Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Sau khi được mở rộng năm 2008, thủ đô Hà Nội có diện tích tự nhiên là 3.324 km2, dân số đến nay là 7,26 triệu người, so với Thủ đô của một số nước châu Á và thành phố Hồ Chí Minh, diện tích của thủ đô Hà Nội là lớn nhất. Với một thủ đô rộng lớn về diện tích và đông dân như Hà Nội, các vấn đề về đầu tư phát triển luôn được coi trọng đặc biệt bởi trình độ phát triển giữa các vùng miền còn chưa đồng đều, Hà Nội có điểm xuất phát từ sự phát triển thấp.

Thực tế các năm qua cho thấy, nhu cầu và vốn đầu tư công của Thủ đô dành cho đầu tư phát triển là rất lớn. Tuy nhiên, do những hạn chế trong quản lý nhà nước (QLNN) của Thành phố, việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này chưa hiệu quả, vẫn còn thất thoát, lãng phí trong đầu tư, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB). Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư công Thành phố, đảm bảo yêu cầu đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải gắn với tái cơ cấu đầu tư công; kiểm soát chặt chẽ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn; chú trọng giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư là những vấn đề bức thiết đang đặt ra hiện nay.

Xuất phát từ lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Công

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

2.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố của các tác giả liên quan đến đề tài luận văn và các khoảng trống nghiên cứu Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Tính đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu đã công bố của các tác giả liên quan đến đề tài luận văn, tiêu biểu là các công trình sau:

  • Đề tài “Định hướng và những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách do thành phố Hà Nội quản lý giai đoạn 2004-2010” do Tác giả Nguyễn Thị Như Thuần – Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội làm chủ nhiệm thực hiện, công bố năm 2003. Đề tài không nghiên cứu trọng tâm vào quản lý nhà nước mà nghiên cứu cơ sở lý luận và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Thành phố. Thời gian nghiên cứu trong giai đoạn 2004-2010.
  • Đề tài “Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước (NSNN) của thành phố Hà Nội” – Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị do Tác giả Lê Toàn Thắng bảo vệ và công bố năm 2012 tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài không đặt trọng tâm vào nghiên cứu quản lý nhà nước mà nghiên cứu quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN.
  • Đề tài khoa học cấp Thành phố “Tái cấu trúc đầu tư công thành phố Hà Nội phục vụ tăng trưởng cao, bền vững trong giai đoạn 2011-2020” do TS. Nguyễn Đình Dương thực hiện, bảo vệ và công bố năm 2012 tại Viện nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Hà Nội. Đề tài nghiên cứu có liên quan đến đầu tư công thành phố Hà Nội, song không đặt trọng tâm vào nghiên cứu quản lý nhà nước.
  • Đề tài “Quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị Hà Nội” – Luận án Tiến sĩ Kinh tế do Tác giả Hồ Thị Hương Mai bảo vệ và công bố năm 2015 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đặt trọng tâm nghiên cứu vào quản lý nhà nước nhưng nghiên cứu trong phạm vi hẹp thuộc ngành giao thông.
  • Báo cáo nghiên cứu “Đầu tư công, thực trạng và tái cơ cấu” do Tác giả Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Quang Thái, Viện Kinh tế Việt Nam công bố năm 2011, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Hà Nội. Đề tài vừa nghiên cứu về đầu tư công, vừa nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với đầu tư công, song phạm vi nghiên cứu là quốc gia.
  • Báo cáo nghiên cứu “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung từ NSNN do thành phố Hà Nội quản lý” do Tác giả Cấn Quang Tuấn công bố năm 2009. Mặc dù phạm vi nghiên cứu của đề tài là thành phố Hà Nôi, song đề tài chỉ nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
  • Báo cáo nghiên cứu “Tái cơ cấu đầu tư trong nông nghiệp trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam” do Tác giả Đặng Kim Sơn công bố năm 2010 tại Hội thảo về tái cơ cấu đầu tư do Ủy ban kinh tế của Quốc hội và Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức tại Huế tháng 12/2010. Đề tài có nghiên cứu về đầu tư công, song không tập trung vào quản lý nhà nước và phạm vi nghiên cứu trong ngành nông nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.

2.2. Tóm tắt những khoảng trống nghiên cứu của các công trình nêu trên và những vấn đề mà đề tài luận văn cần tập trung nghiên cứu, giải quyết Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

2.2.1. Tóm tắt những khoảng trống nghiên cứu của các công trình nêu trên

  • Về mặt thời gian

Đa số các đề tài, báo cáo nghiên cứu nêu trên đã công bố cách đây nhiều năm, khi đó Luật Đầu tư công chưa ra đời. Công trình công bố gần đây nhất của nghiên cứu trên lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, không nghiên cứu về đầu tư công trên giác độ tổng thể các lĩnh vực.

  • Về mặt nội dung

Đối với các đề tài, đã đưa ra được một số nội dung chủ yếu về cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhà nước đối với đầu tư công. Tuy nhiên, có sự khác biệt về phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu; cơ sở khoa học và phương pháp luận về đầu tư công được kế thừa, vận dụng từ các trường phái nghiên cứu, các học thuyết ở nước ngoài, tại thời điểm nghiên cứu của các đề tài, hệ thống lý luận về đầu tư công của Việt Nam còn ở giai đoạn phôi thai, chưa phát triển.

Đối với các báo cáo nghiên cứu, do tích chất của báo cáo là ngắn gọn, tập trung, đi thẳng vào vấn đề, nên các báo cáo nghiên cứu chưa xây dựng được cho mình (hoặc ít chú trọng) cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với đầu tư công, đặc biệt đầu tư công thành phố Hà Nội mà chỉ tập trung vào phân tích thực trạng, nguyên nhân, kiến nghị một số giải pháp, cá biệt có công trình chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp theo ngành dọc quản lý.

2.2.2. Những vấn đề mà đề tài luận văn cần tập trung nghiên cứu, giải quyết

Một là, làm rõ hệ thống cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với đầu tư công cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đặt trong bối cảnh Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18/6/2014.

Hai là, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư công thành phố Hà Nội, tác giả đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với đầu tư công thành phố Hà Nội theo hướng phát triển bền vững, nhằm thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI về phát triển Thủ đô 5 năm (2015 – 2020).

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

  • Mục đích

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra cơ sở khoa học về đầu tư công và quản lý nhà nước đối với đầu tư công, từ đó đối chiếu vào thực tiễn quản lý nhà nước đối với đầu tư công thành phố Hà Nội để kiến nghị các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những hạn chế trong quản lý nhà nước đối với đầu tư công Thành phố.

  • Nhiệm vụ

Một là, hệ thống cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với đầu tư công.

Hai là, phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư công thành phố Hà Nội, làm rõ hiệu quả và kết quả đầu tư đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Hà Nội, chỉ rõ các hạn chế và nguyên nhân.

Ba là, đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp quản lý nhà nước về đầu tư công của thành phố Hà Nội giai đoạn từ nay đến năm 2020.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu

  • QLNN đối với đầu tư công từ nguồn vốn cân đối NSĐP thành phố Hà Nội.

Phạm vi nghiên cứu

  • + Chủ thể quản lý nhà nước: Chính quyền cấp Thành phố.
  • + Khách thể: Đầu tư công trên địa bàn thành phố Hà Nội.
  • + Về thời gian: Từ năm 2011 trở lại đây.
  • + Về không gian: Trên địa bàn thành phố Hà Nội.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

  • Phương pháp luận

Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp luận về thế giới quan và triết học Mác – Lênin làm phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài. Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

  • Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm tại nơi làm việc, phương pháp xử lý và phân tích số liệu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

  • Về mặt lý luận

Nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với đầu tư công cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, góp phần phát triển lĩnh vực quản lý nhà nước đối với đầu tư công thành một môn khoa học trong thời kỳ phát triển kinh tế tri thức.

  • Về mặt thực tiễn

Góp phần thực hiện hoàn thành các mục tiêu mà Đảng bộ và chính quyền thủ đô Hà Nội đề ra trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 5 năm 2016-2020.

Góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tái cấu trúc đầu tư công thành phố Hà Nội, đóng góp chung cho sự thành công của tái cấu trúc đầu tư công của quốc gia.

