Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội (KT-XH) và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển KT-XH.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì đầu tư công có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, hỗ trợ hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước. Đầu tư công cũng được Nhà nước sử dụng như một công cụ vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và bảo đảm an sinh xã hội.
Quảng Trị là một tỉnh ở khu vực Bắc Trung Bộ, không có nhiều điều kiện thuận lợi về khí hậu, cơ sở vật chất còn nhiều thiếu hụt, trình độ phát triển còn thấp so với bình quân cả nước; cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm và các dịch vụ công cộng thiếu và yếu thì đầu tư công là nguồn lực chủ yếu và đóng vai trò quyết định trong quá trình hoàn thiện kết cấu hạ tầng, cải thiện các điều kiện xã hội, phát triển đồng bộ các ngành, lĩnh vực và đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương. Và thực tiễn đã chứng minh, quá trình đầu tư công đã làm thay đổi đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ thuật, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân trong tỉnh thời gian qua.
Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế của tỉnh thời gian vẫn dựa quá nhiều vào đầu tư công trong khi hoạt động đầu tư công còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết như: hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tình trạng đầu tư dàn trải vẫn khá phổ biến, nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) kéo dài,…đó là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu là công tác quản lý đầu tư công vẫn còn nhiều yếu kém.Sự yếu kém này tồn tại trong tất cả các khâu của quá trình quản lý đầu tư công; từ công tác quy hoạch, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công, thẩm định dự án,đấu thầu, triển khai thực hiện dự án, giám sát đánh giá, thanh kiểm tra và công tác vận hành, bảo trì duy tu bão dưỡng sau đầu tư.
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị là cơ quan tham mưu tổng hợp cho UBND tỉnh về quy hoạch, kế hoạch và đầu tư, trong đó có chức năng quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước của tỉnh. Với mong muốn đóng góp ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị”.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Công
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung:
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và thực tiễn, phân tích thực trạng công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) giai đoạn 2015 – 2017, đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Trị trong thời gian đến. Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN);
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn NSNN tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị giai đoạn từ năm 2015-2017;
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn NSNN tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị giai đoạn đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nhiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề liên quan đến công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tỉnh Quảng Trị.
- Phạm vi thời gian: Phân tích thực trạng công tác quản lý đầu tư công giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2017 và đề xuất các giải pháp đến năm 2025.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu
- Số liệu thứ cấp
Thông tin, số liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ quan, Ban, ngành ở Trung ương và địa phương.
- Số liệu sơ cấp
Phương pháp điều tra chọn mẫu được sử dụng để phỏng vấn trực tiếp từ: cán bộ quản lý tại Sở Kế hoạch và Đầu tư 25 người; các cán bộ tại các Sở, ngành, Ban quản lý dự án cấp tỉnh 20 người; cán bộ các huyện, thành phố, thị xã 20 người; các đơn vị quản lý, sử dụng công trình 20 người. Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Dùng để phân tích cụ thể về thực trạng công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị giai đoạn từ năm 2015-2017, từ đó rút ra những mặt hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và nghiên cứu đề xuất những giải pháp, chính sách hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị giai đoạn đến năm 2025.
Các phương pháp tổng hợp và phân tích chủ yếu là phương pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp phân tổ, phương pháp kiểm định giá trị thống kê, phương pháp chuyên gia chuyên khảo.
5.Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị
- Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẦU TƯ CÔNG TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư công và quản lý đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà nước
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư công và vốn đầu tư công
1.1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư công: Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
“Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội”. Đầu tư công bao gồm: Đầu tư từ ngân sách (phân cho các
Bộ ngành Trung ương, các địa phương); Đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương trình mục tiêu trung và dài hạn), cũng được thông qua trong kế hoạch ngân sách hằng năm, tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của Nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định; Đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, mà phần vốn quan trọng của doanh nghiệp có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước. [10]
Đầu tư công còn được hiểu là việc sử dụng nguồn vốn Nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội không nhằm mục đích kinh doanh như: Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hoá thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, khoa học, giáo dục, đào tạo…
Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp; Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo quy định của pháp luật; Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ.
Nói tóm lại, đầu tư công bao gồm tất cả các khoản đầu tư do Chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước tiến hành. Đầu tư công được xét không phải từ góc độ mục đích mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư. Đầu tư công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do nhà nước quản lý.
1.1.1.1.2 Khái niệm về vốn đầu tư công Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Theo quan điểm kinh tế vĩ mô vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư. Và vốn đầu tư trong kinh tế bao gồm ba nội dung chính là: Vốn đầu tư làm tăng tài sản cố định; Vốn đầu tư tài sản lưu động và Vốn đầu tư vào nhà ở.
Theo quan điểm khác, vốn đầu tư được hiểu là “toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định, thường được thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động”. Như vậy, khái niệm vốn đầu tư ở đây thường được gắn cụ thể với số vốn hay ngân sách dành để cấp cho một dự án đầu tư hay một chương trình cụ thể.
Vốn đầu tư công gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư. [10]
1.1.1.2. Khái niệm về quản lý đầu tư công
Hoạt động đầu tư ở Việt Nam được quản lý theo quy định của nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Trong đó, liên quan trực tiếp tới quản lý đầu tư công là các Luật: Đấu thầu, Đầu tư, Xây dựng, các nghị định hướng dẫn thi hành các luật nêu trên và một số nghị định khác của Chính phủ. Ngoài ra, quản lý đầu tư công còn liên quan tới nhiều luật như: Đất đai, Bảo vệ môi trường, Khoáng sản, Dầu khí, Thuế thu nhập doanh nghiệp… và các hệ thống văn bản hướng dẫn các luật này.
