nhiều góc phố đưa du khách trở về với một cảng thị sôi động, nơi giao thoa của nhiều nền văn hoá. Chính sản phẩm du lịch độc đáo này đã khiến cho bất cứ du khách nào đặt chân đến Hội An đều phải ở lại để tận hưởng không khí của đêm phố cổ. Nét đặc trưng của đêm phố cổ là người dân thay thế ánh sáng đèn điện bằng việc thắp nến và đèn lồng. Du khách đến với Hội An đều phải hòa nhập với văn hoá phố Hội mà dễ thấy nhất là lễ chùa. Thành công của sản phẩm du lịch đêm phố cổ Hội An được bắt nguồn chính từ những nếp sống, nếp sinh hoạt vẫn còn được duy trì dưới những ngôi nhà có tuổi đời hàng trăm năm. Chính điều này đã làm nên linh hồn của đêm Hội An mà hiếm nơi nào có được.
Khoảng gần 10.000 du khách đến với Hội An mỗi đêm rằm phố cổ. Cho tới nay, sản phẩm du lịch đêm rằm phố cổ đã biến thành sản phẩm hàng tối, hàng đêm chứ không còn chỉ vào mỗi ngày rằm. Mặc dù chi phí bỏ ra là không ít, khoảng 40 – 50 triệu đồng cho mỗi đêm, được đánh giá là lỗ nhưng thành phố Hội An vẫn duy trì để đổi vào đó là nguồn thu nhập cho người dân và hơn hết, những nét văn hóa phố cổ sẽ được giữ gìn.
1.4.2.3 Nha Trang.
Trong khoảng 20 năm qua, du lịch Nha Trang đã phát triển khá toàn diện về cơ sở hạ tầng cũng như chất lượng sản phẩm du lịch. Nhờ đó, Nha Trang đã trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước, hàng năm thu hút lượng khách lớn đến nghỉ dưỡng.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho Nha Trang những điều kiện tuyệt vời để phát triển du lịch, đó là vịnh Nha Trang – một trong những vịnh đẹp nhất thế giới, thời tiết ấm áp quanh năm… Vùng đất này còn có nhiều trầm tích văn hóa gắn liền với 2 nền hóa Việt – Chăm, những lễ hội độc đáo của cư dân miền biển gắn với con người hiền hòa, mến khách… Những chuyên gia du lịch thế giới đánh giá, với những tiềm năng vốn có, Nha Trang hội tụ đầy đủ các lợi thế để trở thành một trung tâm du lịch biển của thế giới như Bali (Indonesia), Phuket (Thái Lan).
Trong thời gian qua, TP. Nha Trang đã tận dụng khá tốt những lợi thế sẵn có để phát triển DL, đưa DL trở thành ngành kinh tế trọng điểm của thành phố biển. Nếu như những năm đầu thập kỷ 90 của Thế kỷ XX, TP. Nha Trang chỉ có vài chục khách sạn thì đến nay đã có gần 500 cơ sở lưu trú với hơn 12.000 phòng; trong đó, khách sạn từ 3 đến 5 sao có gần 3.800 phòng. Các thương hiệu khách sạn nổi tiếng của thế giới như: Sheraton, Novotel, Marriot…đã có mặt ở Nha Trang. Bên cạnh đó, thành phố biển cũng đã có những khu DL lớn như: Tổ hợp DL giải trí Vinpearl, Khu DL Diamond bay Nha Trang, Khu nghỉ mát Ana Mandara, Khu DL Hòn Tằm. Cùng với sự gia tăng về số lượng buồng phòng, sản phẩm DL của Nha Trang ngày càng đa dạng, chất lượng dịch vụ được nâng cao, nhất là các sản phẩm gắn với DL biển, đảo. Các sự kiện văn hóa – DL mang tầm quốc gia và quốc tế liên tục được tổ chức ở Nha Trang như: Các cuộc thi hoa hậu trong nước và quốc tế, chương trình Festival Biển được tổ chức 2 năm/lần (từ năm 2014)… đã góp phần quảng bá hình ảnh và từng bước khẳng định thương hiệu Du Lịch Nha Trang với du khách trong nước, quốc tế. Nhờ đó, lượng khách đến nghỉ dưỡng ở Nha Trang liên tục tăng. Theo thống kê của UBND TP. Nha Trang, năm 2024, Nha Trang đón khoảng 3,1 triệu lượt khách DL (tăng 29,42 so với năm 2023, vượt 11,11 so với kế hoạch), trong đó có hơn 711.000 lượt khách quốc tế (tăng 34,14 ), doanh thu DL đạt hơn 3.951 tỷ đồng (tăng 35,85 , vượt 31,72 so với kế hoạch). Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
