Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam giai đoạn 2020-2024 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
1, Tiêu đề: Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam giai đoạn 2020-2024
2. Tóm tắt:
Luận văn nghiên cứu về các nhân tố tác động đến nợ xấu của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam trong giai đoạn từ 2020 đến 2024. Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu định lượng: Thống kê mô tả, ước lượng hồi quy Pooled OLS, kiểm định các khuyết tật có trong mô hình (tự tương quan, phương sai thay đổi, đa cộng tuyến, …) đối với các biến có ảnh hưởng đến nợ xấu như: Tốc độ tăng trưởng tín dụng, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ trích lập dự phòng, nợ xấu kỳ trước, lợi nhuận trên tổng tài sản, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP),…. Kết quả cho thấy biến “Vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản”, biến “Tỷ lệ trích lập dự phòng” và biến “Nợ xấu kỳ trước” là các biến có tác động cùng chiều đến “Nợ xấu”; trong khi các biến còn lại có ảnh hưởng ngược chiều với “Nợ xấu”. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp các nhà quản trị ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam cũng như cơ quan quản lý như Ngân Hàng Nhà Nước có thêm nguồn tham khảo về các nhân tố tác động đến tình hình nợ xấu của VietinBank, từ đó hoạch định lộ trình và biện pháp phù hợp nhằm giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của VietinBank cũng như các ngân hàng khác có quy mô tương tự trong tương lai, giúp hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động ổn định, hiệu quả và bền vững.
3. Từ khóa: Nợ xấu, Pooled OLS, GLS, VietinBank, 2020-2024.
ABSTRACT
1. Title: Factors affecting non-performing loans (NPL) at Vietnam Joint Stock Commercial Bank for Industry and Trade from 2020 to 2024.
2. Abstract: Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
The thesis studies the factors affecting the non-performing loan of Vietnam Joint Stock Commercial Bank for Industry and Trade (VietinBank) in the period of 2020 – 2024. The thesis is based on quantitative research methods: descriptive statistics, OLS regression, and check for defects in the model (autocorrelation, heteroscedasticity, multicollinearity, …) for variables that have a influence to NPL such as: credit growth rate, equity to total assets, Loan-loss reserve, previous nonperforming loans, Return on total assets, bank size, growth rate of gross domestic product (GDP),…. The results show that the variable “Equity to total assets”,
“Provision ratio” and “Previous non-performing loans” are variables that have a positive impact on NPL; while the remaining variables have the opposite impact on NPL. The research results of the thesis contribute to help the Board of Director of VietinBank as well as the State Bank of Vietnam know more about the factors affecting the non-performing loan situation of VietinBank in order to find out solutions and methods for reducing the non-performing loan ratio of VietinBank as well as other banks with similar size in the future, helping the Vietnam banking system to operate stably and efficiently.
3. Keywords: Non-performing loans, Pooled OLS, GLS, VietinBank, 2020- 2024
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1 Đặt vấn đề
Theo báo cáo tài chính năm 2024 của hệ thống các ngân hàng Việt Nam, toàn bộ các ngân hàng đều có động thái là trích lập quỹ dự phòng rủi ro, gia tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu.
Cụ thể, tại nhóm ngân hàng có yếu tố sở hữu của Nhà nước, Vietcombank đã trích lập đủ 100% dự phòng của dư nợ cơ cấu, sớm trước 2 năm so với thời hạn quy định của NHNN. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt mức cao nhất hệ thống ngành ngân hàng với mức 424%. Tại BIDV đã trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ 100% cho nợ cơ cấu; qua đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 235%, mức cao nhất trong lịch sử. Tương tự với VietinBank, khả năng phòng thủ nợ xấu cũng tăng đáng kể khi tỷ lệ bao phủ tính đến cuối năm 2024 đạt 171%, tăng mạnh so với mức 119% vào cuối tháng 9/2024 và 132% của cuối năm 2023.
Còn tại nhóm ngân hàng tư nhân, theo báo cáo tài chính quý IV/2024 vừa công bố, với việc nâng quỹ dự phòng rủi ro cho vay khách hàng gấp đôi lên 8.758 tỷ đồng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu hợp nhất của MB đã tăng mạnh lên 268%. Thậm chí, nếu xét riêng của ngân hàng mẹ, con số này còn lên tới gần 400%, tức mỗi đồng nợ xấu được dự phòng bằng 4 đồng. Tại ACB, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã tăng từ mức 160% lên 210%. Trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu tại Techcombank là 162,9%. Ngoài ra, nhiều ngân hàng khác cũng công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao như TPBank tăng từ 134% lên 152%, LienVietPostBank tăng từ 90% lên 143%,….