Quản lý đầu tư chính là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng quá trình đầu tư (bao gồm công tác quản lý quy hoạch, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra) bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp nhằm đạt được hiện quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách quan nói chung và quy luật vận động đặc thù của đầu tư nói riêng.
Theo quan điểm của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Quản lý đầu tư công là một hệ thống tổng thể, bắt đầu từ việc hình thành những định hướng lớn trong chính sách đầu tư công cho đến việc thẩm định, lựa chọn, lập ngân sách, thực thi, và đánh giá các dự án đầu tư cụ thể, với mục đích là đảm bảo hiệu quả và hiệu lực của đầu tư công, qua đó đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Quản lý đầu tư công là quá trình quản lý từ khâu phê duyệt chủ trương đầu tư, phê duyệt chương trình, dự án, lập kế hoạch đầu tư, xác định danh mục chương trình, dự án đầu tư, triển khai thực hiện, theo dõi, kiểm tra đánh giá, thanh tra các chương trình, dự án đầu tư công và kế hoạch đầu tư công.
Như vậy, quản lý đầu tư công là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính thực hiện nhằm hỗ trợ các chủ đầu tư thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người đại diện sở hữu nhà nước trong các dự án công, ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực của các dự án. Kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong việc sử dụng vốn nhà nước nhằm tránh thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước.
Quy trình quản lý đầu tư công bao gồm tám nội dung cụ thể như sau: 1) Định hướng đầu tư; 2) Lập, thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư; 3) Lập, thẩm định và phê duyệt dự án; 4) Lựa chọn và lập kế hoạch ngân sách dự án; 5) Triển khai dự án; 6) Điều chỉnh dự án; 7) Vận hành dự án; 8) Đánh giá và kiểm toán sau khi hoàn thành dự án.
Cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công là đơn vị có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư; đơn vị được giao quản lý đầu tư công của bộ, cơ quan trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan, tổ chức khác được giao kế hoạch đầu tư công; Sở Kế hoạch và Đầu tư; phòng, ban có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã; Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công bao gồm Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân các cấp.
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.1.2.1.Vai trò của đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội như nước ta nói riêng thì đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước là một trong những công cụ điều hành của Nhà nước, góp phần tạo nền tảng cơ bản cho sự phát triển của nền kinh tế và thúc đẩy dẫn dắt đầu tư của các thành phần kinh tế khác, kích thích các thành phần kinh tế phát triển có hiệu quả hơn và đồng đều hơn. Bởi lẽ, như một tất yếu khách quan đầu tư của tư nhân và nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào các ngành nghề, khu vực có khả năng sinh lời cao, mức độ an toàn lớn, dẫn đến mất cân đối trong các ngành cũng như các vùng kinh tế. Do vậy, để nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ, hài hòa và hợp lý thì Chính phủ sẽ dùng vốn đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước để đầu tư vào môt số lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không đủ khả năng hoặc không được phép đầu tư, chẳng hạn các dự án có vốn đầu tư lớn, khả năng thu hồi vốn chậm hoặc không thể thu hồi vốn hay đối với những lĩnh vực mang tính chủ quyền quốc gia, tài nguyên quốc gia (các công trình quốc phòng,…)
Vai trò của đầu tư công được thể hiện trên ba khía cạnh quan trọng sau:
Một là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên việc đầu tư cho các công trình hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật tối thiểu chung cho xã hội. Đây cũng đồng thời tạo những điều kiện thiết yếu cho các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư và phát triển.
Hai là, góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đằng, bất công trong xã hội bằng các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, các dân tộc thiểu số (chương trình 134, 135 của Chính phủ, Chương trình 30a, các chương trình xóa đói giảm nghèo hỗ trợ sản xuất…), nâng cao và ổn định đời sống người dân.
Ba là, đảm bảo ổn định và không ngừng tăng cường quốc phòng, an ninh. Các công trình, dự án về an ninh quốc phòng đều không mang lại hiệu quả kinh tế trước mắt nên khu vực tư nhân không thể và cũng không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng đó lại là cơ sở quan trọng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Qua đó có thể thấy, đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước có tác động khá lớn tới tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo định hướng đề ra. Hoạt động đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước góp phần tái tạo và tăng cường năng lực sản xuất để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập quốc dân và tăng thu nhập bình quân đầu người. Mặc khác, đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng một phần tăng tích lũy vốn, thu hút người lao động, giải quyết việc làm, sử dụng có hiệu quả tài nguyên của quốc gia. Đồng thời, nó sẽ tạo ra cơ cấu kinh tế mới, hình thành những ngành mới, tăng cường chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội.
Nói tóm lại, hoạt động đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước có vai trò to lớn đối với sự phát triển các mặt của nền kinh tế, đời sống xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, là một công cụ góp phần điều tiết kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Nó mang tính định hướng, dẫn dắt, hỗ trợ phát triển cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.2. Đặc điểm của đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Đầu tư là khâu mở đầu của mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất nhằm tạo ra năng lực sản suất của nền kinh tế. Quá trình đầu tư phải trải qua một thời gian lao động dài mới có thể đưa vào sử dụng được. Và đặc biệt đối với đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước thì thời gian hoàn vốn lâu và đáp ứng mục tiêu xã hội là chủ yếu. Một dự án đầu tư là một thực thể độc lập trong môi trường xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và trách nhiệm. Đồng thời, dự án khi triển khai thực hiện được xác định rõ ràng về mục tiêu, nguồn lực, thời gian khởi công hoàn thành, cơ cấu, chất lượng nhất định và hiệu quả mang lại. Do vậy, nguồn vốn đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí thực hiện dự án đó có tính thống nhất và tính xác định cao.
