Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Công tác quản lý đội ngũ giáo viên hiện nay là một vấn đề quan trọng, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, pháp luật liên quan đến phát triển giáo dục nhằm tạo ra những chuyển biến về chất lượng đào tạo trong đó có một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục – đào tạo trong thời kỳ đổi mới “…Tại Đại hội X, Đảng chủ trương: Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Có những điểm cần chú ý: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở – mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục. Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Khẩn trương điều chỉnh, khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông bảo đảm tính khoa học, cơ bản, phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kết hợp việc tổ chức phân ban với tự chọn ở trung học phổ thông trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân luồng từ trung học cơ sở. Bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng phổ cập giáo dục…” (Nghiêm Đình Vỳ, 2017).

Thực hiện mục tiêu đổi mới trong công tác giáo dục hiện nay Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, pháp luật liên quan đến phát triển giáo dục nhằm tạo ra những chuyển biến về chất lượng đào tạo trong đó Chỉthi 40̣-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đa ̃chỉ rõ muc̣ tiêu xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được Hội nghị Trung Ương 8 (Khóa XI) Thông qua. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”. Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính phủ Việt Nam đã xác định mục tiêu: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện,…” Trong đó việc nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên luôn là yêu cầu, là đòi hỏi hết sức cấp thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục – đào tạo trong Trung tâm Giáo dục Thường xuyên hiện nay đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định chất lượng. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Trong giai đoạn hiện nay phát triển giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định của mỗi quốc gia, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế thì vấn đề đặt ra cho mỗi người cần phải làm gì để đáp ứng được sự phát triển đó. Có rất nhiều nguồn lực trong xã hội, trong đó nguồn lực con người càng cần trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Sự phát triển đòi hỏi trong giáo dục chú trọng đến chương trình học, đội ngũ giáo viên, năng lực sư phạm và đổi mới trên tất cả các mặt: nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức…Để Trung tâm GDTX có vị trí vững vàng trong hệ thống giáo dục quốc dân và có mô hình Trung tâm GDTX phát triển bền vững thì cần phải có sự quan tâm của Nhà nước, ngành giáo dục và của cả cộng đồng. Chúng ta đều biết mục tiêu của GDTX là giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học tập, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.

Trước sự vận động phát triển không ngừng của xã hội, sự thay đổi nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư cách mạng 4.0, đồng thời đứng trước những yêu cầu đòi hỏi mới về tổ chức quản lý trung tâm trong bối cảnh hiện nay đã đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới cho hệ thống giáo dục trong đó việc nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên luôn là yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục – đào tạo trong Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương hiện nay.

Thời gian qua, công tác quản lý đội ngũ giáo viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương bên cạnh các mặt tích cực vẫn còn tồn tại những bất cập như: Công tác quy hoạch, tuyển dụng giáo viên, công tác sử dụng giáo viên, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, các cơ chế chính sách đối với giáo viên, kiểm tra đánh giá. Do đó, việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên không chỉ là vấn đề mang tính lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với sự phát triển giáo dục của nước ta trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.

Với những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay” để tìm ra mặt mạnh, mặt hạn chế và đề xuất biện pháp phù hợp nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên của trung tâm trong thời gian tới.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về quản lý, quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, đề tài khảo sát đánh giá thực trạng quản lý ĐNGV của hai khối DVH và GDHN tại trung tâm Giáo dục Thường xuyên trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý ĐNGV trung tâm GDTX trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý nhân sự tại Trung tâm Giáo dục Thường xuyên.

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý đội ngũ giáo viên tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương.

4. Giả thuyết khoa học

Quản lý đội ngũ giáo viên tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương bên cạnh các mặt tích cực vẫn còn tồn tại những bất cập, trong việc quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.., việc khảo sát đúng thực trạng quản lý ĐNGV ở hai khối DVH và GDHN của Trung tâm để từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý cần thiết, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý ĐNGV trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về việc quản lý ĐNGV ở Trung tâm Giáo dục thường xuyên

5.2. Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý ĐNGV hai khối DVH và GDHN tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương hiện nay

5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý ĐNGV Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương.

6. Phạm vi nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu sản phẩm của công tác quản lý nguồn lực trong 3 năm học từ năm 2015 đến 2016, từ năm 2016 đến 2017 và từ năm 2017 đến 2018.

6.1. Giới hạn khách thể nghiên cứu:

Về cán bộ quản lý: cán bộ quản lý của 2 khối DVH và GDHN tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh

Về giáo viên: chỉ nghiên cứu trên mẫu 80 giáo viên của 2 khối DVH và GDHN tại Trung tâm (mỗi khối chỉ chọn điều tra theo mẫu ngẫu nhiên 40 giáo viên). Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

6.2. Giới hạn nội dung nghiên cứu:

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung trong quản lý đội ngũ giáo viên như: công tác quy hoạch, công tác tuyển dụng, công tác sử dụng, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở hai khối DVH và GDHN của Trung tâm. Các cơ chế chính sách đối với giáo viên, kiểm tra đánh giá đội ngũ giáo viên dưới sự điều hành, lãnh đạo của giám đốc trung tâm.

7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

 7.1 Cách tiếp cận:

Trong quá trình nghiên cứu, các quan điểm phương pháp luận được vận dụng làm cơ sở để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài là phối hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu dưới đây

7.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc:

Bằng việc nghiên cứu hệ thống các văn kiện của Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục về đường lối, chính sách phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục thường xuyên nói riêng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến quản lý và quản lý ĐNGV. Phương pháp này được sử dụng với mục đích chỉ ra các cơ sở lý luận chủ yếu về hoạt động quản lý ĐNGV. Thông qua việc nghiên cứu, quan điểm hệ thống – cấu trúc giúp người nghiên cứu tìm hiểu chính xác thực trạng công tác quản lý ĐNGV ở 2 khối DVH và GDHN của Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương

7.1.2. Quan điểm lịch sử – logic:

Tiếp cận quan điểm bối cảnh – logic giúp người nghiên cứu xác định được không gian, thời gian và điều kiện hoàn cảnh cụ thể để điều tra, thu thập số liệu chính xác, đúng với mục đích nghiên cứu đề tài và trình bày công trình nghiên cứu theo trình tự logic phù hợp. Bằng việc người viết quan sát, tìm hiểu sự hình thành và phát triển của công tác quản lý ĐNGV nói chung, quản lý ĐNGV trung tâm GDTX nói riêng trên thế giới, tại Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Quan điểm này giúp người nghiên cứu xác định phạm vi bối cảnh cụ thể, để điều tra thu thập số liệu chính xác, đúng với mục đích nghiên cứu đề tài, trình bày công trình nghiên cứu theo một trình tự hợp lý.

7.1.3. Quan điểm thực tiễn: Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Nghiên cứu quản lý ĐNGV hiện nay ở 2 khối DVH và GDHN của Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương xuất phát từ thực tiễn của công tác quản lý ĐNGV trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương để tìm ra những tồn tại, khó khăn trong công tác quản lý ĐNGV ở 2 khối DVH và GDHN trong giáo dục hiện này, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý ĐNGV phù hợp với thực tiễn.

7.2. Phương pháp nghiên cứu

7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích, so sánh, khái quát hóa và tổng hợp các công trình nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu lý luận phục vụ cho vấn đề nghiên cứu đề tài như lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý ĐNGV. thông tin trên mạng Internet có liên quan đến việc thực hiện đề tài

Phân loại hệ thống hóa các tài liệu lý luận có liên quan đến công tác quản lý ĐNGV, đặc biệt là trong Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương.

7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tế

Bằng việc sử dụng một số thuật toán, phần mềm tin học, nhóm phương pháp này nhằm mục đích xử lý các kết quả điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu.

7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Mục đích điều tra: người viết sử dụng phương pháp điều tra để thu thập số liệu, dữ liệu về công tác quản lý ĐNGV hiện nay ở 2 khối DVH và GDHN của Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương nhằm chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu khoa học.

Nội dung điều tra: Công tác quản lý ĐNGV ở 2 khối DVH và GDHN của Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương theo các nội dung quản lý ĐNGV như quản lý công tác quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và tạo động lực của người quản lý.

Cách thức điều tra: Người nghiên cứu sử dụng loại phiếu điều tra dành cho 2 đối tượng là cán bộ quản lý trung tâm và đội ngũ giáo viên. Mục đích nhằm khảo sát thực trạng thực hiện các nội dung quản lý, quản lý ĐNGV tại trung tâm GDTX. Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhằm tìm hiểu sự hưởng ứng, chấp hành các chính sách quản lý của ĐNGV, mong muốn của giáo viên với cán bộ quản lý của mình.

7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Mục đích phỏng vấn: nhằm khẳng định những vấn đề được trả lời trong phiếu điều tra và thu thập thêm thông tin cho những vấn đề còn chưa được trả lời rõ ràng trong số liệu điều tra viết.

Nội dung phỏng vấn: một số nội dung về chất lượng ĐNGV và công tác quản lý ĐNGV của Ban Giám đốc ở TT GDTX tỉnh Bình Dương hiện nay.

Cách thức phỏng vấn: Người viết đã chọn mẫu và phỏng vấn một số CBQL và một số GV làm công tác quản lý là TTCM ở 2 khối DVH và GDHN của TT GDTX tỉnh Bình Dương. Số lượng mà người nghiên cứu phỏng vấn bao gồm: 6 CBQL và 9 GV là TTCM đang giảng dạy ở 2 khối. Số liệu phỏng vấn sẽ dùng vào việc đối chiếu, so sánh để làm rõ kết quả điều tra về quản lý ĐNGV ở TT GDTX tỉnh Bình Dương hiện nay.

7.2.2.3. Phương pháp phân tích hồ sơ, sản phẩm hoạt động quản lý

Nghiên cứu sản phẩm của công tác quản lý nguồn lực bao gồm: kế hoạch năm học, kế hoạch chuyên môn, báo cáo, biên bản và các quyết định tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương.

7. 3. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phần mềm SPSS để phân tích và xử lý số liệu nhằm định lượng kết quả nghiên cứu.

8. Ý nghĩa khoa học của đề tài và đóng góp thực tiễn

8.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài

Trong những năm gần đây việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục – đào tạo trong các Trung tâm GDTX luôn được quan tâm, nhất là việc xây dựng và quản lý ĐNGV. Các chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục đã xác định đúng vị trí vai trò của ĐNGV và tầm quan trọng trong phát triển, xây dựng quản lý ĐNGV trong Trung tâm GDTX, đã xác định được yếu tố then chốt trong nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục đó là cần xây dựng và phát huy nguồn nhân lực, xác định ĐNGV là trung tâm của sự phát triển.

Do vậy trong hoạt động giáo dục Trung tâm GDTX luôn chú trọng đến việc xây dựng quản lý và phát huy ĐNGV luôn đặt yếu tố con người làm động lực phát triển. Đồng thời phát huy cao độ các nguồn tài lực, vật lực để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục – đào tạo của trung tâm. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

8.2. Đóng góp thực tiễn:

Giúp cho người quản lý hiểu biết và thực hiện các công tác xây dựng và quản lý đội ngũ giáo viên ở Trung tâm trong tình hình hiện nay cần phải được “kế hoạch hóa trong xây dựng – quản lý” theo hướng đổi mới, nhằm đáp ứng tốt nhất mục tiêu, yêu cầu đào tạo ĐNGV, cán bộ các cấp, các phòng ban của trung tâm trong tình hình mới. Tập trung xây dựng, tổ chức đủ biên chế đội ngũ giáo viên, đảm bảo số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục – đào tạo. Cần có giải pháp đột phá, hiệu quả trong chính sách, chế độ, với các cán bộ giáo viên trung tâm.

Nâng cao trình độ khai thác, sử dụng và quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị về mọi mặt cho đội ngũ giáo, CBQL chuyên môn trong trung tâm như: “Năng lực về pháp luật, năng lực về quản lý tổ chức, năng lực về quản lý thông tin và môi trường …” tích cực hơn nữa trong việc tự khai thác và phát huy đội ngũ giáo viên. Có cơ chế, quy chế quản lý, giám sát chặt chẽ quyết định trong quá trình đào tạo, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các hiện tượng vi phạm

9. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung gồm 3 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên trong bối cảnh đổi mới giáo dục
  • Chương 2: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
  • Chương 3: Biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN TRONG BỐI CẢCH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Ở nước ngoài

Quản lý đội ngũ giáo viên được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm nghiên cứu như công tác tổ chức và triển khai quản lý hệ thống giáo dục ở mỗi nước phản ánh quan điểm, định hướng chiến lược cho sự đổi mới phát triển nhân lực, luôn được gắn liền với nội dung phát triển đội ngũ giáo viên, để cụ thể về những quan điểm khác nhau của các tác giả trên thế giới thường gắn với nghiên cứu tổng thể giáo dục, cải cách giáo dục ở các nước phát triển. Điều này đã được chứng minh ở nhiều nước có nền giáo dục phát triển. Những khái niệm về đánh giá chất lượng giáo dục, quy trình tiếp cận, công cụ đo cũng như việc sử dụng các kết quả đánh giá. Từ những khái niệm về đánh giá chất lượng nói chung, sẽ đi nghiên cứu thực tiễn đánh giá chất lượng giảng dạy. Trên cơ sở đó sẽ rút ra những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu trên từ đó xây dựng bộ tiêu chí đánh giá. Trong đề tài này, người viết muốn đề cập đến đội ngũ giáo viên trong chương trình giáo dục của một số quốc gia trên thế giới:

  • Singapore Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Singapore, mọi hoạt động đào tạo và phát triển giáo viên của Singapore hiện nay đều hướng tới chiến lược “Đào tạo giáo viên cho thế kỉ 21”. Điểm nổi bật và cũng là kinh nghiệm quý cho nhiều nước trong bồi dưỡng và phát triển năng lực nghề cho giáo viên của Singapore là hoạt động bồi dưỡng của giáo viên xuất phát từ nhu cầu nâng cao tay nghề, phát triển nghề nghiệp của giáo viên và gắn với hoạt động thực tiễn của giáo viên thông qua các hình thức hoạt động đa dạng:

Bồi dưỡng tại chỗ (tại trường phổ thông); bồi dưỡng thông qua nghiên cứu cải tạo thực tiễn, thông qua hoạt động nghiên cứu bài học và thông qua sinh hoạt chuyên môn của cộng đồng giáo viên, cũng như qua nhiều hình thức bồi dưỡng khác với mục tiêu phát triển năng lực giáo viên liên tục, bền vững.

Dưới đây là một vài điểm liên quan tới tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Singapore do Phan Trọng Ngọ (Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) chia sẻ về mạng lưới học tập.

Theo Phan Trọng Ngọ: Công việc bồi dưỡng nâng cao và phát triển năng lực giáo viên ở Singapore do các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng giáo viên đảm nhận. Cụ thể là do Viện Giáo dục Quốc gia, Học viện Giáo viên Singapore và các viện giáo dục khác cùng kết hợp với các cơ sở giáo dục, nơi giáo viên đang làm việc.

Viện Giáo dục Quốc gia (NIE) là đơn vị chính tổ chức các khóa học và chương trình nhằm nâng cao năng lực giáo dục cho giáo viên trẻ, nâng cao năng lực lãnh đạo cho giáo viên nhiều kinh nghiệm, và nâng cao năng lực lãnh đạo cho các trưởng phòng, phó hiệu trưởng và hiệu trưởng. Đây cũng là cơ sở duy nhất cung cấp các chương trình đào tạo giáo viên ở Singapore và là một trong những đơn vị phụ trách chính trong công tác phát triển chuyên môn cho giáo viên và các bên liên quan khác.

Viện Giáo dục Quốc gia tổ chức các khóa học ngắn và độc lập về phát triển chuyên môn cho giáo viên các môn học. Các khóa học chủ yếu tập trung vào nội dung môn học, phát triển chương trình giảng dạy, giáo dục học, đánh giá, và việc học tập của học sinh. Hầu hết các khóa học đều cấp chứng chỉ bồi dưỡng và hướng đến trình độ chuyên môn cao.

Ngoài Học viện Giáo viên, năm 2011, Singapore còn thành lập một số học viện (trung tâm) khác, có chức năng tương tự, như Học viện Giáo viên Giáo dục Thể chất giúp phát triển chuyên môn của giáo viên thể chất cũng như phát triển công tác giáo dục thể chất; Học viện Ngôn ngữ Anh Singapore nhằm mục đích phát triển và thúc đẩy việc dạy và học tiếng Anh tại các trường học của Singapore và cung cấp dịch vụ phát triển chuyên môn cho giáo viên tiếng Anh. Việc học của giáo viên được hỗ trợ bởi “một cổng thông tin cho tất cả người học”, một diễn đàn trực tuyến với nhiều kho quản lý nội dung có chứa thông tin và tài liệu học tập hữu ích. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Các cách thức bồi dưỡng, phát triển chuyên môn cho giáo viên theo Phan Trọng Ngọ cho biết: Hoạt động bồi dưỡng giáo viên tại Singapore được thực hiện theo nhiều hình thức phong phú: tăng cường hợp tác, tham gia các hội thảo và các khóa học; giới thiệu những người có khả năng làm việc tốt; nghỉ phép để học tập nâng cao trình độ; nghiên cứu và công bố các công trình; học tập hợp tác; nghiên cứu và quan sát, tìm tòi; chia sẻ thực tiễn kinh nghiệm; trở thành thành viên của các ban, các tổ chức, các nhóm công việc liên quan đến giáo dục.

Dưới đây là một số phương thức phổ biến được Phan Trọng Ngọ chia sẻ:

Thứ nhất: Phát triển chuyên môn dựa vào nhà trường: Các cộng đồng học tập chuyên môn. Có thể nói đây là phương thức điển hình, hiệu quả và rất đáng được học tập trong việc phát triển nghề nghiệp giáo viên ở Singapore. Dưới sự điều hành của lãnh đạo nhà trường và sự hỗ trợ của các học viện, các cộng đồng học tập chuyên môn cung cấp cho giáo viên nguồn lực để tham gia vào các hoạt động phát triển chuyên môn khác nhau như nghiên cứu hoạt động, nghiên cứu bài học và một phạm lớn về các vòng tròn học tập tập trung vào các chủ đề khác nhau. Các nhóm đồng nghiệp học và cộng tác cùng nhau được gọi là “nhóm học tập”.

