Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh bình dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội TP. Thủ Dầu Một, Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương

2.1.1. Khái quát Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội TP. Thủ Dầu Một

Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và một phần thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và một phần tỉnh Đồng Nai. Theo thông tin thống kê mới nhất, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước, khoảng 12% diện tích miền Đông Nam bộ); dân số 2.070.951, mật độ dân số là 769 người/ km2 (Niên giám thống kê 2017 do Cục Thống kê Bình Dương phát hành); 09 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm: thành phố Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An, thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên và các huyện Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Dầu Tiếng, Phú Giáo) và 91 đơn vị hành chính cấp xã (46 xã, 41 phường, 04 thị trấn). (Trần Thái, 2018)

Thành phố Thủ Dầu Một là trung tâm kinh tế, hành chính của tỉnh Bình Dương và nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Thành phố Thủ Dầu Một nằm trên trục đường hướng tâm đối ngoại của TP.HCM với tuyến cao tốc Hồ Chí Minh – Thủ Dầu Một – Chơn Thành. Thành phố này được xác định là đô thị vệ tinh độc lập của đô thị hạt nhân vùng bao gồm các chức năng khu công nghệ cao, công nghiệp sạch có hàm lượng kỹ thuật cao. Có các tuyến, điểm du lịch quốc gia – quốc tế, trung tâm đào tạo của vùng và là trung tâm dịch vụ cấp quốc gia, cấp vùng. Thủ Dầu Một cũng là thành phố trọng điểm trong tam giác tăng trưởng TP.HCM – Thủ Dầu Một – Vũng Tàu với vai trò là động lực phát triển ở phía bắc của vùng. Thành phố được đánh giá là đô thị đóng vai trò lớn trong liên kết, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh. Thủ Dầu Một có nhiều chuyển biến tích cực, tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Thực hiện theo Quyết định số 1959/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, ngày 2/2/2018 thành phố Thủ Dầu Một đã được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Dương. (Nguyễn Hồng Sáng, 2018) Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Với bề dày truyền thống lịch sử 300 năm xây dựng và phát triển, từ một đô thị nhỏ, chưa được quy hoạch, hạ tầng thiếu thốn, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân còn khó khăn, nhưng bằng những nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn thách thức, Thủ Dầu Một liên tục phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Cùng với chú trọng đầu tư phát triển kinh tế, các lĩnh vực y tế, giáo dục của thành phố cũng được đặc biệt quan tâm. Đến nay, 100% số trạm đạt chuẩn y tế phường xã; hơn 50% số trường đạt chuẩn Quốc gia; từ lúc chưa có trường đại học, nay thành phố có 7 trường đại học, 3 trường cao đẳng và 7 trường trung cấp, mỗi năm đào tạo hàng chục nghìn sinh viên, cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thủ Dầu Một là thành phố vừa đậm nét truyền thống, vừa hiện đại, có môi trường sinh thái tốt. (Nguyễn Hồng Sáng, 2018)

Từ năm học 2015-2016 đến năm học 2017-2018, ngành giáo dục TP. Thủ Dầu Một đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ từng năm học. Toàn ngành đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi đều khắp, phát huy nội lực của từng nhà trường, tập hợp được sức mạnh của tập thể, đảm bảo dân chủ trong trường học từng bước xây dựng xã hội hoá giáo dục.

Do đó, các chỉ tiêu đều triển khai thực hiện đạt kết quả tốt so với kế hoạch đề ra. Toàn ngành đã quán triệt nghiêm túc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước, các chủ trương lớn của ngành giáo dục, sự nghiệp giáo dục được phát triển theo hướng vững chắc. Mạng lưới trường lớp được huy hoạch phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, chất lượng giáo dục chuyển biến đáng kể phục vụ cho mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học, THCS và các cấp học cao hơn.

Mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng toàn ngành vẫn triển khai và thực hiện có hiệu quả chương trình đổi mới giáo dục phổ thông và chương trình sách giáo khoa mới. Chú trọng đầu tư xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả công tác quản lý, xây dựng đội ngũ. Quá trình thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục có hiệu quả giúp ngành thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong từng năm học.

Bên cạnh một số thành công trên, ngành giáo dục thành phố Thủ Dầu Một còn một số tồn tại cần khắc phục đó là:

Tỷ lệ huy động hàng năm trẻ vào nhà trẻ, mẫu giáo chưa tuyệt đối. Tỷ lệ học sinh lưu ban bình quân hàng năm 1,2% đến 1,5 %, tỷ lệ học sinh bậc THCS bỏ học hàng năm trong toàn huyện còn cao, chiếm tỉ lệ 2,0%. Tuy đội ngũ giáo viên đã được chuẩn hoá, nhưng một bộ phận giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Chất lượng giáo dục toàn diện được chú trọng, tình trạng học sinh bỏ học trong hè, trong năm có giảm nhưng vẫn còn cao. Phổ cập giáo dục THCS ngoài nhà trường đạt hiệu quả thấp, xã hội hoá giáo dục chuyển biến chưa đều. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Công tác quản lý từ sở giáo dục đến trường được tăng cường nhưng năng lực quản lý của cán bộ, hiệu trưởng các trường còn bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục địa phương, hiệu quả đào tạo và chất lượng giáo dục ở các trường chưa đồng đều. (Phòng GD&ĐT TP Thủ Dầu Một, 2018)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.1.2. Khái quát Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương

Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, Thu hút nhiều lao động trong và ngoài tỉnh, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và quá trình hiện đại hóa đất nước.

Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh có tổng diện tích 11.602 m2 tọa lạc tại đường 30 – 4 Phường Chánh nghĩa TP. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương, giáp ranh với Bến xe tỉnh Bình Dương thuận tiện cho việc đi lại của học viên.

Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương được thành lập theo quyết định số 824/QĐ-UB ngày 19/11/1993 của UBND tỉnh trên cơ sở của Trung tâm đào tạo bồi dưỡng tại chức tỉnh. Với hoạt động giảng dạy bổ túc văn hóa, trong 16 năm qua, Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh đã thu hút mỗi năm hơn 1.200 học viên là cán bộ công chức, người lao động, thanh niên do nhiều hoàn cảnh khác nhau chưa hoàn tất chương trình học cấp 2 và cấp 3, các học sinh không đủ điều kiện vào học cấp 3 ở các trường công lập và bán công có cơ hội tiếp tục học tập.

Trung tâm đã tạo cơ hội học tập cho mọi người với phương thức học viên chọn lớp, chọn thời gian học tập để bổ túc kiến thức văn hóa, đáp ứng yêu cầu công tác và xã hội, góp phần phổ cập giáo dục ở địa phương.

Nhờ sự nỗ lực giảng dạy và học tập, kết quả thi tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông và dạy nghề phổ thông cho học sinh của các trường THCS và THPT hàng năm đạt tỷ lệ trên 90%. Bên cạnh đó, chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ Anh văn và bồi dưỡng tin học ứng dụng cũng được Trung tâm chú ý đáp ứng nhu cầu học tập của các đối tượng để đáp ứng những đòi hỏi trong công việc, tiêu chuẩn hóa trình độ cán bộ công chức, tạo điều kiện tìm việc làm cho thanh niên. Mỗi năm, có hàng ngàn học viên (hằng đêm có khoảng 200 học viên) theo học các lớp anh văn, tin học ở các trình độ và dự các kỳ thi tốt nghiệp do Sở Giáo dục và Đào tạo và Trung tâm phối hợp tổ chức.

Trong những năm qua, Trung tâm đã cung cấp khá nhiều nhân viên, công nhân có trình độ ngoại ngữ nhất định cho các khu công nghiệp trong tỉnh. Vì vậy, Trung tâm trở thành nơi đáng tin cậy cho học viên có nhu cầu học tập tiếp thu kiến thức về ngoại ngữ và tin học. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Trung tâm GDTX tỉnh đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Dương trong nhiều năm qua. Tổng hợp kết quả sau 03 năm tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2017 – 2018 đã cho thấy vai trò cơ cấu tổ chức của Trung tâm với những kết quả đã đạt được như sau

2.1.2.1. Kết quả GDHN dạy nghề phổ thông ở Trung tâm

Đối với công tác giảng dạy lao động giáo dục hướng nghiệp dạy nghề phổ thông cho thanh, thiếu niên, học sinh các trường THCS, THPT kết quả đạt được theo từng năm học được tổng hợp trong bảng sau:

2.1.2.2. Kết quả các chương trình liên kết đào tạo đại học, bồi dưỡng ngắn hạn ở Trung tâm

  • Kết quả khối Kỹ thuật hướng nghiệp:

Tỷ lệ học sinh giỏi 49,20 % (tăng 14.2%), khá 32,20% (giảm 12.8% so với chỉ tiêu); trung bình 16,4 % (giảm 0.6%); yếu 2,2 %. Tỷ lệ học sinh bỏ học 3.5%, là do nhận thức của phụ huynh, học sinh không coi trọng vấn đề hướng nghiệp nghề cho con em, họ chỉ quan tâm đến vấn đề cộng điểm ưu tiên nên khi biết điểm tốt nghiệp nghề không được cộng điểm ưu tiên để xét tuyển sinh vào lớp 10 đã cho con em nghỉ học). Kết quả thi tốt nghiệp nghề phổ thông năm 2018 đạt 98,03% trong đó loại giỏi 42,60%, loại khá 38,48% và loại trung bình 18,91%.

  • Kết quả khối Đào tạo – Bồi dưỡng:

Năm học 2017 – 2018 trung tâm tuyển sinh được 01 lớp Đại học Luật (104 sinh viên); 02 lớp Trung cấp y sĩ cổ truyền (115 học viên); 15 lớp tiếng Hoa (481 học viên), 11 lớp Tin học ứng dụng (297 học viên).. Đánh giá chung của khối Đào tạo – Bồi dưỡng Thuận lợi: Thực hiện nghiêm túc việc giảng dạy theo đúng chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định đối với các lớp liên kết Đại học, các lớp Trung cấp và các lớp chứng chỉ Ngoại ngữ, CNTT. Tổ chức kiểm tra để đánh giá trình độ của học viên trong từng giai đoạn của khóa học, từ đó, giáo viên đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Với đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm, và tâm huyết, Trung tâm đã tạo được uy tín và niềm tin đối vối các học viên. Phòng học và trang thiết bị dạy học đáp ứng được nhu cầu giảng dạy.

Khó khăn: Trong thời gian qua tình hình chiêu sinh các lớp Đại học, trung cấp, Ngoại ngữ, chứng chỉ CNTT gặp nhiều khó khăn do trên địa bàn có rất nhiều trường Đại học, trung tâm Ngoại ngữ, Tin học đang hoạt động. Nhu cầu học viên học các lớp Đại học, Trung cấp, chứng chỉ Ngoại ngữ, chứng chỉ CNTT ngày càng thu hẹp.

Việc thi chứng chỉ Ngoại ngữ, chứng chỉ CNTT của Trung tâm chưa được chủ động. Học viên rất đa dạng về thành phần, kiến thức hạn chế nên việc tiếp thu các chương trình học có khó khăn.

Từ kết quả trên cho thấy, công tác giảng dạy hướng nghiệp dạy nghề phổ thông cho học sinh THCS, BT THPT và Đào tạo – Bồi dưỡng người lao động trong TP TDM đã đạt được những kết quả khả quan, hiệu quả đào tạo tốt.