Luận văn còn là tài liệu tham khảo giúp các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, các nhà làm chính sách có cơ sở hoạch định và ban hành các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là tài liệu hữu ích cho bạn đọc nghiên cứu các vấn đề về đầu tư nói chung và đầu tư công thành phố Hà Nội nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 03 chương gồm:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhà nước đối với đầu tư công cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
  • Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư công thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2016.
  • Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với đầu tư công  thành phố Hà Nội giai đoạn đến năm 2020.

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI  ĐẦU TƯ CÔNG CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

1.1. Những khái niệm cơ bản về đầu tư công Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

1.1.1. Khái niệm đầu tư

Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.

Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực.

Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.

 Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất, kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.

1.1.2. Khái niệm đầu tư công

1.1.2.1. Quan niệm của thế giới

Trong những thập kỷ gần đây, vai trò của đầu tư công đối với phát triển là một trong những chủ đề nhận được sự quan tâm lớn của các chính phủ và các nhà nghiên cứu. Cho dù mối quan tâm đó có thể xuất phát từ nhu cầu học hỏi những thành công về tăng trưởng cao liên tục nhiều năm do đầu tư dẫn dắt của các nước Đông Á hay đó được xem là một cách thức tốt để gia tăng tốc độ đô thị hóa với nhu cầu kết cấu hạ tầng kỹ thuật đi kèm cũng như phát huy các thành tựu khoa học kỹ thuật trong công nghệ thông tin (CNTT) và năng lượng, thì mọi chính phủ của các quốc gia ở các trình độ khác nhau đều đã nhận thấy nhu cầu phải tăng cường quy mô đầu tư công. Sự chú ý này dẫn đến đòi hỏi phải tìm được nguồn ngân sách để đáp ứng nhu cầu đầu tư công và khi không thể tìm được, thì dẫn đến nhu cầu sáng tạo ra các phương thức hợp tác với các khu vực tư nhân, đặc biệt trong việc tài trợ và thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu thời gian qua càng thúc đẩy vai trò của đầu tư công với tư cách là công cụ chính sách vực dậy nền kinh tế đang suy thoái, tạo ra việc làm và đặt nền móng cho tăng trưởng cao và bền vững. Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Mặc dù có tầm quan trọng như vậy, nhưng cách quan niệm và định nghĩa đầu tư công không phải đã có sự thống nhất. Xem xét theo mục đích đầu tư, E. Anderson và các cộng sự (2006) [18] cho rằng “đầu tư công (ròng) là phần chi tiêu công làm gia tăng tích lũy tài sản, bao gồm xây dựng đường sá, trường học, bệnh viện, không tính đến đầu tư cho giáo dục và y tế cho dù thực tế là chi tiêu cho những lĩnh vực trên cũng là đầu tư…” Khái niệm này tương ứng với định nghĩa đầu tư công trong số liệu thống kê tài khoản quốc gia có tên gọi “capital expenditure”.

Theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) của Liên Hợp quốc (UN) và Sổ tay thống kê tài chính chính phủ của Quỹ Tiền tệ quốc tế năm 2001 (GFSM 2001) đã có một số quy định rõ ràng về định nghĩa và ghi chép các hoạt động đầu tư của chính phủ trong kế toán và thống kê ngân sách chính phủ.

Theo đó, mặc dù các chính phủ trên thế giới có thể còn có các quan niệm khác nhau nhưng nhìn chung, đầu tư công hay đầu tư của chính phủ (tiếng Anh là capital expenditure) về cơ bản đề cập đến hoạt động đầu tư của chính phủ vào tài sản có thời gian sử dụng từ một năm trở lên. Đầu tư công cũng bao gồm đầu tư nâng cấp hay phục hồi các tài sản vật chất mà cho phép gia tăng thời gian sử dụng của tài sản (khác với việc sửa chữa hay bảo dưỡng nhằm đảm bảo khả năng vận hành tài sản trong thời gian sử dụng đã được kế hoạch) [19]. Ví dụ, đầu tư công của chính phủ có thể bao gồm đầu tư vào các tài sản cố định mà chính phủ sử dụng (ví dụ: văn phòng làm việc), hàng hóa bản chất là hàng hóa công cộng (ví dụ cầu, đường, điện, nước) và các tài sản vô hình (ví dụ: giáo dục và nghiên cứu) [17].

Một cách khái quát, các nội dung chi đầu tư công trong thống kê ngân sách theo thông lệ quốc tế [17] bao gồm: chi đầu tư tài sản cố định (đang tồn tại), chi đầu tư tài sả n cố định mới; chi đầu tư tài sản chính; chi chuyển giao (bao gồm chi bổ sung cho NSĐP và chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước (DNNN)), chi trả nợ thảo cấp cao về vai trò của đầu tư công đối với phát triển kinh tế và xã hội tháng 7/2009 tại Rio de Janeiro (Brazil) cho thấy không dễ để đưa ra được khái niệm về đầu tư công một cách rõ ràng như nhiều nghiên cứu đã có.

Về nguyên tắc, định nghĩa đầu tư công thường dựa trên sự phân biệt giữa chi đầu tư và chi thường xuyên trong đó chi đầu tư liên quan đến bất cứ khoản chi nào đem lại tài sản có thể sử dụng lâu dài trong tương lai. Như thế, rất nhiều nội dung đầu tư công có dạng chi vào kết cấu hạ tầng – ví dụ mạng lưới đường bộ, đường sắt, cảng, cầu, điện, nước, rác, tòa nhà của cơ quan nhà nước v.v… vốn có thời gian sử dụng hàng thập kỷ. Mua sắm máy tính, thiết bị thí nghiệm, thậm chí sách giáo khoa v.v… của chính phủ cũng đều thuộc đầu tư công. Nhưng có những loại chi khác, thường diễn ra dưới dạng chi thường xuyên và được thống kê vào chi thường xuyên nhưng có đóng góp lớn vào tích lũy tài sản và sự phát triển lâu dài của một quốc gia, trong đó nổi bật nhất là chi giáo dục và y tế. Một nội dung khác cũng gây tranh cãi là chi bảo dưỡng định kỳ, thường được thống kê vào chi thường xuyên, nhưng xét về ý nghĩa kinh tế, chi bảo dưỡng và phục hồi tài sản theo định kỳ cần được coi là chi đầu tư vì nếu không có những hoạt động này, thời gian và hiệu quả sử dụng tài sản có thể bị ảnh hưởng rất lớn.

Cũng cùng quan điểm tương tự, Bộ Tài chính Đan Mạch (2011) cho rằng đầu tư của nhà nước và vốn vật chất (đường sá, văn phòng, các công trình thủy lợi…) là một bộ phận quan trọng trong ngân sách đầu tư công. Song, đầu tư vào giáo dục, đào tạo và nghiên cứu – đầu tư vào hạ tầng mềm, đóng vai trò quan trọng không kém vào tăng trưởng quốc gia, lại không được tính vào ngân sách đầu tư công. Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Viện Chính sách kinh tế Hoa Kỳ (2011) cũng cho rằng, đầu tư công là tất cả các khoản chi tiêu của ngân sách cho các đối tượng khác nhau trong nền kinh tế mà những khoản chi tiêu này có tác dụng kích hoạt hoặc thúc đẩy chi tiêu của mọi thành phần kinh tế. Như vậy, theo khái niệm này, chi tiêu của nhà nước cho giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác để phát triển con người cũng được coi là đầu tư công. Thống nhất với cách hiểu này, giáo sư Robert Ducan (Đại học Missouri, Hoa Kỳ, 2011) đã tóm tắt quan điểm của mình rằng “đầu tư công có nghĩa là sở hữu công”. Nói cách khác, bất kỳ chi tiêu nào sử dụng các nguồn lực do nhà nước sở hữu đều bao hàm trong khái niệm đầu tư công, và như vậy đầu tư công gần như đồng nhất với chi tiêu công.

Không chỉ có những tranh luận về cách thức định nghĩa đầu tư công trên cơ sở phân loại ngân sách thế giới đang áp dụng phổ biến hiện nay, bản thân định nghĩa đầu tư công theo các nhà kinh tế, ví dụ E. Anderson (2006) cũng có nhiều điểm quan trọng cần xem xét trên góc độ kinh tế học chuẩn tắc. Thứ nhất, nguyên nhân các chính phủ chi tiêu vào tài sản công là do các dạng thất bại của thị trường (do tư nhân cung cấp hàng hóa công không hiệu quả hay do địa tô độc quyền quá lớn cho tư nhân). Thứ hai, vai trò của chính phủ trong đầu tư công không chỉ giới hạn ở chi tiêu ngân sách của riêng chính phủ. Chỉ quá tập trung vào chi tiêu chính phủ sẽ là một cách tiếp cận rất hẹp khi xem xét bức tranh quy mô đầu tư công và quan trọng hơn, làm giảm vai trò tiềm năng của các chính phủ ở khía cạnh cung cấp kết cấu hạ tầng công cộng. Rõ ràng nhất là trong hợp tác công tư (PPP), hầu hết chi đầu tư thực hiện bởi khu vực tư nhân. Mục đích của các hoạt động đầu tư này là nhằm cung cấp hàng hóa và dịch vụ công. Bên cạnh đó, vai trò của chính phủ trong dự án PPP – về mặt giám sát, quản lý, gánh chịu rủi ro và là người mua tài sản cuối cùng (có thể là rất lâu trong tương lai, nhưng đó cũng là một phần cam kết trong hợp đồng) sẽ vẫn là phổ biến. Tương tự, trong nhiều trường hợp khi khu vực tư nhân đầu tư vào sản xuất các hàng hóa độc quyền tự nhiên, cần phải có các quy định của chính phủ. Trong những lĩnh vực đầu tư tư nhân khác, quy định về vai trò của chính phủ cũng đóng vai trò then chốt để thực hiện các mục tiêu chính sách công (trong trường hợp có các hiệu ứng ngoại lai), dù những khoản đầu tư này sẽ được ghi nhận là đầu tư tư nhân.

Những tranh luận còn bỏ ngỏ về các vấn đề nêu trên khiến khái niệm về đầu tư công của thế giới vẫn đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện.

1.1.2.2. Quan niệm của Việt Nam Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Khảo sát một số công trình nghiên cứu và giáo trình về đầu tư phát triển và đầu tư công, đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam, dễ thấy quan niệm về đầu tư phát triển của nước ta là không khác biệt so với quan niệm của thế giới, trong khi đó còn có khoảng cách khá xa giữa quan niệm đầu tư công, đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam với quan niệm của thế giới.

a) Về đầu tư phát triển

Ở mức độ khái quát cao, đầu tư phát triển được định nghĩa là “công việc sử dụng một khoản tiền vốn có tính toán, để đạt được mục đích nhất định vì sự phát triển” [14]. Cụ thể hơn, đầu tư phát triển được hiểu là “bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra nhưng tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển” [5]. Dù định nghĩa thiên về tính khái quát cao hay thiên về cụ thể, các quan niệm này đồng nhất với quan niệm về đầu tư phát triển của cộng đồng quốc tế. Ví dụ, quan niệm của Quỹ Tiền tệ quốc tế, đầu tư phát triển được định nghĩa là phần sản lượng được tích lũy nhằm tăng năng lực sản xuất tương lai của nền kinh tế [20].

b) Về đầu tư công

Quan niệm về đầu tư công chưa được thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, cơ quan quản lý trong nước và có sự khác biệt với quan niệm và thống kê của quốc tế.

Theo Nguyễn Đăng Bình [2], đầu tư công được hiểu là đầu tư vào hàng hóa công cộng, “nói chung là đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, sản xuất, cung cứng sản phẩm, dịch vụ công ích, cải thiện môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm an ninh quốc phòng”. Quan niệm này liệt kê khá cụ thể về các nội dung của đầu tư công nhưng tính khái quát chưa cao nên không bao hàm hết các nội hàm của đầu tư công. Quan niệm tương tự cũng được thể hiện trong nghiên cứu của Nguyễn Đức Thành và Đinh Tuấn Minh [9]: Đầu tư công (thuần) được hiểu như là phần chi tiêu công (public expenditure) được thêm vào lượng vốn vật chất để tạo ra các dịch vụ xã hội, chẳng hạn xây dựng đường sá, cầu cảng, trường học, bệnh viện v.v… Nguồn vốn đầu tư công thường bao gồm NSNN, trái phiếu chính phủ, hoặc viện trợ phát triển của nước ngoài. Tùy theo quan niệm của từng quốc gia mà đầu tư công có thể bao gồm các dự án cho các mục đích kinh doanh (qua khu vực DNNN) hoặc các dự án chỉ thuần mục đích công ích. Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Quang Thái [1] cho rằng, theo lý thuyết kinh tế học, đầu tư công là việc đầu tư để tạo năng lực sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng. Hàng hóa công cộng phải thỏa mãn hai đặc tính là không có tính cạnh tranh và không có tính loại trừ (Varian, 1992). Tuy nhiên, trên thực tế, ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, chính phủ có thể đảm nhận chức năng rộng hơn, không chỉ sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng, mà còn sản xuất và cung ứng rất nhiều hàng hóa tư nhân (ví dụ, sản xuất sắt, thép, xi măng). Ngược lại, ở các nước phát triển tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào cung ứng các hàng hóa công cộng.