Theo Phó Thống Đốc NHNN Đào Minh Tú, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, hiện nay có xu hướng tăng lên. Đây là điều dễ hiểu do hậu quả của dịch COVID-19 trong hai năm qua. Công tác kiểm soát nợ xấu sẽ gặp khó khăn bởi dịch bệnh kéo dài, tác động có độ trễ nên sẽ ảnh hưởng lớn đối với hoạt động ngân hàng trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
1.2 Tính cấp thiết của đề tài Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Việc tăng trích lập dự phòng của các nhà băng trong năm 2024 cho thấy các ngân hàng cũng phần nào phải dè chừng và chuẩn bị biện pháp giảm thiểu rủi ro khi mà Thông tư 14 liên quan đến cơ cấu nợ, miễn giảm lãi suất, giữ nguyên nhóm nợ của NHNN hết hiệu lực vào 30/06/2025. Như vậy sau thời điểm này, có thể nói tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng sẽ về đúng thực trạng của nó khi không có tác động, hỗ trợ của NHNN.
Đối với VietinBank, được xem là một trong top những ngân hàng có quy mô lớn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam có tính chất sở hữu của Nhà nước, cũng đang phải đau đầu với thực trạng nợ xấu có nhiều biến động.
Để đi sâu tìm hiểu thêm biến động của nợ xấu và các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu trong ngành ngân hàng nói chung và VietinBank nói riêng trong giai đoạn 2020 – 2024, đặc biệt là 2 năm 2023 và 2024 khi mà nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng mạnh của dịch COVID-19, tác giả quyết định chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam giai đoạn 2020 – 2024” nhằm làm rõ và đào sâu hơn về vấn đề này.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1 Mục tiêu tổng quát
Xác định các nhân tố tác động đến nợ xấu của ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam từ đó giúp ngân hàng có các giải pháp nhằm hạn chế, tiết giảm được tỷ lệ nợ xấu.
1.3.2 Mục tiêu cụ thể
- Xác định nhân tố tác động đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam.
- Đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến nợ xấu của ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp giúp ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam giảm thiểu nợ xấu trong những năm tiếp theo.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
- Những nhân tố nào tác động đến tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam?
- Từng nhân tố trên tác động như thế nào đến tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam?
- Dựa vào kết quả nghiên cứu, cho biết ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam nên làm gì để giảm thiểu nợ xấu?
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1 Đối tượng Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Các nhân tố có tác động đến nợ xấu của ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam và mức độ tác động của từng đối tượng.
1.5.2 Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Trong hệ thống ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Thời gian: Giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2024.
1.6 Khoảng trống nghiên cứu
Bài viết “Cycles in Lending Standards?”, tác giả John A. (Weinberg, 1995), nghiên cứu về hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại từ lâu đã nhận được sự quan tâm đáng kể, được xem như trụ cột góp phần vào hoạt động của nền kinh tế. Qua nghiên cứu, tác giả muốn tìm hiểu liệu có hay không tính chu kỳ trong các tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, nghiên cứu diễn ra trong phạm vi thời gian khá lâu (1995) nên rất khó áp dụng được khi nền kinh tế có nhiều sự kiện xảy ra như hiện nay, đặc biệt là nghiên cứu chưa thể hiện rõ các nhân tố có tương quan ra sao đến nợ xấu.
Bài báo “Credit risk in two institutional regimes: Spanish commercial and savings banks”, tác giả Salas & Saurina, 2002. Nhóm tác giả thông qua dữ liệu bảng nghiên cứu nợ có vấn đề trong cả ngân hàng thương mại và ngân hàng nhận tiền tiết kiệm tại Tây Ban Nha giai đoạn 1985 – 1997. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi ích của việc sáp nhập các ngân hàng từ nhiều vùng miền khác nhau; vai trò của cạnh tranh ngân hàng và quyền sở hữu trong việc quyết định rủi ro tín dụng. Nghiên cứu chưa có sự giải quyết thỏa đáng các vấn đề đặt ra trong bài, phạm vi của nghiên cứu chỉ xảy ra khu vực Tây Ban Nha trong giai đoạn 1985 – 1997, điều này khó ứng dụng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Hay bài báo “Non-performing loans in Baltic States: determinants and macroeconomic effects”, tác giả Kjosevski & Petkovski, 2020. Các yếu tố vĩ mô và vi mô tại ngân hàng được đưa vào nghiên cứu và ảnh hưởng của chúng đến nợ xấu ở các quốc gia vùng Baltic. Việc nghiên cứu được diễn ra đối với một nhóm gồm 27 ngân hàng từ các nước vùng Baltic sử dụng dữ liệu hàng năm cho giai đoạn 2005– 2017. Khoảng trống nghiên cứu: Tác giả sử dụng ROA và ROE như là công cụ đo lường năng suất hoạt động của các ngân hàng và các chỉ số này dựa trên lợi nhuận ròng, chi phí giảm rủi ro cho vay đã được khấu trừ khỏi thu nhập hoạt động.
Bài viết “Giải pháp hạn chế nợ xấu và xử lý nợ xấu tại ngân hàng TMCP công thương Việt Nam” của tác giả Võ Thị Thanh Nhàn & Nguyễn Quốc Khanh, 2017, nghiên cứu phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tỷ lệ nợ xấu của VietinBank. Nghiên cứu đã đi qua thực trạng nợ xấu đang tồn tại trong hệ thống VietinBank, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố và đưa ra giải pháp nhằm giúp ngân hàng hạn chế chung. Khoảng trống nghiên cứu: Nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi không gian là Ngân hàng VietinBank, chưa có sự suy luận/ước lượng cho rộng hơn là toàn bộ các Ngân hàng TMCP tại Việt Nam.