2.1.2.3. Kết quả công tác giảng dạy bổ túc THPT ở Trung tâm Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Kết quả về công tác giảng dạy bổ túc THPT Đối với công tác giảng dạy bổ túc THPT kết quả đạt được theo từng năm học được người viết tổng hợp trong bảng sau:

Kết quả khối dạy văn hóa: đạt được so với Nghị quyết Hội nghị cán bộ viên chức trong năm học 2017 – 2018 như sau:

  • Về chất lượng giáo dục:

Học viên giỏi đạt 4,97% (3,50%) tăng 1,47% ; Học viên tiên tiến đạt 34,14% (30,00%) tăng 3,14%; Hạnh kiểm loại tốt 74,30% (90%) đạt 82,56%; Học viên lên lớp: Khối 10 82,04% (85%) đạt 96,52%, Khối 11 89,70% (90%) đạt 99,67% ; Tốt nghiệp THPT quốc gia 83,88% (90%) đạt 93,20% ; Học viên giỏi giải thưởng Lương Thế Vinh và Sao Khuê có 6 (4) giải đạt 150% tăng 50%; Đỗ Đại học – cao đẳng 37,28% (50%) đạt 74,56% ; Viết sáng kiến kinh nghiệm có 9 GV (6GV) tham gia đạt 150% tăng 50% ; Phong trào thi giáo viên dạy giỏi giải thưởng Võ Minh Đức có 01 tham gia đạt chỉ tiêu 100%.

  • Đánh giá:

Trung tâm đã bám sát nhiệm vụ năm học theo chỉ đạo của ngành, xây dựng, phát động chương trình và nội dung thi đua từng tháng, giám sát theo dõi, động viên, khen thưởng kịp thời những giáo viên và học viên có thành tích cao trong học tập và giảng dạy. Trong các hoạt động chuyên môn đúc rút kinh nghiệm kết hợp với dự giờ, kiểm tra đánh giá công tác chuyên môn được đặc biệt quan tâm. Tham gia tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ dạy, học và kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình GDTX cấp THPT; hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học theo chỉ đạo của Bộ GD và ĐT; tập huấn ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý cho cán bộ quản lý; bồi dưỡng kỹ năng soạn bài giảng điện tử; phát động phong trào tự làm thiết bị, đồ dùng dạy học; hướng dẫn ôn tập các môn thi tốt nghiệp THPT, thi học viên giỏi; phối hợp với các phòng, tổ và các tổ chức đoàn thể tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc triển khai nhiệm vụ năm học.

2.1.2.4. Kết quả tình hình công tác đánh giá xếp loại, triển khai và thực hiện quản lý ĐNGV ở Trung tâm

Công tác đánh giá xếp loại CBQL, giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học; quy hoạch cán bộ quản lý. Thực hiện đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên, chuẩn Giám đốc và các phó Giám đốc đúng quy trình theo các văn bản hướng dẫn của ngành và các cấp quản lý. Kết quả đánh giá chuẩn Giám đốc và các phó Giám đốc: 01 xuất sắc, 02 khá. Về chuẩn nghề nghiệp giáo viên: 34 xuất sắc (đạt 61,81%); 21 khá (đạt 38,19%). Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Triển khai và thực hiện đầy đủ các văn bản hướng dẫn và hồ sơ đề nghị rà soát, bổ sung về quy hoạch cán bộ kế cận giai đoạn 2015 – 2020, đến giai đoạn 2020 – 2025; tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ kề cận, đáp ứng nhu cầu công tác theo quy định trong thời gian tới.

Nhìn chung, qua kết quả đánh giá học lực, hạnh kiểm, các phong trào trong giáo viên và học viên cho thấy chất lượng giảng dạy giáo dục ngày càng có những chuyển biến tích cực mạnh mẽ rõ nét. Góp phần nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng cuộc sống.

Trung tâm đã thực hiện dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và bám sát hướng dẫn điều chỉnh nội dung chương trình theo hướng giảm tải phù hợp với đối tượng học viên. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý được quan tâm chú trọng hơn, đặc biệt là ứng dụng CNTT hỗ trợ đổi mới PPDH.

2.2. Tổ chức nghiên cứu

2.2.1. Mẫu khảo sát

Nghiên cứu được thực hiện chủ yếu qua phương pháp thu thập ý kiến bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS. Trong đó, việc thu thập ý kiến bằng bảng hỏi được tiến hành trên tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên: 86 người.

Để tìm hiểu công tác quản lý của GĐ về ĐNGV, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên của trung tâm gồm có: Ban Giám đốc, Cán bộ quản lý. Giáo viên

Về giới tính: Qua khảo sát thực tế được tổng hợp tại bảng 2.4. Tổng biên chế đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên giảng dạy tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương cho thấy: Tỷ lệ giáo viên nam và nữ chênh lệch; điều này dẫn tới giáo viên nữ có điều kiện đi học nâng cao trình độ nhiều hơn nam nhưng cũng không đáng kể vì tỷ lệ nữ chiếm đến 61%. Vì vậy, trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương cần phải chú ý đến những điều kiện về giới để có biện pháp quan tâm đến đối tượng nữ.

2.2.2. Nội dung và cách thức khảo sát Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Nội dung khảo sát bằng bảng hỏi tập trung vào các yếu tố của công tác quản lý ĐNGV cho Giám đốc và các chức năng quản lý ĐNGV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương như sau:

  • Khảo sát thực trạng về năng lực chính trị, đạo đức, lối sống
  • Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
  • Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục
  • Năng lực dạy học
  • Năng lực nắm bắt hoàn cảnh giáo dục
  • Năng lực hoạt động chính trị, xã hội
  • Năng lực phát triển nghề nghiệp
  • Khảo sát thực trạng quản lý ĐNGV trong bối cảnh đổi mới giáo dục
  • Nhận thức của quản lý và ĐNGV ở Trung tâm
  • Công tác quản lý ĐNGV ở Trung tâm
  • Công tác quy hoạch giáo viên ở Trung tâm
  • Công tác tuyển dụng giáo viên ở Trung tâm
  • Công tác sử dụng giáo viên ở Trung tâm
  • Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Trung tâm
  • Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ĐNGV

Nội dung khảo sát, phỏng vấn (Phụ lục 1). Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiến hành khảo sát ý kiến về các yếu tố gây khó khăn, thuận lợi trong công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở Trung tâm hiện nay.

Đối tượng gồm: GV, CBQL và BGĐ Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương để tiến hành khảo sát điều tra được thực hiện bằng cách trực tiếp phát phiếu đến các đối tượng nghiên cứu.

2.2.3. Quy ước xử lý số liệu

Để xử lý số liệu và đánh giá các nội dung khảo sát từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến (Phụ lục1, phiếu số 1) trên hai nhóm đối tượng: CBQL và GV, quy ước thang thứ bậc và thang định khoảng theo 4 mức độ tương ứng như sau: 4= hoàn toàn đồng ý; 3 = đồng ý; 2 = phân vân; 1 = không đồng ý

Từ số liệu điều tra thu được, người viết tiến hành xử lý số liệu phiếu trên phần mềm SPSS. Từng mục của cột đánh giá, quy ước bằng những điểm số tương ứng: Tốt = 4 điểm, Khá = 3 điểm, TB = 2 điểm, Yếu = 1 điểm. Với giá trị của x là 4, 3, 2, 1 như đã gán ở trên thì về mặt lý thuyết số trung bình lớn nhất là 4, nhỏ nhất là 1, còn mức bình quân là 2,0. Người nghiên cứu dựa vào số trung bình để xếp loại các hoạt động quản lý theo 4 mức: Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Yếu, TB, Khá và Tốt với mức điểm như sau: Loại Tốt = Từ 3,5 điểm đến 4,0 điểm, Loại Khá = Từ 2,5 điểm đến dưới 3,5 điểm, Loại TB = Từ 1,5 điểm đến dưới 2,5 điểm, Loại Yếu = Dưới 1,5 điểm. Từ số liệu điều tra thu được, người viết tiến hành xử lý số liệu xếp hạng dựa trên điểm tổng trung bình CBQL và GV xếp hạng từ cao đến thấp. Bên cạnh đó, để khẳng định thêm các thông tin thu được qua phiếu trưng cầu ý kiến và tìm hiểu thêm các thông tin chưa được trả lời đầy đủ, chúng tôi đã chọn và phỏng vấn 6 CBQL và 9 GV (Phụ lục 3) trong mẫu nghiên cứu. Để đảm bảo tính bảo mật và khách quan các thông tin phỏng vấn của từng CBQL, GV. Chúng tôi đã tiến hành mã hóa CBQL tham gia trả lời phỏng vấn là: QL001, QL002, QL003… từ GV các tổ chuyên môn, các phòng chuyên môn đế khảo sát và được mã hóa là: GV001, GV002, GV003…

2.3. Thực trạng ĐNGV Trung tâm GDTX trong bối cảnh đổi mới giáo dục

2.3.1 Thực trạng về cơ cấu, số lượng

2.3.1.1. Về cơ cấu

  • Ban Giám đốc: Giám đốc và 02 Phó Giám đốc
  • Giám đốc: Bí thư Chi bộ

Lãnh đạo, quản lý, điều hành chung và chịu trách nhiệm trước giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo về hoạt động của trung tâm.

  • Phụ trách các lĩnh vực: Bảo vệ chính trị nội bộ, tổ chức cán bộ, tài chính, thanh tra, kiểm tra, thi đua, khen thưởng, kỷ luật, chủ tịch các Hội đồng của đơn vị. Chủ tài khoản (thứ 1).
  • Trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo: Chi bộ, CĐCS, Đoàn Thanh niên, phòng Tổ chức hành chính.
  • Phụ trách các Ban: Trưởng các Ban chỉ đạo (thuộc yêu cầu của Sở GD và ĐT); Ban tuyển sinh; Ban học tập tấm gương đạo đức HCM; Ban DTHT.

Phó Giám đốc: Chịu trách nhiệm trước giám đốc về những công việc được phân công sau:

  • Phụ trách các lĩnh vực: Giáo dục thường xuyên, cơ sở vật chất, thư viện, thiết bị.
  • Trực tiếp chỉ đạo: phòng Dạy văn hóa và các tổ chuyên môn GDTX.
  • Phụ trách các Ban: Ban đại diện Cha mẹ học viên; Ban bồi dưỡng thường xuyên; Ban chỉ đạo ATGT-GDQP; Ban an ninh trường học phòng chống cháy nổ, thiên tai, bão lụt; Ban Phòng chống tệ nạn xã hội, ma túy, HIV; Ban xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; Ban kiểm kê và thanh lý tài sản.

Phó Giám đốc: Chịu trách nhiệm trước Giám đốc về những công việc được phân công sau:

  • Phụ trách các lĩnh vực: Giảng dạy của khối Hướng nghiệp, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn; công tác thi đua; chủ tài khoản (thứ 2); duyệt công văn đến. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.
  • Trực tiếp chỉ đạo: Phụ trách khối hướng nghiệp.
  • Phụ trách các Ban: Ban Giáo dục pháp luật; Thi đua – Khen thưởng; Ban Vệ sinh an toàn thực phẩm, y tế học đường và Ban xây dựng đời sống văn hóa, chữ thập đỏ của đơn vị.

Tổ chức chính trị, đoàn thể: Đảng bộ, Công đoàn cơ sở, Đoàn thanh niên

  • Phòng ban: Phòng Tổ chức Hành chính, Phòng Dạy Văn Hóa, Phòng Đào Tạo
  • Bồi Dưỡng.
  • Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên:

Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương làm việc theo chế độ công chức, viên chức và được hưởng lương, phụ cấp, các chế độ khác… từ ngân sách nhà nước và kinh phí hoạt động của đơn vị (hiệu trưởng thuộc biên chế công chức, còn lại thuộc biên chế viên chức). Ngoài ra, Trung tâm có thể thực hiện hợp đồng lao động ngoài biên chế, hợp đồng thỉnh giảng, được hưởng chế độ lương, phụ cấp từ nguồn thu của đơn vị.