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, do thời gian kéo dài nên các yếu tố chính trị, kinh tế và tự nhiên can thiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp và thậm chí gây ra những tổn thất mà những nhà đầu tư không lượng định hết khi lập dự án. Do vậy, vốn đầu tư phát sinh so với dự toán ban đầu là điều tất yếu.
Sản phẩm của đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước là cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi xã hội, giao thông, bến bãi… có tính cố định gắn liền với đất đai. Vì thế trước khi quyết định đầu tư dự án từ nguồn vốn này phải được quy hoạch cụ thể, khi triển khai thực hiện thường gặp khó khăn trong đền bù giải phóng mặt bằng.
Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước bị tách rời. Nguồn vốn này thuộc quyền sở hữu cả Nhà nước. Trong khi đó quyền sử dụng lại giao cho một tổ chức bằng việc thành lập các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án. Từ đặc điểm này mà nguồn vốn đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước dễ bị thất thoát nếu chủ đầu tư, ban quản lý dự án không ngừng nâng cao trách nhiệm, trình độ quản lý đáp ứng yêu cầu quản lý và Nhà nước không ngừng công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt.
1.1.3. Nội dung quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh
1.1.3.1. Nguyên tắc cơ bản trong quản lý đầu tư công Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Phù hợp với mục tiêu quản lý đó chính là thống nhất giữa tính chính trị, kinh tế kết hợp hài hòa, hợp lý về mặt xã hội.Đảm bảo tính công khai, minh bạch theo quy định, phù hợp yêu cầu cải cách hành chính và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước. Đảm bảo quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
Đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải được đảm bảo bằng pháp luật.
Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan Nhà nước thực hiện việc quản lý dự án đầu tư công một cách tùy tiện, chủ quan mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.Đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả.
Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của nhà nước và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. Phân cấp theo quy mô, đây là một trong những tiêu chí chủ đạo trong quá trình quản lý đầu tư công ở Việt nam. Cụ thể là mức độ phân cấp đối với các chức năng và nhiệm vụ quản lý đầu tư công thường phụ thuộc vào quy mô và tầm quan trọng của dự án, được chia thành các dự án quan trọng quốc gia, nhóm A, nhóm B, và nhóm C.
Phân định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan đến các hoạt động đầu tư công. Các dự án đầu tư công liên quan đến nguồn tài chính. Theo đó, chính quyền cấp tỉnh được quyền tự quyết gần như hoàn toàn đối với các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương (nguồn vốn đầu tư cân đối theo tiêu chí, nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất, nguồn thu XSKT, các khoản tăng thu, tiết kiệm chi…)
1.1.3.2. Phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt Nam
Phân cấp quản lý đầu tư công gắn với phân cấp về nguồn tài chính. Có hai nguồn, một là nguồn từ Trung ương, hai là nguồn khai thác tại chỗ ở địa phương. Một cách tương đối nhất quán, chính quyền cấp tỉnh được quyền quyết gần như hoàn toàn đối với các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương. Vốn đầu tư công được phân bổ theo hai cấp ngân sách là ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.
Phần lớn nguồn lực đầu tư công đều được phân cấp cho ngành và địa phương quản lý. Và hệ quả tất yếu là việc quyết định đầu tư công đã tách rời việc bố trí vốn. Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Các ngành và địa phương quyết định về dự án đầu tư, nhưng nguồn vốn đều được ghi là “xin vốn từ ngân sách trung ương”.
Nguyên tắc phân cấp đầu tư từ Trung ương xuống địa phương vẫn được thực hiện theo quy mô và tầm quan trọng của dự án, được chia thành các dự án quan trọng của quốc gia là nhóm A, nhóm B, và nhóm C. Đây là nguyên tắc phân cấp theo kiểu “những gì ở cấp trên không cần làm thì cấp dưới sẽ thực hiện” và cấp trên thì luôn “nắm to, buông nhỏ” dẫn đến hiện tượng cấp dưới luôn cảm thấy bị gò bó còn cấp trên luôn ở trong tình trạng quá tải, không thể kiểm soát được tình hình. Cách làm này cũng hoàn toàn đi ngược lại với nguyên tắc phổ biến trên thế giới là “những gì cấp dưới không làm được thì cấp trên mới phải làm” (từ dưới lên). Phần vốn đầu tư được cấp theo cơ chế “xin – cho” thì mạnh ai người đó “chạy”, nếu xin được sẽ triển khai, chưa xin được thì sẵn sàng bỏ dở công trình… Từ chỗ “xin – cho”, các vận trù đầu tư trở nên thiếu kế hoạch đồng bộ, cái cần thì không được làm, cái không cần thì cố gắng “chạy” để làm. Mục đích lớn nhất của việc “chạy xin” hầu như không phải là giải quyết hệ thống cơ sở hạ tầng đang cần thiết và bức bách mà chủ yếu là triển khai những công trình có thể tạo ra nhiều địa lợi cho các chủ đầu tư và nhà thầu.
Trong nguồn tài chính khai thác tại địa phương, ngoài hình thức huy động đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng từ người dân, một hình thức khá phổ biến là khai thác từ tài nguyên mà chủ yếu là từ quỹ đất đai. Vào thời kỳ thị trường bất động sản đang sôi động, nhiều địa phương đã thu những khoản tiền rất lớn từ nguồn này, đặc biệt là đất tại những khu vực đô thị. Địa phương nào thu càng lớn thì đầu tư càng nhiều, từ đó nảy sinh vấn đề xây dựng tràn lan, không có kế hoạch và không có sự liên kết đấu nối.