Bài viết “Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, tác giả Nguyễn Thị Như Quỳnh và cộng sự, 2021, thông qua mẫu nghiên cứu bao gồm 25 ngân hàng TMCP tại Việt Nam, cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng có tác động ngược chiều đến nợ xấu; trong khi lạm phát và nợ xấu kỳ trước lại có tác động cùng chiều đến nợ xấu. Bên cạnh đó, nghiên cứu chưa tìm ra được mối tương quan giữa quy mô, khả năng sinh lời của ngân hàng và nợ xấu.
Bài viết “Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2023”, tác giả Lê Thị Mỹ Tiên & Trần Huy Hoàng, 2025.
Nghiên cứu xác định, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các NHTM Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến nợ xấu giai đoạn 20082023. Nghiên cứu xử lý được vấn đề nội sinh trong mô hình và dùng thêm kiểm định Sargan-Hansen để thỏa mãn giới hạn nội sinh của mô hình. Tuy nhiên, việc tìm kiếm dữ liệu trả qua khá nhiều thách thức, nguồn dữ liệu tiếp cận còn hạn chế, tác giả chỉ dừng ở phạm vi nghiên cứu 24 NHTM Việt Nam. Một số NHCTM khác không tìm được dữ liệu hoặc không công bố đầy đủ thông tin theo giai đoạn nghiên cứu của tác giả.
1.7 Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu định tính: Nhằm thống kê và mô tả những đặc tính cơ bản nhất của dữ liệu thu thập, trình bày dưới dạng bảng biểu để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu, làm nền tảng cho các bước phân tích định lượng sau này. Phương pháp nghiên cứu định lượng: Hồi quy tuyến tính theo mô hình Bình Phương Phương Sai Nhỏ Nhất (OLS – Ordinary Least Square), thống kê, ước lượng mức độ tác động của các biến nội tại và biến vĩ mô đến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Từ đó thực hiện tiếp các kiểm định khuyết tật của các nhân tố có trong mô hình nhằm làm tăng độ tin cậy của các ước lượng (đa cộng tuyến, phương sai thay đổi, tự tương quan, …). Tác giả sử dụng phương pháp ước lượng hồi quy tuyến tính theo mô hình OLS để ước lượng các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân tố đến nợ xấu. Từ đó, đưa ra ý kiến thảo luận và đề xuất dựa trên kết quả hồi quy.
Nghiên cứu sử dụng phần mềm Eviews 9 để phục vụ cho việc phân tích dữ liệu.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sử dụng số liệu trên Báo cáo tài chính hợp nhất theo Quý của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam trong giai đoạn 2020-2024 và dữ liệu tốc độ tăng trưởng GDP từ các World Bank, IMF… Quy trình xử lý và phân tích số liệu:
1.8 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Xuất phát từ mong muốn giảm thiểu gánh nặng nợ xấu cho ngành ngân hàng nói chung và VietinBank nói riêng, tác giả với cương vị là một nhân viên của ngân hàng VietinBank, đã tìm tòi, nghiên cứu, xem xét cả góc độ yếu tố vĩ mô và vi mô, để tìm ra những biến số thật sự có tác động đến tỷ lệ nợ xấu của VietinBank trong giai đoạn 2020-2024 (đi qua thời kỳ ảnh hưởng của dịch covid-19) để từ đó hướng đến những phương hướng, cách làm giúp các nhà quản trị có thể thực hiện nhằm giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu trong ngành ngân hàng.
1.9 Kết cấu của đề tài
Bài nghiên cứu này gồm 5 chương, không kể phần tóm tắt, mục lục, danh mục bảng biểu cũng như tài liệu tham khảo, phụ lục, … Kết cấu đề tài như sau:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu. Tác giả trình bày những phần chính về luận văn đang thực hiện bao gồm: Lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng trong nghiên cứu và khoanh vùng phạm vi nghiên cứu. Tiếp đến là những phương pháp được ứng dụng trong bài và cuối cùng là đề xuất giải pháp giảm thiểu nợ xấu tại VietinBank cùng với hạn chế và gợi mở cho những hướng tiếp theo. Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Chương 2: Cơ sở lý luận về nợ xấu. Trình bày lý thuyết về nợ xấu như: Khái niệm, phân loại (trên thế giới và tại Việt Nam), tại sao lại có sự phân loại như vậy, nợ xấu có hậu quả như thế nào đến khách hàng, đến ngân hàng và đến nền kinh tế. Đồng thời, trong chương này tác giả cũng trình bày sơ lược về các nghiên cứu khoa học trước đây cũng về đề tài nhân tố ảnh hưởng nợ xấu.
Chương 3: Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Từ các nghiên cứu đã khảo lược trong chương 2, tác giả lọc ra các biến số theo dự kiến của bản thân là có tác động mạnh đến nợ xấu và dự đoán chiều tác động của chúng. Sau đó, liệt kê cụ thể các bước sẽ thực hiện cho đề tài này, phương pháp nghiên cứu ứng dụng vào đề tài là gì, có dễ dàng so với các phương pháp khác hay không. Ngoài ra, trình tự xử lý số liệu cùng với nguồn tài liệu cung cấp dữ liệu cũng được tác giả trình bày trong chương này.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Ở Chương này, tác giả cung cấp một số thông tin khái quát về VietinBank như: Tên giao dịch (tiếng Việt, tiếng Anh), vốn điều lệ, quá trình hình thành và phát triển, ….. cùng với thực trạng hoạt động kinh doanh của VietinBank có gắn liền với ứng phó, xử lý nợ xấu. Sau đó, tác giả tiến hành thực hiện từng bước đã nêu trong chương 3: Xây dựng mô hình, chạy mô hình, đọc kết quả, thêm bớt biến (nếu có) và rút ra kết luận. Từ kết quả hồi quy, tác giả đánh giá sự phù hợp của các biến có trong mô hình, mức độ tác động của từng biến làm căn cứ đưa ra khuyến nghị, dự báo trong chương 5.
Chương 5: Giải pháp và kiến nghị giảm thiểu nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam. Thông qua kết quả chạy mô hình nghiên cứu của chương trước, tác giả rút ra nhận xét cho tình hình VietinBank ở thực tại. Qua đó đưa ra các khuyến nghị nhằm giúp Ban Quản Trị VietinBank cũng như các nhà quản lý giám sát ngân hàng xem xét, nghiên cứu nhằm có biện pháp giảm thiểu nợ xấu của VietinBank trong tương lai.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả chủ yếu giới thiệu sơ lược về đề tài nghiên cứu, về việc lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu là gì, đối tượng nghiên cứu này nhắm đến, từ đó khoanh vùng phạm vi nghiên cứu. Để thực hiện nghiên cứu, tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu, công cụ thực hiện, cách thức thu thập bộ dữ liệu và trình tự thực hiện cũng như khoảng trống nghiên cứu chưa thực hiện được.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU
2.1 Tổng quan về nợ xấu
2.1.1 Khái niệm Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Hiện nay chưa có một sự nhất trí nào về khái niệm nợ xấu hoặc các phương thức, tiêu chí hay điều kiện nào để đo lường và phân loại nợ xấu mà do chính người viết đề cập và đặt tên. Các quốc gia hay định chế tài chính khi có sự khác nhau trong hoạt động kinh doanh sẽ có thể khác nhau về cách phân loại nhóm nợ (Nguyễn Thị Hồng Ánh và cộng sự, 2024).
Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Liên Hợp Quốc (Nhóm chuyên gia tư vấn – AEG): “Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) không đưa ra thời gian quá hạn để một khoản nợ được xem là nợ xấu mà cho rằng “Nợ xấu” là “khoản nợ đã quá hạn và ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi”.
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) căn cứ trên tiêu chí chủ yếu của BCBS, cho rằng “một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và gốc trên 90 ngày trở lên, phù hợp với định nghĩa của Basel II về tổn thất, hoặc khi có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Điều 2, Quyết định số 22/VBHN-NHNN ngày 04/06/2017 của Ngân Hàng Nhà Nước quy định về nợ xấu của các tổ chức tín dụng cho biết:
- − “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
- − “Nợ xấu” (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại
Điều 6 hoặc Điều 7 của Quyết định số 22/VBHN-NHNN ngày 04/06/2017, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Như vậy, có thể hiểu nợ xấu được định nghĩa là khoản nợ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí phân loại trở thành nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo các tiêu chí được quy định tại Điều 6 và/hoặc Điều 7 Quyết định số 22/VBHN-NHNN ngày 04/06/2017 của Ngân hàng Nhà nước.
2.1.2 Phân loại Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
2.1.2.1. Phân loại nợ xấu trên thế giới
Đối với việc phân loại nợ, cho rằng khó có thể thống nhất quy định chung cho các quốc gia, mỗi khu vực cho một xu hướng phân loại nợ riêng. Việc phân loại nợ được xem là công việc của lãnh đạo ngân hàng trong vai trò nhà quản trị hoặc nhằm mục đích báo cáo đến cơ quan giám sát ngân hàng. Tuy nhiên việc phân loại nợ không hẳn khác nhau hoàn toàn mà vẫn có một số điểm chung nhất định giữa các nước.