Những nhóm này thường hoàn thành công việc của họ trong các khoảng thời gian được bảo hộ gọi là “khoảng trắng”. Các trường thuộc Bộ Giáo dục được khuyến khích cung cấp ít nhất một giờ học mỗi tuần để giáo viên tích cực tham gia vào các cải cách phát triển chuyên môn dựa trên nhà trường. Các nhóm học tập thường lên kế hoạch cho khoảng 8-10 buổi học, mỗi buổi kéo dài 2 giờ trong suốt cả năm học. Thời gian làm việc này được ghi nhận trong sự đánh giá của các giáo viên, đóng góp vào 100 giờ trong quyền được bồi dưỡng hàng năm.

Thứ hai: Câu lạc bộ/Nhóm phát triển chuyên môn. Ở cấp trường, giáo viên có cơ hội chia sẻ, cộng tác và cùng phát triển những cách thức giảng dạy tốt hơn. Ví dụ, giáo viên được tham gia vào các Câu lạc bộ/ nhóm phát triển chuyên môn để phát triển các mảng khác nhau như: lên kế hoạch bài học, chỉnh sửa tài liệu giảng dạy, các chiến lược giảng dạy và thực hiện đánh giá.

Các chuyên đề của Học viện Giáo viên Singapore hỗ trợ câu lạc bộ/ nhóm phát triển chuyên môn trong các trường học bằng cách cung cấp các nguồn tài liệu và các yếu tố chỉ đạo trong các môn học hay chuyên đề của họ. Họ cũng xác định và chia sẻ các phương pháp sư phạm tốt trong trường học.

Thứ ba: Các phương thức học tập nâng cao trình độ của giáo viên. Bên cạnh các phương thức bồi dưỡng và phát triển giáo viên có tính thường nhật và gắn với hoạt động thực của giáo viên như trên, giáo viên có thể tận dụng nhiều phương thức học tập khác nâng cao trình độ của mình như hội thảo, cố vấn, thực hiện dựa trên nghiên cứu, học tập thông qua mạng.. (Phan Trọng Ngọ, Hải Bình(GD&ĐT), 2018)

  • Nhật Bản Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Theo học giả “Catherine Lewis (Đại học Mills, Oakland, California) – người có nhiều năm nghiên cứu về giáo dục Nhật Bản: “Cả hệ thống giáo dục của Nhật Bản được lập ra để nhấn mạnh vai trò của những người thầy”. Họ được kỳ vọng sẽ cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện sứ mệnh dạy dỗ những đứa trẻ trở thành những công dân gương mẫu. Người giáo viên Nhật Bản luôn nhận được sự kính trọng của mọi người… Hệ thống giáo dục chú trọng bồi dưỡng giáo viên mới “…Phần lớn các giáo viên Nhật Bản sở hữu ít nhất một bằng cử nhân. Ngoài bằng cử nhân theo chương trình mà sinh viên theo học, để có được giấy chứng nhận giáo viên, sinh viên phải vượt qua kỳ thi nghiêm ngặt, đáp ứng yêu cầu của Bộ Giáo dục – Văn hoá – Thể Thao – Khoa học và Công nghệ (MEXT) và phải có trong tay nhiều chứng chỉ dạy học”.

Ở Nhật Bản, mỗi tỉnh (chính quyền địa phương) có Ủy ban giáo dục riêng. Các giáo viên không được thuê giảng dạy bởi các trường riêng lẻ mà bởi các tỉnh. Sau thời gian thực tập, sinh viên mới tốt nghiệp tiếp tục phải vượt qua kỳ thi tuyển gồm nhiều bài kiểm tra theo quy định của Ủy ban giáo dục địa phương. Các bài kiểm tra này bao gồm bài kiểm tra năng lực, phỏng vấn hoặc bài luận, kiểm tra kiến thức môn học, kiến thức sư phạm… Sau khi vượt qua các bài kiểm tra, sinh viên mới tốt nghiệp cũng không “tự động” được thuê giảng dạy ngay ở trường học mà được xếp hạng dựa theo mức điểm thi đạt được. Những thí sinh có điểm thi cao sẽ được tỉnh thuê giảng dạy tại các trường học, thí sinh chưa được chọn sẽ tiếp tục dự thi vào năm sau.

Để bắt đầu sự nghiệp giảng dạy, giáo viên mới phải trải qua thời gian một năm “làm quen” với công việc. Trong thời gian này, giáo viên mới sẽ được giám sát bởi một giáo viên lâu năm hơn – có vai trò như một cố vấn. Giáo viên mới và cố vấn của mình sẽ làm việc cùng nhau, trao đổi các vấn đề về quản lý lớp học, hướng dẫn môn học, lên kế hoạch và phân tích phương pháp giảng dạy trên lớp.

Việc lựa chọn giáo viên đảm nhận vai trò cố vấn rất đa dạng, tùy theo tiêu chuẩn của từng tỉnh và mỗi trường. Dựa theo kết quả trong năm đầu tiên, một giáo viên mới có thể được tỉnh thuê giảng dạy và nhận được tất cả các phúc lợi mà giáo viên được hưởng.

Cứ 3 năm một lần hoặc trong thời gian đầu của sự nghiệp (sau đó có ít thay đổi hơn), các giáo viên được điều chuyển tới dạy học ở một ngôi trường khác. Điều này không chỉ giúp học sinh ở các khu vực khác nhau có thể tiếp cận được với các giáo viên giỏi mà còn giúp nâng cao năng lực giảng dạy của giáo viên. Các giáo viên trẻ sẽ có cơ hội thể hiện năng lực của mình trước các giáo viên có kinh nghiệm trong nhiều môi trường khác nhau, đồng thời được học hỏi và tương tác nhiều với các đồng nghiệp. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Liên tục phát triển chuyên môn

Việc phát triển chuyên môn giảng dạy liên tục là một yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên Nhật Bản. Các chương trình phát triển chuyên môn được xây dựng từ cấp trường đến cấp quốc gia.

Ở cấp địa phương, các Ủy ban giáo dục sẽ xác định số giờ phát triển chuyên môn hàng năm tối thiểu cho giáo viên, lên kế hoạch đào tạo và cung cấp các chương trình đào tạo đặc biệt cho giáo viên. Ở cấp độ quốc gia, MEXT sẽ tổ chức các buổi gặp mặt, trao đổi kiến thức, phương pháp, kỹ năng cho các giáo viên chủ nhiệm và người giữ vai trò quản lý trường học.

Từ năm 2009, các giáo viên Nhật Bản có thêm yêu cầu phải cập nhật các kỹ năng và thực tiễn giảng dạy của mình cứ 10 năm một lần nhằm làm mới các chứng chỉ giảng dạy của họ. Điều này bao gồm việc tham gia ít nhất 30 giờ thuộc chương trình phát triển chuyên môn chính thức. Cùng với các chương trình theo quy định, giáo viên Nhật Bản cũng học hỏi phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghiệp thông qua các buổi gặp mặt gồm nhiều giáo viên có kinh nghiệm để trao đổi về các yêu cầu dạy học, nghiên cứu và sáng tạo cách thức giảng dạy. Từ buổi gặp mặt trao đổi, một giáo viên trong nhóm sẽ thực hiện bài giảng này trên lớp, với sự tham gia dự giảng của các giáo viên còn lại. Sau tiết giảng, nhóm sẽ tiếp tục thảo luận, phản hồi và đưa ra những điều chỉnh để hoàn thiện bài giảng hơn. Các chương trình này giúp cải thiện một cách hiệu quả phương pháp học tập cho cả giáo viên và học sinh.

Phát triển và bồi dưỡng các lãnh đạo trường học cấp độ quốc gia, MEXT xây dựng chương trình đào tạo về việc quản lý, điều hành trường học hiệu quả và đưa xuống các Ủy ban giáo dục địa phương, trường học và các viện đào tạo công lập. Chương trình là những nguyên tắc cho các lãnh đạo từ “cấp trung” như hiệu phó và các giáo viên hàng đầu.

Tại cấp tỉnh, các điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành một lãnh đạo trường học được đưa ra cụ thể tùy theo mỗi địa phương, đa số đều có yêu cầu cả về độ tuổi và kinh nghiệm giảng dạy. Các tỉnh cũng chịu trách nhiệm phát triển, bồi dưỡng và khuyến khích các lãnh đạo tài năng.

Hệ thống điều chuyển nhân sự ngành sư phạm của Nhật Bản cũng là một phần trong chương trình phát triển và bồi dưỡng lãnh đạo trường học.

Không chỉ được điều chuyển đến trường học mới giảng dạy, các giáo viên dạy tốt và có nhiều năm kinh nghiệm có thể được điều chuyển làm công việc quản lý trường học, bao gồm cả làm việc trong Ủy ban giáo dục địa phương với kỳ vọng sẽ đóng góp những kinh nghiệm quý báu của mình vào kế hoạch giáo dục chung của tỉnh. Sau một vài năm đảm nhiệm vị trí quản lý này, giáo viên sẽ được điều chuyển về giữ các vị trí lãnh đạo trong trường học.

Việc điều chuyển nhân sự giúp các giáo viên có thêm những kinh nghiệm trong quản lý công, quản lý trường học, từ đó có được tầm nhìn và xây dựng các chính sách giáo dục phù hợp.

Nghề giáo có truyền thống được trả lương cao Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Sau Chiến tranh Thế giới II, lo lắng về việc thiếu hụt giáo viên, Thủ tướng Nhật đã đưa ra chính sách trả lương cho giáo viên cao hơn 30% so với các công chức khác. Mặc dù khoảng cách về lương đã giảm nhiều trong hàng chục năm qua nhưng lương của giáo viên Nhật Bản vẫn ở mức cao trong giới công chức. Những giáo viên làm việc nhiều năm và ở vị trí chuyên môn cao có thu nhập đứng vào hàng “top” trong xã hội.

Theo khảo sát của Bộ Y tế – Lao động và Phúc lợi Nhật Bản về mức thu nhập của các ngành nghề được công bố năm 2014, trong top 20 ngành nghề có mức thu nhập cao nhất, có 4 vị trí giảng dạy của giáo viên là: giáo sư đại học, phó giáo sư đại học, giảng viên đại học và giáo viên trung học… Sự thành công trong việc đầu tư xây dựng, bồi dưỡng và đãi ngộ đối với giáo viên là một trong những nguyên nhân then chốt khiến Nhật Bản trở thành một trong những nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới. Với truyền thống tôn sư trọng đạo, việc trở thành giáo viên còn được người.

Nhật xem là cách để gia tăng vị thế xã hội cho bản thân và gia đình. Người Nhật quan niệm rằng thầy cô là những người hy sinh rất nhiều cho xã hội, là người không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn giúp định hình nhân cách cho học trò, do vậy ở mọi thời điểm và trong mọi hoàn cảnh, người giáo viên Nhật Bản luôn nhận được sự kính trọng và biết ơn của xã hội. (Hải Linh, 2018)

  • Cộng hòa Liên bang Đức

Một số thông tin chung về giáo dục của Cộng hòa Liên bang Đức: “…Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia có chế độ Liên bang, phân quyền. Mỗi bang có một bộ giáo dục, hệ thống giáo dục và các luật giáo dục riêng. Bộ giáo dục và nghiên cứu Liên bang, Hội nghị các bộ trưởng văn hoá giáo dục (KMK) và Ủy ban Liên bang – bang có nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất cần thiết.

Theo quy định của hiến pháp, toàn bộ ngành giáo dục chịu sự quản lý của nhà nước. Quyền thành lập các trường ngoài công lập được đảm bảo thông qua những quy chế riêng. Giáo dục là bao cấp của nhà nước và được quy định trong hiến pháp về quyền con người. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, mỗi tiểu bang có quyền quyết định về chính sách giáo dục của bang, chính quyền Liên bang không quyết định chính sách giáo dục chung trên toàn quốc. Để đảm bảo có sự thống nhất và liên thông trên toàn quốc, hội nghị bộ trưởng giáo dục các bang (gọi tắt là KMK) sẽ quy định những điểm chung nhất cho giáo dục của các bang. Mặt khác, tất cả các quyền dành cho các cơ sở giáo dục đều phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và phải được công khai. Nghĩa vụ học phổ thông kéo dài 9 hoặc 10 năm đến trường tùy theo bang. Nghĩa vụ học nghề tiếp theo là 3 năm, bắt đầu sau khi kết thúc nghĩa vụ đi học phổ thông nếu không học tiếp đại học. Chương trình giáo dục phổ thông do các bang quyết định. Ở bình diện Liên bang ban hành chuẩn giáo dục các môn học ở các cấp học. Các bang ban hành chương trình khung riêng cho bang, là cơ sở để các trường xây dựng chương trình dạy học riêng phù hợp với đặc thù của trường. Sách giáo khoa do các nhà xuất bản tổ chức biên soạn dựa trên các chương trình đào tạo và sau khi được bộ giáo dục thẩm định thì các trường và giáo viên có thể tự chọn sách giáo khoa cho mỗi môn học. Không có một hệ thống giáo dục chung trên toàn Liên bang Đức, mà mỗi bang lại có một hệ thống giáo dục riêng. Tuy nhiên, giáo dục phổ thông Đức của Cộng hòa liên bang có thể chia như sau:

Bậc Tiểu học thường kéo dài đến hết lớp 6, ở bậc này HS học chung nhau và sau khi hết lớp 6 thì có thể học theo các hướng khác nhau. Nói chung HS không có lưu ban. Đến bậc Trung học, Đức nói chung và bang Brandenburg nói riêng chia bậc Trung học thành Trung học 1 và trung học 2 (tương đương với THCS và THPT của Việt Nam) học sinh có thể tham gia vào học một trong 3 loại hình trường. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Trung học Gymnasium: là loại trường định hướng khoa học, trường này thường dành cho các học sinh có năng lực học tập, học sinh học tại các trường này hầu hết sẽ vào học tại các trường Đại học sau khi tốt nghiệp Trung học.

Trung học nghề: Đây là loại hình trường chiếm số lượng khá lớn của bang, học sinh học tại các trường này sẽ có định hướng vào học các trường nghề ở bậc học tiếp theo. Trong các loại hình trường này, học sinh học nhẹ hơn về kiến thức khoa học nhưng số tiết học nghề trong mỗi tuần là khá lớn.

Trung học hỗn hợp: Đây là loại hình trường kết hợp giữa trường trung học Gynasium và trường nghề. Trường này thường dành cho các học sinh có thể vào học tại các trường Đại học (sau khi học bổ sung một số kiến thức) hoặc học tại các trường kĩ thuật cao.

Hệ thống giáo dục sau phổ thông của Cộng hòa Liên bang Đức cũng khá phức tạp, do trong bài viết này trọng tâm vào những kinh nghiệm trong đào tạo GV tại Cộng hòa Liên bang Đức chỉ phân tích những điểm cốt yếu của hệ thống GD phổ thông của Đức, nền tảng cho việc đào tạo GV. Tổng thể về hệ thống giáo dục của Cộng hòa Liên bang Đức có thể tìm hiểu trong tài liệu. (Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường. 2015).

Như vậy, hệ thống giáo dục của Cộng hòa Liên bang Đức là một hệ thống được phân chia rõ ràng dựa vào năng lực của người học; Học sinh nào có khả năng học tốt thì có thể học tại các trường Gynasium còn lại học sinh sẽ học tại các trường phổ thông định hướng nghề hoặc các trường hỗn hợp. Trong GD, người ta nói sự phân hóa thành các loại hình như trên là dựa vào trình độ của học sinh và sự phân hóa này giúp cho HS có thể phát triển tốt năng lực của bản thân. Tuy nhiên, về bản chất thì sự phân hóa này bị ảnh hưởng từ sự phân hóa giai cấp giàu nghèo trong xã hội Đức. Một thực tế cho thấy hầu hết các học sinh học tại các trường Gynnasium đều là con em các gia đình giàu có hoặc con em của các gia đình mà bố mẹ là viên chức nhà nước, con em có bố mẹ là người lao động thì cơ hội học tập ở các trường này là rất ít. PISA đã phê phán nước Đức rất nhiều về sự phân hóa này, vì không đảm bảo sự công bằng trong giáo dục. (Nguyễn Văn Cường, Cao Thị Hà, Nguyễn Danh Nam, 2015)

Có thể coi định hướng chuẩn và năng lực là một định hướng cơ bản trong cải cách giáo dục nói chung và cải các đào tạo GV nói riêng tại Cộng hòa Liên bang Đức. Ở nước này, chuẩn đào tạo GV được sử dụng như một công cụ để đảm bảo chất lượng đào tạo theo định hướng năng lực. Chuẩn tạo ra sự rõ ràng về mục tiêu và nền tảng cho việc kiểm tra có hệ thống việc đạt mục tiêu. Ngày 16.12.2004 Hội nghị Bộ trưởng văn hoá giáo dục (KMK) đã ký “Thoả thuận về Chuẩn đào tạo GV – Khoa học giáo dục”. Chuẩn này trình bày những năng lực trong khoa học giáo dục có ý nghĩa đặc biệt đối với đào tạo nghề nghiệp và cuộc sống nghề nghiệp thường nhật và có thể kết nối với bồi dưỡng giáo viên đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo GV bao gồm cả các phần đào tạo thực tiễn và đào tạo GV tập sự ở các bang. (Nguyễn Văn Cường, Cao Thị Hà, Nguyễn Danh Nam, 2015). Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Chuẩn đào tạo GV được xây dựng dựa trên mô hình năng lực nghề nghiệp giáo viên, trong đó bao gồm những lĩnh vực năng lực sau đây:

Lĩnh vực năng lực dạy học: GV là các chuyên gia về dạy và học. Lĩnh vực này gồm 3 năng lực:

  • Năng lực 1: GV lập kế hoạch dạy học phù hợp với chuyên môn, công việc, tiến hành nó khách quan và cụ thể về chuyên môn;
  • Năng lực 2: GV hỗ trợ việc học của học sinh qua việc tổ chức các tình huống học. Họ động viên học sinh và tạo cho chúng có năng lực thiết lập các mối liên hệ và vận dụng kiến thức đã học.
  • Năng lực 3: GV khuyến khích các khả năng tự quyết định học và làm việc của học sinh.
  • Lĩnh vực năng lực giáo dục, GV thực thi nhiệm vụ giáo dục của mình. Lĩnh vực này gồm 3 năng lực:
  • Năng lực 4: GV biết các điều kiện sống về xã hội, văn hóa của học sinh và tác động đến phát triển cá nhân của họ trong khuôn khổ nhà trường.
  • Năng lực 5: GV truyền đạt các giá trị và chuẩn mực và hỗ trợ việc đánh giá và hành động tự quyết của học sinh.
  • Năng lực 6: GV tìm ra các giải pháp tiếp cận cho những khó khăn và xung đột trong nhà trường và giờ học.