Thực hiện quyết định của UBND tỉnh về việc giao quyền tự chủ tài chánh giai đoạn 2003 đến nay cho Trung tâm là đơn vị sự nghiệp có thu theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25.4.2006 của Chính phủ, trên cơ sở mở rộng các hoạt động giảng dạy, liên kết mở lớp, Trung tâm tạo thêm nguồn thu để bổ sung cho kinh phí chi tiêu đảm bảo hoạt động thường xuyên, trang bị thêm cơ sở vật chất cho đơn vị.

2.3.1.2. Về số lượng

Số lượng giáo viên, trình độ chuyên môn được đào tạo cao nhất, giáo viên biên chế hiện có và hợp đồng. Thâm niên công tác của tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên như sau:

  • Về Trình độ

Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, trong đó: 01 tiến sĩ, 06 thạc sĩ, 77 đại học (có 06 giáo viên đang học cao học chuyên ngành (Quản lý Giáo dục, Ngữ văn, Lịch sử, Sinh học, Địa lý, Kỹ thuật điện).

Từ số liệu trên cho thấy, số giáo viên được đào tạo ở các trường Đại học sư phạm hiện đang giảng dạy tại các Trung tâm GDTX tỉnh là rất tốt trong tổng số giáo viên trực tiếp giảng dạy. Số còn lại là giáo viên tốt nghiệp đại học, sư phạm kỹ thuật, các trường đại học công nghệ thông tin trực tiếp tham gia giảng dạy lao động hướng nghiệp dạy nghề phổ thông cho học sinh THCS, THPT và thanh thiếu niên trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Về thâm niên công tác: Phần lớn các giáo viên có thâm niên giảng dạy từ 5 năm trở lên chiếm đến 62% (trong đó thâm niên từ 5 năm đến 15 năm là 37%, thâm niên từ 15 trở nên chiếm 25%) còn lại 38% là giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm; số giáo viên trẻ và số giáo viên có kinh nghiệm (từ 5 đến 15 năm) luôn nhiệt tình, năng nổ thuận lợi cho quy hoạch, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Tuy vậy số giáo viên dưới 30 tuổi phần nhiều còn thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục xây dựng xã hội học tập. Do vậy, cần có sự đầu tư và xây dựng kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ này.

2.3.2. Thực trạng về năng lực chính trị, đạo đức, lối sống

2.3.2.1. Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống

Phẩm chất chính trị là yếu tố rất quan trọng giúp cho người GV có được bản lĩnh vững vàng trước những biến động của lịch sử. Có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ giúp GV có khả năng xử lý được những “tình huống chính trị” nảy sinh trong hoạt động GD. Để tìm hiểu điều này chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả sau:

Thông qua kết quả khảo sát được trình bày trong bảng 2.6. người nghiên cứu có những phân tích và nhận xét cụ thể như sau:

Đối với việc “Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm” với ĐTB là 3.53, các ý kiến đánh giá có sự phân tán cao S = 0.61, điều đó cho thấy tiêu chí này được đánh giá là tốt, xếp thứ nhất. Ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm của ĐNGV là tốt, đa số GV tận tâm, tận lực với nghề, tuân thủ tốt nội quy, quy định của đơn vị, hồ sơ sổ sách đầy đủ và trên lớp dạy hết mình tận tâm, tận lực. Chính vì thế, tiêu chí đạt được mức độ tốt tiếp theo là: “Sống trung thực, lành mạnh, là tấm gương sáng cho học viên noi theo.” đạt ĐTB= 3.49, độ lệch chuẩn S = 0.65 điều đó cho thấy tiêu chí này được đánh giá là khá, xếp thứ hai, và tiêu chí “Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; Yêu nghề, tâm huyết với nghề dạy học.” Cũng được đánh giá khá với ĐTB= 3.47 và độ lệch chuẩn S = 0.74.

Bên cạnh đó, trong bảng 2.6 có 4 tiêu chí xếp cuối bảng là: tiêu chí “Tích cực học tập nghiên cứu, tìm hiểu thêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước” cũng được đánh giá ở mức Khá với ĐTB là 3.15, xếp thứ 14.

Như kết quả khảo sát ở trên thì đa số GV đều tin tưởng tuyệt đối và chấp hành đúng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà Nước nhưng việc học tập, nghiên cứu, tìm hiểu thêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước chưa được ĐNGV tích cực hưởng ứng, điều này thể hiện rõ rệt nhất là: Khi có các chỉ thị, nghị quyết của Đảng hoặc các công văn của ngành mà chi bộ hoặc chính quyền trung tâm triển khai thì GV không chú ý; Và khi các văn bản hướng dẫn đó được niêm yết trên bảng thông báo GV cũng không quan tâm. Hơn nữa, qua phỏng vấn người nghiên cứu nhận thấy các ý kiến của các CBQL cũng cho rằng: “Đa số GV không quan tâm, không chú ý lắng nghe khi được triển khai các nghị quyết của Đảng, các công văn của ngành, mà chỉ nói chuyện, làm việc riêng, nên hoạt động này không đạt hiệu quả” (QL003, QL005). Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Nhưng khi có việc liên quan cần giải quyết thì mới tìm kiếm, hỏi han lại người triển khai công văn. Do đó, trong thời gian tới trung tâm cần có những giải pháp thiết thực hơn nữa nhằm nâng cao nhận thức cho ĐNGV trong 4 hoạt động trên để họ có thể làm tốt hơn nhiệm vụ của mình trong trung tâm. Kế tiếp là tiêu chí “Đoàn kết, khiêm tốn học hỏi, biết lắng nghe ý kiến, góp ý thẳng thắn với đồng nghiệp để xây dựng tập thể sư phạm tốt” được đánh giá ở mức khá với ĐTB là 3.21, xếp thứ 13, độ lệch chuẩn S = 0.69, các ý kiến đánh giá có sự phân tán cao. Qua thực tế công tác, người nghiên cứu nhận thấy vẫn còn một số GV chưa thật sự khiêm tốn học hỏi, không lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, bảo thủ, ngại đổi mới, … Điều này thường xảy ra với những GV đã lớn tuổi. Họ chưa thể áp dụng được công nghệ thông tin trong giảng dạy, chưa biết kết hợp giữa các phương pháp dạy học hiện đại với các phương pháp truyền thống…

Về tiêu chí “Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, quy định của pháp luật và điều lệ trung tâm cũng như nội quy của đơn vị” được đánh giá ở mức khá với ĐTB= 3.22, xếp thứ 12 trong bảng. độ lệch chuẩn S = 0.76, tương đối cao, các kiến đánh giá có sự phân tán. Qua phỏng vấn, các CBQL cho rằng: “Tiêu chí này ở trung tâm chưa đạt hiệu quả, chỉ có một số ít GV tâm huyết mới làm tốt, còn lại đa số GV chưa chủ động. Nguyên nhân là do trung tâm cơ chế kiểm tra giám sát chưa thật sự hiệu quả, đây cũng là một trong những việc chưa thực hiện tốt của trung tâm” (QL007, GV008). Trong thời gian tới trung tâm nâng cao chất lượng các phiên họp nhằm tổ chức quán triệt đầy đủ các văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; soạn thảo, ban hành các hướng dẫn và triển khai kịp thời; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện; thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở GV thực hiện một cách nghiêm túc.

Điểm trung bình chung của các hoạt động từ STT 7 đến STT 20 là x = 3.35. Ta có kết luận thực trạng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của GV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá. Điều này đã khẳng định về chất lượng công tác bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho ĐNGV Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, vẫn còn một số mặt hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới như học tập nghiên cứu, tìm hiểu thêm các chỉ thị, nghị quyết, đoàn kết, khiêm tốn, biết học hỏi, lắng nghe ý kiến góp ý của người khác và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, quy định của pháp luật để thực hiện các nhiệm vụ dạy học và giáo dục HV.

2.3.2.2. Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục

Khảo sát thực trạng năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương, chúng tôi đã thu được kết quả như sau: Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Kết quả tìm hiểu được người nghiên cứu có những nhận xét như sau:

Về tiêu chí “Tìm hiểu khả năng học tập và tình hình đạo đức của HV trong các lớp được phân công giảng dạy” được đánh giá ở mức tốt với ĐTB =3.25, được xếp thứ nhất trong bảng, độ lệch chuẩn S = 0.76. Nhìn chung, theo kết quả khảo sát thì đa số ĐNGV thực hiện được tiêu chí này, đây là nền tảng, là cơ sở cho quá trình dạy học – giáo dục HV của GV, để từ đó có thể có những tác động, điều chỉnh kịp thời trong quá trình giáo dục nhằm đem lại hiệu quả như mong muốn.

Về tiêu chí “Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình HV để xây dựng kế hoạch dạy học và giáo dục”, được đánh giá ở mức độ Khá với ĐTB= 2.90, độ lệch chuẩn S =0.67. đứng vị trí thứ hai. Nhằm thực hiện quá trình giáo dục đạo đức học viên, nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò của cha mẹ học viên trong việc quản lý việc học tập của con em mình. Để làm có hiệu quả thì bản thân mỗi GV phải xây dựng riêng cho mình kế hoạch giáo dục cá nhân theo từng năm. Nhưng để có một kế hoạch chi tiết, rõ ràng, phù hợp và khả thi thì nhất thiết phải phụ thuộc chủ yếu vào việc thu thập, xử lý thông tin về điều kiện GD trong trung tâm, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương và hoàn cảnh gia đình HV. Về tiêu chí “Thu thập và xử lý thông tin về điều kiện giáo dục trong trung tâm, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương để xây dựng kế hoạch GD cá nhân” thì được đánh giá ở mức Khá với ĐTB= 2.86, độ lệch chuẩn S = 0.59. Tuy nhiên, trên thực tế, bản thân người viết nhận thấy thu thập và xử lý thông tin lập kế hoạch cá nhân này chưa được xây dựng một cách có hệ thống, thông tin về điều kiện GD cũng như tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương để xây dựng các kế hoạch cá nhân, giáo viên xây dựng kế hoạch này theo hình thức nguyên nhân chủ yếu là do tiến độ do áp lực công việc nhiều.

Điểm trung bình chung của các hoạt động từ STT 21 đến STT 23 là x = 3.00. Ta có kết luận về thực trạng tìm hiểu đối tượng và môi trường GD của GV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá. Theo khảo sát và qua phỏng vấn thì cần quan tâm, cải thiện nhiều hơn nữa về năng lực này ở GV nhất là khả năng thu thập và xử lý thông tin về điều kiện GD trong trung tâm, của địa phương, hoàn cảnh gia đình HV để xây dựng kế hoạch GD cá nhân.

2.3.2.3. Năng lực dạy học

Ngoài việc người GV phải có được một khối kiến thức sâu, rộng thì cần phải có năng lực sư phạm. Để đánh giá năng lực sư phạm thì cần đánh giá cụ thể hơn nữa. Chính vì thế, người viết đi khảo sát năng lực dạy học của GV trong trung tâm và thu được kết quả như sau:

Dựa vào kết quả khảo sát, người viết có những nhận xét cụ thể như sau:

Trong bảng 2.8 thì 3 tiêu chí được xếp đầu bảng gồm: “Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HV đảm bảo yêu cầu chính xác, toàn diện, công bằng, khách quan, công khai” được đánh giá Tốt với ĐTB= 3.47, xếp thứ nhất, độ lệch chuẩn S = 0.69, các ý kiến đánh giá khá phân tán. Đứng thứ hai là tiêu chí “Sử dụng các phương tiện dạy học theo quy định trong chương trình môn học.” được đánh giá là Tốt với ĐTB= 3.45, S = 0.51 và đứng thứ ba là tiêu chí “Nắm vững nội dung môn học được phân công để đảm bảo dạy học chính xác, có hệ thống.” đạt mức đánh giá là Tốt với ĐTB=3.38, S = 0.71. Dựa vào kết quả đánh giá GV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương, cho thấy giáo viên có năng lực trong các nhiệm vụ của mình. Có 4 hoạt động được đánh giá ở trên. Do đó, đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trung tâm.