Bên cạnh đó, mặc dù phân cấp quản lý đầu tư công từ ngân sách nhà nước mạnh nhưng vẫn còn thiếu sự kiểm tra, hướng dẫn từ cấp có thẩm quyền phân cấp dẫn tới việc cấp dưới được phân cấp có thể làm những việc vượt thẩm quyền, quyết định dự án đầu tư nhưng nguồn vốn lại đề nghị cấp trên cân đối; hoặc để tự cân đối ngân sách tại chỗ thì các cấp dưới được phân cấp phải chật vật tìm cách tăng thu, dẫn đến việc thu hút đầu tư bằng mọi giá, làm trầm trọng thêm tình trạng phát triển tự phát, không theo quy hoạch.
Có thể nói, chính những yếu kém, hạn chế trong công tác phân cấp quản lý đầu tư công từ ngân sách nhà nước là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, chồng chéo, công trình thi công chậm, thiếu đồng bộ, sản phẩm dở dang nhiều dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Bản thân, Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/20/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ cũng đã thừa nhận “do phân cấp quá rộng lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực của nhà nước”. Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Luật Đầu tư công năm 2014 đã có sự thay đổi trong phân cấp quyết định chủ trương đầu tư cũng như thẩm định nguồn vốn, khả năng cân đối vốn… kỳ vọng sẽ khắc phục được tình trạng yếu kém trước đây.
1.1.3.3. Nội dung quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
Công tác quản lý quy hoạch: Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về quy hoạch; Hướng dẫn các ngành, các địa phương, các đơn vị xây dựng quy hoạch; Chủ trì nghiên cứu, tham gia xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Công tác thẩm định đầu tư công: Tổ chức thẩm định chủ trương đầu tư, tổng hợp thẩm định chương trình, dự án đầu tư các dự án thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của UBND tỉnh hoặc Giám đốc Sở được ủy quyền quyết định đầu tư.
Công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn đầu tư công: Tổng hợp, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, 5 năm và hàng năm. Thực hiện các cân đối chủ yếu về kinh tế – xã hội của tỉnh; cân đối kế hoạch vốn đầu tư công thuộc ngân sách địa phương; nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn khác.
Công tác quản lý đấu thầu: Thẩm định kế hoạch đấu thầu. Tổ chức giám sát, kiểm tra hoạt động đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu; tham gia các hoạt động thanh tra về đấu thầu; xây dựng và quản lý hệ thống mạng đấu thầu của tỉnh; theo dõi, đánh giá, tổng kết và tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu trong phạm vi toàn tỉnh.
Công tác kiểm tra, giám sát đầu tư: Làm đầu mối tổ chức thực hiện giám sát tổng thể hoạt động đầu tư, kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của các chương trình, dự án đầu tư trên địa bàn; Tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý đầu tư công từ nguồn vốn NSNN
1.1.4.1. Nhân tố chủ quan Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Môi trường pháp lý: Mọi hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng ngoài việc chịu tác động của quy luật kinh tế thị trường đều phải tuân thủ luật pháp và hoạt động trong khuôn khổ luật pháp. Do vậy, hệ thống pháp luật hiện hành của Nhà nước, các quy định riêng của từng ngành, từng địa phương trong mối quan hệ ràng buộc về mặt tổ chức, sản xuất, lao động, bảo vệ môi trường, quan hệ sinh hoạt xã hội là chuẩn mực pháp lý và là khung pháp lý trong quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Hệ thống văn bản pháp luật càng hoàn thiện sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận cho quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Tổ chức: không chỉ ảnh hưởng đến nội dung công tác tổ chức quản lý mà ngay cả đối với sự hình thành bộ máy quản trị vận hành cũng như quá trình quản lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Đó chính là công tác quản lý đầu tư của địa phương, đơn vị, trình độ quản lý và sử dụng vốn của cán bộ quản lý và thực hiện đầu tư tại địa phương. Có thể nói, năng lực của cơ quan Nhà nước là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và hiệu quả đạt được của dự án.
Môi trường kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư và khả năng huy động vốn đầu tư. Nguồn lực đầu tư công chủ yếu từ ngân sách nhà nước nhưng do ngân sách phải đồng thời thực hiện nhiều khoản chi khác nhau, nhiều mục đích khác nhau, nhiều dự án khác nhau nên việc bảo đảm nguồn lực đầu tư diễn ra đúng tiến độ là vô cùng quan trọng. Các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị, tiến bộ khoa học – công nghệ… đều có ảnh hưởng đến hoạt động, kết quả đạt được của dự án đầu tư. Những biến động này đôi khi phải dẫn đến việc điều chỉnh dự án, hoặc không thực hiện dự án nữa do không còn phù hợp.
Năng lực của cơ quan quản lý: Đây là yếu tố mang tính quyết định đến kết quả đạt được của dự án. Để dự án đạt được kết quả mong muốn, các cơ quan thực hiện đầu tư công và quản lý đầu tư công cần phải bảo đảm nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng. Phải đảm bảo những người phụ trách chính trong dự án có trình độ, năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu của dự án.
Thủ tục hành chính và các quy định của pháp luật trong quá trình quản lý đầu tư công liên quan đến các quy chế và thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý ngân sách. Bên cạnh các nhân tố luật pháp và tổ chức thì một số nhân tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến khía cạnh tổ chức, quản lý và nhân sự của quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Năng lực chuyên môn của các cơ quan tư vấn về đầu tư, thiết kế công trình, lập dự toán, công tác thẩm định thiết kế, dự toán và công tác xét thầu cũng là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý đầu tư công từ ngân sách nhà nước. Chất lượng của các cơ quan thực hiện các khâu này này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cũng nhưng hiệu lực của quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Bởi lẽ, nếu chất lượng kém, chưa đạt yêu cầu thì tiến độ thực hiện sẽ chậm, hiệu quả thấp hoặc phải phê duyệt dự án, thiết kế, dự toán nhiều lần hoặc không đảm bảo khả năng cân đối nguồn lực.