Có thể nói, những năm qua, DL Nha Trang đã phát huy được nhiều nguồn lực, trở thành trung tâm du lịch biển của cả nước với nhiều sản phẩm DL độc đáo như: lặn biển, tắm bùn… Hầu hết những hòn đảo có địa thế thuận lợi đều được đầu tư xây dựng để trở thành những khu du lịch nghỉ dưỡng kết hợp vui chơi, giải trí chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhiều đối tượng khách. Gần đây, Nha Trang đã là điểm đến của khách du lịch Nga. Hiện tại mỗi tuần, Hãng lữ hành Pegas Turistik tổ chức 9 chuyến bay đưa khách từ vùng Viễn Đông Nga đến sân bay Cam Ranh, trong đó 70 khách lưu trú ở Nha Trang; 30 vào Phan Thiết.
Hiện nay, Nha Trang là một điểm đến thường xuyên, không thể thiếu của các tàu DL biển quốc tế. Năm 2024, đã có 28 tàu du lịch cập cảng Nha Trang đưa khoảng 40.000 lượt du khách xuống bờ tham quan du lịch, khám phá thành phố biển Nha Trang. Từ năm 2015, Nha Trang cũng đã trở thành điểm đến của cuộc đua thuyền buồm quốc tế Hồng Kông – Việt Nam (tổ chức 2 năm/lần). Các chuyên gia DL nước ngoài nhận định, trong tương lai, Nha Trang sẽ trở thành một điểm đến của du thuyền, thuyền buồm quốc tế.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX đã xác định: “Đầu tư phát triển du lịch bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố”. Trên cơ sở đó, ngành du lịch Đà Nẵng đã xác định phát triển du lịch Đà Nẵng gắn với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế – xã hội thành phố và quy hoạch tổng thể du lịch cả nước. Tuy nhiên, theo nhìn nhận của ngành du lịch thành phố, lâu nay lượng khách đến du lịch Đà Nẵng lưu trú vẫn còn thấp hơn so với các tỉnh thành khác vì Đà Nẵng vẫn chưa khai thác hết thế mạnh du lịch của mình, chưa đạt tối đa hiệu quả.
Với luận văn “Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng”, tác giả sẽ giúp cho du lịch Đà Nẵng ngày càng phát triển bền vững thu hút thật nhiều du khách đến với thành phố biển xinh đẹp này. Đề tài sẽ bắt đầu bằng chương 1 với các nội dung như sau:
Tập trung phân tích một số nội dung cơ bản về lý luận chung về du lịch như: khái niệm về du lịch và khách du lịch, các loại hình du lịch, khái niệm và đặc điểm của sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch.
Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du lịch của các nước trên thế giới (Thái Lan, Singapore) và một số tỉnh thành tại Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Hội An, Nha Trang). Kinh nghiệm phát triển du lịch của các nước và các tỉnh sẽ là bài học rất quý giá cho Đà Nẵng trong việc xây dựng, phát triển du lịch nhằm tận dụng hết tiềm năng của mình. Luận văn: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Đà Nẵng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch tại Thành phố Đà Nẵng

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com