Bốn tiêu chí đứng cuối bảng gồm: Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Tiêu chí “Năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tự học và tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ” thì được đánh giá ở mức khá với ĐTB = 3.02, độ lệch chuẩn S = 0.93. Người viết có những nhận định rằng: “về năng lực nghiên cứu khoa học khá, mặc dù trung tâm tỉnh có khá nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay nhưng thật sự không có khả thi chỉ mang tính chất lý thuyết là chủ yếu và cũng chưa được triển khai sâu rộng cho GV nắm và vận dụng. Còn năng lực tự học và tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cũng còn khá hạn chế. Mặc dù những năm gần đây Sở Giáo dục tỉnh Bình Dương cũng ra sức tổ chức những đợt tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nhưng chỉ mới kiểm soát về mặt số lượng mà chưa kiểm tra về mặt chất lượng. Chính vì thế, có một số GV còn lơ là, chưa chịu cầu tiến, không chịu học hỏi trong công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân” (QL002, QL004

Tiêu chí: “Tạo được bầu không khí học tập thân thiện, lành mạnh, dân chủ, hợp tác, khuyến khích học viên mạnh dạn tham gia các hoạt động học tập” được đánh giá ở mức khá với ĐTB= 3.13, xếp thứ 15, độ lệch chuẩn S = 0.52, các ý kiến đánh giá có sự phân tán. Qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “bầu không khí học tập chưa được thân thiện còn hạn chế do HV tuyển từ nhiều nguồn khác nhau, nên công tác này chưa đạt hiệu quả, ngoài ra số lượng học viên đông, thời gian học chia làm ban ngày và ban đêm nên việc khuyến khích học viên tham gia các hoạt động cũng gập nhiều khó khăn hạn chế. Mặt khác, trên thực tế cho thấy trung tâm chưa tổ chức các buổi sinh hoạt một cách thường xuyên và định kỳ để khuyến khích học viên mạnh dạn tham gia các hoạt động học tập chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức của bản thân tạo bầu không khí học tập thân thiện, lành mạnh, dân chủ, hợp tác trong việc dạy và học của trung tâm. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân chủ yếu là do nguồn học viên đa dạng, và độ tuổi cũng khác nhau vừa làm vừa học nên thời giàn chỉ dành cho việc học trên lớp. Chính vì vậy, rất khó để tổ chức các hoạt động có thể cập nhật, bổ sung, chia sẻ kiến thức của mình một cách thường xuyên.” (QL006, GV009).

Hai tiêu chí tiếp theo là: “Vận dụng được một số phương pháp dạy học đặc thù của môn học theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của học viên” (ĐTB= 3.18) và “Phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học gây hứng thú học tập, kích thích tính tích cực chủ động và rèn luyện kỹ năng tự học cho HV” (ĐTB= 3.36) chỉ được đánh giá ở mức Khá.

Hiện nay, ngành GD đã và đang đổi mới về mọi mặt để thực hiện được bốn trụ cột của UNESCO là: “học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác và học để tự khẳng định mình”. Nhưng trên thực tế, thông qua các buổi thao giảng, dự giờ bản thân người viết nhận xét cụ thể như sau: Một là: GV còn chú trọng làm sao để truyền tải thật nhiều kiến thức cho HV mà chưa chú trọng đến cách thức truyền tải; Hai là: GV còn khá e ngại, dè dặt trong việc đổi mới hình thức, môi trường học tập và PPDH; Ba là: GV chưa biết cách phối hợp giữa PPDH hiện đại với PPDH truyền thống.

Nguyên nhân chủ yếu là do: bản thân GV ngại học hỏi, ngại đổi mới về hình thức tổ chức và phương pháp; GV chưa thấy được tầm quan trọng của việc đổi mới PPDH; quá trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của GV cũng còn hạn chế. Việc đổi mới trong soạn giáo án của giáo viên chưa thực sự rõ nét, đánh giá rút kinh nghiệm giờ dạy chưa được bổ sung kịp thời, chất lượng giáo án điện tử, bài giảng điện tử, hiệu quả giờ dạy CNTT chưa nhiều. Số lượt giáo viên sử dụng thiết bị dạy học còn hạn chế. Điểm trung bình chung của các hoạt động từ STT 24 đến STT 39 là x = 3.28. Ta có kết luận về năng lực dạy học của GV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt mức khá. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Theo kết quả khảo sát thì một số nội dung cần quan tâm cải thiện nhiều hơn nữa như năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tạo được bầu không khí học tập thân thiện, lành mạnh, dân chủ, hợp tác, khuyến khích học viên mạnh dạn tham gia các hoạt động học tập, và phối hợp linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học gây hứng thú học tập, kích thích tính tích cực chủ động và rèn luyện kỹ năng tự học cho HV. GV cần quan tâm nhiều hơn việc đổi mới trong soạn giáo án cho thực sự rõ nét, đánh giá rút kinh nghiệm giờ dạy bổ sung kịp thời, chất lượng giáo án điện tử, bài giảng điện tử chưa nhiều.

2.3.2.4. Năng lực nắm bắt hoàn cảnh giáo dục

Với yêu cầu người GV phải có năng lực DH, năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường GD thì người GV phải có năng lực GD HV. Từ đó, GV mới lựa chọn được cách thức GD HV phù hợp. Qua khảo sát, chúng tôi đã thu được kết quả như sau:

Căn cứ vào bảng 2.9. người viết nhận thấy rằng:

Tiêu chí mà được đa số GV thực hiện tốt đó là “Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục học viên vào tình huống sư phạm cụ thể phù hợp với đối tượng và môi trường giáo dục.” Tiêu chí này được đánh giá ở mức khá với ĐTB = 3.27 và độ lệch chuẩn S = 2.14. Hiện nay, ngành GD ở Bình Dương đang tích cực thực hiện đổi mới hình thức, môi trường học tập và PPDH GV còn khá e ngại, dè dặt. GV vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục học viên vào tình huống sư phạm cụ thể phù hợp với đối tượng và môi trường giáo dục của trung tâm. Do đó, chất lượng GD tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương nói chung đều được nâng lên rõ rệt, từ tỉ lệ TN THPT đến tỉ lệ đậu Đại học, Cao đẳng của HV. Qua đó cho thấy ĐNGV đã vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục học viên cụ thể phù hợp với đối tượng và môi trường giáo dục đánh giá đúng thực chất kết quả học tập của HV. Nhưng bên cạnh việc vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, phù hợp đối tượng HV học BT THPT và hướng nghiệp thì người GV cần đánh giá khách quan, công bằng về việc rèn luyện đạo đức của HV. Vì mục đích cuối cùng của ngành GD là đào tạo HV phát triển toàn diện về nhận thức lẫn nhân cách. Trên thực tế, người viết nhận thấy tiêu chí này được đa số GV quan tâm và thực hiện rất khá phù hợp với điều kiện và GD của trung tâm. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Và tiêu chí được đánh giá thấp nhất là: “Kế hoạch hóa các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi” đạt ở mức Khá với ĐTB= 2.79, độ lệch chuẩn S = 0.74, các ý kiến đánh giá có sự phân tán tương đối cao. Qua thực tế công tác, người viết nhận thấy để thực hiện tốt tiêu chí này là điều không dễ. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Do ngay từ đầu năm học các diều kiện bộ giáo dục đưa ra chưa được rõ. Sở giáo dục chưa có hướng chỉ đạo nên việc lập kế hoạch của trung tâm chưa được đảm bảo tính khả thi mục tiêu, nội dung. Để thực hiện tốt vấn đề này trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay là cần phối hợp giữa các cấp trong ngành phải thống nhất, Sự phối hợp phải đồng bộ từ đó GV hiểu rõ và có kế hoạch hóa, hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, từ đó áp dụng vào công việc của mình, nhằm đem lại hiệu quả như mong muốn” (QL001, QL003).

Điểm trung bình chung của các hoạt động từ STT 40 đến STT 46 là x = 3.03. Ta có kết luận thực trạng về năng lực nắm bắt hoàn cảnh giáo dục HV của GV tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn một số ít GV chưa có khả năng kế hoạch hóa các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi thực hiện nhiệm vụ GD qua các hoạt động chưa tốt, chưa vận dụng tốt. Các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục HV vào tình huống sư phạm cụ thể phù hợp với đối tượng và môi trường GD, CBQL cần quan tâm chú ý nhiều hơn. đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lý phát triển đúng định hướng và có hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.3.2.5. Năng lực hoạt động chính trị, xã hội

Qua khảo sát về năng lực hoạt động chính trị, xã hội của GV tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương, chúng tôi thu được kết quả như sau:

Căn cứ vào bảng 2.10 người nghiên cứu nhận thấy rằng:

Và tiêu chí đạt cao nhất là: “Tham gia các hoạt động chính trị, xã hội trong và ngoài trung tâm nhằm phát triển trung tâm và cộng đồng, xây dựng xã hội học tập.” chỉ được đánh giá ở mức khá với ĐTB=3.15, độ lệch chuẩn S = 0.61 tiêu chí đạt loại khá. Người viết nhận thấy mức đánh giá này là phù hợp và cũng qua phỏng vấn một số CBQL cho rằng: “Trong các hoạt động chính trị, xã hội trong trung tâm thì đa số GV chưa có tinh thần tự giác mà chỉ tham gia với tính chất bắt buộc; Còn các hoạt động chính trị, xã hội ngoài trung tâm thì GV cũng ít tham gia trừ những hoạt động nào mang tính chất bắt buộc” (QL002, GV001). Vì vậy, việc phát triển trung tâm và cộng đồng, xây dựng xã hội học tập còn gặp khá nhiều khó khăn.

Tiêu chí được đánh giá hai là: “Phối hợp với gia đình và cộng đồng trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của HV” với ĐTB= 2.92 và độ lệch chuẩn S = 0.69. Trên thực tế. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương: “đã tích cực chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để giám sát việc học tập, rèn luyện đạo đức và định hướng nghề nghiệp cho HV. Cụ thể là hàng năm Trung tâm có tổ chức các cuộc họp giữa trung tâm với phụ huynh để thông báo tình hình học tập và rèn luyện đạo đức của HV để đưa ra những biện pháp nhằm chấn chỉnh kịp thời giúp GD con em mình tốt hơn” (QL002, GV009). Đồng thời, “Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương còn phối hợp với chính quyền địa phương. Tổ chức tư vấn định hướng nghề nghiệp trong tương lai cho học viên; phối hợp với các trường đại học tư vấn tuyển sinh cho học sinh lớp 12 đầy đủ để học viên lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực và sở thích. Tuyên truyền kiến thức phòng chống ma túy xâm nhập vào trung tâm, giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản vị thành niên giúp học viên có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp, về cuộc sống. Phối hợp với cơ sở y tế để tổ chức khám bệnh đầu năm cho học viên khối 10 với 296 học viên được khám bệnh; Lập hồ sơ theo dõi việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học viên thông qua hoạt động của phòng Y tế học đường trong Trung tâm” (QL003, QL006). Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Về tiêu chí “Phối hợp với các lực lượng GD trong trung tâm để GD HV” được đánh giá ở mức Khá với ĐTB= 3.14. Để nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện đạo đức HV một cách toàn diện thì cần phải có sự phối hợp của bốn lực lượng nòng cốt là: Đoàn-Đội – Giám thị – GV. Nhưng trên thực tế, thì sự phối hợp này chưa được đồng bộ và thống nhất và lý do chủ yếu là do GV chưa thật sự quan tâm đến HV hoặc GV trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm hoặc GV lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng còn bảo thủ, chủ quan. Vì vậy, cần phải có giải pháp phù hợp để các lực lượng giáo dục trong phối hợp nhịp nhàng để việc giáo dục HV đạt hiệu quả cao.