Vì thế, đối với trường hợp của những nước mà khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò lớn như ở Việt Nam, nhiều nhà khoa học trong nước cho rằng, cần phải quan niệm đầu tư công là tất cả các khoản đầu tư do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước tiến hành. Trong quan niệm này, đầu tư công được xem xét không phải từ góc độ mục đích (có sản xuất hàng hóa công cộng hay không, có mang tính kinh doanh hay là phi lợi nhuận) mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư [1]. Cụ thể ở Việt Nam, đầu tư công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm: Vốn NSNN, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các DNNN và các vốn khác do nhà nước quản lý.

Khác với quan điểm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách trong nước cho rằng “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội” [6]. Quan niệm như vậy đã loại bỏ những hoạt động đầu tư của chính phủ nhằm mục đích kinh doanh có gia tăng tích lũy tài sản của nền kinh tế. Theo cách hiểu này lĩnh vực đầu tư công bao gồm: (i) Đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội; Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; (ii) Đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích; (iii) Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư [6].

Về khía cạnh thống kê, rõ ràng là có sự khác biệt rất lớn về các khái niệm Việt Nam sử dụng so với thông lệ quốc tế. Trong phạm vi của đề tài, sự khác biệt lớn nhất đó nằm ở khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong thống kê chi ngân sách của Việt Nam có nội dung chi đầu tư phát triển (bản dịch tiếng Anh của Bộ Tài chính sử dụng thuật ngữ capital development expenditure), trong chi đầu tư phát triển có chi đầu tư xây dựng cơ bản (bản dịch tiếng Anh của Bộ Tài chính sử dụng thuật ngữ (capital construction investment, trong khi Niên giám thống kê dịch là capital expenditure).

Thống kê ngân sách của quốc tế không có khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản mà hiểu như Tổng Cục thống kê thì chi đầu tư xây dựng cơ bản chính là chi đầu tư của chính phủ (capital expenditure) như thế giới dùng. Tuy vậy, ở Việt Nam, thống kê chi đầu tư xây dựng cơ bản của chính phủ chỉ là một nội dung của chi đầu tư phát triển bằng ngân sách (khoảng 40% chi đầu tư phát triển bằng ngân sách) và về mặt nội dung cũng hẹp hơn rất nhiều so với thống kê chi đầu tư của chính phủ theo cách thống kê của thế giới. Vì thế, có lẽ không thể dùng thuật ngữ “capital expenditure” để dịch và hiểu tương đương như “chi đầu tư xây dựng cơ bản” ở Việt Nam mà thuật ngữ này của quốc tế sát với “chi đầu tư phát triển” hơn, tuy vẫn có khác biệt, đó là chi trả nợ ở Việt Nam không tính vào chi đầu tư phát triển trong khi đó là một bộ phận của thống kê chi Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Như đã nêu ở trên, thống kê ngân sách quốc tế hiện nay không có khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản.

Ở nước ta, khái niệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản được sử dụng phổ biến với nội dung bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế.

Về bản chất, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí làm tăng thêm giá trị tài sản cố định và gồm 02 bộ phận: (i) Vốn đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới tài sản cố định (thường được gọi là vốn đầu tư xây dựng cơ bản và (ii) Chi phí cho sửa chữa lớn tài sản cố định. Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công thành phố Hà Nội.

Về nội dung chi tiêu, vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn tài sản cố định bao gồm: Chi phí cho việc thăm dò, khảo sát và quy hoạch xây dựng chuẩn bị cho việc đầu tư; chi phí thiết kế công trình; chi phí xây dựng; chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí khác thuộc nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản; chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy móc thiết bị, sửa chữa lớn các tài sản cố định khác.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Quản lý nhà nước thi đua khen thưởng tại Bình Dương

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993