Công luận và thái độ của các nhóm có liên quan: Sự ủng hộ hay phản đối của công luận có tác động không nhỏ đến việc thực hiện dự án. Các dự án công bị người dân phản đối, ngăn chặn ngay từ khâu giải tỏa mặt bằng sẽ gặp rất nhiều khó khăn về sau. Bên cạnh đó, mỗi dự án được thực hiện sẽ mang lại lợi ích và bất lợi cho những nhóm đối tượng khác nhau và do vậy cũng sẽ nhận được sự ủng hộ và phản đối của các nhóm đối tượng tương ứng.
1.1.4.2. Nhân tố khách quan Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước phụ thuộc vào các nhân tố khách quan như: điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế, chính trị, trình độ xã hội, điều kiện về khoa học công nghệ, khả năng về nguồn lực của ngân sách nhà nước, quy mô các nguồn vốn đầu tư … Bên cạnh đó quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố không lường trước được như thiên tai, các rủi ro hệ từ sự biến động của nền kinh tế thế giới, của cả nước tác động tới địa phương một cách trực tiếp hay gián tiếp, các chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô, chính sách về đầu tư của Nhà nước,… Các nhân tố khách quan này có thể xẩy ra đối với bất kỳ một địa phương nào. Vì vậy, cần phải tính toán, lường trước các rủi ro này để giảm các thiệt hại xẩy ra trong quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.2. Tình hình đầu tư công ở Việt Nam và kinh nghiệm quản lý đầu tư công trên thế giới và trong nước Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.2.1 Tình hình đầu tư công ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2008 với nhiều yếu tố không thuận lợi. Trên phạm vi toàn cầu, giá dầu thô và nhiều loại vật tư, lương thực tăng đột biến, kinh tế tăng trưởng chậm lại và lạm phát có dấu hiệu tăng cao. Diễn biến trên đã tác động không nhỏ đến hầu hết các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong nước là sự gia tăng mạnh mẽ của giá cả, nhập siêu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống nhân dân. Do vậy, buộc Chính phủ phải bơm một lượng vốn rất lớn vào nền kinh tế để ổn định và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong một thời gian dài, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa nhiều vào đầu tư, trong đó chiếm tỷ trọng lớn là đầu tư công . Cùng với đó, nhiều chính sách vĩ mô được ban hành cho mục tiêu này.
Nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khởi điểm từ một vị trí thấp, cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, tiềm lực kinh tế tư nhân chưa được tập trung và khơi dậy, thì đầu tư công có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn khác cũng như góp phần quan trọng trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và các yếu tố nền tảng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của khu vực nhà nước nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Đầu tư công được coi là “vốn mồi” để châm lửa thổi bùng nền kinh tế bước vào thời kỳ hoạt động sôi nổi, điều chỉnh nền kinh tế đi vào ổn định tăng trưởng. Là một bộ phận của đầu tư toàn xã hội, đầu tư công từ ngân sách nhà nước có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Và trong hơn thập niên trở lại đây, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, vốn đầu tư công có xu hướng tăng trưởng thấp hơn so với khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trừ năm 2009 và năm 2010 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Trong thời kỳ 2001 – 2010, tổng vốn đầu tư công tăng bình quân 10,2%/năm (theo giá cố định), thấp hơn so với tốc độ tăng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước (15,1%/năm) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (18,5%/năm); trong đó giai đoạn 2001-2005 tăng 1%, giai đoạn 2006-2010 tăng 9,3%. Do thực hiện Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP, ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó chủ yếu là đầu tư công tăng chậm trong 2 năm 2011 và 2012. [22] Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư công lại bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả không cao, cơ cấu đầu tư bất hợp lý và cơ chế xin cho vẫn hiện hữu, cơ chế đầu tư ngày càng tỏ ra thiếu khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển và thiếu bền vững. Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng dễ khiến chi an sinh xã hội, giáo dục, y tế bị ảnh hưởng. Công tác quản lý đầu tư công còn yếu kém, chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch định các kế hoạch phát triển.Việc quản lý rườm rà, vừa lỏng lẻo trong đầu tư công thể hiện ở tất cả các khâu từ xác định chủ trương lập, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư, thiết kế, lập dự toán, … đến khâu triển khai thực hiện đề có tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn lực lớn. Và đặc biệt là tình trạng dự án chờ vốn đầu tư công do phê duyệt quá nhiều dự án vượt quá khả năng cân đối. Mặt khác, quá trình đầu tư công của Việt Nam quá chú trọng vào mục tiêu tăng trưởng nên đầu tư năm sau phải cao hơn năm trước. Cộng thêm với đó là tâm lý trong chờ, ỷ lại vào nguồn vốn đầu tư công của các ngành, địa phương. Hình thức phân bổ vốn còn mang tính bình quân, xin cho, ban phát lợi ích chứ chưa theo quy hoạch phát triển tổng thể. Tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ, nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn tồn tại khá phổ biến.
Trong những năm qua, cơ cấu đầu tư công theo ngành, lĩnh vực đã có sự chuyển dịch theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH – HĐH). Đầu tư công đã tập trung vào các ngành, bao gồm: khai thác dầu khí, sản xuất điện và khí đốt, khai thác than, bất động sản và kinh doanh bất động sản, sản xuất xi măng, quản lý nhà nước, giao thông đường bộ, giao thông đường thủy, cung cấp nước, dịch vụ viễn thông, xây dựng dân dụng, văn hóa và thể thao, thương mại, khách sạn, các dịch vụ khác phục vụ nông nghiệp, sản xuất phân hóa học. Trong khi đó, các ngành công nghiệp chế biến, nhất là các ngành công nghệ cao, ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, giáo dục và đào tạo, dịch vụ y tế và bảo trợ xã hội… đã không thuộc vào nhóm ngành được đầu tư nhiều nhất. Nói cách khác, có rất nhiều ngành quan trọng của nền kinh tế đã không được đầu tư đúng mức.