Trong danh sách các nước đã ký đồng ý Hiệp ước chung về vay (GAB – General Agreements to Borrow), Mỹ và có thể bao gồm cả Đức đã có hướng dẫn hệ thống phân loại nợ một cách chi tiết và rõ ràng. Ở Đức, có bằng chứng cho thấy các ngân hàng tại nước này đã chia nợ của họ thành 4 nhóm ((i) Khoản vay không có rủi ro (ii) Khoản vay có dấu hiệu rủi ro (iii) Khoản vay có dấu hiệu không thu hồi được và (iv) Khoản vay mất vốn (Nợ xấu)) và có quy định mức dự phòng cụ thể cho từng nhóm. Trong khi đó, các ngân hàng ở Nhật Bản lại chia nợ thành 5 nhóm và quy định mức trích lập dự phòng cho 3 nhóm nợ cuối với tỷ lệ trích lập lần lượt là 15%, 70% và 100%. Ở Hà Lan thì ngược lại, việc phân loại nợ dường như ít được thực thi và không có quy định cụ thể hay rõ ràng nào về phân loại nợ, khi cần đột xuất hoặc định kỳ theo yêu cầu, các nhà quản lý chỉ đạo cho nhân viên ngân hàng tự tiến hành phân loại nợ và nộp báo cáo đi. Các báo cáo phân loại này sẽ được cơ quan giám sát ngân hàng xem xét định kỳ để đánh giá rủi ro. Trong khi đó, Pháp, lại quy định hệ thống các nguyên tắc tối thiểu để phân loại nợ xấu nhưng chưa có hướng dẫn chi tiết và cụ thể hơn về phân loại nợ. Cách làm tương tự cũng được áp dụng ở Ý, nơi có 5 loại nợ nhưng chỉ hướng dẫn chung về cách thực hiện phân loại, không có tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể. Sang Tây Ban Nha, chúng ta lại thấy nợ người ta chia ra 6 nhóm nợ, có quy định mức trích lập chung với tỷ lệ là 0,51% và mức trích lập cụ thể đối với 3 nhóm nợ cuối lần lượt là 10%, 25-100% và 100%. Lý giải cho sự khác biệt này, theo nhận định của mình, Laurin và cộng sự (2003) đã cho rằng với mục đích giám sát khác nhau, các ngân hàng tại mỗi quốc gia đã sửa đổi cách phân loại sao cho đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lãnh đạo và người đưa ra quyết sách của ngân hàng. Điều này nhìn chung là hợp lý vì thực trạng mỗi nền kinh tế là khác nhau, do vậy việc thay đổi là đúng để phù hợp với từng quốc gia.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, khoản vay nợ được chia làm 5 nhóm:
Bảng 2.1 Phân loại nhóm nợ theo IMF và World Bank
TT | Khoản vay | Đặc điểm và thời hạn | |
1 | Đạt tiêu chuẩn | − | Có đủ năng lực trả nợ |
− | Giá trị của TSBĐ tối thiểu bằng khoản vay | ||
− | Thời gian quá hạn trả nợ dưới 10 ngày | ||
2 | Cần theo dõi | − | Tiềm ẩn một số yếu tố làm giảm năng lực trả nợ |
− | Điều kiện kinh tế khó khăn | ||
− | Thời gian quá hạn trả nợ dưới 90 ngày | ||
3 | Dưới tiêu chuẩn | − | Các yếu tố làm giảm năng lực trả nợ được thể hiện rõ ràng |
− | Có sự thỏa thuận, đàm phán về việc trả nợ | ||
− | Thời gian quá hạn trả nợ từ 90 đến 180 ngày | ||
4 | Đáng ngờ | − | Không có khả năng cho thấy có thể thu hồi được nợ |
− | Có khả năng mất vốn | ||
− | Thời gian quá hạn từ 180 đến 360 ngày | ||
5 | Mất vốn | − | Các khoản nợ xác định chắc chắn không thu hồi được |
− | Thời gian quá hạn trên 360 ngày |
Nguồn: World Bank
Trên cơ sở phân loại này của World Bank và IMF, các nước trên thế giới đã tiếp thu, học hỏi và áp dụng: Ý, Nhật Bản, Mỹ, Úc, Trung Quốc, Singapore, Việt Nam, … đã phân loại nợ tại các TCTD theo 5 nhóm. Tuy nhiên cũng có một số nước phân loại nợ thành 04 nhóm như Nga, Ấn Độ, Đức hoặc Tây Ban Nha 6 nhóm, Mexico 7 nhóm, Brazil 9 nhóm.
2.1.2.2. Phân loại nợ xấu tại Việt Nam Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Kế thừa và học hỏi kinh nghiệm trên thế giới, Việt Nam cũng chia nợ thành 5 nhóm như của IMF và WB. Theo quy định tại Điều 6, Điều 7 Quyết định số 22/VBHN-NHNN ngày 04/06/2017 và một số quy định khác có liên quan, nợ xấu được phân loại cụ thể thành 5 nhóm, được thể hiện rõ trên hệ thống Trung Tâm Thông Tin Tín Dụng Quốc Gia Việt Nam (CIC), cụ thể như sau:
Bảng 2.2 Phân loại nhóm nợ tại Việt Nam
Nhóm nợ | Tên gọi | Thời gian nợ quá hạn |
Nhóm 1 | Nợ đủ tiêu chuẩn | Dưới 10 ngày |
Nhóm 2 | Nợ cần chú ý | Từ 10 – 90 ngày |
Nhóm 3 | Nợ dưới tiêu chuẩn | Từ 91 – 180 ngày |
Nhóm 4 | Nợ nghi ngờ bị mất vốn | Từ 181 – 360 ngày |
Nhóm 5 | Nợ có khả năng mất vốn | Từ 361 ngày trở lên |
Nguồn: Quyết định số 22/VBHN-NHNN ngày 04/06/2017 của NHNN
2.1.3 Nguyên nhân
Có nhiều ý kiến về nguyên nhân gây ra nợ xấu tùy theo quan điểm của mỗi người, Tuy nhiên, nguyên nhân gây ra nợ xấu có thể được phân loại thành hai nhóm chính sau:
Nguyên nhân khách quan (vĩ mô): Là những nguyên nhân đến từ các yếu tố tự nhiên hoặc yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội. Các yếu tố tự nhiên có thể kể đến như lũ lụt, hạn hán, thiên tai, dịch bệnh,… gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể đi vay, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và dẫn đến nợ xấu. Ví dụ như trong năm 2022 và 2023, thế giới chứng kiến sự xuất hiện và phát triển của dịch covid-19, làm tác động nặng nề tới cả nền kinh tế thế giới cũng như Việt Nam. Trong một báo cáo của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2024, có khoảng 97.100 doanh nghiệp Việt Nam rút lui khỏi thị trường. Cụ thể, 48.500 doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động, chưa biết khi nào có thể hoạt động trở lại; 48.600 doanh nghiệp xác định phá sản, giải thể Công ty. Tính bình quân một tháng có 9.700 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, một ngày có khoảng 330 doanh nghiệp đóng cửa do ảnh hưởng của dịch bệnh. Covid khiến các doanh nghiệp này không còn khả năng trả nợ, dẫn đến gia tăng nợ xấu; Các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có thể kể đến như các tác động ngoại sinh đến hệ thống tài chính, ngân hàng của một nước, thường diễn ra trong trung hoặc dài hạn, như chu kỳ suy giảm của nền kinh tế, biến động tỷ giá, lạm phát… Ví dụ điển hình cho yếu tố này có thể kể đến cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào năm 2007 – 2008, khi mà kinh tế thế giới chứng kiến sự sụp đổ chưa từng thấy của hệ thống tài chính – ngân hàng, tình trạng sụt giá của chứng khoán do bong bóng bất động sản cùng với một sự lỏng lẻo trong việc giám sát tài chính. Cuộc khủng hoảng xảy ra đầu tiên tại Hoa Kỳ và sau đó lan ra các nền kinh tế khác trên thế giới khiến cho hàng loạt các doanh nghiệp mất nguồn thu do hoạt động sản xuất kinh doanh không có đầu ra, không tiêu thụ được hàng, cuối cùng mất khả năng trả nợ và gây tăng trưởng nợ xấu.
Nguyên nhân chủ quan (vi mô): Bên cạnh những nguyên nhân đến từ các yếu tố vĩ mô, nợ xấu còn đến từ những nguyên nhân này bắt nguồn từ các yếu tố nội tại phát sinh từ chính tổ chức tín dụng cho vay như đạo đức của lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng, sự yếu kém và thiếu kinh nghiệm trong công tác thẩm định cho vay, hay chủ thể đi vay cố tình gian lận nhằm rút tiền ngân hàng, cố tình cung cấp báo cáo tài chính không trung thực về số liệu nhằm qua mặt ngân hàng, …. Ngoài ra một số nguyên nhân khác có thể kể đến như các chính sách cho vay ưu đãi đối với một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, các chính sách bảo lãnh khác của chính phủ dẫn đến các nguy cơ về rủi ro đạo đức (moral hazard), bất đối xứng thông tin (asymmetric information) và những yếu kém trong hệ thống thẩm định tín dụng của các ngân hàng.
2.1.4 Ảnh hưởng Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Việc để xảy ra rủi ro dẫn đến nợ xấu sẽ mang lại rất nhiều tác động tiêu cực không chỉ cho các chủ thể tham gia vào khoản vay (ngân hàng, cá nhân hay doanh nghiệp đi vay) mà thậm chí còn ảnh hưởng đến nền kinh tế.
2.1.4.1. Tác động đến khách hàng
Mất khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng: Một cá nhân hay doanh nghiệp có lịch sử nợ xấu sẽ được thể hiện rất rõ ngay trên bảng tin CIC nên việc giấu giếm lịch sử nợ xấu rất khó. Với những khách hàng này, do uy tín đã sụt giảm, các tổ chức tín dụng khác tất nhiên sẽ dè chừng và không muốn tiền của chính họ cho vay ra một ngày nào đó sẽ mất trắng. Bên cạnh đó, khi nợ xấu tại một ngân hàng xảy ra nhiều và kéo dài, ngân hàng sẽ có xu hướng thắt chặt tín dụng, giảm cho vay, tăng cường tỷ lệ tài sản bảo đảm hoặc có những yêu cầu khắt khe hơn mới có thể cho vay, điều này dẫn đến những cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thực sự sẽ khó có thể tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng do điều kiện để được vay vốn quá khó khiến họ không thể đáp ứng được.
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng bị mất vốn: Ngân hàng là một trung gian tài chính, huy động vốn từ chủ thể có vốn nhàn rỗi và cho vay đến chủ thể thiếu hụt vốn. Tuy nhiên khi nợ xấu xảy ra và kéo dài liên tục, người có vốn nhàn rỗi có nguy cơ bị mất vốn khi thanh khoản của ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do toàn bộ người đi vay không có khả năng thanh toán khoản nợ ngân hàng.
2.1.4.2. Tác động đến ngân hàng
Sụt giảm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh: Bản chất của ngân hàng là huy động ở mức chi phí thấp và cho vay ra ở mức lãi suất cao hơn, tuy nhiên nếu việc cho vay ra không thu hồi được sẽ khiến ngân hàng phải tự bỏ tiền trả cho nguồn vốn và lãi đã huy động, cộng thêm các chi phí khác phát sinh trong quá trình xử lý nợ xấu, làm cho lợi nhuận bị sụt giảm. Nếu lợi nhuận không đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp thiệt hại, ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của ngân hàng.
Tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng: Việc nợ xấu ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng là điều dễ hiểu, ngoài ra nó còn làm giảm uy tín và tiềm lực tài chính của ngân hàng, đặc biệt là khả năng huy động vốn của ngân hàng bị giảm sút. Người dân khi thấy ngân hàng mình gửi tiền bị mất vốn do nợ xấu sẽ không tin tưởng vào năng lực kinh doanh của ngân hàng, mà cụ thể hơn ở đây là khả năng trả lãi huy động vốn, dân chúng mất niềm tin vào tiền gửi ngân hàng và chuyển dịch sang đầu tư những kênh khác. Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
2.1.4.3. Tác động đến nền kinh tế
Ngân hàng thương mại không còn khả năng giúp điều tiết nền kinh tế: Chúng ta đều biết, dòng chảy của nguồn vốn trong nền kinh tế đều được thông qua kênh ngân hàng. Ngân hàng huy động tiền gửi từ các chủ thể trong nền kinh tế và cũng cho cấp vốn cho vay đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng có thể bị khép lại hoặc hạn chế tối đa khi các ngân hàng không kiểm soát được nợ xấu. Hoạt động sản xuất kinh doanh không được cung ứng vốn thường xuyên dẫn đến bị gián đoạn, trì trệ, lâu dần và trên diện rộng sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế.
Khủng hoảng ngân hàng dựa trên phản ứng dây chuyền: Ở mức độ nghiêm trọng hơn, giả sử có một ngân hàng không kiểm soát được tỷ lệ nợ xấu dẫn đến vỡ nợ thì rất dễ xảy ra hiệu ứng dây chuyền trên toàn bộ hệ thống ngân hàng, và tất nhiên ảnh hưởng đến nền kinh tế là không thể tránh khỏi. Trên thế giới, thị trường tài chính – ngân hàng đã từng chứng kiến không ít các vụ phá sản của các ngân hàng lớn và hậu quả của những vụ phá sản này không chỉ giới hạn tại một nước mà còn lan rộng ra một khu vực hay toàn cầu.
2.2 Khảo lược các nghiên cứu trước đây có liên quan Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
2.2.1 Nghiên cứu ngoài nước
Bảng 2.3 Khảo lược các nghiên cứu ngoài nước
Đề tài | Tác giả | Năm | Nội dung nghiên cứu | Các biến sử dụng trong đề tài |
Cycles in Lending Standards? | John A. Weinberg | 1995 | Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại từ lâu đã nhận được sự quan tâm đáng kể, được xem là một nhân tố góp phần quan trọng vào hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Tác giả đi sâu phân tích liệu có hay không tính chu kỳ trong các tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng. | Nghiên cứu thực hiện trên các biến: Tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ trả nợ hợp đồng trung bình, chi phí huy động vốn, tỷ suất hoàn vốn thị trường, … |
Determinants of Non- Performing Loans: The Case of Eurozone | Vasiliki Makri, Athanasios Tsagkanos, Athanasios Bellas | 2017 | Nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng khu vực đồng tiền chung châu Âu trong khoảng thời gian 2000 – 2008. | Các biến được đưa vào xem xét gồm: Tốc độ tăng trưởng GDP, nợ công, lợi nhuận trên tài sản, thất nghiệp, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, …. |
Credit risk in two institutional regimes: Spanish commercial and savings banks | Vicente Salas, Jesus Saurina. | 2002 | Nhóm tác giả nghiên cứu nợ có vấn đề tại các ngân hàng Tây Ban Nha trong giai đoạn 1985 – 1997, bao gồm cả nhân tố vĩ mô và vi mô của riêng ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi ích của việc sáp nhập các ngân hàng từ nhiều vùng miền khác nhau; và vai trò của cạnh tranh ngân hàng và quyền sở hữu trong việc quyết định rủi ro tín dụng. | Tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ trọng từng thành phần trong danh mục tín dụng, quy mô ngân hàng, năng lực thị trường, … |
Nonperforming loans in Baltic States: determinants and macroecono mic effects | Jordan Kjosevski & Mihail Petkovski | 2019 | Các yếu tố vĩ mô và vi mô tại ngân hàng được đưa vào nghiên cứu và ảnh hưởng của chúng đến nợ xấu ở các quốc gia vùng Baltic. Việc nghiên cứu được diễn ra đối với một nhóm gồm 27 ngân hàng từ các nước vùng Baltic sử dụng dữ liệu hàng năm cho giai đoạn 2005–2017. | ROA, ROE, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ trọng tăng trưởng tín dụng tại các khu vực tư, … |
Crosscountry determinants of bank income smoothing by managing loan-loss provisions | Gonzales Francisco và Fonseca Ana Rosa | 2008 | Đề tài sử dụng cơ sở dữ liệu bảng gồm 3221 quan sát trong năm ngân hàng từ 40 quốc gia và kiểm soát các tác động ngân hàng không thể quan sát được và tính nội sinh của các biến giải thích, các tác giả thấy rằng việc điều chỉnh thu nhập ngân hàng phụ thuộc vào sự bảo vệ nhà đầu tư, mức độ công bố thông tin, quy định và giám sát, cấu trúc tài chính và phát triển tài chính. | Tỷ lệ trích lập dự phòng, lợi nhuận trước thuế, sự bảo vệ nhà đầu tư, minh bạch thông tin ngân hàng, cấu trúc tài chính của ngân hàng, … |
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
2.2.2 Nghiên cứu trong nước Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
Bảng 2.4 Khảo lược các nghiên cứu trong nước
Đề tài | Tác giả | Năm | Nội dung nghiên cứu | Các biến sử dụng trong đề tài |
Các yếu tố tác động đến nợ xấu tại NHTM Việt Nam | TS. Trần Vương Thịnh – Nguyễn Ngọc Hồng Loan | 2024 | Nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam bao gồm các yếu tố vi mô và vĩ mô. Qua đó, đúc kết giải pháp và kiến nghị đến NHTM Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước, gồm có quản lý tỷ lệ trích lập dự phòng, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, giữ vững tăng trưởng tỷ suất sinh lời, chiến lược gia tăng quy mô ngân hàng hợp lý và kiểm soát tốt lạm phát. | Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng trưởng tín dụng, lạm phát. |
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam | Phạm Dương Phương Thảo, Nguyễn Linh Đan | 2021 | Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy sai phân GMM đối với 27 NHTM của Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2019, kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP có ảnh hưởng cùng chiều với nợ xấu, từ đó tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hạn chế nợ xấu tại các ngân hàng. | Nợ xấu kỳ trước, chi phí trích lập dự phòng, chi phí hoạt động ngân hàng, đòn bẩy ngân hàng, thu nhập phi lãi ngân hàng, quy mô ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng, tốc độ tăng trưởng GDP, lãi suất tái cấp vốn, lạm phát, tỷ giá hối đoái. |
Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2023 | PGS.TS. Trần Huy Hoàng – Lê Thị Mỹ Tiên | 2025 | Xác định, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các NHTM Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến nợ xấu giai đoạn 2008-2023. Nghiên cứu xử lý được vấn đề nội sinh trong mô hình và dùng thêm kiểm định Sargan-Hansen để thỏa mãn giới hạn nội sinh của mô hình. | Quy mô tổng tài sản, Tỷ lệ nợ xấu năm trước, Tổng dư nợ năm trước, Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản, tỷ lệ dư nợ cho vay / số dư huy động, tăng trưởng tín dụng, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ giá hối đoái USD/VND, lãi suất thực cho vay. |
Các nhân tố tác động đến nợ xấu NHTM Việt Nam giai đoạn 2006- 2019 | Nguyễn Thị Như Quỳnh, Lê Đình Luân và Lê Thị Hương Mai | 2021 | Nhóm tác giả thông qua nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các biến có tương quan ngược chiều với nợ xấu là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, các biến có tác động thuận chiều với nợ xấu là: Tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ nợ xấu năm trước. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa phát hiện được mối quan hệ giữa yếu tố quy mô ngân hàng, khả năng sinh lời của ngân hàng với tỷ lệ nợ xấu. | Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ nợ xấu năm trước, quy mô ngân hàng, khả năng sinh lời. |
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Ở chương này, tác giả đã trình bày các lý thuyết về nợ xấu như: Khái niệm, phân loại nợ xấu (cả trên thế giới và tại Việt Nam), cùng giải thích nguyên do tại sao lại có sự phân loại như vậy, hậu quả nợ xấu mang lại cho các chủ thể trong nền kinh tế như: Ngân hàng, khách hàng và cả nền kinh tế. Đồng thời, trong chương này tác giả cũng khảo lược về các nghiên cứu khoa học trước đây có liên quan đề tài, từ đó chọn ra điểm tương đồng và khoảng trống nghiên cứu, làm tiền đề cho nghiên cứu của bản thân. Luận văn: Nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: PPNC tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng VietinBank
![Luận văn: Thực trạng quản lý công tác sinh viên tại Thủ Dầu Một](https://hotrovietluanvan.com/wp-content/uploads/2021/12/HO-TRO-VIET-LUAN-VAN.jpg)
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com