Điểm trung bình chung của các hoạt động từ STT 47 đến STT 49 là x = 3.07. Ta có kết luận thực trạng về năng lực hoạt động chính trị xã hội của GV tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá. Điều đó cho thấy một số GV chưa tích cực tự giác tham gia các hoạt động chính trị xã hội trong và ngoài trung tâm, mọi hoạt động GV chỉ tham gia mang tính bắt buộc do đó là căn cứ để xếp loại thi đua hoặc dựa vào đó để đánh giá gia đình văn hóa… nên chất lượng, hiệu quả của các hoạt động không cao và do đó, năng lực của GV trong công tác này cũng còn hạn chế. Do đó, trong thời gian tới, các CBQL cần quan tâm, đẩy mạnh công tác rèn luyện năng lực hoạt động chính trị xã hội cho GV.

2.3.2.6. Năng lực phát triển nghề nghiệp

Để không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động GD của mình người GV phải luôn nỗ lực không ngừng để phát triển nghề nghiệp của mình. Để tìm hiểu thực trạng này, chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả như sau:

Căn cứ vào bảng 2.11 và thực tế công tác, tác giả có những phân tích, nhận định về năng lực phát triển nghề nghiệp của giáo viên như sau: Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Về tiêu chí: “Phát hiện được một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp, cùng đồng nghiệp tìm cách giải quyết” được CBQL và GV đánh giá khá với ĐTB là 3.23, độ lệch chuẩn S = 0.76, xếp thứ nhất. Về tiêu chí: “Cầu thị, lắng nghe những nhận xét đánh giá của người khác” được đánh giá ở mức khá với ĐTB= 3.02, và độ lệch chuẩn S = 0.83, xếp thứ tư. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Hiện nay, đa số ĐNGV tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đều còn trẻ, năng nổ, nhiệt tình trong mọi hoạt động của trung tâm cũng như trong công tác giảng dạy, luôn có ý chí cầu tiến, phấn đấu vươn lên trong công việc, luôn lắng nghe những ý kiến nhận xét, đánh giá của mọi người để từ đó khắc phục những hạn chế, khuyết điểm để tự hoàn thiện mình. Bên cạnh đó, cũng còn một số GV không khiêm tốn học hỏi, không chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức của mình với các đồng nghiệp khác” (QL002, QL006).

Điểm trung bình chung của các hoạt động từ STT 50 đến STT 53 là x = 3.11. Ta có kết luận thực trạng về năng lực phát triển nghề nghiệp của GV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá. Theo khảo sát thì một số nội dung cần quan tâm cải thiện nhiều hơn nữa như cầu thị, lắng nghe những nhận xét đánh giá của người khác, thực hiện đầy đủ yêu cầu việc bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ theo quy định. Do đó, trong thời gian tới, trung tâm cần quan tâm mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng với nội dung nhằm vào các kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng giải quyết các tình huống sư phạm… nhằm trang bị cho ĐNGV những kiến thức cần thiết để có thể áp dụng trong công tác giáo dục HV.

2.4. Thực trạng quản lý ĐNGV trong bối cảnh đổi mới giáo dục

2.4.1. Thực trạng nhận thức của quản lý và ĐNGV ở Trung tâm

Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên về ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm của BGĐ & CBQ, GV trong Trung tâm GDTX

Kết quả khảo sát từ bảng 2.12 cho thấy cả BGĐ & CBQ, GV đều có nhận thức tích cực về tầm quan trọng của công tác quản lý ĐNGV trong Trung tâm GDTX. Cụ thể: BGĐ & CBQL đánh giá mức độ “Hoàn toàn đồng ý” là 57.7%, “Đồng ý” là 42.3% (ĐTB: 3.58). Nhìn chung, theo kết quả khảo sát thì đa số ĐNGV trung tâm là BGĐ & CBQ, GV thực hiện tốt tiêu chí này

Riêng GV đánh giá mức độ “Hoàn toàn đồng ý” là 59.5% (ĐTB: 3.49), “đồng ý” là 32.4% “phân vân” 5.4 %, đánh giá là “không đồng ý” 2.7 %. Điều đó cho thấy tiêu chí này được đánh giá là tốt, xếp thứ nhất. GV đa số tận tâm, tận lực với nghề, tuân thủ tốt nội quy, quy định của đơn vị, hồ sơ sổ sách đầy đủ và trên lớp dạy hết mình tận tâm, tận lực. Chính vì thế, tiêu chí đạt được mức độ tốt.

Bên cạnh đó cũng có một số nhỏ giáo viên ý thức về tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm chưa cao. Qua phỏng vấn người nghiên cứu nhận thấy các ý kiến của các BGĐ & CBQ, GV cũng cho rằng: “Có một số ít GV không quan tâm, không chú ý lắng nghe khi được triển khai, các công văn của ngành, mà chỉ nói chuyện, làm việc riêng, nên hoạt động này không đạt hiệu quả” (QL003, QL005). Nhưng khi có việc liên quan cần giải quyết thì mới tìm kiếm, hỏi han lại người triển khai công văn. Chính vì vậy, trong thời gian tới Trung tâm cần đẩy mạnh những giải pháp thiết thực hơn nữa nhằm nâng cao nhận thức cho một số nhỏ giáo viên để nâng cao chất lượng dạy học. ĐLC của 2 đối tượng này là .5 04 và .726 cho thấy ý kiến của các đối tượng được khảo sát là không đồng nhất với nhau, có sự phân tán.

2.4.2. Thực trạng công tác quản lý ĐNGV ở Trung tâm Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Thực trạng công tác quản lý ĐNGV ở Trung tâm GDTX thực hiện theo các quy trình sau: Quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.

Quy hoạch, tuyển dụng giáo viên có vai trò quan trọng trong quản lý ĐNGV, đây là khâu quan trọng đầu tiên, nó chi phối đến hầu hết các hoạt động quản lý khác của Giám đốc, là khâu có ảnh hưởng đến chất lượng GD của trung tâm nói riêng và của ngành GD nói chung. Để tìm hiểu điều này chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả sau:

2.4.2.1. Thực trạng công tác quy hoạch giáo viên ở Trung tâm

Căn cứ vào bảng 2.13 và thực tế công tác, người viết có những phân tích, nhận định về công tác quy hoạch GV như sau:

tiêu chí 54 về “Lập quy hoạch, dự báo nhu cầu số lượng GV của từng môn học” qua kết quả khảo sát ta thấy tiêu chí này được đánh giá tốt (ĐTB: 3.10), đứng thứ nhất, độ lệch chuẩn S=0.71, cho thấy các ý kiến đánh giá khá phân tán. Hàng năm trung tâm đều lập kế hoạch khảo sát, đánh giá về số lượng, cơ cấu ĐNGV căn cứ vào số HV tuyển mới trong địa bàn, số lớp dự kiến, định mức HV, GV, từ đó xác định số GV cần có. Đồng thời, căn cứ vào số GV đang có, số GV nghĩ hưu để lập dự trù nhu cầu biên chế trình Sở GD và ĐT phê duyệt, tuyển thêm GV cho những môn còn thiếu.

2.4.2.2. Thực trạng công tác tuyển dụng giáo viên ở Trung tâm

Căn cứ vào bảng 2.13 và thực tế công tác, người viết có những phân tích, nhận định về công tác tuyển dụng GV như sau:

tiêu chí 55 về “Đảm bảo sự cân đối và hợp lý giữa các bộ môn trong tuyển dụng, không để tình trạng quá thiếu hoặc thừa GV ở các bộ môn” qua kết quả khảo sát đánh giá của các CBQL ở mức khá (ĐTB: 3.38), còn GV đánh giá ở mức tốt (ĐTB: 3.08). Đánh giá chung giữa CBQL và GV là (ĐTB: 3.23). Sở dĩ có sự đánh giá khác nhau giữa CBQL và GV là do GV chưa nhìn bao quát toàn bộ các nguồn tuyển dụng từ sở GD. Tình trạng thiếu thừa cục bộ gây ra sự lãng phí lao động và mất cân đối. Điều này yêu cầu công tác tuyển dụng cũng như sử dụng phải có sự linh hoạt và khoa học để khắc phục tình trạng trên.

tiêu chí 56 về “GV được tuyển dụng đáp ứng được các yêu cầu của công việc” qua kết quả khảo sát các CBQL đánh giá là khá (ĐTB: 3.23) và GV đều đánh giá là khá (ĐTB: 3.07). Nhìn chung tiêu chí này được đánh giá là khá (ĐTB: 3.15), đứng thứ hai. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “GV được tuyển dụng đa số là trẻ, nhiệt tình, hoạt bát, năng nổ trong công tác. Tuy nhiên do còn trẻ, nên họ chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy cũng như lúng túng trong công tác chủ nhiệm lớp, điều này đòi hỏi họ phải thường xuyên dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, những người đi trước để bổ sung những điều cần thiết trong công tác của mình” (QL003, GV003). Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Thực trạng công tác quy hoạch, tuyển dụng giáo viên ở Trung tâm hiện nay:

Sau khi phân tích, đánh giá từng hoạt động quản lý, người viết tính điểm trung bình chung của các hoạt động quản lý từ STT 54 đến STT 56. Điểm trung bình x = 3.16. Kết hợp với sự phân tích, đánh giá từng hoạt động quản lý ở trên, ta có kết luận: Công tác quy hoạch, tuyển dụng được đánh giá tốt, do đó, đã đáp ứng phần nào việc nâng cao chất lượng ĐNGV Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, trong tuyển dụng, các CBQL cấn có ý kiến tham mưu với Sở GD và ĐT chú ý đảm bảo sự cân đối và hợp lý giữa các bộ môn trong tuyển dụng không để tình trạng quá thiếu hoặc thừa GV ở các bộ môn.

2.4.2.3. Thực trạng công tác sử dụng giáo viên ở Trung tâm

Muốn phát triển chất lượng GD của trung tâm ĐNGV của trung tâm phải được bố trí, sử dụng hợp lý. Bởi lẽ sử dụng không hợp lý ĐNGV sẽ làm giảm ý chí, khả năng hoạt động của GV và có ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả GD chung của toàn trung tâm. Qua khảo sát, chúng tôi đã thu được kết quả sau:

Căn cứ vào bảng 2.14 và thực tế công tác, người viết có những phân tích, nhận định về công tác sử dụng GV tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương như sau:

Về “Phân công giảng dạy đúng với chuyên môn được đào tạo của GV và tiêu chuẩn tuyển dụng”. Ở tiêu chí này cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá là tốt (ĐTB: 3.56, S = 0.64), các ý kiến đánh giá có sự phân tán. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Mặc dù ở tiêu chí 57 các công tác tuyển GV đôi khi chưa đáp ứng được vẫn nhiều môn thừa GV, nhiều môn khác lại thiếu GV nhưng sự phân công GV dạy đúng chuyên môn rất được Giám đốc tôn trọng, thực hiện tốt. Điều này chứng tỏ lý giải Giám đốc về nguyên nhân dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong ĐNGV ở tiêu chí 57 là chấp nhận được. Thực tế GV cũng bằng lòng với sự phân công của GĐ như: GV làm chủ nhiệm nhiều lớp, giáo. GV dạy số lương HV đông/lớp” (QL001, GV003).

Về “Phân công GV hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho GV tập sự”. Theo kết quả khảo sát cho thấy, tiêu chí này được CBQL và GV đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.52). Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “được tuyển dụng khi ký hợp đồng lao động đều được GĐ phân công người hướng dẫn tập sự. GV tập sự ngoài việc được hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, công tác chủ nhiệm, các quy chế chuyên môn còn được phổ biến các văn bản QL hành chính nhà nước về quy chế dân chủ, quyền lợi và nghĩa vụ của viên chức, nội quy cơ quan, đơn vị” (QL002, GV005:).