Điều này không đúng với chủ trương phải tạo ra những đột phá mạnh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia về các sản phẩm có thế mạnh trong nông nghiệp và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho giai đoạn tới. Như vậy, việc sử dụng công cụ đầu tư công để phát triển các ngành, vùng trọng điểm, then chốt chưa thực sự phát huy được hiệu quả đầu tư công. Những kết quả của việc đầu tư vào các vùng, ngành trọng điểm, ưu tiên có tính chất lan tỏa cao đối với phát triển kinh tế chưa thấy rõ. Định hướng đầu tư nhà nước vào các ngành có khả năng lan tỏa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hóa đã không đi đúng hướng.
Tóm lại, với việc chú trọng vào gia tăng mức vốn đầu tư thay vì hiệu quả đầu tư, nên lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào kết cấu hạ tầng, đã tăng cao và rất khó có thể đáp ứng, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng nợ công trên thế giới hiện nay. Đầu tư công của Việt Nam hiện nay đã trở nên thiếu bền vững dưới phương diện ngân sách và làm cho nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương trên phương diện các cân đối vĩ mô. Cùng với đó, hiệu quả đầu tư thấp và tác động của đầu tư đến tăng trưởng đã giảm mạnh trong những năm qua. Tình trạng tăng trưởng ngày càng ít gắn với đầu tư, nhất là đầu tư công, đã trở thành một vấn đề lớn đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới.
1.2.2. Kinh nghiệm quản lý đầu tư công trên thế giới Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Đầu tư công là động lực chủ chốt cho sự tăng trưởng và phát triển của quốc gia, là một trong những chi tiêu quan trọng nhất của Chính phủ, với mục đích tạo ra lợi ích trong tương lai, đầu tư công thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng đầu tư, chi tiêu của xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, với mức độ phát triển và thể chế khác nhau, vai trò, lĩnh vực đầu tư công cũng như chính sách quản lý hình thức đầu tư này có những đặc điểm riêng biệt.
Tại Trung Quốc, tất cả các dự án đầu tư công đều phải nằm trong quy hoạch đã được duyệt mới được chuẩn bị đầu tư. Trung Quốc có Luật riêng về Quy hoạch. Ủy ban Phát triển và Cải cách nhà nước Trung Quốc là cơ quan đầu mối tổ chức thẩm định, tổng hợp, lập báo cáo thẩm định về các quy hoạch phát triển, trình Quốc Vụ viện (Chính phủ) phê duyệt; kiểm tra, tổng hợp kết quả thực hiện các quy hoạch đã được duyệt. Các Bộ, ngành, địa phương căn cứ vào các quy hoạch phát triển đã được duyệt để đề xuất, xây dựng kế hoạch đầu tư và danh mục các dự án đầu tư (bằng vốn của ngân sách nhà nước và vốn đầu tư của xã hội). Trung Quốc rất coi trọng khâu chủ trương đầu tư dự án. Tất cả các dự án đầu tư công đều phải lập Báo cáo đề xuất dự án (kể cả các dự án đã có trong quy hoạch đã được phê duyệt). Việc điều chỉnh dự án (mục tiêu, quy mô, tổng mức đầu tư) nằm trong quy hoạch đã được phê duyệt phải được sự chấp thuận của cơ quan phê duyệt quy hoạch đó. [17]
Tại Hàn Quốc, hệ thống ngân sách được thực hiện và quản lý tập trung; trong đó, Bộ Chiến lược và Tài chính giữ vai trò chủ đạo trong việc lập kế hoạch ngân sách cũng như chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công. Thông thường, các quyết định liên quan tới ngân sách sẽ được đưa ra sau khi có thỏa thuận giữa cơ quan có thẩm quyền và cơ quan Bộ có nhu cầu sử dụng vốn. Chính phủ ban hành Khung chỉ tiêu trung hạn cùng với chính sách ngân sách từ trên xuống. Việc phân bổ năm ngân sách bắt đầu bằng việc thảo luận về kế hoạch ngân sách đầu tư cho 5 năm.