Lĩnh vực năng lực đánh giá: GV thực thi nhiệm vụ đánh giá của mình một cách công bằng và có ý thức trách nhiệm. Trong lĩnh vực này gồm 2 năng lực:

  • Năng lực 7: GV chẩn đoán các tiền đề và quá trình học tập của các học sinh; khuyến khích học sinh có mục đích và tư vấn người học và cha mẹ học sinh.
  • Năng lực 8: GV nắm bắt các thành tích của học sinh trên cơ sở các thước đo đánh giá minh bạch.
  • Lĩnh vực năng lực đổi mới /phát triển: GV liên tục phát triển tiếp tục các năng lực của mình. Trong lĩnh vực này gồm 3 năng lực:
  • Năng lực 9: GV ý thức được các yêu cầu đặc biệt của nghề giáo viên. Họ hiểu nghề mình như là một viên chức công với trách nhiệm và nghĩa vụ đặc biệt.
  • Năng lực 10: GV hiểu nghề của mình như là nhiệm vụ học thường xuyên.
  • Năng lực 11: GV tham gia vào việc lập kế hoạch và triển khai các dự án, dự định của nhà trường.

Nội dung những năng lực này được cụ thể hóa trong những tiêu chuẩn được mô tả trong tài liệu chuẩn.

Bồi dưỡng giáo viên ở Cộng hòa Liên bang Đức: là nhằm phục vụ cho việc bảo đảm, mở rộng và củng cố những kiến thức và khả năng tiếp thu được trong đào tạo và thực tiễn nghề nghiệp cũng như việc thích ứng về nội dung với các điều kiện khung và yêu cầu nghề nghiệp đang thay đổi. Việc bồi dưỡng giáo viên nhằm hỗ trợ các trường trong quá trình phát triển của mình và như vậy góp phần vào việc bảo đảm và phát triển chất lượng dạy học và quản lí trong nhà trường.

Nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng của các GV cũng được quy định trong luật nhà trường của một số bang. Theo mục 67 khoản 3 Luật nhà trường bang Brandenburg (BbgSchulG), giáo viên cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức và khả năng của mình và có thể đưa vào những biện pháp đào tạo nâng cao với mức độ phù hợp trong thời gian không có giờ dạy.

Có thể khái quát các chương trình bồi dưỡng GV ở ba bình diện sau đây tương ứng với các cơ quan chủ trì khác nhau:

Các chương trình bồi dưỡng GV cấp nhà nước (trung ương): Các chương trình bồi dưỡng này do các bang chủ trì, thông qua những đơn vị được ủy quyền. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Các chương trình bồi dưỡng GV địa phương: do cơ quan quản lý giáo dục các địa phương chủ trì. Các chương trình bồi dưỡng GV của trường.

Tương tự như vậy, về địa điểm diễn ra hoạt động bồi dưỡng cũng có các khóa bồi dưỡng ở các cơ sở trung ương, các khóa bồi dưỡng GV tại địa phương và bồi dưỡng GV tại trường. Sau đây trình bày hệ thống các chương trình bồi dưỡng GV ở bang Brandenburg. Các chương trình bồi dưỡng GV cấp nhà nước bao gồm:

Chương trình bồi dưỡng GV cho nội bộ trường (SchiLF), được tiến hành trong từng trường cho các giáo viên nhà trường. Các buổi đào tạo nâng cao nội bộ trường đi song song với quá trình phát triển trường được tiến hành trong khuôn khổ tự chịu trách nhiệm của nhà trường theo cách thức đặc biệt.

Các chương trình bồi dưỡng GV của các cơ quan giáo dục nhà nước (BUSS), là hệ thống tư vấn và hỗ trợ cho các trường và các cơ quan quản lý giáo dục nhà nước. Nó có nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ, đào tạo nâng cao, phối hợp, chăm sóc và tổ chức đối với phát triển dạy học và nhà trường và đồng thời phục vụ cho việc hỗ trợ các cơ quản lý giáo dục. Lực lượng giáo viên, các hội nghị chuyên môn, lãnh đạo nhà trường, các nhóm điều khiển trường và các đồng nghiệp trong trường nhận được sự tư vấn và hỗ trợ cơ bản qua hệ thống này… (Nguyễn Văn Cường, Cao Thị Hà, Nguyễn Danh Nam, 2015)

  • Australia

Mỗi bang và vùng lãnh thổ tại nước Australia đều chịu trách nhiệm về hệ thống giáo dục của mình, trong đó có nhiều điểm tương đồng giữa các bang về vấn đề bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Bang New South Wales là một ví dụ điển hình. Cải cách giáo dục mới của bang đã đưa quỹ bồi dưỡng cán bộ quản lý tại trường học vào hệ thống chính sách ưu tiên của bang. Điều này giúp bang có thể tái cấu trúc hệ thống quản trị và xây dựng các chính sách mới về giáo dục.

Một số vấn đề bồi dưỡng cán bộ quản lý trường phổ thông như xây dựng văn hóa trường học, bồi dưỡng kỹ năng quản lý và giúp cán bộ quản lý làm tốt vai trò lãnh đạo của mình. Chính quyền của các bang và vùng lãnh thổ khác của Australia cũng xây dựng những quy định riêng về bồi dưỡng thay vì những yêu cầu bắt buộc. Australia xây dựng chuẩn nghề nghiệp của GV và hiệu trưởng trường phổ thông. Một số bang sử dụng các bộ chuẩn này cho công tác tuyển chọn và bổ nhiệm

Khung chương trình và quy trình bồi dưỡng được phát triển bởi các trường đại học, các hiệp hội cán bộ quản lý, trung tâm cung ứng dịch vụ bồi dưỡng … Các khóa học được thiết kế theo thời gian học từ nửa ngày đến các chương trình đào tạo để cấp bằng thạc sỹ. Tất cả các khóa học đều được thiết kế thành các hoạt động theo chuỗi và không đơn giản chỉ là tham dự khóa học. Khóa bồi dưỡng được thiết kế linh hoạt thông qua nhiều hình thức khác nhau như: bài giảng thuyết trình, hướng dẫn, nhóm chuyên môn, nghiên cứu, hội thảo – hội nghị, hội nghị trực tuyến, tự bồi dưỡng.

Vùng lãnh thổ thủ đô của Australia có khung chương trình bồi dưỡng dành cho lãnh đạo và quản lý ở các trường phổ thông ban hành vào năm 2000. Khung chương trình gồm 5 mảng kiến thức chính là: quản lý chiến lược, tự quản lý, lãnh đạo, quản lý tổ chức và giao tiếp xã hội. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Khung này có thể được tiếp cận bởi đội ngũ cán bộ quản lý trên mạng internet, để họ có thể tự đánh giá và xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực của mình. Có một số hoạt động bồi dưỡng liên quan đến những lĩnh vực đặc biệt và yêu cầu bắt buộc phải được bồi dưỡng. Báo cáo hàng năm về hồ sơ bồi dưỡng của cán bộ được đưa ra vào cuối mỗi năm học. Việc bồi dưỡng cán bộ cơ sở giáo dục hướng vào việc bồi dưỡng nâng cao năng lực quản trị giáo dục. Tham chiếu để thực hiện nhiệm vụ quản lý dựa trên cơ sở chuẩn GV, đặc biệt là khung trình độ của các cấp đào tạo. Việc phân loại các trình độ kĩ năng khác nhau cần cho các ngành khác nhau để bảo đảm tính tương hợp giữa chúng và xác định được cấp đào tạo thích hợp.

Khung trình độ các loại nghề rất khác nhau được phân loại thành những cẫp độ kĩ năng rộng và sau đó những cấp độ này được sử dụng cho các mục đích đào tạo và để xác định mức lương và các điều kiện làm việc khác. Tại Australia và New zealand, có 8 cấp độ kết quả đã được xác định, từ chứng chỉ cấp mới vào nghề là cấp 1 đến cấp tiến sĩ là cấp 8. Việc bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục để cấp chứng chỉ và văn bằng đều được cấu trúc dựa theo cách tiếp cận lập kế hoạch – giảng dạy – đánh giá thông qua ba yếu tố: Thiết kế giảng dạy; Giảng dạy và Hỗ trợ; Đánh giá. Người học tham gia các hoạt động các kĩ năng mở rộng, chứng minh, đặt câu hỏi, quản lý lớp học và việc sử dụng các phương pháp và nguồn phục vụ giảng dạy. Một khi đã được tuyển dụng, giáo viên được yêu cầu vận dụng những hiểu biết và kĩ năng phát triển chương trình giảng dạy riêng với học sinh của họ. Ví dụ, một đơn vị học trình về lập kế hoạch có thể đòi hỏi sinh viên phát triển một chương trình cho nhóm học sinh mà sinh viên đó đang làm việc, và phải diễn giải bằng văn bản các quy trình phát triển, thực hiện và đánh giá chương trình. Đánh giá kết quả của học viên sẽ dựa trên bản viết mà họ thực hiện.

Chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý ở miền Tây Australia được xây dựng 5 năm gần đây. Trung tâm bồi dưỡng cán bộ quản lý của sở giáo dục đã hợp tác với trường đại học Murdoch và trường đại học Edith Cowan để xây dựng khung chương trình bồi dưỡng dựa trên bối cảnh trường học. Tại bang New South Wales, chương trình bồi dưỡng gồm một số hoạt động để cán bộ quản lý trường học lãnh đạo hiệu quả hơn. Sau đây là một số chương trình bồi dưỡng: Chương trình phát triển nhà trường và hiệu trưởng (hỗ trợ tập thể); Khóa học lãnh đạo nhóm (học theo nhóm tại trường học); Seminar về lãnh đạo trường học xuất sắc; Giấy chứng nhận quản lý và lãnh đạo trường học; Tư vấn và huấn luyện; Lãnh đạo hỗ trợ đồng nghiệp (hỗ trợ đồng nghiệp và lan tỏa); Chứng chỉ giảng dạy và học tập/Chất lượng dạy học và tài liệu học tập; Trao đổi hiệu trưởng ở các trường học khu vực nông thôn (trao đổi ngắn hạn). Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Các hình thức bồi dưỡng đa dạng, trong đó có cả việc tham quan, học tập kinh nghiệm từ trường khác giúp hiệu trưởng có thể sắp xếp thời gian bồi dưỡng hơn là tham gia các khóa học/chương trình bắt buộc. Tại bang Victoria, sở giáo dục và đào tạo phối hợp với trường đại học Monash cung cấp hai chương trình bồi dưỡng hiệu trưởng tập trung vào lãnh đạo và quản lý trường học.

Chương trình liên quan đến những vấn đề như: kỹ thuật giải quyết vấn đề, sự đoàn kết, tranh luận và phản ánh thông qua tiếp xúc với các tài liệu và nghiên cứu có liên quan đến lãnh đạo trường học, sử dụng các nghiên cứu trường hợp để giải quyết vấn đề, hướng dẫn và hỗ trợ đồng nghiệp, nhấn mạnh vào học tập suốt đời. Mỗi chương trình bao gồm các dự án dựa trên công việc thực tế, hồ sơ liên quan đến phát triển năng lực, hỗ trợ phát triển nghề nghiệp.

Tại bang Queensland, sở giáo dục cung cấp khung tiêu chuẩn dành cho lãnh đạo trường phổ thông. Khung này dựa trên năng lực của cán bộ quản lý với những tiêu chuẩn liên quan đến 6 chủ đề: (i) Lãnh đạo trong giáo dục; (ii) Quản lý; (iii) Con người và sự hợp tác; (iv) Sự thay đổi; (v) Kết quả đầu ra; và (vi) Trách nhiệm giải trình. Các chủ đề này được chia thành hai nhóm năng lực: Năng lực thực hành và năng lực cá nhân. Năng lực thực hành gồm 24 thành tố với 4 mục: (i) Hành động tập thể; (ii) Kiến thức và hiểu biết cụ thể; (iii) Chỉ số ngữ cảnh; (iv) Minh chứng. Tương tự, 12 thành tố của năng lực cá nhân với 2 mục: (i) Mức độ hiệu quả công việc; (ii) Hành động cá nhân. Sở giáo dục sẽ kiểm soát và phê duyệt chương trình bồi dưỡng được xây dựng bởi các trường đại học hoặc các tổ chức tư nhân dựa trên khung năng lực của cán bộ quản lý. Thị trường bồi dưỡng là hoàn toàn “mở” cho các đơn vị tổ chức bồi dưỡng dựa trên năng lực và uy tín của mình. (Đinh Quang Báo, Nguyễn Thị Ban, 2018)

1.1.2. Ở trong nước

Việt Nam, giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu, toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Để định hướng cho việc phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục, một trong những yếu tố không thể thiếu là vấn đề quản lý việc nâng cao chất lượng dạy học. Điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp và quản lý GD&ĐT”. Việc quản lý giảng dạy là một vấn đề bức xúc mới chỉ được nghiên cứu ở những cấp độ nhất định và vẫn được tiếp tục nghiên cứu nhằm đưa ra những bức tranh tổng thể cho việc quản lý chất lượng giảng dạy. Nhiều đề tài nghiên cứu về quản lý giáo dục nói chung và quản lý giảng dạy nói riêng được các nhà khoa học quan tâm. Điển hình là các nhà khoa học:

Trước năm 2013, ngành giáo dục và đào tạo (GD và ĐT) nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng chất lượng, hiệu quả vẫn chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Vì vậy, ngày 4-11-2013, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW (Nghị quyết 29) về đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT. Đến nay, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 29, sự nghiệp GD và ĐT nước ta bước đầu đã tạo được chuyển biến căn bản về chất lượng…” (Nguyễn Văn Phúc, 2018). Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Phát triển giáo dục thường xuyên là một nội dung cơ bản trong lộ trình xây dựng xã hội học tập. Đây là một trong những khái niệm cốt lõi tạo nên một tam thức giáo dục bao hàm hầu hết các nội dung, phương thức, phương pháp, tính chất, ý tưởng và quản lý sự nghiệp giáo dục người lớn…” (Phạm Tất Dong, 2018).

Trong các công trình đó, các tác giả đã nhấn mạnh ý nghĩa của quản lý trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.

Nghị quyết TW khóa VIII đã nêu: “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa ĐNGV cũng như cán bộ QLGD”. Những năm gần đây Đảng, Nhà nước còn có nhiều các Chỉ thị, Nghị quyết, các chế độ chính sách để quan tâm tới đội ngũ giáo viên. Điều mong muốn là đất nước ta trở thành một xã hội học tập, trong đó đội ngũ thầy cô giáo có năng lực, trình độ ngang tầm với sự phát triển của thời đại.

Xuất phát từ những tư tưởng có định hướng đó, nhiều công trình nghiên cứu về ĐNGV đã được triển khai và gần đây cũng đã có một số đề tài khoa học nghiên cứu về việc xây dựng, quản lý, phát triển và nâng cao chất lượng ĐNGV của các trường và các cơ sở giáo dục như các luận văn Thạc sĩ quản lý giáo dục của các tác giả sau:

  • “Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng sư phạm Đăklăk”, (2008), của tác giả Phạm Văn Luật.
  • “Thực trạng và biện pháp quản lý đội ngũ giảng viên ở trường ĐHSP TPHCM”, (2008) tác giả Nguyễn Kỷ Trung.
  • “Thực trạng và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT tại tỉnh Bình Thuận (2008), của tác giả Đặng Thị Nhâm.
  • “Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên THPT tỉnh Cà Mau (2009), của tác giả Lê Văn Ngoạn.
  • “Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn (2010), của tác giả Phùng Văn Thời.

Và còn một số đề tài luận văn Thạc sĩ quản lý giáo dục của các tác giả như:

  • “Phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông Pham Ngũ Lão Huyện Thủy Nguyên, Thành Phố Hải Phòng trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay (2015), của tác giả Nguyễn Đồng Nghĩa.
  • “Quản lý đội ngũ giáo viên ở trường THCS Kim Đồng, thành phố Hạ Long nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay” (2016), của tác giả Nguyễn Thị Thu Lương

Như vậy, công tác quản lý đội ngũ GV hiện nay là một vấn đề quan trọng, được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan quản lý GD và ĐT, nhiều nhà khoa học và đông đảo GV. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào những góc cạnh và một số nội dung nhất định mang tính lý luận chung của công tác quản lý đội ngũ giáo viên. Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào từng địa phương cụ thể chưa được triển khai rộng rãi. Do vậy, việc nghiên cứu ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ GV ở các địa phương cụ thể là cần thiết. Vì vậy đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay”, sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Trung tâm trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.

Tóm lại, vấn đề quản lý đội ngũ giáo viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay không phải là vấn đề mới với nhiều nước trên thế giới, nhưng với Việt Nam vấn đề này còn khá mới mẻ. Các tài liệu nghiên cứu, luận văn, luận án chủ yếu tập trung khai thác cách thức tổ chức, thực trạng và biện pháp, giải pháp quản lý đội ngũ giáo viên. Có rất ít công trình nghiên cứu về công tác quản lý đội ngũ giáo viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, đặc biệt là Trung tâm Giáo dục Thường xuyên. Chính vì vậy, trong luận văn này, người viết sẽ đi sâu nghiên cứu về công tác quản lý đội ngũ giáo viên cho GĐ ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên.

1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trung tâm GDTX

1.2.1.1. Quản lý

Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Thuật ngữ “quản lý” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau dựa trên cơ sở những cách tiếp cận, lĩnh vực khác nhau:

“Các cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về quản lý: Quản lý là một dạng lao động xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó là hoạt động tất yếu nảy sinh khi có sự tham gia hoạt động của nhiều người. Xã hội càng phát triển thì vai trò của quản lý ngày càng quan trọng. Nó hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về quản lý. Có thể khái quát một số cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về quản lý như sau:

Thứ nhất: Đồng nhất quản lý với việc dùng người và thông qua người khác để hoàn thành công việc của mình (Mặc Tử, F.W. Taylor, M.P. Follet)

F.W Taylor (1856 – 1915) Quản lý là hoàn thành công việc của mình thông qua người khác và biết chắc rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. Quan niệm trên đã cho thấy quản lý là công việc gián tiếp. Người quản lý không trực tiếp thực hiện mọi công việc mà nhiệm vụ của họ là phân công, sắp xếp, bố trí và kiểm tra người khác làm.

Thứ hai: Tiếp cận quản lý với tính cách là một quá trình (H.Fayol, H. Koontz,

  • Fayol: Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra.
  • Koontz và các tác giả: Quản lý là điều kiện thiết yếu nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
  • Thứ ba: Quản lý là ra quyết định. Bởi lẽ, theo họ, ra quyết định là khâu cuối cùng, mang tính đột phá nhất của công việc quản lý. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là H. Simon, V.H Vroom.v.v.

H.Simon cho rằng: Ra quyết định là cốt lõi của quản lý. Mọi công việc khác của tổ chức chỉ diễn ra sau khi có quyết định của chủ thể quản lý. Việc ra quyết định quản lý là công việc cơ bản của mọi cấp trong tổ chức.

  • H Vroom cho rằng: Công việc của tất cả các nhà quản lý là ra quyết định quản lý. Trình độ của nhà quản lý cao hay thấp chủ yếu được đánh giá xem những quyết định họ ban hành ra đúng nhiều hay ít.
  • Thứ tư: Quản lý một nghệ thuật. Cách tiếp cận này nhấn mạnh đến khía cạnh nghệ thuật, đến tính linh hoạt, sáng tạo và mềm dẻo trong hoạt động của chủ thể quản lý. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là:

M.P Follet: Quản lý là một nghệ thuật khiến cho công việc của bạn được hoàn thành thông qua người khác.

Trường phái 7S: Đưa ra 7 công việc cơ bản mà nhà quản lý phải quan tâm đến và việc thực hiện nó đòi hỏi phải có nghệ thuật đó là: Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

  1. Xây dựng mục tiêu dài hạn
  2. Thiết kế tổ chức (structure)
  3. Đảm bảo tính hệ thống của tổ chức (systems)
  4. Chú ý phong cách (style)
  5. Quan tâm đến nhân viên (staff)
  6. Xây dựng các kĩ năng (skills)
  7. Xây dựng chiến lược (Strategy)

Thứ năm: Quản lý là hoạt động phụ thuộc vào tình huống cụ thể. Tuỳ theo tình huống khác nhau mà chủ thể quản lý sử dụng các công cụ, phương thức phù hợp.

Đại diện cho cách tiếp cận này là tác giả Paul Hersey và Ken Blandhard. Họ cho rằng: Không có một phương thức quản lý và lãnh đạo tốt nhất cho mọi tình huống khác nhau. Người quản lý sẽ lựa chọn công cụ, phương pháp quản lý nào là căn cứ vào tình huống cụ thể.

Từ những phân tích và khái quát trên, chúng ta có thể hiểu: Quản lý là tác động có ý thức, bằng quyền lực theo một quy trình với những nguyên tắc, phương pháp, phong cách, nghệ thuật và các công cụ của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý để đạt được mục tiêu của tổ chức trong điều kiện kinh tế – xã hội nhất định.

Ngoài ra, bản chất của quản lý còn được thể hiện ra ở các hình thức quản lý, vai trò và những đặc trưng chung của các hình thức quản lý đó”. (Đại học Thủ Dầu Một, Phạm Phúc Tuy, 2015)

Nguyễn Bá Sơn trong tác phẩm “Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý” có nêu: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động”. (Nguyễn Bá Sơn, 2000)

Theo tác giả Phạm Viết Vượng trong tác phẩm “Quản lý hành chính nhà nước và Quản lý ngành Giáo dục và Đào tạo” có nếu: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đã đề ra”. (Phạm Viết Vượng, 2013)

Trong từ điển Giáo dục định nghĩa: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Các hình thức chức năng chủ yếu của quản lý bao gồm: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo hoặc lãnh đạo và kiểm tra”. (Bùi Minh Hiền, 2006) Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Theo các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”. (Bùi Minh Hiền, 2006)

Trong giáo trình “Quản lý giáo dục và trường học” dùng cho học viên cao học chuyên ngành Giáo dục học, Trần Kiểm đã viết: “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”. (Trần Kiểm, 2016)

Từ những cách tiếp cận và quan niệm về quản lý vừa nêu trên, chúng ta có thể khẳng định mặc dù có cách nói, cách diễn đạt khác nhau, song đều có điểm chung:

Có thể sơ đồ hóa mô hình quản lý bằng sơ đồ 1.1 dưới đây:

Công cụ

CTQL <—————-> Khách thể QL <————> Mục tiêu

Phương tiện

Sơ đồ 1.1. Mô hình về quản lý

Quản lý gồm có 4 chức năng cơ bản: chức năng kế hoạch hóa, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo, chức năng kiểm tra

1.2.1.2. Quản lý giáo dục

Công việc quản lý đã xuất hiện tất yếu do yêu cầu của việc tổ chức lao động chung. Quản lý ra đời là để tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn so với việc làm riêng lẻ của các cá nhân có chung mục tiêu hoạt động.

Quan điểm của M.I Kônđacốp cho rằng: “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp kế hoạch hóa nhằm đảm bảo vận hành bình thường của một cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển, mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như chất lượng”. (Đặng Quốc Bảo, 1999)

Quản lý giáo dục được xem xét ở tầm vĩ mô và vi mô: Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

  • Ở cấp vĩ mô: “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục”. (Bùi Minh Hiền, 2006)
  • Ở cấp độ vi mô: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có hướng đích của Giám đốc đến các hoạt động giáo dục, đến con người, đến các ảnh hưởng ngoài Trung tâm một cách hợp quy luật nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của Trung tâm”. (Bùi Minh Hiền, 2006)

Tác giả Hồ Văn Liên cho rằng: “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp, huy động các lực lượng giáo dục và xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả công việc giáo dục; không chỉ là sự nghiệp của các nhà trường, của ngành GD – ĐT mà là sự nghiệp chung của cả xã hội”. (Hồ Văn Liên, 2008)

Quản lý giáo dục là quản lý quá trình giáo dục – đào tạo, là quản lý hoạt động của người dạy, người học và quản lý các tổ chức sư phạm ở các cơ sở khác nhau trong việc thực hiện các kế hoạch, chương trình GD – ĐT nhằm đạt được các mục tiêu GD – ĐT đặt ra. Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Bản chất của quản lý giáo dục là quá trình diễn ra những tác động quản lý khi có chủ thể và đối tượng quản lý; có thông tin hai chiều từ chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý và từ đối tượng quản lý đến chủ thể quản lý. Quản lý giáo dục nằm trong phạm trù quản lý xã hội nói chung. Nó có đặc trưng riêng: Quản lý giáo dục là một loại hình quản lý nhà nước; Quản lý giáo dục thực chất là quản lý con người; Quản lý giáo dục có thuộc tính giống như quản lý xã hội; Quản lý giáo dục được xem như là hệ tự quản lý; Quản lý giáo dục vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.

Từ những khái niệm trên, trong luận văn này sử dụng định nghĩa: Hoạt động quản lý giáo dục chính là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý theo những quy luật khách quan nhằm đưa ra các hoạt động giáo dục – dạy học cấp học, bậc học đạt được mục tiêu giáo dục – dạy học đặt ra.

1.2.1.3. Quản lý trung tâm GDTX

Ở nhiều quốc gia, người ta hiểu rằng, công việc giáo dục phải được tiến hành đối với mọi lứa tuổi, từ lúc lọt lòng cho đến lúc kết thúc cuộc sống. Cái quá trình giáo dục đó, không phân biệt học trong nhà trường hay học ngoài xã hội hoặc tại gia đình, học có mục đích hay học ngẫu nhiên, học theo hệ thống tri thức và kỹ năng hoặc cần gì học nấy – đều phải được quan tâm và phải có sự quản lý từ phía Nhà nước được hiểu là giáo dục thường xuyên. Với cách hiểu này, giáo dục thường xuyên là một chính sách xã hội của một xã hội hiện đại, trong đó học tập là quyền của con người. Như vậy, nếu phân chia hệ thống giáo dục ra làm 2 hệ nhỏ thành phần là hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục, thì sự liên kết, liên thông, kết nối và được tiến hành không đứt đoạn nhờ sự đan xen và liên tục của sự học ở mỗi con người được gọi là giáo dục thường xuyên.

Việt Nam, lại gộp các loại hình học tập không chính quy vào khái niệm giáo dục thường xuyên. Từ cách hiểu này, chúng ta sẽ thấy lôgíc hình thức trong nhận thức về nền giáo dục thường xuyên ở nước ta như sau:

Giáo dục thường xuyên là một hệ thống gồm các loại hình học tập thuộc phạm giáo dục tiếp tục. Do vậy, giáo dục thường xuyên không bao hàm các hình thức giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến giáo dục thường xuyên, người ta hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Việc phổ cập giáo dục cho thế hệ trẻ được đẩy mạnh để đến năm 2010, về cơ bản, nước ta sẽ phổ cập giáo dục trung học cơ sở đúng độ tuổi và việc học cưỡng bức này sẽ áp dụng cho cấp trung học (hoàn chỉnh) vào khoảng 2020. Còn giáo dục thường xuyên chủ yếu dành cho người lớn. Trong trường hợp này, giáo dục thường xuyên trùng khớp với giáo dục người lớn.

Theo quy định của Luật Giáo dục 2005, sửa đổi bổ sung 2009 giáo dục tiếp tục bao gồm mọi loại hình giáo dục không chính quy. Do tính chất bắc cầu trong quan niệm nói trên nên nói đến giáo dục thường xuyên là ai cũng hiểu rằng đó là giáo dục không chính quy. Cách biểu hiện trên được quy định trong Luật Giáo dục 2005, sửa đổi bổ sung 2009 của nước ta. (Phạm Tất Dong, 2018)

Trung tâm GDTX là đơn vị sự nghiệp có chức năng và nhiệm vụ đặc trưng nổi bật và khác với các đơn vị nhà trường vì không xây dựng môi trường học tập thường xuyên thì không còn gọi là trung tâm GDTX nữa. Đây cũng là trách nhiệm của các chủ thể trong trung tâm GDTX để tồn tại và phát triển. Trung tâm GDTX là một cộng đồng học tập không chỉ đối với các học viên, học sinh mà còn đối với cả ban giám đốc và giáo viên do đó bản chất trung tâm GDTX thể hiện ở ba khía cạnh: một là tính sư phạm, hai là bản chất xã hội, ba là bản chất giai cấp.

Có thể nói rằng: Quản lý trung tâm GDTX là hệ thống tác động có mục đích, có tổ chức của ban lãnh đạo trung tâm đến con người (giáo viên, cán bộ, nhân viên, và học viên) và các nguồn lực khác gồm (CSVC, tài chính, thông tin) hợp quy luật đó là (Quy luật quản lý, quy luật giáo dục, quy luật kinh tế, quy luật xã hội …) bằng việc vận dụng các chức năng và phương tiện quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực, tiềm năng và cơ hội cũng như thách thức của trung tâm GDTX để đạt được mục tiêu đề ra…” (Lâm Thanh Vĩnh, 2017)

Từ những khái niệm trên, trong luận văn này sử dụng định nghĩa: Hoạt động quản lý Giáo dục thường xuyên là một hệ thống gồm các loại hình học tập thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục. Do vậy, giáo dục thường xuyên không bao hàm các hình thức giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến giáo dục thường xuyên, người ta hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục.

1.2.2. Đội ngũ, giáo viên, đội ngũ giáo viên

1.2.2.1. Đội ngũ: Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Theo từ điển tiếng Việt: “Đội ngũ là tổ chức gồm nhiều người tập hợp lại thành một lực lượng”; “Đội ngũ là số đông người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng.” (Nguyễn Như Ý, 1999)

Đội ngũ là một tập hợp những cá nhân có liên hệ với nhau, tạo thành sự thống nhất ổn định, có tính chỉnh thể, có những thuộc tính và những quy luật tích hợp. Đội ngũ hàm chứa yếu tố sức mạnh và có những yêu cầu chặt chẽ về cơ cấu, kỷ cương và chất lượng công việc. Ví dụ như đội ngũ công nhân, đội ngũ các nhà khoa học, đội ngũ trí thức… Tóm lại, đội ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một chức năng hay nhiều chức năng, có thể có cùng nghề nghiệp hoặc không cùng nghề nghiệp nhưng cùng có chung một mục đích nhất định

1.2.2.2. Giáo viên

Giáo viên là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác. (Quốc hội, Luật GD 2005, sửa đổi bổ sung 2009)

Giáo viên THPT Trung tâm GDTX: là người hành nghề giảng dạy một môn học nào đó ở Trung tâm GDTX THPT và qua sự giảng dạy môn học đó mà GD học viên theo mục tiêu GD mà Bộ GD&ĐT đã đề ra đối với giáo dục Trung tâm GDTX dạy THPT.

1.2.2.3. Đội ngũ giáo viên

Đội ngũ GV ở Trung tâm GDTX dạy THPT là tập hợp tất cả các giáo viên của Trung tâm đó theo một cấu trúc nhất định về mặt tổ chức, có một số lượng GV nhất định (đủ hay chưa đủ theo quy định), có một chất lượng nhất định (về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, nghiệp vụ) tạo thành một tập thể sư phạm được đánh giá là vững mạnh hay yếu kém nói chung, hoặc vững mạnh hay yếu kém về từng mặt nói riêng.

Như vậy, có thể hiểu: Đội ngũ giáo viên dạy THPT là tập hợp những người tham gia công tác giảng dạy, GD trong nhà trường, trung tâm và các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, được tổ chức thành một lực lượng, có cùng nhiệm vụ là giảng dạy, giáo dục và nghiên cứu khoa học là lực lượng chủ yếu giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu và kế hoạch GD của Trung tâm. Lao động của đội ngũ giáo viên là lao động trí óc, lao động khoa học, lao động đặc thù nhằm tạo ra sản phẩm đặc biệt là con người đã được giáo dục và đào tạo.

Bất kỳ GV nào cũng có ảnh hưởng GD rộng rãi đến một tập thể HV, và ngược lại HV nào cũng đều trực tiếp nhận sự GD của đội ngũ giáo viên. Chất lượng GD ở Trung tâm GDTX dạy THPT là sự đóng góp chung của tập thể sư phạm trong đó đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định. Chất lượng GD không chỉ phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm và năng lực công tác của từng GV mà còn phụ thuộc vào sự phối hợp GD của các GV. Đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX dạy THPT có sự quan hệ gần gũi, gắn bó, giúp đỡ, tương trợ nhau trong cuộc sống và trong công tác. Đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX dạy THPT tham gia tích cực vào các hoạt động GD của Trung tâm, coi trọng sinh hoạt của các tổ chức, có sự thống nhất cao về nhận thức và hoạt động GD. (Chu Mạnh Nguyên, 2005)

1.2.3. Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm GDTX Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Quản lý đội ngũ giáo viên là việc xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, có đầy đủ phẩm chất trí tuệ, năng lực và trình độ chuyên môn để hoàn thành tốt các nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục và nghiên cứu khoa học. QL đội ngũ là một mặt cấu thành của hoạt động QL đề cập đến con người trong tổ chức. Nói một cách ngắn gọn hơn: QL đội ngũ là QL con người.

Trung tâm GDTX dạy THPT, thì GĐ (và PGĐ phụ trách chuyên môn giảng dạy) QL đội ngũ giáo viên thông qua các TTCM, không loại trừ sự QL trực tiếp của GĐ tới từng cá nhân GV cho dù có sự tham gia hay không có sự tham gia của TTCM của từng GV đó:

Có thể sơ đồ hóa mô hình quản lý ĐNGV bằng sơ đồ 1.2 dưới đây:

Sơ đồ 1.2. Mô hình về quản lý

QL đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX dạy THPT là quá trình GĐ tác động đến đội ngũ giáo viên để tổ chức và phối hợp các hoạt động của họ trong quá trình giáo dục HV theo mục tiêu GD. Từ vai trò chủ đạo của đội ngũ giáo viên Trung tâm GDTX dạy THPT mà ta có thể nói: QL Trung tâm GDTX dạy THPT chủ yếu là tác động đến ĐNGV, tổ chức hoạt động của họ trong quá trình giảng dạy, giáo dục HV.

QL đội ngũ giáo viên là quan hệ trực tiếp hàng ngày giữa GĐ và đội ngũ giáo viên là quan hệ giữa người với người. Hiệu quả lao động của đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào mối quan hệ giữa GĐ và GV cũng như hiệu quả học tập của HV phụ thuộc một phần vào mối quan hệ Thầy (Cô) – Trò. Trong đội ngũ giáo viên mỗi người đều có nhu cầu được tự khẳng định mình, muốn được tạo điều kiện để làm việc tốt và ai cũng có tâm lý muốn được tôn trọng. Vì vậy người giám đốc phải có thái độ cư xử có văn hóa, khôn ngoan và tế nhị trong việc vận dụng nguyên tắc QL vào QL từng GV và cả ĐNGV. Phải luôn khẳng định những điểm mạnh, những ưu điểm của GV, tạo cơ hội, cải thiện điều kiện làm việc và phải luôn luôn có thái độ tôn trọng họ trong QL. (Chu Mạnh Nguyên, 2005)

Sự quản lý của giám đốc đối với đội ngũ giáo viên chỉ có thể là những tác động mang tính dân chủ được thể chế hóa nhằm tổ chức, tập hợp sức mạnh của cả đội ngũ giáo viên và của từng giáo viên trong việc giảng dạy, giáo dục học viên và tham gia quản lý Trung tâm GDTX Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

1.3. Lý luận về ĐNGV Trung tâm GDTX trong bối cảnh đổi mới giáo dục

1.3.1. Vị trí và vai trò của ĐNGV ở Trung tâm GDTX

Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập. Hệ GDTX cấp trung học phổ thông nhằm tạo cơ hội học tập cho thanh niên và người lớn không có điều kiện học ở các trường trung học phổ thông.

GDTX cấp THPT là chuẩn bị cho học viên tham gia tích cực vào cuộc sống lao động và hướng tới việc tự hoàn thiện nhân cách để có một cuộc sống hạnh phúc. Chương trình GDTX cấp THPT đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu học tập đa dạng của thanh thiếu niên và người lớn, để giúp họ nắm được những tri thức khoa học, kỹ thuật, có được thái độ phù hợp và kỹ năng thực hành ứng dụng ở trình độ tương đương THPT chính qui.

Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách con người toàn diện, và thực hiện chức năng ấy là đội ngũ giáo viên. Việc hình thành và phát triển nhân cách cho học viên là trách nhiệm của gia đình, của Trung tâm và hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó đội ngũ giáo viên có trách nhiệm nặng nề nhất vì họ là những người trực tiếp làm công việc giáo dục. Người giáo viên là những người trực tiếp giáo dục đào tạo thế hệ trẻ theo đúng mục đích giáo dục. Cụ thể người giáo viên có trách nhiệm truyền đạt cho thế hệ trẻ hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo lao động nghề nghiệp, truyền bá cho họ lý tưởng và đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại, đào tạo luyện tập họ trở thành những lớp người có ích cho xã hội đất nước.

Thực hiện các quyết định của Giám đốc, các quy định của pháp luật và quy định của quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDTX ban hành theo Quyết định 01/2007/ QĐ-BGD&ĐT. 4/ Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, đoàn kết giúp đỡ các đồng nghiệp.. Đội ngũ giáo viên là người dạy học, người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong Trung tâm giáo dục thường xuyên, gồm có: Giám đốc, Phó Giám đốc, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác khác như làm việc trong các phòng ban, các phòng chức năng… Đó là sự gắn kết những cá thể với nhau, hoạt động qua sự phân công, hợp tác lao động, là những người có chung mục đích, lợi ích và ràng buộc với nhau bằng trách nhiệm pháp lý.

Vai trò của đội ngũ giáo viên Trung tâm GDTX là xây dựng chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ. Chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng, công nghệ thông tin – truyền thông; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ… Chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập, đề xuất với sở giáo dục và đào tạo, chính quyền địa phương việc tổ chức các chương trình và hình thức học phù hợp với từng loại đối tượng. Tổ chức các lớp học theo chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, dành riêng cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người tàn tật, khuyết tật, theo kế hoạch hàng năm của địa phương.

1.3.2. Nhiệm vụ và quyền lợi của ĐNGV ở Trung tâm GDTX Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Giáo viên của trung tâm GDTX có những nhiệm vụ sau: 1/ Thực hiện nhiệm vụ giảng dạy theo mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học, quản lý học viên theo sự phân công của Giám đốc Trung tâm GDTX. 2/ Rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy. 3/ Thực hiện các quyết định của Giám đốc, các quy định của pháp luật và quy định của quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDTX ban hành theo Quyết định 01/2007/ QĐ-BGD&ĐT. 4/ Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, đoàn kết giúp đỡ các đồng nghiệp, gương mẫu trước học viên, tôn trọng nhân cách học viên, đối xử công bằng với học viên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho học viên.

Giáo viên của Trung tâm GDTX có những quyền sau: 1/ Được Trung tâm tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ được giao. 2/ Được hưởng mọi quyền lợi theo quy định đối với nhà giáo. 3/ Được trực tiếp hoặc thông qua tổ chức của mình quản lý Trung tâm. 4/Được tham gia các hoạt động nghiên cứu khóa học, lao động sản xuất, dịch vụ chuyển giao công nghệ do Trung tâm tổ chức. 5/ Được dự các buổi họp của hội đồng khen thưởng và hội đồng kỷ luật khi các hội đồng này giải quyết các vấn đề có liên quan đến học viên của lớp mình được phân công phụ trách. 6/ Giáo viên Trung tâm giáo dục thường xuyên có định mức giờ dạy, định mức làm công tác kiêm nhiệm như quy định đối với giáo viên cùng cấp học ở các cơ sở giáo dục phổ thông.

Hành vi, ngôn ngữ ứng xử, trang phục của giáo viên Trung tâm GDTX: 1/Hành vi, ngôn ngữ ứng xử của giáo viên phải mẫu mực, có tác dụng giáo dục đối với học viên. 2/ Trang phục của giáo viên phải chỉnh tề, giản dị, phù hợp với hoạt động sư phạm.

Các hành vi giáo viên Trung tâm GDTX không được làm: 1/ Xuyên tạc nội dung giáo dục. 2/ Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể học viên. 3/ Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của học viên, ép buộc học viên học thêm để thu tiền. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007)

  • Yêu cầu về chất lượng Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Về Giáo viên: Giáo viên của trung tâm giáo dục thường xuyên là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục tại trung tâm giáo dục thường xuyên, tham gia giảng dạy các chương trình theo Quyết định số 01/2007/QĐ-BGDĐT.

Về Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên: Giáo viên của trung tâm giáo dục thường xuyên tham gia giảng dạy các chương trình giáo dục thường xuyên để học viên lấy văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân phải có trình độ đạt chuẩn như quy định đối với giáo viên dạy cùng cấp học của giáo dục chính quy, cụ thể sau như: Có bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm đối với giáo viên dạy chương trình xoá mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ. Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp cao đẳng và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở. Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông. Có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao đối với giáo viên hướng dẫn thực hành nghề nghiệp. Có bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học chuyên ngành ngoại ngữ hoặc tin học đối với giáo viên dạy chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học.

Về hành vi, ngôn ngữ ứng xử, trang phục của giáo viên: Hành vi, ngôn ngữ ứng xử của giáo viên phải mẫu mực, có tác dụng giáo dục đối với học viên. Trang phục của giáo viên phải chỉnh tề, giản dị, phù hợp với hoạt động sư phạm.

Về các hành vi giáo viên không được làm: Xuyên tạc nội dung giáo dục. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của học viên. Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của học viên, ép buộc học viên học thêm để thu tiền.

Về khen thưởng và kỷ luật: Giáo viên có thành tích sẽ được khen thưởng, được tặng danh hiệu thi đua và các danh hiệu cao quý khác theo quy định. Giáo viên vi phạm khuyết điểm trong khi thi hành nhiệm vụ, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.

  • Yêu cầu về năng lực của ĐNGV

Theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về năng lực của ĐNGV.

Năng lực sư phạm là bộ phận không thể thiếu được trong cấu trúc nhân cách của nhà sư phạm, được biểu hiện ở năng lực dạy học, năng lực giáo dục và năng lực tự hoàn thiện. Năng lực sư phạm là tổng hợp những đặc điểm tâm lý của cá nhân, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và quyết định sự thành công trong việc nắm vững các hoạt động.

Năng lực sư phạm của nhà giáo trước hết là khả năng thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục đạt kết quả với chất lượng cao; là tổ hợp hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thể hiện năng lực sư phạm; khả năng lĩnh hội và vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó trong những trường hợp cụ thể, kể cả những xu hướng nghề nghiệp sư phạm tích cực, bao gồm: khả năng khơi dậy ở học sinh say mê học tập, khát khao hướng thiện; khả năng định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh, vận động, cổ vũ cho người học và quá trình học tập, rèn luyện của người học; khả năng truyền đạt, sử dụng ngôn ngữ, quan sát, phán đoán, đánh giá…; khả năng giao tiếp, sự khéo léo trong ứng xử sư phạm; có lòng yêu nghề, có hứng thú giảng dạy và giáo dục cho học sinh; tích cực cải tiến, đổi mới hoạt động dạy học, làm cho học sinh hứng thú trong việc tìm tòi, khám phá cái mới, cái đẹp, phát huy được tài năng và khả năng sáng tạo của con người.

1.3.3. Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên Trung học phổ thông Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Ngày 22/08/2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 20/2018/TT-BGDĐT ban hành Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông. Theo đó, chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông gồm 05 tiêu chuẩn, cụ thể: Phẩm chất nhà giáo; Phát triển chuyên môn, nghiệp vụ; Xây dựng môi trường giáo dục; Phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục như sau:

Theo điều 4. Tiêu chuẩn 1. Phẩm chất nhà giáo: Tuân thủ các quy định và rèn luyện về đạo đức nhà giáo; chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đồng nghiệp trong rèn luyện đạo đức và tạo dựng phong cách nhà giáo: Tiêu chí 1. Đạo đức nhà giáo; Tiêu chí 2. Phong cách nhà giáo.

Theo điều 5. Tiêu chuẩn 2. Phát triển chuyên môn, nghiệp vụ: Nắm vững chuyên môn và thành thạo nghiệp vụ; thường xuyên cập nhật, nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục: Tiêu chí 3. Phát triển chuyên môn bản thân; Tiêu chí 4. Xây dựng kế hoạch dạy học và giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Tiêu chí 5. Sử dụng phương pháp dạy học và giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; Tiêu chí 6. Kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; Tiêu chí 7. Tư vấn và hỗ trợ học sinh

Theo điều 6. Tiêu chuẩn 3. Xây dựng môi trường giáo dục: Thực hiện xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh dân chủ, phòng, chống bạo lực học đường: Tiêu chí 8. Xây dựng văn hóa nhà trường; Tiêu chí 9. Thực hiện quyền dân chủ trong nhà trường; Tiêu chí 10. Thực hiện và xây dựng trường học an toàn, phòng chống bạo lực học đường

Theo điều 7. Tiêu chuẩn 4. Phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; Tham gia tổ chức và thực hiện các hoạt động phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong dạy học, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh: Tiêu chí 11. Tạo dựng mối quan hệ hợp tác với cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh và các bên liên quan; Tiêu chí 12. Phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội để thực hiện hoạt động dạy học cho học sinh; Tiêu chí 13. Phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội để thực hiện giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.

Theo điều 8. Tiêu chuẩn 5. Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục: Tiêu chí 14. Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc; Tiêu chí 15. Ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục.

Tóm lại chuẩn nghề nghiệp nhà giáo là có lý tưởng, tình cảm và đạo đức nghề nghiệp cao thượng, trong sáng; Yêu thương, quý trọng các thế hệ học trò. Mỗi giáo viên phải đích thực là những tấm gương sáng để các thế hệ học viên noi theo. Điều đó đòi hỏi GV phải không ngừng tự rèn luyện, tự cải tạo tự rèn luyện và phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo, ĐNGV bối cảnh đổi mới hiện nay. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

1.3.4. Phát triển ĐNGV ở Trung tâm GDTX

Ðội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành công đổi mới giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện nay, vai trò của người giáo viên trong nhà trường mầm non, phổ thông lại càng có ý nghĩa quan trọng. Trong thực tiễn, đội ngũ giáo viên luôn là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, là nhân tố chủ đạo quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo viên luôn được xem là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Theo Rockoff, mặc dù chất lượng của giáo viên hiện rất khó đo lường nhưng một số đặc điểm của giáo viên có thể quan sát được như trình độ đào tạo, kinh nghiệm công tác, năng lực chuyên môn, chính sách được đãi ngộ có thể được sử dụng làm thước đo cho chất lượng. (Workneh Abebe and Tassew Woldehanna, Thái Văn Thành, Nguyễn Ngọc Hiền, 2013).

Định hướng nghề nghiệp cho giáo viên: Ở mỗi thời đaị chương trinh̀ giáo duc̣ se ̃có nhiều điểm khác nhau. Do đó bản thân là môṭ nhà giáo mỗi người cần biết định hướng nghề nghiệp để phù hơp̣ hơn với sư ̣phát triển của công nghê ̣và xa ̃hôị hiêṇ đaị. Đinḥ hướng muc̣ tiêu nghề nghiêp̣ dành cho giáo viên phù hơp̣ với chương trinh̀ giáo duc̣ hiêṇ nay là giáo viên cần đề ra muc̣ tiêu nghê nghiêp̣ bao gồm những nôị dung cơ bản như sau: Có phương án phát huy đươc̣ năng lưc̣ và các tố chất bẩm sinh của hoc̣ viên. Phân tich,́ nhâṇ đinḥ kết quả hoc̣ tâp̣ của hoc̣ viên dưới nhiều phương thức đa dang̣. Sáng taọ đươc̣ nhiều phương pháp giảng daỵ khác nhau thich́ hơp̣ với nhiều đối tương̣ hoc̣ viên giúp hoc̣ viên nhanh chóng tiếp thu bài giảng. Phát triển đươc̣ khả năng xử lý tình huống đa dang,̣ linh hoaṭ trong moịhoàn cảnh. Khả năng tiếp cân,̣ sử dung̣ công nghê ̣thông tin thành thaọ trong công tác giảng daỵ vànghiêp̣ vu ̣sư phaṃ. Dẫn dắt hoc̣ sinh khéo léo, linh hoaṭ trong từng bài giảng. Hoc̣ hỏi, linh̃ hôị nhiều kinh nghiêṃ quý báu từ các thế hê ̣giáo viên đi trước. Khả năng thiết kế bài giảng sáng taọ gần gũi phù hơp̣ năng lưc̣ hoc̣ viên. Thich́ nghi với những chương trinh̀ đào taọ đổi mới, tiếp thu nhiều kiến thức mới trong quá trình giảng daỵ.

Hiện nay, chất lượng đào tạo giáo viên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trước các yêu cầu của đổi mới, hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. ngày 29 tháng 04 năm 2016 Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025” với những nội dung chủ yếu sau: Nhà giáo và cán bộ quản lý thuộc các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục trên toàn quốc. Nhà giáo và cán bộ quản lý thuộc các cơ sở giáo dục phổ thông trên toàn quốc. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

  • Đề án đã đặt ra các yêu cầu sau

Nâng cao toàn diện chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nói riêng và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nói chung. Bảo đảm nâng cao năng lực, kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm; ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; gắn đào tạo, bồi dưỡng với nhu cầu và quy hoạch sử dụng lâu dài. Có cơ chế khuyến khích nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục…, học tập nâng cao trình độ, năng lực làm việc. Tăng cường trách nhiệm và tạo điều kiện cho người đứng đầu cơ quan quản lý giáo dục, người đứng đầu các cơ sở đào tạo, cơ sở giáo dục tham gia hoạt động đào tạo, bồi dưỡng một cách tích cực…

Mục tiêu của đề án là: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục bảo đảm chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; góp phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Định hướng đến năm 2025: Bảo đảm năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông; cán bộ quản lý cơ sở đào tạo và bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục được chuẩn hóa ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.

  • Nội dung của đề án

Về đào tạo: Đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục theo chương trình và sách giáo khoa mới đáp ứng yêu cầu về trình độ của giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục theo các ngành học ở cấp trung học phổ thông. Đào tạo trình độ sau đại học phù hợp với quy hoạch đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục cấp trung học phổ thông ở từng địa phương.

Về bồi dưỡng: Bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, chuẩn nghề nghiệp và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông. Bồi dưỡng nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học cho nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục…

Bồi dưỡng các giáo viên có năng lực chuyên môn giỏi để trở thành giáo viên cốt cán tại cơ sở giáo dục phổ thông. Bồi dưỡng và cấp chứng chỉ về tin học hóa trong quản lý cho cán bộ quản lý cơ sở giáo dục. Bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, quản trị cho cán bộ quản lý ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và các cơ sở giáo dục phổ thông. (Thủ Tướng Chính Phủ, 2016)

1.3.4.1. Yêu cầu về số lượng, chất lượng, phẩm chất

Đối với cấp THPT, với vấn đề số lượng đội ngũ giáo viên cần phải căn cứ trên tỷ lệ học sinh/giáo viên theo yêu cầu của THPT chuẩn quốc gia; chất lượng phải hướng tới chuẩn trình độ, chuẩn nghề nghiệp, yêu cầu của Trung tâm GDTX và những yêu cầu đổi mới hội nhập quốc tế, cơ cấu phù hợp theo chuyên môn (môn học và vị trí công tác).

Đủ về số lượng: Đội ngũ giáo viên được xác định trên cơ sở lớp học và định mức biên chế theo quy định của nhà nước. Hiện nay theo quy định của nhà nước định mức 2,25 giáo viên đứng lớp cho một lớp học (Thông tư liên tịch số 35/2006/TTLT – BGDĐT – BNV). Định mức này bao hàm cả giáo viên dạy các môn văn hóa cơ bản,.. Đơn thuần về số lượng thì việc xác định số giáo viên cần có cho một Trung tâm GDTX dạy chương trình THPT theo công thức:

Số giáo viên cần có = số lớp học x 2,25 giáo viên /lớp Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Hàng năm căn cứ vào kế hoạch phát triển số lớp học, ta dễ dàng xác định được ngay số lượng giáo viên cần có cho một Trung tâm GDTX. Từ đó, căn cứ vào số giáo viên hiện có sau khi đã trừ đi số giáo viên đang nghỉ bảo hiểm xã hội, chết, bỏ việc, thuyên chuyển ra bên ngoài và cộng thêm số thuyên chuyển từ ngoài vào, ta xác định được số giáo viên cần bổ sung cho Trung tâm hay cho một cấp học.

Một nội dung quan trọng khi xem xét số lượng giáo viên là những biến động liên quan chi phối đến việc tính toán số lượng, chẳng hạn như: Việc bố trí, sắp xếp số lượng đội ngũ, bố trí, sắp xếp học viên/lớp cũng như định mức về giờ dạy, định mức về lao động của giáo viên, chương trình môn học đều có ảnh hưởng, chi phối đến số lượng đội ngũ giáo viên.

Trong điều kiện đa dạng các loại hình trung tâm/lớp, trường/lớp, có trường công lập, trường ngoài công lập. Do đó giáo viên có thể dạy nhiều trường thuộc nhiều loại hình trung tâm/lớp hay trường/lớp khác nhau (dạy trường công lập và dạy trường ngoài công lập), họ chấp nhận một định mức dạy cao hơn quy định để tăng thu nhập, chính vì vậy đã làm sai lệch so với chuẩn quy định.

Số lượng giáo viên là một yếu tố định lượng của đội ngũ. Nó rất quan trọng nhưng chưa nói lên tất cả mà bên cạnh số lượng còn vấn đề chất lượng và cơ cấu.

Đồng bộ về cơ cấu: Cơ cấu đội ngũ giáo viên THPT ở trung tâm sẽ được nghiên cứu trên các tiêu chí có liên quan đến biện pháp phát triển đội ngũ. Các nội dung cơ bản gồm: Cơ cấu chuyên môn (theo môn dạy) hay còn gọi là cơ cấu bộ môn; Cơ cấu theo trình độ đào tạo; Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo độ tuổi; Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo giới tính

Tóm lại về các khía cạnh như: Điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên và nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên nữ ảnh hưởng rất nhiều như thời gian nghỉ dạy do sinh đẻ, con ốm…lại là các yếu tố có tác động đến chất lượng đội ngũ. Do đó, cơ cấu về giới tính có liên quan đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Đạt chuẩn về trình độ và chất lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên bao hàm nhiều yếu tố, trình độ được đào tạo của từng thành viên trong đội ngũ, thâm niên làm việc trong tổ chức, thâm niên trong vị trí làm việc mà người đó đã và đang đảm nhận, sự hài hòa giữa các yếu tố… Các vấn đề này có thể đề cập ở 2 nội dung sau:

  • Trình độ đào tạo: đạt chuẩn hay vượt chuẩn, đào tạo chính quy hay không chính quy, chất lượng và uy tín của cơ sở đào tạo. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.
  • Sự hài hòa giữa các yếu tố trong đội ngũ
  • Hài hòa giữa chức vụ, ngạch bậc và trình độ đào tạo; giữa phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn.
  • Sự hài hòa giữa nội dung công việc và vị trí mà thành viên của đội ngũ đang đảm nhận với thời gian thâm niên và mức độ trách nhiệm của mỗi thành viên.

Từ việc phân tích, xác định nội dung, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THPT ở Trung tâm, những biện pháp cần được nghiên cứu nằm trong nhóm công việc: đào tạo cơ bản ban đầu; đào tạo để đạt chuẩn và nâng chuẩn; bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật tri thức trong điều kiện khối lượng tri thức của nhân loại tăng lên nhanh chóng, sự thay đổi của Trung tâm GDTX, của ngành giáo dục cũng đang diễn ra không ngừng với tốc độ nhanh; các biện pháp về tổ chức nhân sự để hoàn thiện bộ máy nhằm tạo ra môi trường tốt cho hoạt động.

Thực hiện các biện pháp là vấn đề kiểm tra để đánh giá tình hình giảng dạy của đội ngũ giáo viên để duy trì. Bên cạnh đó, thanh tra giáo dục cần có những biện pháp để duy trì các quy chế về chuyên môn và không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và vận dụng nghiệp vụ sư phạm vào thực tế của giáo viên trong tình hình mới

Tăng cường đội ngũ giáo viên đảm bảo đủ số lượng, cân đối về bộ môn, loại hình giáo viên, đảm båo về chất lượng, trình độ được đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức thường xuyên.

Phát triển đội ngũ giáo viên được xem là khâu then chốt, là tiền đề quan trọng để giữ vững quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Sự tồn tại và phát triển của Trung tâm GDTX phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tuyển chọn, đào tạo, Sử dụng đánh giá đội ngũ giáo viên. Đội ngũ giáo viên theo hướng chiến lược phải đạt các tiêu chí cơ bản, có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo, tư duy đổi mới, có đạo đức có sức khỏe tốt, có ý thức trách nhiệm cao, có khả năng hoạt động độc lập, luôn yêu nghề gắn bó với đơn vị.

Yêu cầu về chất lượng: Xây dựng đề án phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên trẻ. Hàng năm lựa chọn giáo viên giỏi để bồi dưỡng, đào tạo, phấn đấu có số lượng giáo viên thạc sỹ từ nguồn đào tạo này. Tham mưu chính sách thu hút ưu đãi cán bộ giáo viên từ các nguồn khác, có chính sách quan tâm bồi dưỡng, ưu đãi đội ngũ cán bộ, giáo viên hiện có và chủ động xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ dự bị kế cận. Chú trọng giúp đỡ các giáo viên trẻ nhiệt tình nhanh chóng trưởng thành, tại mọi điều kiện thuận lợi cho các đối tượng này được tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất, cán bộ, nhân viên.

Yêu cầu về phẩm chất: Phải có lý tưởng, tình cảm và đạo đức nghề nghiệp cao thượng, trong sáng. Tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Tích cực học tập nghiên cứu, tìm hiểu thêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường cũng như nội quy của đơn vị. Hoàn thành các nhiệm vụ được giao, có ý thức học hỏi đồng nghiệp. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; yêu nghề, tâm huyết với nghề dạy học. Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm. Sống trung thực, lành mạnh, là tấm gương sáng cho học viên noi theo. Thương yêu, tôn trọng nhân cách HV, đối xử công bằng và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của HV. Luôn chăm lo đến sự phát triển toàn diện của HV; dân chủ trong quan hệ thầy trò, giúp HV khắc phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt. Đoàn kết, khiêm tốn học hỏi, biết lắng nghe ý kiến, góp ý thẳng thắn với đồng nghiệp để xây dựng tập thể sư phạm tốt. Chủ động phối hợp với đồng nghiệp thực hiện các nhiệm vụ dạy học và giáo dục HV. Có tác phong đúng đắn, mẫu mực, giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo. Yêu thương, quý trọng các thế hệ học trò.

Mỗi giáo viên phải đích thực là những tấm gương sáng để các thế hệ học viên noi theo. Điều đó đòi hỏi GV phải không ngừng tự rèn luyện. Hàng năm xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao tay nghề, nâng cao trinh độ chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng đào tạo nâng chuẩn, trên chuẩn, mở các lớp đào tạo bồi dưỡng tại đơn vi để khuyến khích giáo viên tự học, tự bồi dưỡng. Tích cực tham gia các hội thi giáo viên dạy giỏi, tích cực học hỏi các đơn vị điển hình trong và ngoài tinh, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức cho đội ngũ giáo viên. Xây dựng Trung tâm GDTX đạt chuẩn cơ quan văn hóa, thực hiện tốt quy chế dân chủ, chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ giáo viên, cán bộ, nhân viên của Trung tâm Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

1.3.4.2. Yêu cầu về năng lực của ĐNGV

Năng lực sư phạm là bộ phận không thể thiếu được trong cấu trúc nhân cách của nhà sư phạm, được biểu hiện ở năng lực dạy học, năng lực giáo dục và năng lực tự hoàn thiện. Năng lực sư phạm là tổng hợp những đặc điểm tâm lý của cá nhân, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và quyết định sự thành công trong việc nắm vững các hoạt động ấy. Năng lực sư phạm của nhà giáo trước hết là khả năng thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục đạt kết quả với chất lượng cao; là tổ hợp hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thể hiện năng lực sư phạm; khả năng lĩnh hội và vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó trong những trường hợp cụ thể, kể cả những xu hướng nghề nghiệp sư phạm tích cực, bao gồm: khả năng khơi dậy ở học sinh say mê học tập, khát khao hướng thiện; khả năng định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh, vận động, cổ vũ cho người học và quá trình học tập, rèn luyện của người học; khả năng truyền đạt, sử dụng ngôn ngữ, quan sát, phán đoán, đánh giá…; khả năng giao tiếp, sự khéo léo trong ứng xử sư phạm; có lòng yêu nghề, có hứng thú giảng dạy và giáo dục cho học viên; tích cực cải tiến, đổi mới hoạt động dạy học, làm cho học viên hứng thú trong việc tìm tòi, khám phá cái mới, cái đẹp, phát huy được tài năng và khả năng sáng tạo của con người.

Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục: Tìm hiểu khả năng học tập và tình hình đạo đức của học viên các lớp được phân công giảng dạy. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học viên để xây dựng kế hoạch dạy học và giáo dục. Thu thập và xử lý thông tin về điều kiện giáo dục trong trung tâm tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương để xây dựng kế hoạch cá nhân.

Năng lực dạy học: Lập kế hoạch năm học, bài học (giáo án) theo yêu cầu quy định. Kế hoạch năm học (bài học) thể hiện đầy đủ các mục tiêu dạy học, những hoạt động chính kết hợp chặt chẽ giữa dạy và học, giữa dạy học và giáo dục. Kế hoạch dạy học năm học được bổ sung, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế. Nắm vững nội dung môn học được phân công để đảm bảo dạy học chính xác, có hệ thống. Nắm vững kiến thức môn học, có kiến thức sâu, rộng để có thể bồi dưỡng HV giỏi, giúp đỡ đồng nghiệp những vấn đề chuyên môn mới và khó. Đảm bảo dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình thực hiện đúng kế hoạch dạy học đã thiết kế. Vận dụng được một số phương pháp dạy học đặc thù của môn học theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của học viên. Phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học gây hứng thú học tập, kích thích tính tích cực chủ động và rèn luyện kỹ năng tự học cho học viên. Sử dụng các phương tiện dạy học theo quy định trong chương trình môn học. Lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Sử dụng một cách sáng tạo các phương tiện dạy học truyền thống kết hợp với việc sử dụng máy tính, mạng và các phương tiện hiện đại khác, biết cải tiến phương tiện dạy học và sáng tạo những phương tiện dạy học mới. Tạo được bầu không khí học tập thân thiện, lành mạnh, dân chủ, hợp tác, khuyến khích học sinh mạnh dạn tham gia các hoạt động học tập. Xây dựng hồ sơ dạy học và bảo quản, phục vụ cho dạy học theo quy định. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HV đảm bảo yêu cầu chính xác, toàn diện, công bằng, khách quan, công khai. Sử dụng kết quả kiểm tra đánh giá để điều chỉnh hoạt động dạy và học. Năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tự học và tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Năng lực nắm bắt hoàn cảnh giáo dục: Kế hoạch hóa các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi. Khả năng nắm bắt tâm lý, cảm hóa, thuyết phục học viên. Thực hiện việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ thông qua giảng dạy môn học và tích hợp trong các hoạt động chính khóa và ngoại khóa. Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng. Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các hoạt động trong cộng đồng như lao động công ích, hoạt động xã hội. Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục học viên vào tình huống sư phạm cụ thể phù hợp với đối tượng và môi trường giáo dục. Đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của HV một cách chính xác, khách quan, công bằng, thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của HV.

Năng lực hoạt động chính trị, xã hội: Phối hợp với gia đình và cộng đồng trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của HV. Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trung tâm để giáo dục HV. Tham gia các hoạt động chính trị, xã hội trong và ngoài trung tâm nhằm phát triển trung tâm và cộng đồng, xây dựng xã hội học tập.

Năng lực phát triển nghề nghiệp: Cầu thị, lắng nghe những nhận xét đánh giá của người khác. Thực hiện đầy đủ yêu cầu việc bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ theo quy định. Biết rút kinh nghiệm trong công tác, tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của bản thân về phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ từ đó có kế hoạch tự học, tự rèn. Phát hiện được một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp, cùng đồng nghiệp tìm cách giải quyết

Về trình độ chuyên môn, giáo viên phải đạt chuẩn về trình độ theo quy định. Có kiến thức vững vàng, sâu rộng về chuyên môn trong đó kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết thực tế và kinh nghiệm, giữa nhận thức và thực hành. Hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trên cơ sở hệ thống tri thức mà người giáo viên được trang bị. Đồng thời, GV cần có kiến thức rộng rãi về xã hội và về các ngành khoa học khác làm phong phú và sâu sắc hơn cho nội dung giảng dạy. Về trình độ nghiệp vụ, giáo viên phải có kiến thức cơ bản về khoa học giáo dục THPT; Các kiến thức cơ bản về tâm lý học dạy học, đặc điểm tâm lý người học, lý luận và phương pháp, kỹ năng dạy học; Các phương pháp cơ bản về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên.

Giáo viên phải sử dụng thành thạo các kỹ năng về xây dựng đề cương chi tiết môn học và soạn thảo các bài giảng cụ thể; Các kỹ năng sư phạm cơ bản về phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên, phương pháp dạy học, phát triển chương trình giáo dục, cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến vào dạy học; Các kỹ năng phân tích, tổng hợp và đánh giá quá trình dạy học; kỹ năng đọc, viết, trình diễn và giao tiếp trong quá trình dạy học; Các kỹ năng tổ chức và quản lý học viên theo quy định và nhiệm vụ của giáo viên.

1.4. Quản lý ĐNGV ở Trung tâm GDTX trong bối cảnh đổi mới giáo dục

1.4.1. Chủ thể quản lý Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Giám đốc Trung tâm GDTX: Là người trực tiếp quản lý, điều hành và chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý cấp trên về hoạt động của trung tâm. Có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có năng lực quản lý, tốt nghiệp đại học và công tác trong ngành giáo dục ít nhất 5 năm. Được bổ nhiệm và bổ nhiệm lai theo nhiệm kỳ; mỗi nhiệm kỳ là 5 năm. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc giám đốc sở giáo dục và đào tạo theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm giám đốc Trung tâm GDTX.

Giám đốc Trung tâm GDTX quản lý kế hoạch chung, từ đó cụ thể hóa, chi tiết hóa thành chương trình hành động; từ chỉ tiêu chung toàn Trung tâm thành chỉ tiêu bộ phận; từ kế hoạch toàn Trung tâm thành kế hoạch tổ chuyên môn, các tổ chức đoàn thể, cá nhân… Quản lý, lãnh đạo Trung tâm là quản lý, hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học viên, hoạt động phục vụ việc dạy và việc học của cán bộ, nhân viên trong Trung tâm. Theo Luật Giáo dục quy định (Ban hành kèm theo Quyết định số: 01/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 02 tháng 01 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007)

1.4.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của Giám đốc ở Trung tâm GDTX

1.4.2.1. Mục tiêu quản lý đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX

Mục tiêu nhằm xây dựng hệ thống quản lý và quyết định toàn bộ diễn biến của tiến trình quản lý. Vì vậy, khi xác định mục tiêu quản lý đội ngũ giáo viên, người giám đốc cần đáp ứng các yêu cầu: đảm bảo tính liên tục và kế thừa; phải rõ ràng bằng các chỉ tiêu định lượng là chủ yếu; nên có sự kỳ vọng và tiên tiến để thể hiện được sự phấn đấu của các thành viên; cần xác định mục tiêu trọng tâm để tập trung các nguồn lực; xác định rõ thời gian thực hiện và có các kết quả cụ thể.

Xây dựng kế hoạch: là điều vạch ra với các mục tiêu và cách thức để đạt được mục tiêu trong thời gian nhất định. Nếu chỉ tuyên bố về các mục tiêu đã lựa chọn thì nó vẫn chỉ là những ước muốn và hy vọng, mặc dù có tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng. Muốn biến các mục tiêu thành hiện thực thì phải lập kế hoạch. Lập kế hoạch để thực hiện hệ thống mục tiêu tức là tìm các nguồn lực (nhân lực-vật lực-tài lực) và thời gian, không gian…cần cho việc hoàn thành các mục tiêu.

1.4.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của giám đốc ở Trung tâm GDTX

Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và giám sát đánh giá việc thực hiện kế hoạch nhằm hoàn thành các nhiệm vụ của trung tâm; Quản lý cơ sở vật chất và các tài sản của trung tâm; Quản lý nhân viên, giáo viên và học viên của trung tâm; Bổ nhiệm các trưởng phòng, phó phòng, tổ trưởng, tổ phó; thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chuyên môn, nghiệp vụ; Quản lý tài chính, quyết định thu chi và phân phối các thành quả lao động, thực hành kỹ thuật, dịch vụ theo quy định; Ký học bạ, các giấy chứng nhận trình độ học lực và kỹ thuật, nghề nghiệp, chứng chỉ giáo dục thường xuyên cho học viên học tại trung tâm theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Được hưởng các chế độ theo quy định. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007)

Tại điều 3, chương I, Qui chế tổ chức và hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên (Ban hành kèm theo Quyết định số: 01/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 02 tháng 01 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã qui định:

Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục: a) Chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ; b) Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ; c) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bao gồm: chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng, công nghệ thông tin – truyền thông; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ; chương trình dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức công tác tại vùng dân tộc, miền núi theo kế hoạch hàng năm của địa phương; Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập, đề xuất với sở giáo dục và đào tạo, chính quyền địa phương việc tổ chức các chương trình và hình thức học phù hợp với từng loại đối tượng.

Tổ chức các lớp học theo chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông qui định tại điểm d khoản 1 của Điều này dành riêng cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người tàn tật, khuyết tật, theo kế hoạch hàng năm của địa phương. Tổ chức dạy và thực hành kỹ thuật nghề nghiệp, các hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động khác phục vụ học tập.

Nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục góp phần phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007).

Theo Công văn (4309/BGDĐT-GDTX năm 2016 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2016-2017 đối với GDTX do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 01/09/2016) đã hướng dẫn: Tiếp tục triển khai kế hoạch của ngành giáo dục thực hiện chương trình hành động của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT; thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020” và đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; kiện toàn, củng cố mô hình hoạt động của trung tâm GDTX cấp huyện và trung tâm học tập cộng đồng theo hướng một cơ sở thực hiện nhiều nhiệm vụ; đổi mới công tác quản lý, tăng cường nề nếp, kỉ cương, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDTX; mở rộng việc dạy văn hóa kết hợp với dạy nghề và tổ chức giáo dục khởi nghiệp tại Trung tâm GDTX, góp phần phân luồng học sinh sau trung hoc̣ cơ sở; nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo viên các Trung tâm GDTX để tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công chức, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân và người lao động; tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên mầm non, phổ thông; tăng cường tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục kĩ năng sống; tiếp tục đổi mới hoạt động của thư viện trường học, xây dựng tủ sách lớp học, phát triển văn hóa đọc gắn liền với đổi mới đồng bộ phương pháp daỵ hoc,̣ kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của người học; chú trọng ứng dụng CNTT trong quản lý, dạy, học và bồi dưỡng giáo viên. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016)

1.4.3. Nội dung quản lý ĐNGV ở Trung tâm GDTX Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Nội dung quản lý ĐNGV ở Trung tâm GDTX thực hiện theo các quy trình sau:

Quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên

1.4.3.1. Quy hoạch đội ngũ giáo viên

Quy hoạch ĐNGV là quá trình thực hiện biện pháp để tạo nguồn, xây dựng đội ngũ nhất là lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong một thời gian nhất định. Quy hoạch giáo viên là sự chuẩn bị thận trọng, công phu, có tầm nhìn xa, có quan điểm rõ ràng trong sự đánh giá, lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp đội ngũ, đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu tổ chức nhằm phục vụ tốt nhất cho quá trình xây dựng và phát triển của trung tâm trong từng giai đoạn.

Hàng năm, lập quy hoạch, dự báo về nhu cầu số lượng giáo viên của từng môn học. Công tác lập quy hoạch là rà soát, bố trí, sắp xếp tổ chức. Công tác quy hoạch ĐNGV mang tính kế hoạch rất cao, đó là kế hoạch về sự tuyển chọn, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng con người bằng công việc, qua công việc. Thông qua quy hoạch nhằm điều chỉnh, bổ sung về số lượng, chất lượng ĐNGV giúp có được ĐNGV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và đạt chuẩn về trình độ.

Trong công tác quy hoạch đội ngũ giáo viên cần quán triệt những quan điểm nhằm thực hiện các nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với việc phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Quy hoạch đội ngũ GV phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Trung tâm, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên hiện có, dự kiến khả năng phát triển của họ và tính đến khả năng bổ sung nguồn từ bên ngoài.

1.4.3.2. Tuyển dụng đội ngũ giáo viên

Tuyển dụng giáo viên phải đảm bảo nhiều yếu tố quan trọng như đảm bảo tính phân cấp, tính công khai, minh bạch trong quy trình tuyển dụng, tiêu chí tuyển dụng hợp lý, đảm bảo tính hợp lý giữa các bộ môn, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ giáo viên, để thực hiện mục tiêu đào tạo của Trung tâm. “Tuyển dụng là công việc xét chọn người thích hợp và nhận vào làm việc”. (Nguyễn Như Ý, 1999)

GV được tuyển dụng đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Đảm bảo sự cân đối và hợp lý giữa các bộ môn trong tuyển dụng không để tình trạng quá thiếu hoặc thừa GV ở các bộ môn.

Việc bố trí, sắp xếp tổ chức bộ máy và ĐNGV một cách khoa học, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của Trung tâm sẽ luôn mang lại chất lượng mới cho đội ngũ giáo viên và đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong tập thể lãnh đạo và trong toàn Trung tâm. Cần làm rõ số lượng, yêu cầu trình độ học vấn, cơ cấu chuyên môn của từng ngành ĐT, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch tuyển dụng GV trong từng giai đoạn phát triển của trung tâm. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

1.4.3.3. Sử dụng đội ngũ giáo viên

Sử dụng GV là phân công nhiệm vụ cho họ, cắt cử họ vào những vị trí công tác thích hợp, tạo những điều kiện thuận lợi để họ nâng cao chất lượng giảng dạy, GD đồng thời phát huy được khả năng lao động sáng tạo. Người xưa nói: “dụng nhân như dụng mộc”, dụng nhân không chỉ là một khoa học mà còn là cả một nghệ thuật. Nó đòi hỏi nhà tổ chức phải có nhãn quan nhạy bén, có bộ óc sáng suốt và phải có “lòng trong, tâm sáng” để nhìn nhận, đánh giá đúng giá trị của một con người. Từ đó đặt họ vào đúng vị trí mà xã hội đang cần để có thể phát huy triệt để năng lực của họ. (Hoang Xuân Việt, 2005)

Trong công tác sử dụng GV, trước hết người GĐ phải tạo ra sự ổn định cần thiết đối với tổ chuyên môn, nhóm chuyên môn. Tiếp theo là hình thành các tổ chức theo quan hệ phối hợp để chỉ đạo các hoạt động chuyên môn. Cuối cùng là lựa chọn và phân công hợp lý GV dạy ở các lớp và tham gia các hoạt động chuyên môn trên cơ sở năng lực, sở trường và nguyện vọng cá nhân như:

Phân công giảng dạy đúng với chuyên môn được đào tạo của GV và tiêu chuẩn tuyển dụng. Phân công giảng dạy trong từng khối có sự xen kẽ giữa GV khá, giỏi và GV trung bình yếu. Phân công GV có chú ý kết hợp giữa năng lực và nguyện vọng của GV. Phân công GV hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho GV tập sự

Một vấn đề cũng cần được quan tâm trong việc sử dụng GV là Giám đốc cần tìm được sự thống nhất chung từ nguyện vọng của GV, sự đề nghị, tham mưu của tổ chuyên môn, sự bàn bạc dân chủ với đại diện Ban Chấp hành Công đoàn và Đoàn Thanh niên từ đó mới đưa ra quyết định QL của mình. Giám đốc cần phân công cho các phó Giám đốc, các tổ trưởng chuyên môn, nhóm trưởng chuyên môn giúp Giám đốc quản lý thông qua các biện pháp chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ hoạt động của các tổ chuyên môn.

Quản lý công tác phân công GV là khâu quan trọng trong công tác quản lý đội ngũ giáo viên, vì có sắp xếp sử dụng hợp lý đúng người đúng việc mới tạo điều kiện cho từng GV phát huy được khả năng của họ. Để làm tốt công tác này đòi hỏi người giám đốc phải thật sự công bằng và khách quan nhằm đảm bảo hài hòa quyền lợi của đội ngũ giáo viên và lợi ích HV, đồng thời hướng đến nâng cao chất lượng giáo dục.

1.4.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Đào tạo và bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thực chất là xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng là hai mặt của một thể thống nhất, trong đó bồi dưỡng giáo viên với ý nghĩa đào tạo tiếp tục là yêu cầu cấp thiết để nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và đổi mới cơ cấu tri thức. Vì vậy người lãnh đạo phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ bản chất giữa “dùng người” và “bồi dưỡng người”, “bồi dưỡng người” là để “dùng người” tốt hơn nữa, người quản lý phải có tầm nhìn chiến lược, phải coi trọng việc đầu tư trí tuệ cho đội ngũ giáo viên, CBQL. “Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho họ có thể vào đời hành nghề một cách năng suất, hiệu quả” (Trần Văn Tùng, 2005)

Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) nhận định rằng: “Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp” (Phạm Văn Thanh,1999)

Tác giả Nguyễn Thị Thanh, 2001 cho rằng: “Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu trong một cấp học, bậc học và trường học được xác nhận bằng một chứng chỉ.

Xã hội hiện nay đang hướng đến tới xây dựng “một xã hội học tập” và “học tập suốt đời” thì việc đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng là điều tất yếu và nó phải trở thành nhu cầu của mỗi cá nhân.

Trong bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên càng phải được chú trọng hơn lúc nào hết. Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Tiến hành xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, bảo đảm số lượng, nâng cao chất lượng, cân đối về cơ cấu, đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.”. Mặt khác, lao động giáo viên là một loại lao động đặc biệt, nó mang tính đặc thù về đối tượng, phương tiện, thời gian và sản phẩm lao động. Việc này đòi hỏi người thầy phải có kiến thức sâu rộng, có kiến thức về tâm lý học, giáo dục học, người GV phải năng động, sáng tạo, yêu nghề và phải có nhân cách.

Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên: Trước hết cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV theo nội dung và giai đoạn. Thành lập hội đồng bầu chọn GV tham gia các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ công bằng, khách quan. Tổ chức các hoạt động nhằm kích thích hứng thú, động cơ học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ cho GV. Có kế hoạch giám sát việc tham gia các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ của GV. Tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho GV tại trung tâm. Tổ chức hội thảo chia sẻ sáng kiến kinh nghiệm giảng dạy giữa các GV trong trung tâm theo định kỳ. Tạo điều kiện và có chính sách khuyến khích GV học sau đại học để nâng cao trình độ. Triển khai kế hoạch đào tạo bồi dưỡng theo các nội dung và đúng tiến độ đã xác định trong kế hoạch. Tạo điều kiện học tập thuận lợi để mọi người cùng nhau học tập một cách chủ động và sáng tạo. Khuyến khích từng GV lập kế hoạch học tập và tự bồi dưỡng. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Do đó, để tạo điều kiện cho GV hoàn thiện hơn nữa nhân cách của người thầy, Trung tâm cần chú trọng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cả hai mặt của nhân cách đó là năng lực và phẩm chất. Có như vậy, mới tạo ra những người thầy thật có tâm và thành thạo về phương pháp. Từ đó, lao động sư phạm của người thầy mới có hiệu quả. Hiệu quả và sản phẩm lao động sư phạm của người GV là chất lượng giáo dục, nó biểu hiện cụ thể ở nhân cách của học viên. Đây là nét khác biệt nổi bật giữa lao động sư phạm và các loại lao động khác. Lao động của GV vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật và có tính nhân đạo, là lao động vừa phức tạp, vừa tinh tế. Vì vậy, đòi hỏi người GV phải luôn luôn tích cực trao dồi, học tập, tự nghiên cứu, học hỏi để ngày càng hoàn thiện hơn nữa về năng lực và phẩm chất của mình, đáp ứng được yêu giáo dục hiện nay

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ĐNGV Trung tâm GDTX đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ĐNGV. Theo Hoàng Gia Trang

Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thì: Sự nghiệp đổi mới giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ giáo viên phổ thông. Để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, trước hết cần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Ngoài đào tạo thì động lực làm việc cũng là yếu tố quan trọng góp phần vào chất lượng dạy và học. (Hoàng Gia Trang, 2017)

1.5.1. Các yếu tố ảnh hưởng bên trong

1.5.1.1. Phẩm chất và năng lực của người quản lý

1). Phẩm chất của người quản lý

Thực hiện nghiêm túc quy định về đạo đức nhà giáo. Tư tưởng đổi mới trong lãnh đạo, quản trị Trung tâm. Đổi mới phương pháp quản lý nề nếp, kỷ cương trong giáo dục, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót về chuyên môn, về đạo đức nhà giáo; thiết lập kỷ cương hành chính trong mọi hoạt động, thực hiện triệt để “Hai không” trên mọi lĩnh vực; Tiếp tục thực hiện chủ đề năm học 2018 -2019; “Đổi mới thực chất, hiệu quả nâng cao” với phương châm hành động “Trách nhiệm-Năng động-Sáng tạo”và thực hiện khẩu hiệu hành động “Tất cả vì học sinh thân yêu”.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi các văn bản chỉ đạo về chuyên môn. Chỉ đạo các phòng, tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch cụ thể từ đầu năm theo định hướng nhiệm vụ chung của ngành giáo dục, của đơn vị, của phòng, tổ bộ môn theo từng cấp học. Đẩy mạnh công tác truyền thông, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy học. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên: Tăng cường nhận thức, công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, tác phong lành mạnh, làm cho cán bộ giáo viên trong Trung tâm nhận thức rõ vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá; Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lý phát triển đúng định hướng và có hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2). Năng lực của người quản lý

Cán bộ QLGD ngày nay phải là những con người toàn năng, vừa có tầm nhìn chiến lược, vừa thành thạo kỹ năng nghiệp vụ QL nhà trường, nghiệp vụ tổ chức sư phạm, vừa thực hiện tốt sự liên nhân cách, biết xử lý các tình huống gay cấn của cấp QL. Trong đó, kỹ năng công tác kế hoạch, tổ chức, kiểm tra, xử lý thông tin theo kịp thời sự phát triển của nhà trường, trung tâm giáo dục trước bối cảnh hội nhập quốc tế. Đồng thời, có một số kiến thức, kỹ năng về tin học, ngoại ngữ để theo kịp đà phát triển chung của xã hội.

Một người giám đốc giỏi không phải là người có tham vọng tìm cách giỏi hơn mọi giáo viên mà là người biết dùng giáo viên giỏi. Do đó, quản lý đội ngũ giáo viên là cả một nghệ thuật, người giám đốc trung tâm phải làm sao để xây dựng đội ngũ giáo viên thành một tổ chức biết học hỏi. Đội ngũ giáo viên THPT ngày nay có trình độ chuyên môn tương đối cao và rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa họ là một yêu cầu bắt buộc, từ đó mới có thể đáp ứng với yêu cầu đổi mới sự nghiệp GD&ĐT. Bên cạnh đó, bản thân đội ngũ cán bộ QLGD các trường THPT, các trung tâm cũng phải luôn luôn “biết học hỏi” ở mọi lúc, mọi nơi để có thể làm tốt nhiệm vụ quản lý của mình.

Đặc điểm của lao động quản lý là loại lao động trí óc sáng tạo, có tính cộng đồng; mang tính gián tiếp trong quá trình lao động; Là một dạng hoạt động thực tiễn. Bản chất của nó không phải là “biết” mà là “làm”. Việc chứng minh sự đúng đắn của quản lý không phải là bằng nghiên cứu logic mà là kết quả thực tế của công việc. Đối tượng của quá trình quản lý là một hệ thống bao gồm nhiều người, nhiều sự vật và sự việc với nhiều quy mô, cấp độ khác nhau và luôn biến động. Lao động quản lý đòi hỏi người quản lý phải có kiến thức tổng hợp và vận dụng tổng hợp hiểu biết về nhiều lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật, chính trị, pháp lý, tâm lý, giáo dục, ngoại giao, văn hoá…

Chính vì vậy hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên, trước tiên phụ thuộc vào nhận thức, trình độ tổ chức và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ quản lý ở các cấp. Bên cạnh trình độ chuyên môn, người cán bộ quản lý còn là người có trình độ tổ chức, khả năng xử lý linh hoạt các tình huống thực tế, là người thức thời, nhạy bén với thời cuộc, khả năng nắm bắt tâm lý con người, … điều đó đòi hỏi cái tâm, cái tầm của nhà quản lý phải cao. Nói cách khác nghệ thuật quản lý của nhà quản lý tác động rất lớn đến hiệu quả quản lý đội ngũ giáo viên. (Bùi Ngọc Oánh,1995)

1.5.1.2. Nhận thức giáo viên về phát triển chuyên môn

Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá; ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực, sáng tạo của học viên. Thường xuyên dự giờ trao đổi học tập kinh nghiệm đúng quy định, khuyến khích giáo viên chủ nhiệm lớp dự giờ GV bộ môn dạy lớp mình. Tăng cường tự thanh tra, kiểm tra rà soát lại các mặt công tác để uốn nắn kịp thời những sai sót. Các tổ chuyên môn chủ động thanh, kiểm tra tất cả giáo viên bằng nhiều hình thức linh hoạt, đảm bảo 100% GV được kiểm tra về chuyên môn; Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Đẩy mạnh hoạt động sinh hoạt của các tổ chuyên môn, tổ chức họp 2 lần mỗi tháng, nhằm phát huy đổi mới dạy học tạo tính chủ động tiếp thu của học viên. Chủ động sáng tạo sự phối hợp giữa Trung tâm, các đoàn thể và Ban đại diện cha mẹ học viên để mỗi gia đình và toàn xã hội quan tâm hơn nữa đến việc học tập của các em; Thực hiện nghiêm túc quy chế thi trong các kỳ kiểm tra chung, kiểm tra học kỳ trong năm và kỳ thi thử tốt nghiệp, tăng cường công tác thanh, kiểm tra và đánh giá xếp loại giáo viên để kịp thời uốn nắn những thiếu sót trong quá trình thực hiện quy chế chuyên môn, thu, chi tài chính và quản lý tài sản của đơn vị.

1.5.1.3. Kiến thức kỹ năng hiện có của giáo viên

Người giáo viên cần có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu: Thế giới đang ở trong quá trình của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với những tác động sâu sắc đến toàn bộ các mặt kinh tế và đời sống xã hội. Khối lượng tri thức nhân loại như một dòng thác khổng lồ đang cuồn cuộn chảy trên xa lộ thông tin… Học là công việc suốt cả đời của bất kỳ ai. Đối với người đi dạy, điều đó lại càng quan trọng hơn. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của máy vi tính và công nghệ thông tin, cơ hội tiếp cận tri thức của mỗi người đều bình đẳng với nhau. Điểm khác nhau cơ bản là khả năng tiếp cận, phát hiện và giải quyết vấn đề. Những kỹ năng đó một phần được bồi dưỡng tiếp tục nhờ vào quá trình tự học…

Giáo viên cần có kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin: Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học của học viên cũng đã có nhiều thay đổi. Thói quen học thuộc một cách thụ động nhường chỗ cho việc tự tìm tòi, khám phá. Những băn khoăn học viên gặp phải khi các em tiếp xúc với các nguồn thông tin khác nhau khiến cho các em tìm cách giải đáp. Việc học và chơi ngày càng được gắn với máy vi tính nhiều hơn, thu hút các em nhiều hơn vào sự tìm tòi, khám phá. Giáo viên không thể bằng lòng với những thông tin có sẵn trên các trang sách giáo khoa và tài liệu tham khảo. Internet là nguồn thông tin không thể thiếu được của những người làm nghề dạy học..

Giáo viên cần có kĩ năng hợp tác trong dạy học: Một trong 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ 21 do UNESCO đề xướng là “học để sống cùng nhau”. Trên tầm vĩ mô, thế giới ngày càng thu hẹp khoảng cách không gian nhờ vào công nghệ thông tin; nhiều giá trị nhân bản phổ biến đã trở thành nét chung của nhiều dân tộc. Thế giới đòi hỏi sự liên kết toàn cầu trong nhiều lĩnh vực. Khó có thể chấp nhận một quốc gia hay một cá nhân nào trong thời đại ngày nay đứng ngoài quỹ đạo của việc bảo vệ môi trường, chống khủng bố… Trong phạm vi cụ thể, sự hợp tác tạo nên nhiều thành tựu quan trọng đối với mỗi cá nhân. Kĩ năng hợp tác cần được rèn luyện ở mỗi giáo viên. Đến lượt mình, các thầy cô giáo lại dạy cho học sinh của mình cách hợp tác trong học tập và cuộc sống. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Giáo viên cần luôn tự bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấn đề: Cuộc sống của con người, suy đến cùng, là một chuỗi liên tục giải quyết vấn đề. Càng giải quyết tốt các vấn đề bao nhiêu, chất lượng cuộc sống của con người càng có nhiều cơ hội được nâng cao bấy nhiêu. Không nên xem nhà trường như một “ốc đảo”, mà nên xem nhà trường chính là cuộc sống. Các vấn đề thực tế cuộc sống được phản ánh vào nhà trường dưới một lăng kính đủ để cho người học tiếp cận theo cách phù hợp với lứa tuổi của mình. Giải quyết các vấn đề trong các bài học ở nhà trường cũng nên xem như giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Nhờ vậy, các em khỏi bỡ ngỡ khi bước vào đời sống thực tế phong phú. Đồng thời, ở một góc độ nào đó, người học khi ra trường khỏi phải mất công đào tạo tiếp từ thực tế cuộc sống và công việc. Để làm được điều đó, giáo viên cần phải luôn tự rèn luyện và bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấn đề…Tổ chức các nhóm tự bồi dưỡng giáo viên theo mô hình liên môn và liên trường là một trong những con đường tự bồi dưỡng thiết thực và hiệu quả.

Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ. Con người – nhân tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế xã hội đang được chính phủ dành sự quan tâm đặc biệt. Trong bối cảnh đó vai trò của Trung tâm GDTX càng trở nên quan trọng. Nhân tố đầu tiên tạo nên bộ mặt Trung tâm GDTX lại chính là ĐNGV, những người được xã hội giao phó trọng trách đào tạo – những chủ nhân tương lai của xã hội. Từ đó, đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải đáp ứng các yêu cầu về trình độ, năng lực và phẩm chất tốt.

Hiệu quả của công tác quản lý đội ngũ giáo viên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ giáo viên. Do vậy, quản lý đội ngũ giáo viên phải có những biện pháp kích thích, tạo động lực cho đội ngũ này luôn phát triển. Bản thân người giáo viên phải có ý chí, hoài bão vươn lên; không ngừng phấn đấu, học tập, tu dưỡng và rèn luyện nhân cách, thực sự là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo.

1.5.1.4. Các cách tạo động lực của người quản lý

1). Cách tạo động lực của người quản lý

Các cách tạo động lực là yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ĐNGV. Theo Hoàng Gia Trang – Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thì: Sự nghiệp đổi mới giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ giáo viên phổ thông. Để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, trước hết cần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Ngoài đào tạo thì động lực làm việc cũng là yếu tố quan trọng góp phần vào chất lượng dạy và học.

Tăng chế độ phúc lợi: Động lực làm việc của giáo viên do nhiều yếu tố chi phối, trong đó chính sách bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần có vai trò rất quan trọng. Có thể nói, trong ngạch viên chức, giáo viên được ưu đãi hơn so với viên chức sự nghiệp các ngành khác, vì ngoài lương còn có phụ cấp giảng dạy và thâm niên. Điều này đã phần nào giảm bớt khó khăn của đội ngũ “trồng người”. Tuy nhiên, so với mức sống chung của xã hội, một bộ phận không nhỏ giáo viên còn gặp khó khăn do không có thu nhập nào khác ngoài những khoản đã nêu trên. Vì vậy, ngoài tiền lương, phụ cấp, cần có quan tâm đến phúc lợi cho giáo viên. Kết quả khảo sát yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của giáo viên đối với công việc cho thấy, “chế độ tiền lương và phúc lợi” là yếu tố thứ 3. Vì thế, bên cạnh chăm lo đời sống vật chất cần chú ý tới đời sống tinh thần cho giáo viên thông qua hoạt động tham quan, giao lưu để làm giàu vốn sống, tri thức… Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Tạo môi trường làm việc tích cực: Xây dựng văn hóa trường học tích cực sẽ tạo môi trường thuận lợi cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo của bản thân; đồng thời tạo sự gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau nhằm phát triển chuyên môn. Có sự ghi nhận, đánh giá công bằng, công khai, dân chủ đối với thành tích của giáo viên. Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, sắp xếp thời gian giảng dạy hợp lý, tạo môi trường cảnh quan sư phạm thân thiện… Môi trường làm việc tích cực còn được thể hiện qua tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia xây dựng chiến lược phát triển trung tâm, được trao đổi, bàn bạc công khai các hoạt động của trung tâm nhằm giúp họ hiểu rõ và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.

Tăng cường bồi dưỡng: Bồi dưỡng giáo viên là hoạt động thường xuyên của ngành giáo dục. Tuy nhiên, hoạt động này thường do cấp trên đưa xuống chứ không xuất phát từ nhu cầu của trường học và giáo viên. Vì thế, cần xây dựng các quy định về bồi dưỡng giáo viên, có hoạt động do cơ quan quản lý giáo dục cấp trên tổ chức, nhưng cũng có nội dung giao cho các trường, hoặc cụm trường, trung tâm thực hiện dựa trên nhu cầu của giáo viên và định hướng phát triển của trung tâm. Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ tài chính để giáo viên tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, chuẩn bị thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.

2). Cách tạo động lực theo phương pháp quản lý

Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý.

Các phương pháp quản lý đội ngũ giáo viên hết sức đa dạng và phong phú. Các tác giả dựa trên tiêu chí khác nhau để có cách phân loại khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào nội dung và cơ chế hoạt động quản lý, có phương pháp hành chính – tổ chức, phương pháp kinh tế, phương pháp tâm lý xã hội. Nếu dựa vào chức năng tổ chức thì có các phương pháp: Phương pháp kế hoạch hóa, phương pháp tổ chức, phương pháp chỉ đạo và phương pháp kiểm tra. Ngoài ra, người ta còn chia các phương pháp quản lý thành hai nhóm: Các phương pháp mang tính bắt buộc và các phương pháp mang tính khuyến khích, động viên. Trong quản lý giáo dục nói chung và quản lý trung tâm GDTX nói riêng, cách phân loại được áp dụng nhiều và tỏ ra phù hợp là cách phân loại dựa vào nội dung – cơ chế hoạt động quản lý, đó là:

Phương pháp hành chính – tổ chức: “là tổng thể các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý dựa trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực nhà nước” (Trần Kiểm, 2004). Các mối các hệ tổ chức và quyền uy xuất hiện ở tất cả các tổ chức giáo dục, các cấp bậc QLGD và các cơ sở GD. Đặc trưng cơ bản của phương pháp này là sự cưỡng bức đơn phương của chủ thể quản lý. Quan hệ ở đây là quan hệ giữa quyền uy và phục tùng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cá nhân và tổ chức. Cấp trên ra lệnh, cấp dưới buộc phải chấp hành. Có nhiều hình thức thực hiện phương pháp này, đó là luật (như luật giáo dục) điều lệ (như điều lệ Trung tâm), quy chế (như quy chế tổ chức và hoạt động của các trường dân lập), nghị quyết, quyết định, chỉ thị, các văn bản hành chính, mệnh lệnh… Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Phương pháp kinh tế: “là tổng thể các tác động đến con người thông qua lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, nhằm phát huy ở họ tiềm năng, trí tuệ, tình cảm, ý chí, trách nhiệm và quyết tâm hành động vì lợi ích chung của tổ chức” (Trần Kiểm, 2004).

Những kích thích vật chất có thể kể như: các thang, bậc lương, tiền thưởng, điều kiện sinh hoạt, lao động,…có ý nghĩa tích cực đối với giáo viên, khiến họ lao động nhiều hơn, tốt hơn, có năng suất hơn để có những cống hiến xứng đáng cho tập thể. Những kích thích về tinh thần có thể kể như: phong danh hiệu thi đua, danh hiệu GV giỏi các cấp, nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân, … ngoài ra, các kích thích về chính trị (như kết nạp Đảng), về khoa học (như tạo điều kiện cho GV đi học sau đại học…) cũng thuộc loại kích thích tinh thần. Điều cần lưu ý là cần kết hợp các kích thích vật chất – tinh thần trong quá trình quản lý đội ngũ GV. Quá coi trọng kích thích vật chất sẽ tầm thường hóa GV, vả lại cũng không phù hợp với môi trường GD. Ngược lại, quá coi trọng kích thích tinh thần sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí.

Phương pháp tâm lý- xã hội: “là tổng thể các tác động lên trí tuệ, tình cảm, ý thức và nhân cách của con người. Mục đích của phương pháp này là thông qua những mối quan hệ liên nhân cách tác động lên con người nhằm cung cấp, trang bị thêm hiểu biết, hình thành những quan điểm đúng đắn nâng cao khả năng, trình độ thực hiện nhiệm vụ của họ, đồng thời chuẩn bị tư tưởng, tình cảm, ý thức trách nhiệm, ý thức tự giác, tự chủ, lòng kiên trì, tinh thần tự chịu trách nhiệm, không khí lành mạnh… trong tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ” (Trần Kiểm, 2004). Trong quản lý đội ngũ giáo viên, phương pháp này được sử dụng nhiều, một phần do đặc điểm của môi trường hoạt động GD, phần khác do tính hiệu quả cao của nó. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, làm cho GV hiểu rõ đúng – sai, phải – trái, tốt-xấu, lợi-hại, thiện- ác,…để từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với tổ chức. Cơ sở khách quan của phương pháp này là các quy luật nhận thức – tư duy, các quan hệ và quy luật tâm lý – GD – xã hội; trong khi đó hoạt động quản lý đội ngũ giáo viên lại diễn ra trong môi trường GD, môi trường đụng chạm nhiều đến học thuật, chính vì thế mà phương pháp tâm lý – xã hội được sử dụng nhiều trong quản lý đội ngũ giáo viên.

3). Cách tạo động lực bằng công cụ quản lý

Công cụ quản lý đội ngũ giáo viên là những phương tiện, những giải pháp của chủ thể quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hòa, phối hợp và đánh giá kết quả hoạt động của các thành viên trong tổ chức giáo dục hướng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra. Các loại công cụ quản lý đội ngũ giáo viên gồm:

Công cụ có tính pháp lý như: luật pháp, pháp lệnh, nghị quyết, các chính sách, các văn bản, của các cơ quan có chức năng và thẩm quyền nhà nước ban hành như Nghị quyết của Đảng về Giáo dục và các vấn đề liên quan: luật giáo dục, nghị quyết của Quốc hội, nghị định của chính phủ…

Công cụ theo lĩnh vực quản lý như: công cụ quản lý ngành, công cụ quản lý của các ngành liên quan đến giáo dục, công cụ quản lý liên ngành… do các cơ quan chức năng ban hành như chỉ thị của Bộ trưởng Bộ GD&Đt về nhiệm vụ năm học, chế độ khen thưởng đối với giáo viên…

Công cụ kinh tế, kỹ thuật như: công cụ hạch toán, chi tiêu trong giáo dục, công cụ thống kê, xác suất… như hướng dẫn chỉ tiêu trong giáo dục, hương dẫn phân bổ ngân sách trong giáo dục…

Công cụ quản lý theo nội dung và quá trình quản lý như: công cụ quản lý chuyên môn, công cụ kiểm tra, đánh giá, công cụ điều chỉnh hoạt động như: chỉ thị của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về thi tốt nghiệp các cấp, hướng dẫn tuyển chọn bồi dưỡng học sinh giỏi, chỉ thị về tổ chức và quản lý dạy thêm học thêm, quy chế, quy định của giám đốc trung tâm, kế hoạch năm học…

1.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng bên ngoài Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

1.5.2.1. Các cơ chế chính sách, chủ trương về quản lý giáo viên

Về quản lý với quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương chính sách quan tâm, ưu đãi đối với sự nghiệp GD-ĐT. Điều đó thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị, quyết định…, về phát triển nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đây là căn cứ để các cấp quản lý giáo dục quán triệt và cụ thể hóa bằng các văn bản hướng dẫn thực hiện. Đây cũng là cơ sở để các nhà quản lý giáo dục hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch về phát triển đội ngũ giáo viên cho phù hợp với yêu cầu phát triển của trung tâm trong từng thời kỳ.

Triển khai cơ chế chính sách đối với giáo viên: Kế hoạch hóa công tác thi đua, khen thưởng kỷ luật đối với GV. Tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho GV. Có bố trí nhà công vụ cho GV xa nhà. Chế độ tiền lương, thưởng kịp thời cho GV. Có chế độ khen thưởng cho những GV hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo định kỳ và đột xuất. Hàng năm, có tổ chức cho GV đi tham quan giao lưu học tập ở một số nơi trong nước và nước ngoài. Thực hiện chế độ nâng lương trước thời hạn cho GV có thành tích xuất sắc trong năm học. Thực hiện chế độ nâng lương, truy lương, chế độ thừa giờ, tăng tiết cho GV. Kịp thời động viên, giúp đỡ GVcó hoàn cảnh khó khăn về tinh thần lẫn vật chất Thực hiện chế độ ma chay, cưới hỏi, hậu sản cho GV… Thực hiện chế độ ma chay, cưới hỏi, hậu sản cho GV…

Chính sách đối với GV có ý nghĩa rất quan trọng, nó chi phối mạnh mẽ việc hình thành tiềm năng và phát huy tiềm năng, sự nhiệt tình, gắn bó của GV với công việc. Chính sách đối với GV còn ảnh hưởng tới chất lượng công tác của GV. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường hiện nay, chế độ chính sách đối với GV mới chỉ đáp ứng những đòi hỏi trước mắt mà chưa tính đến mục tiêu lâu dài và trên cơ sở tầm nhìn, triết lý quản lý nguồn nhân lực. Vì vậy, trong điều kiện cơ chế thị trường, chính sách đối với GV có nhiều điểm cần nghiên cứu giải quyết kịp thời. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Giám đốc cần thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ chính sách, đảm bảo quyền lợi vật chất và tinh thần cho đội ngũ giáo viên như nâng lương, phụ cấp, trợ cấp khó khăn, tiền thưởng, phúc lợi, tiền tăng giờ, chế độ nghỉ hè. Phải tạo điều kiện về thời gian và phương tiện cho đội ngũ giáo viên hoàn thành nhiệm vụ được phân công như trang bị đồ dùng dạy học, GV có sách tham khảo, có phòng làm việc, phòng nghỉ, cung cấp văn phòng phẩm, trang bị phòng máy vi tính nối mạng cho GV truy cập thông tin. (Chu Mạnh Nguyên, 2005). Giám đốc cùng Ban Chấp hành Công đoàn cần chú ý tổ chức đời sống tinh thần cho cán bộ, GV như tham quan du lịch, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao…

1.5.2.2. Quan hệ Trung tâm GDTX với phụ huynh, học viên nhằm phát triển trung tâm và cộng đồng xây dựng xã hội học tập

Đối với phụ huynh thì việc cho con học ở Trung tâm GDTX không phải là sự lựa chọn. Có lẽ bắt nguồn đầu tiên từ hai chữ “bổ túc” nên khá nhiều người có suy nghĩ và cái nhìn thiếu thiện cảm với việc học ở Trung tâm GDTX. Theo Phan Tuyết có nhiều phụ huynh khi tìm kiếm cho con chỗ học vào lớp 10 công lập.., có lẽ cũng là nỗi lòng chung của không ít phụ huynh khi có con bị trượt lớp 10. Số lượng tuyển sinh ít mà nhu cầu lại quá nhiều.. Học sinh trượt sẽ đi học nơi nào? Đâu sẽ là lựa chọn phù hợp nhất với những gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn? Trường tư thục, tư thục chất lượng cao đương nhiên sẽ là lựa chọn tốt nhất. Nhưng vào học nơi đây, phải là gia đình có điều kiện.

Chương trình giáo dục thường xuyên có thuận lợi gì?. Hiện nay, các huyện thị đều có trung tâm giáo dục thường xuyên mở các lớp dạy Bổ túc văn hóa… Về chương trình học, các em sử dụng cùng một loại sách giáo khoa theo chương trình cơ bản của phổ thông để học nhưng đã được bỏ bớt một số nội dung cho vừa sức. Về môn học, không học nhiều môn như học sinh phổ thông. Có 7 môn học bắt buộc như Toán, Vật lý, Hóa học, Văn, Sinh học, Lịch sử, Địa lý… Với thời lượng học như thế, sẽ không chiếm nhiều thời gian và học sinh có thể sử dụng thời gian nghỉ để tự học hoặc học thêm nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức được vững chắc hơn.

Về học phí, phụ huynh không phải đóng góp nhiều. Mức đóng học phí tùy thuộc vào vùng miền nhưng tuyệt đối sẽ thấp hơn rất nhiều so với các khoản đóng góp ở trường trung học phổ thông hiện nay. Về quyền lợi, sau khi các em học xong chương trình lớp 12, sẽ được tham dự kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông cùng một ngày với học sinh học tại các trường trung học phổ thông.

Nếu thi đỗ sẽ được cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, phôi bằng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và không có sự phân biệt hệ giáo dục thường xuyên hay trung học phổ thông. Với bằng tốt nghiệp này, học sinh được đăng ký dự thi vào đại học ở bất cứ ngành học nào, bất cứ trường nào trong cả nước. Về chế độ ưu tiên khuyến khích trong kỳ thi tốt nghiệp là mỗi em được ưu tiên cộng điểm vào tổng điểm thi. Nếu có chứng chỉ Tin học, Anh văn, chứng chỉ nghề phổ thông. Những loại chứng chỉ này hiện các trung tâm giáo dục thường xuyên đang tổ chức dạy và trực tiếp cấp chứng chỉ cho người học… Với nhiều ưu điểm như thế nhưng vì sao học sinh không hào hứng, phụ huynh vẫn không mặn mà với hệ đào tạo này? Có lẽ bắt nguồn đầu tiên từ hai chữ “bổ túc” nên khá nhiều người có suy nghĩ và cái nhìn thiếu thiện cảm với loại hình đào tạo này. Trong mắt của không ít người phải học “bổ túc văn hóa” là những người.. “không thể thi đỗ vào trường công lập nào”…. Nhiều năm trở lại đây.., chất lượng học tập nơi này đã được nâng lên rõ rệt thể hiện bằng việc tỉ lệ học sinh tốt nghiệp khá cao trong các kỳ thi trung học phổ thông quốc gia. Như vậy, nhiều giáo viên đã đưa ra lời khuyên những em nào không được tuyển vào lớp 10 tại các trường trung học phổ thông công lập, thì con đường vào học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên theo chương trình giáo dục thường xuyên là tốt nhất. Đây là cách lựa chọn hoàn toàn đúng đắn. Việc lựa chọn này không chỉ phù hợp với sức học còn phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình các em. (Phan Tuyết. 2018). Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Học viên hệ GDTX cấp THPT phần lớn các em đều là học sinh thi không đạt điểm vào trường chính qui hoặc lưu ban ở các trường khác chuyển đến, một số người lớn đang làm việc có nguyện vọng nâng cao trình độ học vấn để làm công việc tốt hơn, một số khác do yêu cầu của đơn vị họ phải đi học, cũng có một số nghỉ học nhiều năm, thất nghiệp muốn có giấy chứng nhận trình độ cần thiết để tìm việc làm. Về tuổi đời cũng có sự chênh lệch lớn giữa các học viên. Người lớn tuổi học cùng với người trẻ tuổi. Về điều kiện và thời gian dành cho việc học cũng không đồng đều. Những người đang làm việc trong cơ quan, xí nghiệp hoặc lao động tự do thì không có nhiều thời gian dành cho việc học tập.

Các hoạt động chính trị, xã hội của Trung tâm GDTX: Phối hợp với gia đình và cộng đồng trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học viên. Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trung tâm để giáo dục học viên. Tham gia các hoạt động chính trị, xã hội ngoài Trung tâm nhằm phát triển trung tâm và cộng đồng, xây dựng xã hội học tập. Thực hiện theo Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 – 2020 và Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; thực hiện hiệu quả các hoạt động của Trung tâm, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người dân. Nội dung chương trình GDTX cấp THPT đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu học tập đa dạng của thanh thiếu niên và người lớn, để giúp họ nắm được những tri thức khoa học, kỹ thuật, có được thái độ phù hợp và kỹ năng thực hành ứng dụng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Đội ngũ giáo viên là một bộ phận của quá trình giáo dục trong Trung tâm GDTX, từ cơ sở lý luận chúng ta thấy rằng trong bối cảnh đổi mới công tác giáo dục hiện nay, thì công tác phát triển giáo dục là phát triển đội ngũ giáo viên, là một trong những nhiệm vụ quan trọng, mặt khác mục đích giáo dục luôn thay đổi nhằm phục vụ sự phát triển của đất nước, do đó vai trò của người thầy, cô giáo cũng phải thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, chính vì vậy mục tiêu đổi mới là quản lý phát triển đội ngũ phải thường xuyên thay đổi đó là mục tiêu về chất lượng.

Quản lý đội ngũ giáo viên bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá thực hiện quản lý đội ngũ giáo viên. Để thực hiện tốt hoạt động này Giám đốc và người quản lý phải thấy được những tác động, mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng.

Để phát triển đội ngũ giáo viên ngoài sự nỗ lực tự học của giáo viên, người quản lý còn phải tiến hành đồng thời cả hai việc đó là nắm bắt được mục tiêu giáo dục trong bối cảnh đổi mới công giáo dục hiện nay để đề ra những yêu cầu cụ thể, phát triển về chất lượng cho đội ngũ hiện có, và đó cũng là cơ sở cho luận văn đề ra các giải pháp. Kinh nghiệm từ những nghiên cứu của các tác giả trên thế giới trong và ngoài nước. Qua cách tiếp cận kiến thức quản lý đội ngũ GV từ góc độ khác nhau cho thấy nội dung quản lý đội ngũ GV là sự thống nhất trên các mặt: quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá và các cơ chế chính sách đối với GV. Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục.

Việc nghiên cứu, phân tích các cơ sở lý luận có liên quan đến ĐNGV, quản lý ĐNGV, các điều kiện cần thiết và vai trò của người Giám đốc trong việc quản lý tổ chức thực hiện công việc dạy học của ĐNGV là những cơ sở lý luận cho các công việc kế tiếp để nghiên cứu về thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý ĐNGV cho GĐ trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một. Đó là nội dung sẽ được giải quyết tiếp tục ở chương 2 và 3.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993