Về “Phân công giảng dạy trong từng khối có sự xen kẽ giữa GV khá, giỏi và GV trung bình, yếu”. Ở tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.25), độ lệch chuẩn S = 0.75, cho thấy các ý kiến đánh giá có sự phân tán cao. Tìm hiểu kỹ hơn, người viết đã phỏng vấn PGĐ đều cho rằng: “phân công GV khá, giỏi dạy xen kẽ cùng khối với GV trung bình, yếu không chỉ cần thiết đối với khối 12 mà thậm chí còn rất cần thiết đối với khối 11 và 10. Điều này đòi hỏi phải cân nhắc, tính toán lại trong việc phân công GV khá, giỏi đều trong từng khối để làm nòng cốt, đồng thời tạo cơ hội cho những GV còn yếu học hỏi, thử thách, vươn lên. Có như vậy mới tạo ra được những chuyển biến lớn, mới có được một ĐNGV vững mạnh về chuyên môn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng GD trung tâm” (QL006, GV004).

Về “Phân công GV có chú ý kết hợp giữa năng lực và nguyện vọng của GV”,

tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.14), độ lệch chuẩn S = 0.73, các ý kiến đánh giá có sự phân tán. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Qua thực tế công tác, khi phân công GV, GĐ không thể nào làm vừa lòng hết được nguyện vọng của GV kể cả khi phân công giảng dạy cũng như xếp thời khóa biểu. Có GV xin dạy khối 10, có người lại xin dạy khối 12, có GV xin chỉ dạy 1 khối, xin không chủ nhiệm, xin chỉ dạy buổi sáng, có GV lại xin chỉ dạy buổi chiều, tối còn khi xếp thời khóa biểu, có GV lại xin được nghĩ 2 ngày, người thì xin nghỉ thứ hai, người thì lại xin…Mặc dù biết rằng nếu GV có năng lực hạn chế, khi phân công thực thi nhiệm vụ thì khó có thể hoàn thành. Ngược lại GV có năng lực nhưng do hoàn cảnh gia đình hoặc một hoàn cảnh khó khăn khách quan nào đấy thì khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ cũng khó đạt kết quả cao. Chính vì vậy, người GĐ khi phân công nhiệm vụ cũng cần phải xem xét kết hợp giữa năng lực và nguyện vọng của GV trong khả năng có thể của mình, không nên cứng nhắc, hoặc máy móc quá sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn” (QL003, GV006). Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Điểm trung bình chung của các hoạt động quản lý từ STT 57 đến STT 60 là x 37. Ta có kết luận về thực trạng công tác sử dụng GV của CBQL Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá. Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Điều này cho thấy công tác sử dụng GV Trung tâm phần nào chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là khi phân công, chưa chú ý đến năng lực và nguyện vọng của GV đồng thời chưa phân công xen kẽ GV khá giỏi với GV trung bình, yếu để GV có thể học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Mặc dù qua kết quả phỏng vấn, không có GV nào nói rằng họ bị o ép, hay phân công không đúng năng lực chuyên môn mà chỉ kiến nghị rằng BGH khi phân công nên chú ý hoàn cảnh gia đình, tạo điều kiện cho GV yên tâm công tác. Do vậy, trong công tác sử dụng ĐNGV, các CBQL cần chú ý kết hợp giữa năng lực và nguyện vọng của GV, tạo điều kiện cho GV yên tâm công tác, có như vậy mới nâng cao chất lượng GD trong trung tâm” (GV004, GV007).

2.4.2.4. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Trung tâm

Đào tạo, bồi dưỡng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng và phát triển ĐNGV. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV. Quan điểm của Đảng về “tăng cường xây dựng ĐNGV” vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển giáo dục và đào tạo, vừa là cơ sở vững chắc để lập quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV, phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục. Để tìm hiểu điều này chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả như sau:

Căn cứ vào bảng 2.15 và thực tế công tác, người viết có những phân tích, nhận định về công tác đào tạo, bồi dưỡng GV Trung tâm GDTX tỉnh như sau:

Về “Tạo điều kiện và có chính sách khuyến khích GV học sau đại học để nâng cao trình độ”, tiêu chí này được CBQL và GV đánh giá khá (ĐTB: 3.33, S = 0.58) “Tạo điều kiện học tập thuận lợi để mọi người cùng nhau học tập một cách chủ động và sáng tạo” và “Khuyến khích từng GV lập kế hoạch học tập và tự bồi dưỡng”, hai tiêu chí này được đánh giá khá (ĐTB: 3.24). Điều này cũng phản ánh đúng sự cố gắng của ban lãnh đạo trung tâm trong việc tạo điều kiện cho GV đi học. Hiện nay đối tượng được hỗ trợ đi học là GV đi học theo ngân sách địa phương quy định tại Quyết định 74/QĐ-UBND ngày 21/12/2011 của ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương được hưởng nguyên lương, được hỗ trợ tiền tàu xe, tiền học phí, tiền tài liệu, tiền trọ, trung tâm tạo điều kiện để GV học tập, bồi dưỡng theo quy định.

Về “Triển khai kế hoạch đào tạo bồi dưỡng theo các nội dung và đúng tiến độ đã xác định trong kế hoạch” được đánh giá khá với ĐTB: 3.23 và S = 0.60 xếp thứ

Thực tế, trung tâm đã chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV theo nội dung và thời gian, căn cứ vào yêu cầu của Sở GD và ĐT. Trung tâm chưa có hội đồng bầu chọn GV tham gia các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ và căn cứ vào giáo viên tự xin đi học. Và khi có quyết định phê duyệt của Sở GD và ĐT, Trung tâm đã triển khai đầy đủ tới từng GV thông qua cuộc họp hội đồng sư phạm. Cụ thể, trung tâm đã lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV giai đoạn 2015-2020 với các nội dung như: ngoại ngữ, tin học, nâng cao lên đại học và sau đại học. GV tự đăng ký, trung tâm tạo điều kiện để GV học tập, bồi dưỡng theo quy định, trình Sở GD và ĐT duyệt và ra quyết định. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Về “Tổ chức các hoạt động nhằm kích thích hứng thú, động cơ học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ cho GV”. Ở tiêu chí này, các CBQL và GV đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.19), S = 0.86, xếp thứ 3. Ngoài các chế độ chính sách khuyến khích cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, hàng năm, trung tâm đều tổ chức các hội thi GV dạy giỏi cấp trung tâm, cấp tỉnh (có hội thi GV dạy giỏi giải thưởng Võ Minh Đức) để phát huy hết được tài năng của GV qua các đợt học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy. Ngoài danh hiệu GV giỏi, chiến sĩ thi đua, trung tâm còn ưu tiên xét nâng lương trước thời hạn cho những GV có thành tích xuất sắc trong năm học, nâng lương trước thời hạn 12 tháng cho những GV đạt danh hiệu “chiến sĩ thi đua cấp tỉnh”, 9 tháng cho danh hiệu “chiến sĩ thi đua cơ sở” và 6 tháng đối với GV đạt “lao động tiên tiến”.

Về “Thành lập hội đồng bầu chọn GV tham gia các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ công bằng, khách quan” cũng được đánh giá ở mức độ tốt (ĐTB: 3.02, S = 0.76) xếp thứ 10 và “Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV theo nội dung và giai đoạn.” tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV của Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đều đánh giá ở mức độ khá (ĐTB: 3.17), xếp thứ nhất, độ lệch chuẩn S = 0.65, cho thấy các ý kiến khá phân tán

Tiêu chí “Tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho GV tại trung tâm” được cả hai nhóm đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.06, S= 0.79), xếp thứ 8. Về việc tổ chức các lớp cập nhật kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, hội thảo, hội nghị … tại trung tâm cũng như các lớp bồi dưỡng chuyên môn hè do Sở GD tổ chức. Theo kết quả điều tra thì tiêu chí này được đánh giá ở mức độ khá, trung tâm đã rất quan tâm, tạo điều kiện cho GV tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng do Sở GD tổ chức. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những cố gắng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đã thể hiện được sự quan tâm của trung tâm đối với chất lượng ĐNGV. Về lực lượng thực hiện bồi dưỡng: Lực lượng thực hiện công tác bồi dưỡng của Sở Giáo dục – Đào tạo cũng như ở các đơn vị rất mỏng, mỗi môn chỉ 2 – 3 người thậm chí chỉ có 1 người. Do đó thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng rất khó khăn. Công tác kiểm tra đánh giá: Sau các đợt bồi dưỡng việc tổ chức kiểm tra, đánh giá chỉ thực hiện theo kiểu truyền thống viết bài luận, hoặc viết lại bài học khiến cho việc kiểm tra vừa nặng nề vừa không đánh giá đúng thực chất người học. Việc sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn ở nhiều tổ, chỉ thực hiện các thao tác như kiểm tra vở soạn bài, số dự giờ…, mà không chú trọng đến việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn một cách nghiêm túc.

Về “Có kế hoạch giám sát việc tham gia các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ của GV”, ở tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.14), xếp thứ 6, độ lệch chuẩn S = 0.88 là khá lớn, các ý kiến đánh giá có sự phân tán tương đối cao. Thực tế cũng cho thấy, ĐNGV trung tâm tham gia đào tạo, bồi dưỡng cũng khá nhiều nhưng những năm qua chưa thực hiện được việc giám sát, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng GV, từ đó để rút ra kinh nghiệm nội dung nào hiệu quả, nội dung nào chưa hiệu quả để tiếp tục có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Trong thời gian tới trung tâm cần có những giải pháp thiết thực hơn nữa để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng GV cũng như đảm bảo được tính khoa học, hợp lý trong công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Qua nghiên cứu kết quả sáng kiến kinh nghiệm, nhận xét của sở GD&ĐT Bình Dương năm học 2015-2018:

Chúng tôi nhận thấy, SKKN được xếp loại A, B, C của GV, CBQL tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương. Các SKKN đều có sự đầu tư, tìm tòi, có ý tưởng của cá nhân; có nội dung phù hợp, khoa học, có tính thực tiễn áp dụng vào công tác GD: nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao hiệu quả cho công tác GD. CBQL Trung tâm quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ, đôn đốc GV chú trọng đầu tư vào thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm, nhất là những đối tượng thuộc diện xét danh hiệu thi đua khen thưởng bậc cao, chưa có cơ chế khuyến khích GV tham gia tích cực các hoạt động này. Kinh phí cho việc tổ chức hoạt động này còn những hạn chế, bất cập nhất định. Chính vì vậy, trong thời gian tới, trung tâm cần có những biện pháp cải tổ, khuyến khích động viên GV viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học đạt chất lượng cao. Đồng thời, tổ chức các buổi hội thảo chia sẻ sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học có chất lượng giúp ĐNGV tìm tòi, học hỏi để đưa công tác này ngày càng phát triển.