Thẩm định ở trung ương do Trung tâm Quản lý đầu tư cơ sở hạ tầng công và tư nhân (PIMAC) thực hiện thẩm định tất cả các dự án ở trên một mức nhất định. Nghiên cứu tiền khả thi đối với các dự án >50 triệu USD. Hệ thống Quản lý tổng chi phí dự án là một công cụ giúp Bộ Ngân sách theo dõi chi phí của các dự án đầu tư công và kiểm tra các khoản tăng chi phí dự án trong toàn bộ vòng đời dự án từ khi lập kế hoạch đến khi hoàn tất thi công. [17] Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Tại Vương quốc Anh, nhằm bảo đảm hiệu lực thực thi và hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động đầu tư công, Vương quốc Anh đã kết hợp hài hòa các quy trình lập kế hoạch ngân sách và lập kế hoạch cung ứng dịch vụ công trong dài hạn. Quy trình quyết định phân bổ đầu tư giữa các lĩnh vực chính phụ thuộc vào các nỗ lực vận động và quyết định của Đảng nắm quyền. Tuy nhiên, các quyết định này dựa nhiều vào các báo cáo rà soát chính sách và “Sách Trắng”. Mặc dù Bộ Tài chính không đặt ra các ưu tiên trong dài hạn cho các lĩnh vực, cơ quan này lại có vai trò quan trọng trong việc điều phối chính sách và tư vấn kỹ thuật cấp cao cho các lãnh đạo. Đối với các dự án cụ thể đã được đưa vào trong chiến lược ngành, các dự án ở Vương quốc Anh vẫn phải qua những vòng đánh giá về chi phí lợi ích, thậm chí cả những nghiên cứu về các trường hợp điển hình, trước khi có đánh giá về mức độ ưu tiên đối với dự án.Đối với chi tiêu ngân sách, Chính phủ Anh có quy trình chi ngân sách thận trọng nhằm đảm bảo khả năng tài trợ vốn cho các dự án đầu tư trong trung và dài hạn, bao gồm cả các dự án đầu tư hạ tầng. Trong khuôn khổ tài khoá chung, Chính phủ Anh sẽ đưa ra khung chi tiêu trong nhiều năm để các Bộ chủ động lập kế hoạch.Bộ Tài chính tiến hành rà soát chi tiêu 2 năm một lần, trên cơ sở đó đề ra lộ trình chi ngân sách cho giai đoạn tiếp theo. Trong quá trình thực hiện công việc này, Bộ Tài chính yêu cầu các Bộ khác phải ban hành các chiến lược đầu tư của bộ mình, từ đó giúp Bộ Tài chính có thể đánh giá được chiến lược về các đề xuất đầu tư. Cơ chế này buộc các Bộ phải gắn các đề xuất đầu tư với các công trình hiện có và đánh giá xem xét các công trình mới sẽ được quản lý và bảo trì như thế nào. [19]
Tại Brazil, là nước coi đầu tư công là động lực cho tăng trưởng kinh tế, nên nước này đã có cách thức quản lý đầu tư công hữu hiệu. Theo đó, Brazil đã đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên để gia tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế nước này. Đồng thời áp dụng biện pháp thắt chặt tài chính, trong đó tập trung kiềm chế thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách kiềm chế các khoản đầu tư. Cùng với đó, Chính phủ Brazil đã tập trung vào danh mục đầu tư dự án cụ thể, sàng lọc và lựa chọn kỹ lưỡng chủ đầu tư dự án có đủ năng lực triển khai dự án, tránh gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước. [20]
Tại Chilê, tổ chức thẩm định sơ bộ các dự án để phù hợp với chiến lược chung. Thực hiện nâng cao năng lực dài hạn trong công tác thẩm định dự án rộng khắp trong chính quyền. Ban hành khung chi tiết cho các dự án PPP và cơ chế để bắt đầu thực hiện thẩm định lý do tiếp tục thực hiện dự án trong trường hợp tăng chi phí dự án. Việc thẩm định được thực hiện tập trung bởi Bộ Kế hoạch thay vì Bộ cấp vốn. Các đơn vị độc lập được thành lập trong Bộ Kế hoạch. [17]
Tại Bỉ, đầu tư công hàng năm trung bình là 7 tỉ EUR, chiếm 2% GDP; 89% đầu tư công do chính quyền địa phương quản lý. Đa số các khoản đầu tư công tập trung vào việc mở rộng và sửa chữa để duy trì các công trình có sẵn. Đầu tư mới chỉ chiếm một phần nhỏ trong đầu tư công. Chính phủ Liên bang chịu trách nhiệm đầu tư trong ngành đường sắt và hàng không (sân bay quốc gia). Chính quyền vùng chịu trách nhiệm đối với khung kinh tế lớn, tức bao gồm tất cả các dự án đầu tư công về hạ tầng giao thông, nghiên cứu và phát triển (R&D). Chính quyền cộng đồng chịu trách nhiệm về nhân lực thông qua giáo dục, kể cả trong trường hợp khoản chi này không được coi là đầu tư công trong chuẩn kế toán quốc gia. Chính quyền tỉnh, thành phố và xã cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác đầu tư công. Chính quyền xã chịu trách nhiệm khoảng 40% tổng đầu tư công. Chính quyền xã chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ trong khu vực (thu gom rác thải, đường giao thông địa phương, trường tiểu học,…). Bên cạnh đó, phân trách nhiệm rõ ràng cho các cấp chính quyền. Quyền tự chủ của chính quyền địa phương. Phân nguồn vốn rõ ràng (cấp vốn tài khóa, dần phân cấp quyền lực về thuế xuống các cấp dưới). Mỗi cấp chính quyền đều xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư công của riêng mình dựa trên trách nhiệm mình được phân. [17]
1.2.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư ở một số địa phương trong nước Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Phần lớn Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành đều cơ bản giống nhau về cơ cấu tổ chức và phân công chức năng quản lý các nguồn vốn theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 11/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nội vụ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và phòng Tài chính – Kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cụ thể: có 07 phòng chuyên môn là: Phòng Tổng hợp, Quy hoạch; Phòng Đăng ký kinh doanh; Phòng Kinh tế ngành; Phòng Đấu thầu, Thẩm định và Giám sát đầu tư; Phòng Kinh tế đối ngoại; Phòng Khoa giáo, Văn xã; Phòng Doanh nghiệp, kinh tế tập thể và tư nhân. Theo đó, có 04 phòng quản lý nguồn vốn là Phòng Tổng hợp, Quy hoạch (tổng hợp nguồn vốn đầu tư của toàn tỉnh, trực tiếp quản lý nguồn vốn ngân sách tỉnh, ngân sách phân cấp cho cấp huyện và lĩnh vực quốc phòng an ninh); Phòng Kinh tế ngành (quản lý nguồn vốn ngân sách tỉnh thuộc các lĩnh vực công nghiệp, thương mại – dịch vụ, nông nghiệp và phát triển nông thôn); Phòng Kinh tế đối ngoại (quản lý nguồn vốn ODA, nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ và nguồn việc trợ phi chính phủ nước ngoài); Phòng Khoa giáo, Văn xã (quản lý nguồn vốn ngân sách tỉnh thuộc các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, lao động – thương binh – xã hội, văn hóa – thể thao – du lịch, khoa học – công nghệ và thông tin – truyền thông).