Điểm trung bình chung của các hoạt động quản lý từ STT 61 đến STT 70 là x 15. Ta có kết luận về thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng GV của CBQL tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đạt ở mức khá, đa số GV đều rất hài lòng và cũng đã thu hút nhiều người hưởng ứng học tập nâng cao trình độ để đạt chuẩn và trên chuẩn đối với GV. Tuy nhiên, việc học tập nâng cao trình độ sau đại học còn thấp, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do điều kiện đi lại hạn chế, một số GV lớn tuổi nên rất ngại đi học nâng cao trình độ. Do đó, các CBQL cần trao đổi, động viên, tạo điều kiện để GV học tập nâng cao trình độ. Đồng thời, có kế hoạch giám sát chặt chẽ việc tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng của GV, tổ chức thường xuyên các buổi hội thảo chia sẻ sáng kiến kinh nghiệm cho GV

2.4.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ĐNGV

Các cơ chế chính sách đối với giáo viên ở Trung tâm GDTX tỉnh hiện nay. Công tác phát triển ĐNGV sẽ không đem lại hiệu quả cao nếu như không thực hiện kết hợp, đồng thời với các biện pháp chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần, tạo môi trường làm việc thuận lợi cho ĐNGV. Đây là nền tảng đem lại hiệu quả, lợi ích chung của tập thể nhằm nâng cao chất lượng GD trong Trung tâm. Để tìm hiểu Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng này chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả như sau:

Căn cứ vào bảng 2.16 và thực tế công tác, tác giả có những phân tích, nhận định về các cơ chế, chính sách đối với ĐNGV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương như sau:

Về “Thực hiện chế độ nâng lương, truy lương, chế độ thừa giờ, tăng tiết cho GV” và “Thực hiện chế độ nâng lương, truy lương, chế độ thừa giờ, tăng tiết cho GV”. Ở 2 tiêu chí này đều được CBQL và GV đánh giá tốt (ĐTB lần lượt là 3.78; 3.54), xếp thứ hạng lần lượt là 1, 2. Nhìn chung, việc thực hiện chế độ lương, phụ cấp, và định mức thù lao cho GV ở trung tâm đã được tổ chức thực hiện nghiêm túc, công bằng và hợp lý. Việc giải quyết chế độ chính sách liên quan đến quyền lợi, lợi ích chính đáng của GV ở mức độ nhất định và kích thích GV nâng cao trình độ chuyên môn, năng suất lao động và hiệu suất công việc, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả.

Tuy nhiên, chế độ tiền lương, phụ cấp, giải quyết việc trả lương theo thâm niên và biên chế không thực sự kích thích GV phát huy hết khả năng để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Không bảo đảm công bằng giữa những người đi học nâng cao trình độ và người không đi học, giữa người làm nhiều và người làm ít. Nguyên nhân chính là trung tâm chưa được thực hiện triệt để cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Bên cạnh đó, đối với những GV có thành tích xuất sắc như GV giỏi, chiến sĩ thi đua, GV có HV giỏi, GV chủ nhiệm giỏi, GV dạy lớp 12 có tỉ lệ cao…, kinh phí khen thưởng trong ngân sách, trung tâm còn trích từ nguồn thu phúc lợi chi theo quy chế chi tiêu của Hội nghị CBCC, đồng thời lấy đó làm căn cứ để xét thi đua cuối năm, xét nâng lương trước thời hạn cho GV. Dù các khoảng khen thưởng đó không nhiều nhưng thể hiện được sự quan tâm của BGĐ trung tâm cùng các cấp, các ngành đối với sự nghiệp giáo dục, đó là nguồn động viên, khích lệ lớn để ĐNGV toàn tâm toàn ý với công việc, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng GD trong trung tâm.

Về “Thực hiện chế độ ma chay, cưới hỏi, hậu sản cho GV…” và “Kịp thời động viên, giúp đỡ GV có hoàn cảnh khó khăn về tinh thần lẫn vật chất”. Ở tiêu chí này cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá ở mức khá (ĐTB lần lượt là 3.40; 3.34 và độ lệch chuẩn lần lượt là 0.87 và 0.70), các ý kiến đánh giá có sự phân tán cao, xếp thứ 3 và thứ 5. Qua phỏng vấn một số CBQL, các ý kiến cho rằng: “các hoạt động này đa số trung tâm đã thực hiện tốt, tuy nhiên một số chính sách do Sở GD, hỗ trợ cho GV không về quê ăn tết chưa kịp thời” Nhìn chung, các hoạt động này trong trung tâm là do tổ chức công đoàn phụ trách. Qua khảo sát, người nghiên cứu thấy rằng các hoạt động của tổ chức công đoàn ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đều xếp loại vững mạnh xuất sắc, trong đó có nhiều hoạt động hiệu quả, thiết thực. Khi trong trung tâm có ma chay, cưới hỏi, hậu sản, trung tâm đều phối hợp với tổ chức công đoàn thăm hỏi, chia buồn, động viên… kịp thời vận động GV trong trường ủng hộ, quyên góp, giúp đỡ GV khắc phục, vượt qua khó khăn để yên tâm công tác. Từ đó, làm tăng thêm tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng nhất.

Về “Tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho GV”. Ở tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá ở mức khá (ĐTB: 3.40 và S = 0.69), các ý kiến đánh giá có sự phân tán, xếp thứ 4. Bằng phương pháp quan sát lớp, phòng học, phòng làm việc chức năng, người viết nhận thấy các điều kiện tối thiểu ở nơi làm việc phục vụ cho hoạt động dạy và học như phòng máy vi tính, phòng thiết bị, phòng nghỉ GV, phòng thư viện, phòng học, bàn ghế, bảng chống lóa, rèm cửa ở trung tâm chưa đảm bảo. Cụ thể như hệ thống rèm cửa không đủ, không có phòng nghe nhìn riêng, không đủ phòng nghỉ cho GV, không có nhà thể thao đa năng, phòng soạn giáo án điện tử và làm đề thi trắc nghiệm hiện nay. Việc trang bị các thiết bị, hoá chất phục vụ cho giảng dạy cũng được đánh giá chưa tốt, quan quan sát và phỏng vấn CBQL thì hiện tại Trung tâm phục vụ cho giảng dạy vì cơ sở vật chất còn thiếu phòng thí nghiệm thực hành, đặc biệt không có phòng bộ môn, phòng học. Như vậy các điều kiện chưa được đảm bảo nêu trên phần lớn là do khách quan, tuy nhiên với cơ sở vật chất hiện có, các trung tâm đã cố gắng hết mình nhằm tạo điều kiện tốt nhất phục vụ cho dạy và học. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Về “Tổ chức cho GV đi tham quan, giao lưu học tập ở một số nơi trong nước và nước ngoài” và “Chế độ tiền lương, thưởng kịp thời cho GV” được CBQL và GV đánh giá ở mức khá, (ĐTB: 3.24, S = 0.73), các ý kiến đánh giá có sự phân tán rõ rệt, xếp thứ 10 và thứ 9. Kết quả này phần nào phản ánh thực tế hiện nay Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng GV thông qua các hình thức tham quan thực tế, giao lưu học hỏi giữa các trung tâm, tham quan trong nước và nước ngoài để giúp GV làm rõ mối liên hệ giữa lý luận với thực tế, gắn trung tâm với cuộc sống, giúp GV nâng cao nhận thức và kỹ năng làm việc. Do đó, trung tâm nên thường xuyên tổ chức cho GV, các tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, GV dạy các giờ dạy mẫu. Bên cạnh đó, nếu được tham quan, giao lưu, giải trí ở các khu du lịch, danh lam thắng cảnh, khu di tích trong nước và nước ngoài sẽ làm cho GV yêu đời, phấn khởi hơn sau thời gian làm việc vất vả. Từ đó, tạo động lực, kích thích GV hăng say làm việc, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả GD trong trung tâm.

Về “bố trí nhà công vụ cho GV nhà ở xa”. Ở tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá tốt (ĐTB: 3.22, S = 1.17), các ý kiến đánh giá khá, xếp thứ 8. Trung tâm không có nhà công vụ cho GV ở xa đến công tác, Tuy nhiên, đây là công trình do UBND tỉnh Bình Dương xây cho sau đó giao cho Sở giáo dục quản lý. Với tình hình trên, phần nào cũng ảnh hưởng đến tâm lý GV, làm cho họ chưa yên tâm trong công tác.

Về “Có chế độ khen thưởng cho những GV hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo định kỳ và đột xuất” và “Kế hoạch hóa công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật đối với GV”. Ở tiêu chí này, cả hai nhóm CBQL và GV đều đánh giá tốt (ĐTB: 3.30, 3.33), xếp thứ 7 và thứ 6. Về công tác này được xây dựng và cụ thể hóa các bảng lượng hóa thi đua, phổ biến đến từng tổ, từng GV biết và thực hiện. Trong bảng lượng hóa thi đua, CBQL đã cụ thể hóa từng mục, điểm cộng, điểm trừ, thang điểm xếp loại… rất chi tiết, cụ thể, điều này đã tạo động lực cho GV phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tuy nhiên khi việc này đưa vào áp dụng thì vẫn còn một số bất cập về quy trình và quan điểm đánh giá. Do đó thật sự tạo động lực tốt cho ĐNGV vươn lên trong học tập và giảng dạy.

Điểm trung bình chung của các hoạt động quản lý từ STT 70 đến STT 80 là x 36. Ta có kết luận thực trạng về cơ chế, chính sách đối với GV của GĐ CBQL tại Trung tâm đạt ở mức khá. Điều đó cho thấy các CBQL tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đã đặc biệt quan tâm tới việc thực hiện các cơ chế chính sách đối với GV. Tuy nhiên, còn một số mặt cần quan tâm hơn nữa trong thời gian tới là tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho GV, tổ chức cho GV đi tham quan một số nơi trong nước và nước ngoài …Với điểm trung bình chung của các hoạt động QL từ hoạt động quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và các cơ chế, chính sách đối với GV. Kết luận thực trạng công tác quản lý ĐNGV tại Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương ở mức khá. Điều đó cho thấy, các CBQL đã có sự quan tâm, đầu tư trong quản lý ĐNGV ở đơn vị mình. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung còn hạn chế như đã phân tích ở trên, CBQL đặc biệt quan tâm đề ra biện pháp để khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản lý ĐNGV ở đơn vị mình.

Tóm lại giám đốc quản lý cần nhận thức đầy đủ về vai trò của từng yếu tố, phối kết hợp linh hoạt giữa các yếu tố chủ quan và khách quan nhằm đạt kết quả tối đa nhất trong quá trình quản lý. Để công tác quản lý đội ngũ giáo viên mang lại hiệu quả cao thì phải gắn liền với các điều kiện đảm bảo về nội dung chương trình và phương pháp đào tạo; về cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống thông tin phục vụ cho việc triển khai kế hoạch; về các nguồn lực được huy động để thực hiện các giải pháp quản lý đội ngũ giáo viên,… Đây không phải là những yếu tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả quản lý ĐNGV nhưng nó những điều kiện hỗ trợ, luôn tác động qua lại bổ sung cho nhau góp phần nâng cao hiệu quả quản lý.

2.5. Đánh giá chung Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Dựa vào kết quả nghiên cứu, chúng tôi rút ra những nhận xét về thực trạng ĐNGV và công tác quản lý ĐNGV của giám đốc ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương như sau:

2.5.1. Thuận lợi và khó khăn ở Trung tâm

  • Thuận lợi ở Trung tâm

Về đội ngũ giáo viên: Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Nhìn chung ĐNGV ở Trung tâm đều có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống tốt, yêu nghề, yêu trẻ, đảm bảo hệ thống các năng lực cần thiết mà ngành quy định như: năng lực giảng dạy, năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục, năng lực nắm bắt hoàn cảnh giáo dục, năng lực hoạt động chính trị xã hội và năng lực phát triển nghề nghiệp. Về trình độ cơ bản là đã đạt được theo quy định chuẩn của Luật Giáo dục và có thể đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy- giáo dục theo quy định của ngành. GV Trung tâm đã cố gắng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bước đầu tiếp cận được với yêu cầu đổi mới nội dung, PPDH tiên tiến. Việc bồi dưỡng năng lực sư phạm, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện thiết bị hiện đại để đổi mới phương pháp dạy học trong Trung tâm đã được chú trọng. Trình độ chính trị của số đông GV từng bước được nâng cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức và lương tâm nghề nghiệp trong sáng, có uy tín đối với HV, phụ huynh và đồng nghiệp” (QL001, GV005).

Về công tác quản lý ĐNGV của Giám đốc: Nhìn chung, Giám đốc Trung tâm GDTX đã có những nhận thức đúng đắn và quan tâm đến công tác quản lý ĐNGV, xem đây là một trong những nội dung trọng tâm trong công tác quản lý của mình. Theo kết quả khảo sát, công tác này được đánh giá ở mức khá tốt, đồng thời công tác sử dụng GV cũng được đánh giá ở mức khá. Bên cạnh đó, GĐ đã thực hiện tốt những quy định về sử dụng GV, chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho ĐNGV, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng ĐNGV để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng ĐT của Trung tâm. Ngoài ra, lãnh đạo trung tâm cũng quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện về mặt tinh thần cũng như vật chất nên đã giúp ĐNGV hăng say, nhiệt tình trong công tác. Mỗi GV đều có cơ hội phát huy tiềm năng và thể hiện bản thân mình trong công tác. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

  • Khó khăn ở Trung tâm

Về đội ngũ giáo viên: Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Một số GV chưa có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công việc, chưa tích cực, chủ động trong việc học tập, nghiên cứu, tìm hiểu thêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà Nước, chưa chủ động phối hợp với đồng nghiệp để thực hiện nhiệm vụ dạy học và GD HV. Ngoài ra, cũng còn một số GV còn hạn chế về năng lực dạy học và giáo dục như năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tự học,… Bên cạnh đó, mặc dù ĐNGV đã được bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm, nhưng chưa đổi mới phương pháp giáo dục, chưa có tinh thần học hỏi, chưa vận dụng được các tri thức khoa học GD và kinh nghiệm tiên tiến về sư phạm vào quá trình giảng dạy – GD theo một kế hoạch xác định, quá trình giảng dạy – GD vẫn còn mang nặng tính chất cổ điển, chưa vận dụng, phối hợp tốt các PPDH hiện đại để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HV nên chất lượng bài dạy chưa đạt hiệu quả” (QL001, GV009).

Về công tác quản lý đội ngũ giáo viên: Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng: “Đa số CBQL đã được đào tạo có hệ thống về khoa học quản lý, do đó tính chuyên nghiệp cao. Năng lực quản lý, điều hành khá tốt trong công tác tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thực thi công vụ. Kiến thức về quản lý nhân sự, xây dựng tổ chức bộ máy và ĐNGV còn nhiều hạn chế, chưa định hướng mục tiêu, giải pháp lâu dài có tính chiến lược về công tác xây dựng và phát triển ĐNGV phục vụ đổi mới GD giai đoạn hiện nay do tình hình giáo dục thường xuyên thay đổi, để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (QL001, GV005).

Trong công tác quy hoạch, tuyển dụng GV: Công tác lập kế hoạch và phát triển ĐNGV chưa được lãnh đạo Trung tâm GDTX quan tâm. Do chỉ quan tâm đến hiện tại mà chưa chú trọng việc dự báo nhu cầu phát triển ĐNGV trong tương lai. Bên cạnh đó, mặc dù Trung tâm không chủ động trong công tác tuyển dụng, nhưng vẫn còn tình trạng thiếu cân đối và hợp lý giữa các môn trong tuyển dụng, tình trạng thiếu hoặc thừa GV ở các bộ môn do chính sách thay đổi về đào tạo nghề ở các lớp THCS.

Trong công tác đào tạo – bồi dưỡng: một số GV chưa có ý thức trong việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nên đôi khi công tác này chưa thật sự đem lại hiệu quả. Ngoài ra, thời gian dành cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng không nhiều và không liên tục do đó hiệu quả cũng không được như mong muốn. Việc triển khai các biện pháp theo dõi quản lý tổng kết – đánh giá – rút kinh nghiệm công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ cho GV được giám đốc quan tâm như: cử GV dự các lớp bồi dưỡng ngoài trung tâm, khuyến khích tự nghiên cứu, tham quan thực tế, học tập kinh nghiệm… tuy đã được tổ chức, phát động nhưng các biện pháp tiến hành, theo dõi, kiểm tra, đánh giá không kịp thời nên chưa khuyến khích được GV tham gia tích cực để nâng cao trình độ của mình đáp ứng cho sự phát triển GD trong bối cảnh đổi mới hiện nay.

Thực hiện các chế độ chính sách đối với GV: Người viết có những nhận định qua phỏng vấn một số CBQL và GV cho rằng “trung tâm đã thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với GV nhưng kinh phí các nguồn còn thấp nên cũng chưa kích thích được GV trong các hoạt động. Ngoài ra trung tâm chưa chú ý trong việc tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi cho GV để họ có thể phát huy hết được năng lực và sở trường của mình” (QL006, GV009).

2.5.2. Nguyên nhân thực trạng Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Nguyên nhân chủ quan

  • Một số CBQL thực sự chủ động trong việc tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong công tác quản lý trung tâm
  • Một số CBQL chưa có biện pháp quản lý chuyên môn cho phù hợp với điều kiện thực tế của trung tâm do đó chưa phát huy hết khả năng giảng dạy và GD trong ĐNGV.
  • Năng lực quản lý, khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn của một số CBQL còn hạn chế, lúng túng nhất là đối với CBQL mới được bổ nhiệm, chưa qua lớp bồi dưỡng quản lý, thiếu kinh nghiệm thực tế.
  • Một số CBQL chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cho CBQL do đó chưa xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ kế cận.
  • ĐNGV đủ về số lượng, đảm bảo chuẩn đào tạo nhưng thực chất đội ngũ còn nhiều hạn chế. Một số GV tuổi đời cao, không thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để cập nhật kiến thức mới. Một số GV chưa tích cực đổi mới PPDH để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HV. Nhiều GV mới ra trường có kiến thức nhưng kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Có thể nói những hạn chế trên của ĐNGV là nhân tố tác động trực tiếp mạnh mẽ tới hiệu quả quản lý chuyên môn của CBQL và năng lực chuyên môn của GV.

Nguyên nhân khách quan

  • Đội ngũ GV trung tâm được hình thành từ nhiều nguồn, nên trình độ chuyên môn nghiệp vụ không đồng đều và có những mặt chưa theo kịp yêu cầu phát triển trong thời kì mới.
  • Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy: Khối dạy văn hóa có 20 phòng và 3 giảng đường; khối KTHN: 12 phòng lý thuyết và 4 phòng thực hành; 01 phòng thiết bị, 01 phòng thư viện và 01 phòng y tế Trung tâm chưa có hệ thống các phòng chức năng đầy đủ, thiết bị dạy học cũng như các điều kiện hỗ trợ dạy học chưa thật sự đáp ứng được điều kiện dạy học trong giai đoạn đổi mới và phát triển giáo dục.
  • Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động giảng dạy còn eo hẹp, không tạo điều kiện thuận lợi để CBQL có thể thực hiện các biện pháp tích cực trong quản lý đặc biệt là trong công tác đổi mới PPDH, tổ chức chuyên đề, tham quan thực tế, giao lưu học hỏi cho GV.
  • Giám đốc thực sự vẫn chưa có được một cơ chế QL tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong QL trung tâm và đặc biệt là QL ĐNGV. Thực tế việc xét tuyển GV vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến ĐNGV không đồng bộ và ảnh hưởng nhiều đến chất lượng ĐNGV.
  • Cải cách GD ở cấp THCS và THPT đã có một số môn học như GD Hướng nghiệp, GD Nghề không được cộng điểm vào lớp 10. Do đó dẫn đến dôi dư biên chế GV ở khối này.
  • Chính sách, chế độ đãi ngộ dành cho GV, CBQL còn thấp so với các ngành khác. Lương và phụ cấp tiền lương của GV, CBQL chưa đảm bảo mức sống tối thiểu và chưa thực sự làm họ yên tâm với công việc, dẫn đến phải làm thêm, dạy thêm để tăng thu nhập, ít dành thời gian tự học, NCKH, chưa quan tâm đúng mức cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy.

Tất cả các yếu tố trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến công tác quản lý ĐNGV ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

2.5.3. Những vấn đề cần giải quyết

Qua việc phân tích những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, chúng tôi nhận thấy có những vấn đề cần giải quyết như sau:

  • Xây dựng biện pháp nâng cao nhận thức ĐNGV
  • Nâng cao nhận thức CBQL, GV về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc thực hiện quán triệt các văn bản chỉ thị của Đảng, Nhà nước của Ngành
  • Tập huấn, tổ chức hội thảo về đổi mới dạy học trong giai đoạn hiện nay
  • Tăng cường chỉ đạo và quản lý công tác sinh hoạt tổ chuyên môn
  • Xây dựng biện pháp quy hoạch, tuyển dụng và sử dụng ĐNGV
  • Quy hoạch đội ngũ giáo viên Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương theo hướng đổi mới GD trong giai đoạn hiện nay
  • Sắp xếp tổ chức và biên chế ĐNGV
  • Tuyển dụng và sử dụng đội ngũ giáo viên
  • Xây dựng biện pháp kích thích hiệu quả hoạt động GD cho ĐNGV
  • Xây dựng môi trường thuận lợi cho sự phát triển ĐNGV Trung tâm theo định hướng đổi mới GD trong giai đoạn hiện nay
  • Chăm lo đời sống tinh thần cho đội ngũ giáo viên
  • Quản lý công tác kiểm tra, đánh giá ĐNGV kết hợp với thi đua, khen thưởng kịp thời

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Qua nghiên cứu thực trạng tổ chức, quản lý ĐNGV cho Giám đốc Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương, chúng tôi có một số kết luận như sau:

Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương đã tổ chức quản lý ĐNGV theo một số hình thức và phương pháp nhất định. CBQL, GV và GĐ đã có nhận thức tích cực về tầm quan trọng của công tác tổ chức quản lý ĐNGV trong giáo dục. Tuy nhiên, các hoạt động giáo dục ở Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương vẫn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Nội dung và hình thức tổ chức quản lý ĐNGV còn khiêm tốn. Việc quản lý đội ngũ GV của CBQL, Ban GĐ còn chưa đi vào chiều sâu, chưa thực sự đóng góp nhiều cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của Trung tâm. ĐNGV chưa được thực hiện một cách toàn diện và khoa học, từ việc xây dựng biện pháp nâng cao nhận thức, cần thiết thực hiện quán triệt các văn bản chỉ thị của Đảng, Nhà nước của Ngành. Tập huấn, tổ chức hội thảo về đổi mới dạy học trong giai đoạn hiện nay. Điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục toàn diện của Trung tâm. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thực trạng trên, trong đó quan trọng nhất vẫn là nhận thức của CBQL và ĐNGV, năng lực tổ chức quản lý và các điều kiện để tổ chức thực hiện hoạt động. Ngoài ra, có một số nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách quản lý và biện pháp quản lý. Những hạn chế và nguyên nhân về mặt cơ chế, chính sách và biện pháp quản lý cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác, làm cơ sở để đổi mới các biện pháp quản lý ĐNGV đạt kết quả tốt hơn, khắc phục những hạn chế hiện nay. Nhưng nhìn chung hiệu quả của công tác sử dụng và phát huy hết năng lực sẵn có của ĐNGV. GV có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, nhưng vẫn chưa thật sự chủ động, sáng tạo trong công tác giảng dạy.

Vì vậy, để có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo của Trung tâm mà ĐNGV là lực lượng đóng vai trò quyết định, công tác quản lý ĐNGV của CBQL là rất quan trọng. Việc phân tích thực trạng quản lý ĐNGV Trung tâm sẽ là cơ sở để đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý ĐNGV Trung tâm GDTX tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên trung tâm giáo dục

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993