Như vậy, các phòng đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo ngành lĩnh vực và chức năng quản lý nhà nước về nguồn vốn đối với các lĩnh vực phân công; trong đó có sự tách biệt chức năng quản lý nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, do đặc điểm, tính chất và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương mà có một số tỉnh, thành phố có cơ cấu tổ chức và phân công chức năng quản lý các nguồn vốn khác nhau, cụ thể:
Tại thành phố Hà Nội, có 07 phòng chuyên môn là: Phòng Tổng hợp, Quy hoạch; Phòng Đấu thầu, Thẩm định và Giám sát đầu tư; Phòng Đăng ký kinh doanh; Phòng Quản lý đầu tư vốn ngân sách Nhà nước; Phòng Quản lý đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước; Phòng Kinh tế đối ngoại; Phòng Quản lý đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP).Theo đó, có 03 phòng quản lý nguồn vốn và chức năng quản lý theo từng loại nguồn vốn là ngân sách nhà nước, ngoài ngân sách nhà nước và PPP. Như vậy, chỉ có 01 phòng quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và chỉ thực hiện duy nhất chức năng quản lý nhà nước về nguồn vốn, không thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.Với mô hình này, có ưu thế là tập trung quản lý đầu tư theo nguồn vốn tại một đầu mối nên thuận tiện trong quá trình triển khai thực hiện (lập kế hoạch, phân bổ, báo cáo, …). Tuy nhiên, với cách quản lý đầu tư tách rời với chức năng quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế xã hội khác sẽ dễ dẫn đến tình trạng đầu tư không đúng với định hướng phát triển của các ngành, lĩnh vực và địa phương. [1]
Tại thành phố Hồ Chí Minh, có 09 phòng chuyên môn là: Phòng Kế hoạch Tổng hợp; Phòng Thông tin; Phòng Kinh tế; Phòng phát triển hạ tầng; Phòng Lao động, văn xã; Phòng quản lý dự án ODA; Phòng Đăng ký kinh doanh; Phòng hợp tác công tư (PPP); Phòng Đăng ký Đầu tư. Theo đó, có 05 phòng quàn lý nguồn vốn là: Phòng Kế hoạch Tổng hợp (quản lý nguồn vốn ngân sách thành phố, ngân sách phân cấp cho các quận, huyện trên địa bàn và lĩnh vực quốc phòng an ninh); Phòng Kinh tế (quản lý nguồn vốn ngân sách thành phố thuộc các lĩnh vực công nghiệp, thương mại – dịch vụ, nông nghiệp và phát triển nông thôn); Phòng phát triển hạ tầng (quản lý nguồn vốn ngân sách thành phố thuộc các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị như cầu, đường, cấp thoát nước, môi trường, nhà ở …. và các chương trình, dự án đầu tư hạ tầng trọng điểm trên địa bàn); Phòng Lao động, văn xã (quản lý nguồn vốn ngân sách thành phố thuộc các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, lao động – thương binh – xã hội, văn hóa – thể thao – du lịch, khoa học – công nghệ và thông tin – truyền thông); Phòng Thông tin (quản lý nguồn vốn ngân sách thành phố thuộc lĩnh vực công nghệ – thông tin). Như vậy, các phòng đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo ngành lĩnh vực và chức năng quản lý nhà nước về nguồn vốn đối với các lĩnh vực phân công; chỉ phân quản lý theo lĩnh vực chứ không phân quản lý theo các loại nguồn vốn (trong nước, nước ngoài, ngân sách, ngoài ngân sách hay PPP) tức là nguồn vốn đó thuộc lĩnh vực nào thì phòng được phân công phụ trách chủ trì cân đối, quản lý. Với cơ cấu tổ chức này quá trình đầu tư công sẽ phù hợp và sát đúng với định hướng phát triển ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, nó cũng chỉ thích hợp với những địa phương có nguồn vốn lớn, nhiều dự án đầu tư thuộc nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau. Đối với những địa phương nhỏ thì cơ cấu tổ chức quản lý này quá cồng kềnh và lãng phí lớn về nhân lực, vật lực của nhà nước. [2]
1.2.4. Bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Trong quá trình phát triển, các nước đều không ngừng nghiên cứu hoàn thiện cơ sở pháp lý, chính sách về sử dụng vốn nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với hoàn cảnh từng giai đoạn phát triển.
Kinh nghiệm rút ra cho thấy, đối với một tỉnh nghèo, đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ như Quảng Trị nói riêng, cần phải có một hệ thống văn bản pháp lý đủ mạnh, một quy trình quản lý đầu tư công chặt chẽ, hiệu quả để quản lý quá trình đầu tư công một cách toàn diện và hiệu quả. Bởi lẽ, đầu tư công đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của địa phương, đầu tư công là động lực chủ chốt cho sự tăng trưởng và phát triển của tỉnh, đầu tư công tạo dựng nên cơ sở hạ tầng xã hội, hỗ trợ hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế. Là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của chính quyền địa phương, với mục đích tạo ra lợi ích trong tương lai, đầu tư công thường chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng đầu tư, chi tiêu của xã hội.
Để quản lý đầu tư công đạt hiệu quả, cần có các yếu tố sau đây:
Một là, có quy hoạch và chiến lược đầu tư hoàn chỉnh. Tất cả các dự án đầu tư công đều phải nằm trong quy hoạch đã được duyệt mới được chuẩn bị đầu tư. Các ngành, địa phương căn cứ vào các quy hoạch phát triển đã được duyệt để đề xuất, xây dựng kế hoạch đầu tư và danh mục các dự án đầu tư. Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý đầu tư công từ nguồn vốn NSNN
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước […]
[…] ===>>> Luận văn: Quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước […]