Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối về chú trọng xây dựng nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong thời kỳ mới. Trực tiếp và toàn diện nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về “tam nông”, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, khẳng định quyết tâm thay đổi diện mạo nông thôn, triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới trong phạm vi cả nước.

Trên cơ sở đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 về Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 nhằm mục đích xây dựng nông thôn mới toàn diện, kinh tế – xã hội phát triển, hiện đại, bền vững; giữ vững ổn định chính trị; đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Tiếp nối những kết quả đạt được của giai đoạn 2010-2015, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định 1600/QĐ-TTg, ngày 16/08/2016 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, triển khai sâu rộng hơn nữa nội dung của chương trình trong giai đoạn mới. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai trên địa bàn 184 xã của tỉnh từ năm 2011. Với sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ban, ngành, đoàn thể địa phương đến cuối năm 2015 toàn tỉnh đã có 23 xã đạt 19 tiêu chí nông thôn mới, đã công nhận 21 xã đạt chuẩn nông thôn mới, là một trong hai tỉnh dẫn đầu về thành tích xây dựng nông thôn mới ở khu vực Tây nguyên (sau tỉnh Lâm Đồng), nhưng so với tiến độ chung cả nước thì việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh còn chậm [7].

Trong giai đoạn tiếp theo 2016-2020 với nhiều nội dung và các tiêu chí mới đặt ra nhiều vấn đề khó khăn hơn đối với việc thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới còn nhiều hạn chế như việc tổ chức triển khai một số chính sách trong xây dựng nông thôn mới còn chậm; tổ chức bộ máy thực hiện, đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới còn thiếu và chưa đáp ứng về năng lực; nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, khó khăn trong huy động nguồn vốn từ nhân dân; công tác theo dõi, tổng hợp, báo cáo, kiểm tra, giám sát ở một số địa phương chưa thống nhất, chưa kịp thời; ở một số nơi chính quyền địa phương nhất là địa phương cấp cơ sở chưa chủ động và quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện; chưa phát huy được vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới… đồng thời đặc thù địa phương có rất nhiều khó khăn như tỷ lệ hộ nghèo và dân tộc thiểu số tương đối cao ảnh hưởng lớn tới tiến độ đạt được của kế hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.  Trong khi đó, tính đến thời điểm hiện nay nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước như Nam Định, Thái Nguyên, Ninh Bình, Đồng Nai đã có số lượng lớn các xã hoàn thành nông thôn mới… trở thành những điểm sáng, đi đầu trong phong trào xây dựng nông thôn mới, tiến tới xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu theo Quyết định số 691/QĐ-TTg ban hành ngày 05/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020. Những kết quả này không chỉ là động lực thúc đẩy mà còn đặt ra yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng nông thôn mới của tỉnh Gia Lai trong thời gian tiếp theo.

Chính vì vậy, tỉnh Gia Lai cần phải nhanh chóng có những nghiên cứu lý luận, khảo sát, đánh giá thực tiễn, để nhanh chóng khắc phục tồn tại, hạn chế, khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, tìm ra giải pháp phù hợp tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, nhằm đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thực hiện hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới của địa phương và đảm bảo xây dựng nông thôn mới bền vững, duy trì và nâng cao hơn nữa chất lượng các tiêu chí đã đạt được.

Từ những lý do trên đây và qua thực tiễn, đề tài “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai” được tác giả lựa chọn làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý công.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Công

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Xây dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về nông thôn mới là một vấn đề quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nhất là đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay. Việc xây dựng nông thôn mới đã đạt được những kết quả bước đầu và ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều khoa học nghiên cứu, quan tâm tìm hiểu.

Thứ nhất, về vấn đề xây dựng nông thôn mới: Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Tác giả Bùi Văn Thấm (2013), Những quy định pháp luật và công tác văn hóa xã hội ở cơ sở và xây dựng nông thôn mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tác giả nghiên cứu, đề cập và giới thiệu các quy định của Nhà nước về công tác văn hóa xã hội và quy định về nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới ở các vùng của đất nước, trong đó nhấn mạnh miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa [12].  Tác giả Vũ Văn Phúc (chủ biên) (2012), Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. “Công trình là tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan Trung ương, địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, gồm những vấn đề lý luận chung về xây dựng nông thôn mới, kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới, thực tiễn và kết quả bước đầu trong xây dựng nông thôn mới ở một số địa bàn trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các địa bàn thí điểm xây dựng nông thôn mới [46].  Tác giả Phạm Đi (2016), Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay (Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã tập trung tìm hiểu, nghiên cứu việc xây dựng nông thôn mới của vùng duyên hải Nam Trung Bộ, từ đó phân tích những khó khăn, vấn đề mới phát sinh, rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chủ trương xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tiếp theo [26].

Tác giả Lương Thị Thu Hằng (chủ nhiệm) (2015), “Chương trình xây dựng Nông thôn mới: nhìn từ thực tế các xã thí điểm”, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng,  là cơ quan chủ trì thực hiện, đề tài nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện xây dựng nông thôn mới tại một số xã thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính phủ qua các chỉ số đánh giá định tính và định lượng; phân tích các thuận lợi, thách thức, cản trở và các điểm nghẽn trong việc thực hiện; phân tích các vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Đề tài đã bước đầu đưa ra những khuyến nghị chính sách và đề xuất giải pháp thực hiện mô hình xây dựng nông thôn mới theo hướng phát triển bền vững vùng [23].

Cùng rất nhiều các bài báo của các tác giả đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như Vũ Văn Ninh, “Nhìn lại hơn 3 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Kết quả và một số bài học kinh nghiệm”, Tạp chí Cộng sản, số 94/2014; Phạm Tất Thắng “Xây dựng nông thôn mới: Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 5/11/2015 16:28; Nguyễn Văn Quý với bài viết “Xây dựng nông thôn mới theo Nghị quyết Trung ương 7, khóa X của Đảng – Một số kết quả”, tr.51 – 55, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7/2018… các bài viết của các tác giả đã nghiên cứu và dần làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới những kết quả đạt được, hạn chế trong thực hiện chương trình đề xuất giải pháp hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới nói chung. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Thứ hai, về hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới:

Các bài báo của các tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh (2018), “Huy động nguồn lực thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới – thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước, tr.71 -75, số 11/2018; Lê Doãn Sơn (2018), “Những vấn đề đặt ra đối với với quản lý nhà nước về môi trường trong Chương trình xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, tr.28 – 32, số 5/2018; Phạm Quang Tuệ (2018), “Xây dựng chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, tr.59 – 62, số 9/2018… các tác giả đã nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên một số khía cạnh cụ thể như huy động nguồn lực, quản lý nhà nước về môi trường trong xây dựng nông thôn mới, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức triển khai thực hiện chương trình, đề xuất các giải pháp để tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa nội dung chương trình xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh đó còn có các đề tài luận văn, luận án nghiên cứu như:

  • Nguyễn Thị Bích Lệ (2016), “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ”, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Hà Nội.
  • Đỗ Danh Phương (2018), “ Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk”, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia, phân viện Tây Nguyên.
  • Trần Minh Nhật (2018), “Quản lý nhà nước về nông thôn mới ở huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia, phân viện Tây Nguyên.

Các luận văn trên nghiên cứu về quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới nhưng mỗi một công trình có cách tiếp cận khác nhau, ở các cấp địa phương khác nhau, có những đóng góp nhất định cho việc cung cấp lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong phạm cả nước cũng như các địa phương. Tuy nhiên, có thể nhận thấy cho đến nay nghiên cứu về quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới chưa nhiều, nhất là phạm vi cấp tỉnh, nghiên cứu về quản lý nhà nước trong phạm vi toàn tỉnh Gia Lai chưa có đề tài nào, trong khi đó, để đảm bảo xây dựng nông thôn mới hoàn thành đúng thời hạn, với kết quả tốt nhất, thì địa phương phải có sự nghiên cứu, đúc rút cụ kinh nghiệm, tìm ra giải pháp phù hợp.

Do đó, tác giả luận văn lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai” làm đề tài nghiên cứu như là một cố gắng đưa ra những giải pháp thiết thực hơn nữa góp phần tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới của địa phương trong thời gian tới, hoàn thành xây dựng  nông thôn mới trên địa bàn tỉnh theo mục tiêu đã đề ra.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

3,1 Mục đích

Trên sơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở Gia Lai hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, đẩy mạnh tiến độ hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đã đề ra.

3.2 Nhiệm vụ:

  • Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới; kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của các tỉnh, thành phố có đặc điểm tương đồng như Gia Lai.
  • Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới; làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Gia Lai. – Đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng

Các vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

4.2 Phạm vi

  • Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
  • Về thời gian: Từ năm 2015 -2018 (kết quả của  giai đoạn 2010 – 2015 và thực hiện đến năm 2018 của giai đoạn 2016 – 2020)

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1 Phương pháp luận

Nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

5.2 Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu là:

Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về xây dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam và tỉnh Gia Lai, đánh giá các quan điểm hợp lý từ đó đưa ra các kiến giải theo cách tiếp cận của tác giả.

Phương pháp điều tra xã hội học: khảo sát thực tế bằng phiếu hỏi để thu thập thông tin định lượng về đánh giá của các đối tượng cán bộ, công chức xã trên địa bàn các xã của tỉnh về xây dựng nông thôn mới và hoạt động quản lý nhà nước vể xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Gia Lai.

Phương pháp thực chứng: Dựa trên tư liệu thực tiễn của ngành, địa phương để phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Gia Lai, từ đó làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế làm cơ sở phân tích và đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

Phương pháp tổng hợp và phân tích định lượng: Dựa trên tài liệu, thông tin thực tiễn của ngành, các địa phương và các dữ liệu thu thập được đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới, làm căn cứ để đưa ra những nhận định định tính, kết luận, đề xuất giải pháp hòan thiện quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Gia Lai.

Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh trong quá trình nghiên cứu.

Nguồn tài liệu phục vụ cho việc thực hiện luận văn được sử dụng từ:

Các văn bản của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, văn bản chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp địa phương ban hành về tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới.

Các báo cáo thống kê, các báo cáo tổng kết của các cơ quan của tỉnh, huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn về xây dựng nông thôn mới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, xác định rõ những nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, vai trò của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

  • Qua nghiên cứu, phân tích, giúp đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới hiện nay trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian qua.
  • Đề xuất những giải pháp nhằm góp phần tăng cường quản lý nhà nước về nông thôn mới hiện nay, đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai, đạt mục tiêu đã đề ra.
  • Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý của Sở, ban, ngành tỉnh Gia Lai trong việc thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân, tổ chức phục vụ nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

  • Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
  • Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai
  • Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai.

Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.1. Xây dựng nông thôn mới  

1.1.1. Một số khái  niệm

1.1.1.1. Nông thôn 

Có thể nhận thấy, đặc điểm chung cơ bản khi nói về nông thôn đó thường là khu vực địa lý nơi đó sinh kế cộng đồng gắn bó, có quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, vẫn chưa có khái niệm chính xác về nông thôn và còn có nhiều quan điểm khác nhau. Như vậy, khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối, nó có thể thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới.

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “nông thôn ở Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Ở Việt Nam, cho đến năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn” [50].

Theo Từ điển Tiếng Việt, nông thôn là “Khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông; phân biệt với thành thị” [44].

Điều 1, Thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới quy định: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã” [11].

Theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã” [22, tr.28]. Như vậy, việc xác định nông thôn là những địa phương có tên loại đơn vị hành chính là tỉnh, huyện và xã. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam chúng ta có thể hiểu nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp nông dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường dưới sự quản lý của hệ thống thể chế chính trị nhất định.  

Nhìn chung, hiện nay nông thôn Việt Nam thể thấy một số đặc trưng sau:

Thứ nhất, nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng dân cư trong đó chủ yếu là nông dân, hoạt động sản xuất nông nghiệp là cơ bản, ngoài ra còn có các hoạt động sản xuất và phi sản xuất khác phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp và cho dân cư nông thôn.

Thứ hai, nông thôn là vùng có kết cấu hạ tầng kém phát triển hơn đô thị, mức độ phúc lợi xã hội cũng kém hơn. Nông thôn thường chịu sức hút của đô thị về nhiều mặt, trong đó người dân nông thôn thường hay di chuyển tự do ra các đô thị để tìm kiếm việc làm và tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn.

Thứ ba, nông thôn có thu nhập và đời sống thấp hơn, trình độ văn hóa chưa cao, áp dụng khoa học công nghệ thấp hơn so với đô thị. Có lối sống đặc thù riêng, lối sống nông thôn – đa phần là cộng đồng xã hội được hình thành chủ yếu trên cơ sở của hoạt động sản xuất nông nghiệp, tính cố kết cộng đồng cao, văn hóa mang đậm nét dân gian, truyền thống dân tộc, sống gần gũi với thiên nhiên nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều phong tục, tập quán lạc hậu…

Thứ tư, xã hội nông thôn cũng rất đa dạng về điều kiện kinh tế xã hội, đa dạng về quy mô và mức độ phát triển, không đồng đều về trình độ sản xuất và quản lý. Sự đa dạng này thể hiện ngay trong sự khác nhau giữa các vùng nông thôn ở các vùng, miền của đất nước ta hiện nay.

Những điều này, tạo ra những nét riêng trong đặc thù quản lý nhà nước, đòi hỏi trong quá trình xây dựng tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng và ban hành hệ thống chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông thôn, nông dân phải hết sức chú trọng những đặc trưng này.

Khái quát lại có thể hiểu, nông thôn Việt Nam là nơi sinh sống của tập hợp dân cư trong đó đa phần là nông dân, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, có lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các quận, thành phố, thị xã, thị trấn và phường, được quản lý bởi chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.

1.1.1.2. Khái niệm nông thôn mới Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Khái niệm nông thôn có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Cách hiểu về nông thôn mới cũng vậy, tùy thuộc vào mỗi một quốc gia, đặc thù và yêu cầu phát triển, lại có nội hàm về nông thôn mới khác nhau.

Khái niệm NTM trước tiên là bao hàm cơ cấu và chức năng mới. NTM không phải là việc biến xã thành phường hay cố định nông dân tại nông thôn nhưng đô thị hóa và phi nông thôn hóa nông dân chính là nguồn động lực quan trọng để Xây dựng Nông thôn mới, Xây dựng Nông thôn mới chính là phải đặt trong bối cảnh đô thị hóa, tạo ra những nét mới về cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội, đời sống người dân nông thôn.

Nghị quyết số 26-NQ/TW khẳng định: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [2, tr.3].

Khái quát lại có thể khẳng định nông thôn mới là nông thôn có kết cấu hạ tầng – kinh tế xã hội hiện đại, phát triển bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, dân trí cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy.

1.1.1.3. Khái niệm xây dựng nông thôn  mới

Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, thành quả đạt được ở nhiều phương diện khác nhau vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Nền nông nghiệp còn phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng chưa cao, sức cạnh tranh thấp, năng suất bấp bênh. Đại đa số nông dân có đời sống vật chất, tinh thần còn thấp nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nhiều vấn đề nông thôn đặt ra do đó Đảng và Nhà nước chủ trương tiến hành Xây dựng Nông thôn mới, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hiện nay.

Như vậy có thể hiểu, xây dựng nông thôn mới là quá trình xây dựng nhằm tạo ra những giá trị mới cho nông thôn Việt Nam. Đó là một nông thôn hiện đại có diện mạo mới (cơ sơ hạ tầng mới, giá trị kinh tế mới, văn hóa mới, văn minh nông thôn mới, tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc, phương thức sản xuất theo hướng hiện đại, quy mô và phát triển theo hướng bền vững… )

Xây dựng nông thôn mới cũng là quá trình hình thành mẫu hình “người nông dân mới” (có tư duy mới, có tố chất văn hóa và hiểu biết về kỹ thuật, biết vận dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, có cái nhìn mới về cách thức sản xuất, quan hệ xã hội, môi trường).

Xây dựng nông thôn mới còn là quá trình hình thành mô hình tổ chức mới về quản lý ở nông thôn, quyền làm chủ và vai trò của chủ thể của người nông dân được phát huy, người nông dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là người thụ hưởng những giá trị vật chất, tinh thần do chính họ tạo ra. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Nếu xét về góc độ quy trình, xây dựng nông thôn mới là quá trình tổ chức thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của chương trình xây dựng nông thôn mới, chủ yếu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện và phối hợp thực hiện bằng các nguồn lực để hoàn thành các nội dung của bộ tiêu chí nông thôn mới, công nhận đạt chuẩn nông thôn mới cho các địa phương hoàn thành.

Tóm lại, xây dựng nông thôn mới là quá trình thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội nhất là chủ thể cộng đồng dân cư ở nông thôn để tạo dựng nên một nông thôn hiện đại, phát triển toàn diện thông qua việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới với nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và bộ tiêu chí đánh giá rõ ràng.

1.1.2. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới

Việc xây dựng nông thôn mới là điều tất yếu, bởi:

Thứ nhất, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò vô cùng quan trọng. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, đến năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành quốc gia dân tộc và trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng [50]. Về vấn đề này trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11-4-1946, Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”. “Nước ta là một nước nông nghiệp…, muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy nông nghiệp làm gốc” [18, tr.215].

Rất nhiều các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ nhấn mạnh và đề cao vai trò của “tam nông”, Nghị quyết số 26-NQ/TW cũng đã nhấn mạnh: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước” [3, tr. 123]. Do đó, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân trở thành yêu cầu cấp thiết.

Thứ hai, xuất phát từ những hạn chế tồn tại của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hiện nay. Sau hơn 30 năm đổi mới, bên cạnh thành tựu đạt được, thì vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam còn nhiều hạn chế:

Nông nghiệp phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh còn thấp, chưa phát huy hết nguồn lực cho sản xuất. Sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán, truyền thống; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng nông nghiệp còn thấp; sản xuất còn mang tính tự cung, tự cấp, chưa hình thành những mô hình kinh tế nông nghiệp có quy mô lớn và ổn định, đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới nhất là trong thời kỳ công nghệ khoa học phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Đây chính là những “vấn đề nông nghiệp” đang  đặt ra và cần giải quyết.

Hiện nay đại đa số nông dân có đời sống vật chất và tinh thần còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; trình độ, tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất chưa cao..

Bên cạnh đó nông thôn Việt Nam hiện nay cũng đặt ra nhiều vấn đề đặc biệt là đặt trong mối quan hệ tương quan với đô thị. Tạo ra nhiều chênh lệch giữa nông thôn và đô thị: nông thôn tụt hậu so với đô thị về nhiều mặt: quy hoạch; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, công nghiệp, dịch vụ….; văn hóa truyền thống mai một, cơ sở vật chất văn hóa nghèn nàn; khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và đô thị còn lớn, nông thôn phát triển thiếu tính ổn định và bền vững.

Chính vì lẽ đó, xây dựng nông thôn mới là một yêu cầu tất yếu để giải quyết các vấn đề tồn tại, tạo bước chuyển biến căn bản, toàn diện về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Thứ ba, xây dựng nông thôn mới để phát huy thế mạnh của nông thôn Việt Nam. Nông thôn Việt Nam trải dài khắp ba miền Bắc, Trung, Nam và chiếm đa phần lãnh thổ. Mỗi khu vực nông thôn ở các địa phương khác nhau, gắn với những đặc điểm kinh tế – xã hội khác nhau, có những thế mạnh, tiềm năng khác nhau về cây trồng, vât nuôi, ngành nghề thủ công truyền thống hay du lịch v.v… Thông qua Xây dựng Nông thôn mới với việc triển khai thực hiện nhiều nội dung trong đó có phát triển sản xuất gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình… cùng hệ thống chính sách, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích của nhà nước sẽ khai thác triệt để và phát huy được tiềm năng, thế mạnh của các địa phương.

Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu phát triển nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế, công nghệ cao, sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Xu thế phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo hướng công nghiệp, hiện đại đã trở thành tất yếu trong thời kỳ hội nhập. Trong khi đó, đến thời điểm này nông nghiệp nước ta còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất nhỏ lẻ, năng suất và khả năng cạnh tranh chưa cao, chưa bền vững. Sức cạnh tranh với khu vực và thế giới còn thấp, ứng dụng khoa học và công nghệ, cơ giới hóa trong nông nghiệp còn khiêm tốn, sản xuất không bền vững, rủi ro cao. Chính vì vậy Xây dựng Nông thôn mới với việc triển khai có hiệu quả đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng liên kết chuỗi giá trị sẽ không ngừng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, tăng cường công tác khuyến nông; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, hàng hóa chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc, nội dung xây dựng nông thôn mới

1.1.3.1. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới

Mục tiêu chung: Xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững.

  • Mục tiêu cụ thể:

Đến năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50% (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng vùng, miền là: Miền núi phía Bắc: 28,0%; Đồng bằng sông Hồng: 80%; Bắc Trung Bộ: 59%; Duyên hải Nam Trung Bộ: 60%; Tây Nguyên 43%; Đông Nam Bộ: 80%; Đồng bằng sông Cửu Long: 51%). Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Khuyến khích mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phấn đấu có ít nhất 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Bình quân cả nước đạt 15 tiêu chí/xã (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng vùng, miền là: Miền núi phía Bắc: 13,8; Đồng bằng sông Hồng: 18,0; Bắc Trung Bộ: 16,5; Duyên hải Nam Trung Bộ: 16,5; Tây Nguyên: 15,2; Đông Nam Bộ: 17,5; Đồng bằng sông Cửu Long: 16,6). Cả nước không còn xã dưới 5 tiêu chí.

Cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã. Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân, thu nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015 [24; tr.1].

1.1.3.2. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới

Nguyên tắc là hệ thống các quan điểm, tư tưởng nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo. Để đảm bảo hoạt xây dựng nông thôn mới thống nhất, toàn diện, đồng bộ và xuyên suốt, trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải tuân thủ những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, các nội dung, hoạt động triển khai chương trình Xây dựng Nông thôn mới phải bám sát Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20162020; Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 về ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016-2020, Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 về ban hành tiêu chí huyện NTM và các văn bản hướng dẫn của Trung ương.

Thứ hai, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách, cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định, tổ chức thực hiện và giám sát Chương trình.

Thứ ba, gắn kết với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp và 21 chương trình mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn nông thôn.

Thứ tư, thực hiện Chương trình Xây dựng Nông thôn mới phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và phù hợp với quy hoạch Xây dựng Nông thôn mới đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Thứ năm, công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực; tăng cường phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các công trình, dự án của Chương trình xây dựng NTM; phát huy vai trò làm chủ của người dân và cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và giám sát, đánh giá.

Thứ năm, xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả Hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp ủy đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thảnh viên vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong xây dựng NTM [8, tr.14].

1.1.3.3. Nội dung xây dựng nông thôn mới Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Việc thực hiện chương trình xây dựng xây dựng nông thôn mới  bước vào giai đoạn 2, 2016-2020, nội dung xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg; Quyết định số 1760/QĐ-TTg điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 1600/QĐ-TTg TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.

Về cơ bản nội dung xây dựng nông thôn mới bao gồm 11 nội dung đã triển khai trước đó, được xác định trên cơ cở bộ tiêu chí Xây dựng Nông thôn mới theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020 bao gồm 5 nhóm với 19 tiêu chí và 49 chỉ tiêu. Tuy nhiên trên những thành tựu đã đạt được của giai đoạn trước, giai đoạn 2016-2020 bắt đầu triển khai nhiều nội dung và tiêu chí theo hướng nâng cao. Bao gồm các nội dung sau:

Nội dung 01.Quy hoạch xây dựng nông thôn mới (Đạt yêu cầu tiêu chí số 01 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.).Cụ thể:

Quy hoạch xây dựng vùng nhằm đáp ứng tiêu chí của Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí huyện NTM và quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.

Rà soát, điều chỉnh bổ sung các quy hoạch sản xuất trong đồ án quy hoạch xã NTM gắn với cơ cấu lại nông nghiệp cấp huyện, cấp vùng và cấp tỉnh; bảo đảm chất lượng, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và tập quán sinh hoạt từng vùng, miền.

Rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội – môi trường nông thôn trong đồ án quy hoạch xã NTM đảm bảo hài hòa giữa phát triển nông thôn với phát triển đô thị; phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã.

Nội dung 02. Phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội (Đạt yêu cầu tiêu chí số 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới). Cụ thể:

Hoàn thiện hệ thống giao thông trên địa bàn thôn, xã. Hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng. Cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống lưới điện nông thôn.

Xây dựng hoàn chỉnh các công trình đảm bảo đạt chuẩn về cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông. Hỗ trợ xây dựng trường mầm non cho các xã thuộc vùng khó khăn chưa có trường mầm non công lập.

Hoàn thiện hệ thống Trung tâm văn hóa – thể thao, Nhà văn hóa – Khu thể thao thôn, bản. Hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn theo quy hoạch, phù hợp với nhu cầu của người dân.

Xây dựng, cải tạo, nâng cấp về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các trạm y tế xã, trong đó ưu tiên các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, xã hải đảo, các xã thuộc vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở. Hoàn chỉnh các công trình đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt cho người dân.

Nội dung 03. Phát triển sản xuất gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân (Đạt yêu cầu tiêu chí số 10 về thu nhập, tiêu chí số 12 về lao động có việc làm, tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã thông qua tăng cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho các HTX, tổ hợp tác. Cụ thể:

Triển khai có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng liên kết chuỗi giá trị để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình khoa học, công nghệ phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Tiếp tục thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn, trong đó chú trọng công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp thu hút nhiều lao động.

Tiếp tục đổi mới tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, thực hiện Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Nội dung 04. Giảm nghèo và an sinh xã hội (Đạt yêu cầu tiêu chí số 11 về hộ nghèo trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM). Cụ thể:

Thực hiện có hiệu quả Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Thực hiện các Chương trình an sinh xã hội ở xã, thôn.

Nội dung 05. Phát triển giáo dục ở nông thôn (Đạt yêu cầu tiêu chí số 14 về Giáo dục trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới)

Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi. Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo dục 02 buổi/ngày, đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp 1. Xóa mù chữ và chống tái mù chữ. Phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Nội dung 06. Phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân nông thôn (Đạt yêu cầu tiêu chí số 15 về Y tế trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới). Cụ thể:

Xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới đáp ứng yêu cầu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM.

Nội dung 07. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân nông thôn (Đạt yêu cầu tiêu chí số 16 về văn hóa của Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM). Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Xây dựng, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, tạo điều kiện để người dân nông thôn tham gia xây dựng đời sống văn hóa, thể thao. Góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và tham gia các hoạt động thể thao của các tầng lớp nhân dân, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí cho trẻ em và người cao tuổi. Tập trung nghiên cứu, nhân rộng các mô hình tốt về phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của từng vùng, miền, dân tộc.

Nội dung 08. Vệ sinh môi trường nông thôn, khắc phục, xử lý ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề (Đạt yêu cầu tiêu chí số 17 về môi trường trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới). Cụ thể:

Thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020, cải thiện điều kiện vệ sinh, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi vệ sinh và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn.

Xây dựng các công trình bảo vệ môi trường nông thôn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch; thu gom và xử lý chất thải, nước thải theo quy định. Cải tạo nghĩa trang; xây dựng cảnh quan môi trường xanh – sạch – đẹp, an toàn. Khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng.

Nội dung 09. Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội trong Xây dựng Nông thôn mới; cải thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân (Đạt yêu cầu tiêu chí số 18 về hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới). Cụ thể:

Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế – xã hội chuyên sâu cho cán bộ, công chức xã. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội tham gia xây dựng NTM theo Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”. Thực hiện cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiện toàn Ban Chỉ đạo và bộ máy giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp. Các Bộ, ngành, cơ quan đoàn thể và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai Kế hoạch thực hiện Phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng NTM”.

Cải thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công. Đánh giá, công nhận, xây dựng xã tiếp cận pháp luật; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân.

Nội dung 10. Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn (Đạt yêu cầu tiêu chí số 19 về Quốc phòng và an ninh của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới). Cụ thể:

Đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn, an ninh, trật tự xã hội địa bàn nông thôn. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nhất là các xã vùng trọng điểm (biên giới, hải đảo) đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia.

Nội dung 11. Nâng cao năng lực xây dựng nông thôn mới và công tác giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình. Cụ thể:

Tập huấn nâng cao năng lực, nhận thức cho cộng đồng và người dân, nhất là ở các khu vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa, để hiểu đầy đủ hơn về nội dung, phương pháp, cách làm NTM. Xây dựng và triển khai có hiệu quả hệ thống giám sát, đánh giá đồng bộ, toàn diện đáp ứng yêu cầu quản lý Chương trình trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin. Truyền thông về Xây dựng Nông thôn mới.

Có thể nói, Xây dựng Nông thôn mới là chương trình phát triển nông thôn toàn diện, quan tâm đến tất cả các lĩnh vực khác nhau của khu vực nông thôn, được thực hiện trên địa bàn tất cả các xã, huyện trong cả nước, là nhiệm vụ của cả Hệ thống chính trị và toàn xã hội.

1.2. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

  • Khái niệm quản lý

Hiểu một cách chung nhất “quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động” [21, tr.2].

  • Khái niệm quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý xã hội. Trong đó chủ thể quản lý là nhà nước, đối tượng quản lý là con người, các mối quan hệ xã hội và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hiểu một cách chung  nhất, “Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh các hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội” [21, tr.2].

  • Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Đối tượng của quản lý nhà nước bao gồm mọi cá nhân, tổ chức sống và làm việc trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Phạm vi quản lý nhà nước mang tính toàn diện trên mọi lĩnh vực cũng như các ngành cụ thể như kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục,y tế, khoa học công nghệ…. nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng không nằm ngoài lĩnh vực của quản lý nhà nước.

Nông thôn mới là một lĩnh vực quản lý của nhà nước, mang những nét đặc thù riêng, đa dạng, phức tạp, cụ thể nằm trong tổng thể hoạt động nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Thực hiện quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là trách nhiệm của nhà nước, để đảm bảo quản lý một cách đồng bộ, thống nhất trong phạm vi cả nước, cũng như ở mỗi cấp địa phương.

Ở Việt Nam hiện nay, với những đặc điểm mang tính cố hữu, truyền thống của nông thôn cũ trước đây, làm cho quá trình chuyển đổi tạo ra những nét đặc thù mới của nông thôn gặp nhiều khó khăn, cần sự đúc kết, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện dần trong suốt quá trình thực hiện để xây dựng nông thôn mới bền vững.

Do đó, Xây dựng Nông thôn mới là một quá trình lâu dài, với các nội dung mang tính tổng thể, với rất nhiều nội dung khác nhau. Trọng trách chính là của các cơ quan nhà nước các cấp là bằng các hoạt động cụ thể, triển khai đồng bộ các nội dung chương trình nông thôn mới, khắc phục kịp thời các bất cập, hạn chế trong quá trình triển khai, đảm bảo nguồn lực thực hiện và  hoàn thành mục tiêu của chương trình trong từng giai đoạn cũng như mục tiêu cuối cùng.

Khái quát lại, có thể hiểu quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới là họat động tổ chức, điều hành của cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương thực hiện nội dung xây dựng nông thôn mới, nhằm tập hợp tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể xã hội tác động vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân nhằm hướng đến sự phát triển bền vững của kinh tế nông nghiệp, thay đổi bộ mặt nông thôn và không ngừng nâng cao đời sống của người dân.

1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Công cuộc xây dựng nông thôn mới bước đầu đã đã đạt những kết quả quan trọng, đang tiếp tục triển khai theo chiều sâu, có tác động tích cực tới hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn, nông dân, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội nói chung trong phạm vi cả nước. Để Xây dựng Nông thôn mới tiếp tục được triển khai đồng đều, mạnh mẽ hơn nữa, huy động cả tổng lực để hoàn thành những mục tiêu của chương trình thì quản lý nhà nước về Xây dựng Nông thôn mới có vai trò hết sức quan trọng. Tầm quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước về Xây dựng Nông thôn mới thể hiện trên một số phương diện sau:

Thứ nhất, thể hiện vai trò của nhà nước trong quản lý, giải quyết các bất cập, mâu thuẫn của các vấn đề xã hội, mà ở đây là vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong mối quan hệ đồng bộ, nhất quán theo định hướng của Đảng.

Thứ hai, xây dựng đồng bộ và ban hành hệ thống thể chế tạo môi trường pháp lý cho phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và Xây dựng Nông thôn mới. Đây là vấn đề mới, trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới, vừa làm, vừa đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm nên hệ thống thể chế chính sách, bộ máy phải được chỉnh sửa, bổ sung rà soát thường xuyên sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện thực hiện của chương trình.

Thứ ba, với chương trình lớn và mang tính bao trùm trong điều kiện xuất phát điểm thấp, nguồn lực còn eo hẹp thì quản lý nhà nước giúp đảm bảo huy động, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ Xây dựng Nông thôn mới, có cơ chế hỗ trợ, thúc đẩy Xây dựng Nông thôn mới phù hợp.

Thứ tư, quản lý toàn diện các hoạt động nông nghiệp, nông thôn, nông dân, có những quyết sách đúng đắn, tập trung vào những vấn đề quan trọng, phát huy thế mạnh, khai thác tiềm năng của từng vùng, địa phương để phát triển nông nghiệp – nông dân – nông thôn. Phối hợp và liên kết hoạt động của tất cả các cơ quan, cấp, ngành cũng như cả hệ thống chính trị để hoàn thành Xây dựng Nông thôn mới.

Thứ năm, phát huy dân chủ trong xây dựng nông thôn mới. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi nông dân không chỉ là chủ thể thụ hưởng chương trình mà còn là chủ thể thực hiện chương trình. Chỉ khi nào người dân nhận thức được mình là chủ thể chính của chương trình thì lúc đó việc triển khai mới tự giác, tự nguyện, tự thân, người dân tích cực thực hiện và nhà nước đóng vai trò hỗ trợ, thúc đẩy.

Có thể nói, quản lý nhà nước về Xây dựng Nông thôn mới đóng vai trò quyết định tới sự thành công của chương trình Xây dựng Nông thôn mới. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới 

1.2.3.1. Xây dựng, ban hành các văn bản quản lý nhà nước và chính sách về xây dựng nông thôn mới 

Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về Xây dựng Nông thôn mới là các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục nhất định, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các vấn đề về Xây dựng Nông thôn mới. Việc xây dựng hệ thống văn bản quản lý nhà nước về Xây dựng Nông thôn mới là rất cần thiết, giúp thể chế hóa và bảo đảm thực hiện các chủ trương, chính sách về NTM từ nội dung xây dựng, bộ tiêu chí công nhận NTM đến hoạt động tổ chức thực hiện của bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, nguồn lực, kiểm tra, giám sát đến cơ chế phối hợp hoạt động thực hiện chương trình của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, từ trung ương đến địa phương cơ sở.

Thông qua việc triển khai hệ thống văn bản này cũng như đánh giá quá trình thực hiện, Nhà nước có thể điều tiết những vấn đề thực tiễn trong công tác Xây dựng Nông thôn mới, kịp thời cập nhật, điều chỉnh phù hợp với tình hình, yêu cầu mới, giúp quá trình quản lý, điều hành đạt hiệu lực, hiệu quả cao.

1.2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước là một trong các yếu tố giúp nhà nước quản lý hoạt động Xây dựng Nông thôn mới một cách thống nhất, có tổ chức chặt chẽ, mang tính khoa học, nhất quán. Nhà nước ta quy định rất rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan chuyên môn theo cấp hành chính để phối hợp thực hiện Xây dựng Nông thôn mới. Hệ thống các cơ quan, tổ chức được xây dựng và kiện toàn từ Trung ương tới địa phương sẽ vận hành thống nhất, đồng bộ, nhịp nhàng để triển khai các nội dung quản lý.

Hiện nay, tổ chức bộ máy chỉ đạo và điều hành ở các cấp về xây dựng nông thôn mới được kiện toàn lại theo các Quyết định số 1584/QĐ-TTg ngày 10/08/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 – 2020; Quyết định 41/2016/QĐ-TTg ngày 10/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; Quyết định số 1920/QĐ-TTg ngày 05/10/2016 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và biên chế của Văn phòng điều phối NTM các cấp. Cụ thể bao gồm:

Hệ thống cơ quan chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia trong đó có xây dựng nông thôn mới.

  • Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
  • Ban Quản lý cấp xã, Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG Xây dựng Nông thôn mới.

Hệ thống tổ chức bộ máy giúp việc cho Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia.

  • Văn phòng Điều phối NTM Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
  • Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí 01 công chức cấp xã chuyên trách về nông nghiệp, xây dựng NTM theo quy định. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.
  • Ngoài ra còn phải kể tới hoạt động của Ban Giám sát xã và Ban phát triển thôn giúp chính quyền địa phương cấp cơ sở thực hiện Xây dựng Nông thôn mới ở địa phương.

Việc xây dựng Bộ máy chỉ đạo và văn phòng giúp việc cần đảm bảo đủ về số lượng con người và đảm bảo về  năng lực hoạt động. Do đó đi đôi với thành lập bộ máy giúp việc, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và đảm bảo kinh phí hoạt động, chế độ đãi ngộ xứng đáng cho đội ngũ này phải hết sức được chú trọng, quan tâm. Kinh nghiệm trong Xây dựng Nông thôn mới chỉ ra rằng, tổ chức cơ quan chỉ đạo, điều hành và quản lý, tổ chức thực hiện có đội ngũ cán bộ có năng lực, có trách nhiệm chính là điều kiện quan trọng quyết định thành công.

1.2.3.3. Tổ chức chỉ đạo thực hiện  xây dựng nông thôn mới

Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng Nông thôn mới là chương trình tổng thể về phát triển KT-XH, chính trị và an ninh quốc phòng, bao gồm 11 nội dung lớn để thay đổi diện mặt nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới chính là đảm bảo các nội dung của chương trình được hoàn thành đúng thời hạn, đạt mục tiêu thông qua việc chỉ đạo, điều hành, quản lý và tổ chức thực hiện. Nhà nước bằng nhiều giải pháp khác nhau, có kế hoạch, lộ trình và đảm bảo đủ điều kiện nguồn lực để thực hiện. Với 11 nội dung tổng thể như vậy, không thể cùng lúc hoàn thành, do đó tất yếu phải phân bố, lựa chọn những nội dung cơ bản hoàn thành trong các giai đoạn một cách hợp lý, khoa học. Đồng thời phân công nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện cũng như phối hợp thực hiện, đôn đốc kịp thời, thường xuyên, liên tục, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu sớm và đúng thời hạn đề ra.

1.2.3.4. Huy động, quản lý, sử dụng nguồn vốn xây dựng nông thôn mới

Nguồn lực là yếu tố quan trọng hàng đầu để hoàn thành nhiệm vụ Xây dựng Nông thôn mới trong cả nước cũng như mỗi địa phương. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, nên việc huy động, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn là yêu cầu thiết yếu để thực hiện thành công chương trình, tránh nợ đọng xây dựng cơ bản khi Xây dựng Nông thôn mới.  Bên cạnh nguồn vốn Xây dựng Nông thôn mới được lấy từ các nguồn là vốn Ngân sách Nhà nước hỗ trợ trực tiếp để thực hiện Chương trình (bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) cần huy động hợp lý mọi nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước khác như vốn tín dụng, vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác, đóng góp của cộng đồng dân cư) tranh thủ mọi nguồn lực xã hội tham gia thực hiện chương trình. Để đảm bảo hiệu quả cần xây dựng cơ chế  giám sát, kiểm tra việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn rõ ràng, khoa học.

1.2.3.5. Kiểm tra, giám sát về xây dựng nông thôn mới

Kiểm tra, giám sát các hoạt động Xây dựng Nông thôn mới là việc Nhà nước xem xét, đánh giá tình trạng đạt hay không đạt các tiêu chí về Xây dựng Nông thôn mới; đảm bảo việc tuân thủ những quy định của pháp luật trong tổ chức triển khai thực hiện Xây dựng Nông thôn mới theo các quy định, tiêu chí đã đề ra; đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực Xây dựng Nông thôn mới. Đây là một trong những chức năng, nhiệm vụ cần thiết để kịp thời phát hiện những sai sót và ngăn chặn, chấn chỉnh các sai phạm, kiểm soát các sai lầm, lệch lạc; xử lý các vi phạm đồng thời điều chỉnh các tiêu chí cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Hoạt động này do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện như Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG các cấp; Văn phòng điều phối NTM các cấp; Chính quyền địa phương cũng như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và tổ chức thành viên và các cơ quan có thẩm quyền khác, tổ chức kiểm tra, giám sát thường kỳ, đột xuất với các nội dung:

  • Tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về chương trình mục tiêu quốc gia từ xây dựng chương trình; việc lập và giao kế hoạch thực hiện chương trình; công tác giám sát, đánh giá chương trình tại các cấp.
  • Tình hình thực hiện kế hoạch Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới: kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ; kết quả sử dụng nguồn vốn, tình hình giải ngân các nguồn vốn, nợ đọng xây dựng cơ bản; công tác quản lý và sử dụng các nguồn vốn.
  • Công tác tổ chức, điều phối thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới.

Đi đôi với kiểm tra, giám sát, định kỳ là đánh giá sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để kịp thời tháo gỡ khó khăn, nhân rộng những kinh nghiệm, cách làm hay và những điển hình trong Xây dựng Nông thôn mới, biểu dương khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân điển hình, tạo động lực cho phong trào thi đua chung sức Xây dựng Nông thôn mới.

1.2.3.6. Tuyên truyền, phổ biến về xây dựng nông thôn mới

Cần thực hiện tuyên truyền, giáo dục, vận động sâu rộng trong toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để có sự chung tay của cả hệ thống chính trị trong Xây dựng Nông thôn mới.

Công tác tuyên truyền giáo dục phải được chú trọng, thực hiện với nhiều nội dung, bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau. Thực hiện thường xuyên và liên tục, có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức để nâng cao nhận thức của toàn xã hội về Xây dựng Nông thôn mới.

Trong đó tập trung chú trọng tới tuyên truyền, phổ biến về Xây dựng Nông thôn mới đến người dân. Bởi chỉ khi nhận thức đúng về ý nghĩa, về lợi ích thiết thực của chương trình và vai trò chủ thể nòng cốt trong Xây dựng Nông thôn mới của mình thì mới tạo ra sự đồng thuận của nhân dân cùng chính quyền địa phương tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã, tự nguyện tham gia các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng mô hình sản xuất, mô hình văn hóa, làm thay đổi diện mạo nông thôn.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

1.3.1. Các yếu tố chủ quan

1.3.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Với cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, sự thống nhất trong toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị là yêu cầu hết sức quan trọng. Đảng không chỉ đóng vai trò lãnh đạo, đưa ra định hướng, chủ trương mà còn phải sâu sát, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện, triển khai các chủ trương này trong thực tế, tránh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, chỉ đạo thực hiện một cách đồng bộ và toàn diện. Nhà nước phải cụ thể hóa mọi chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật trong quản lý xã hội, bằng các giải pháp hiệu lực, hiệu quả, sử dụng nguồn lực tiết kiệm nhất để hoàn thành mục tiêu đã đề ra.

Trong suốt quá lãnh đạo của mình, vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân luôn chiếm vị trí quan trọng trong các chương trình hội nghị của Đảng. Trải qua các kỳ đại hội Đảng, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Cụ thể là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá VII (tháng 6 – 1993) về “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn”, Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị khoá VIII về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn nhấn mạnh “coi trọng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp) và xây dựng nông thôn” [16, tr 535].

Thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW, Ban Kinh tế Trung ương đã ban hành Đề cương số 185/KTTW-BNN ngày 07/5/2001 để hướng dẫn các địa phương thực hiện Chương trình xây dựng mô hình phát triển nông thôn theo hướng CNH, HĐH, hợp tác hóa, dân chủ hóa từ năm 2001-2004, trên 18 xã điểm. Đây được xem là chương trình xây dựng NTM đầu tiên ở nước ta và thường gọi là chương trình phát triển nông thôn cấp xã. Sau khi thí điểm xây dựng mô hình phát triển nông thôn cấp xã kết thúc, trước những hạn chế, yếu kém của nông thôn, ngày 08/6/2006, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã ban hành Quyết định số 2614-QĐ/BNN-HTX về việc phê duyệt Đề án thí điểm xây dựng mô hình NTM. Ngày 09/4/2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư  985/BNN-HTX về việc hướng dẫn thực hiện thí điểm xây dựng mô hình NTM. Tổng cộng chương trình đã thực hiện trên 15 thôn thuộc 14 tỉnh, thành phố, từ năm 2006-2009.

Ngày 05/08/2008, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa X ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết xác định Xây dựng Nông thôn mới là mục tiêu trọng điểm từ nay đến năm 2020 với nhiệm vụ giải quyết đồng bộ, toàn diện các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, gắn với quá trình đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân, “trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt” [2, tr.2]. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trên cơ sở đó Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM, thông qua Đề án về Chương trình thí điểm NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH giai đoạn 2009-2011, thực hiện ở 11 xã điểm. Các bộ, ngành cũng đã ban hành rất nhiều văn bản để thực hiện nội dung của đề án về vốn, quản lý, sử dụng chi phí quản lý dự án đầu tư, sổ tay hướng dẫn Xây dựng Nông thôn mới, dự án đào tạo nghề nông thôn….

Sau thí điểm, để Xây dựng Nông thôn mới trên phạm vi toàn quốc, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/06/2010 phê duyệt Chương trình MTQG Xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Đây là căn cứ để Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương chuẩn bị bộ máy chỉ đạo, quản lý, xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện đồng thời ban hành các chương trình hỗ trợ thực hiện mục tiêu xây dựng NTM trong phạm vi cả nước như Quyết định 1956/QĐ-TTG ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Nghị định 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010 về khuyến nông; Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn…

Tiếp tục trong các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI và XII của Đảng đã khẳng định tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân, tiếp tục triển khai chương trình xây dựng phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn.

Có thể nói, Xây dựng Nông thôn mới thành công chính là nhờ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, sự lãnh đạo, quan tâm, đôn đốc quyết liệt và kịp thời của Đảng cũng như các chính sách, cách thức quản lý và tổ chức thực hiện đúng đắn của Nhà nước.

1.3.1.2. Hệ thống cơ quan chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức làm công tác xây dựng nông thôn mới

Đầu tiên với phải nói tới vai trò của Chính phủ trong việc sớm ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW khóa X, khẳng định quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chỉ đạo thường xuyên công tác quy hoạch tổng thể, xây dựng các chính sách đồng bộ, các chương trình, dự án và phân bổ các nguồn lực ưu tiên cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới.

Đồng thời chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước được giao tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai những nhiệm vụ về xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Thứ hai, vai trò của các Bộ, ngành trong vai trò phối hợp, ban hành hệ thống văn bản chính sách, pháp luật hỗ trợ thực hiện mục tiêu  Xây dựng Nông thôn mới cụ thể phù hợp.

Thứ ba, hệ thống cơ quan thường trực, trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện chương trình ở các cấp (Ban chỉ đạo, Ban Quản lý và Văn phòng điều phối các cấp cũng như công chức chuyên trách Xây dựng Nông thôn mới). Đây là hệ thống cơ quan đóng vai trò vô cùng quan trọng, trách nhiệm cơ bản trong việc chủ trì, triển khai thực hiện chương trình, giao chỉ tiêu, theo dõi, tổng hợp, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện chương trình.

Thứ tư, xây dựng nông thôn mới là vấn đề toàn diện, tổng thể của Nhà nước với nhiều nội dung, cần có sự tham gia của tất các các cơ quan, các cấp, các ngành.

Thứ năm, đội ngũ cán bộ là một khâu quan trọng đóng vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác hội và phong trào nông dân.

Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính Phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và tiến hành. Đồng thời đem tình hình của dân báo cáo cho Đảng, cho Chính Phủ để đặt ra chính sách đúng” [19, tr.269]. Vì vậy, cán bộ có năng lực tốt chính là cái gốc của mọi công việc, ở đâu có cán bộ có năng lực, trình độ, khả năng vận động, tập hợp được quần chúng, có uy tín, nhiệt tình tâm huyết với công việc thì ở đó phát huy được tác dụng của phong trào có hiệu quả.

1.3.1.3. Đối tượng thực hiện xây dựng nông thôn mới

Người dân và cộng đồng dân cư nông thôn chính là đối tượng thụ hưởng và đồng thời là đối tượng thực hiện chương trình. Tuy nhiên, để người dân và cộng đồng dân cư thực hiện tốt chương trình, phát huy nội lực cần có sự chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể nhất là cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở địa phương. Vì vậy, để nâng cao vai trò của người dân và cộng đồng dân cư trong xây dựng nông thôn mới thì trước hết phải tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người dân về Xây dựng Nông thôn mới, để người dân tích cực, chủ động tham gia vào toàn bộ quá trình thực hiện.

Nói tóm lại, Nhà nước, chính quyền địa phương chỉ là hỗ trợ, thúc đẩy, định hướng, dẫn dắt, người dân và cộng đồng dân cư chính là người tham gia xây dựng quy hoạch, đề án và thực hiện việc Xây dựng Nông thôn mới ở địa phương mình. Thực tiễn cho thấy nơi nào huy động được trí tuệ, tâm huyết, tiền của, công sức của mỗi người dân cùng với Nhà nước và địa phương thực hiện các tiêu chí xã nông thôn mới thì sớm đạt đích xã nông thôn mới và ngược lại.

1.3.1.4. Nội dung chương trình xây dựng và bộ tiêu chí quốc gia vê xây dựng nông thôn mới

Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về Xây dựng Nông thôn mới với bộ tiêu chí bao gồm 5 nhóm, 19 tiêu chí và 49 tiêu chí con cụ thể hơn, nhưng cũng linh hoạt hơn theo điều kiện của địa phương  (tiêu chí 2 giao thông; tiêu chí thủy lợi (3.1); tiêu chí cơ sở vật chất, văn hóa (6.1; 6.2); tiêu chí cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (7)…) để từ đó có thể xây dựng hệ thống tiêu chí phù hợp hơn đặc điểm kinh tế – xã hội của các địa phương, hoàn thành tốt nhất việc xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn này. Có thể nói từ việc chúng ta đưa ra được các chỉ tiêu để “lượng hóa” xây dựng nông thôn mới là nỗ lực rất lớn của Trung ương và việc điều chỉnh bộ tiêu chí trong giai đoạn mới với một số tiêu chí linh hoạt lại cho 7 vùng là Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long lại càng trở nên phù hợp và cần thiết hơn bao giờ hết.

1.3.2. Các yếu tố khách quan Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

1.3.2.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức đoàn thể ở địa phương

Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó không thể thiếu vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức đoàn thể ở điạ phương. Thông qua tổ chức của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên tích cực tuyên truyền, phổ biến tới các thành viên, nhân dân chủ trương, chính sách Xây dựng Nông thôn mới của Đảng và nhà nước qua đó làm cho nhân dân thấy rõ mục đích, ý nghĩa của Chương trình, nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi thành viên tham gia phong trào một cách tích cực, phù hợp với điều kiện của mình. Đồng thời vận động thành viên, nhân dân thực hiện các nội dung cụ thể thông qua các phong trào do Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phát động Xây dựng Nông thôn mới như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh” thiết thực góp phần thực hiện CTMTQG Xây dựng Nông thôn mới…

Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên còn là chủ thể thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới. Trên cơ sở đó kiến nghị, hoàn thiện hơn nữa việc tổ chức thực hiện Chương trình cũng như các chủ trương, chính sách, pháp luật, đề án…) Xây dựng Nông thôn mới.

1.3.2.2. Những yếu tố đặc thù về kinh tế – xã hội của địa phương

Hiện nay theo mục 1 điều 15 Nghị định 92/2006 CP về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 07/9/2006 phân vùng kinh tế Việt Nam chúng ta có 6 vùng kinh tế xã hội là: Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng,  Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi vùng và mỗi địa phương cụ thể các tỉnh, các huyện (thành phố thuộc tỉnh) và các xã đặc điểm, điều kiện về tự nhiên và điều kiện về kinh tế xã hội khác nhau ảnh hưởng đến Xây dựng Nông thôn mới với các mức độ khác nhau.

Đến hết 31/12/2017, cả nước có 3.069 xã (34,4%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, đã có trên 492 xã được công nhận đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020; có 43 đơn vị cấp huyện thuộc 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên kết quả xây dựng nông thôn mới không đồng đều, tập trung nhiều nhất là khu vực Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, trong khi đó vùng Đông Bắc Bộ lại có tỉnh chưa có xã nông thôn mới nào. Xét về số tiêu chí nông thôn mới đạt được, trong 7 vùng kinh tế – xã hội cả nước, thì 3 vùng gồm Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ đều là các vùng có tỷ lệ thấp nhất [51]. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Chính vì vậy, khi triển khai các cơ quan quản lý nhà nước phải thấy rõ được sự ảnh hưởng của yếu tố này, từ đó chủ động trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới cho phù hợp lộ trình, ưu tiên thực hiện hoàn thành các nội dung của bộ tiêu chí, khắc phục những khó khăn, tồn tại, phát huy những yếu tố thuận lợi, tích cực để nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương ở Việt Nam và một số bài học kinh nghiệm cho tỉnh Gia Lai

1.4.1. Tỉnh Thái Nguyên 

Thái Nguyên là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc; có diện tích tự nhiên 3.533 km2, dân số trên 1,2 triệu người, trong đó có gần 70% dân số ở nông thôn. Tỉnh có 09 đơn vị hành chính (02 thành phố, 01 thị xã và 06 huyện) với 180 xã, phường, thị trấn; trong đó, có 124 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, có 36 xã đặc biệt khó khăn theo tiêu chí của Chính phủ [49].

Năm 2011, khi bắt đầu triển khai thực hiện Chương trình Xây dựng nông thôn mới, tỉnh Thái Nguyên có tới 138/143 xã (96,5%) đạt dưới 10 tiêu chí, chỉ có 05/143 xã (3,5%) đạt từ 10 tiêu chí trở lên; thu nhập bình quân ở khu vực nông thôn là 14,28 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo cao (20,57%).

Với sự nỗ lực vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đến đầu năm 2018, toàn tỉnh Thái Nguyên đã có 68 xã, tương đương 47,5% số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Số tiêu chí bình quân đạt được là 15,27 tiêu chí/xã. Thu nhập bình quân đầu người dân khu vực nông thôn đạt 33,84 triệu đồng/người/năm, tăng gấp 4 lần; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 62,78%, tăng gấp 2,1 lần so với năm 2008…[47].

Giai đoạn 2016-2018, toàn tỉnh Thái Nguyên đã huy động được trên 23,6 nghìn tỷ đồng để thực hiện các tiêu chí NTM. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương hơn 454 tỷ đồng, ngân sách địa phương trên 1.804 tỷ đồng, vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án khác trên 626 tỷ đồng, vốn huy động từ người dân và cộng đồng trên 860 tỷ đồng, vốn tín dụng của ngân hàng cho người dân vay phát triển sản xuất trên 19.000 tỷ đồng; vốn doanh nghiệp hơn 812 tỷ đồng.

Với những thành tích xuất sắc trong XD NTM, Thái Nguyên vinh dự là 1 trong 13 tỉnh của cả nước được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất tại lễ biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng NTM”, giai đoạn 2010-2015. Thái Nguyên hiện cũng là tỉnh có tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới cao nhất vùng trung du miền núi phía Bắc; là một trong những địa phương sớm ban hành Bộ tiêu chí về xã “Nông thôn mới kiểu mẫu”, xóm “Nông thôn mới kiểu mẫu” và hộ gia đình nông thôn theo Quyết định số 1164/QĐ-UBND ngày 15/05/2017 nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng nông thôn mới của địa phương [49].

Để đạt được những kết quả trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm về quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới ở Thái Nguyên như sau: Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Thứ nhất, chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến về các chủ trương, chính sách về xây dựng NTM.

Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, phối hợp với các địa phương rà soát, xây dựng kế hoạch, giải pháp triển khai thực hiện kịp thời, quyết liệt đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch được giao; ngoài nguồn vốn Chương trình NTM đã được phân bổ, các Sở, ngành chủ động bố trí lồng ghép nguồn lực của đơn vị mình và huy động mọi nguồn vốn hợp pháp khác để giúp các địa phương thực hiện các nhiệm vụ, nội dung xây dựng NTM.

Thứ ba, chú trọng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác nông thôn mới. Tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ xây dựng NTM các cấp và cán bộ xóm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới tỉnh Thái Nguyên.

Thứ tư, cùng với đó, tăng cường kiểm tra, đôn đốc các huyện, thành phố, thị xã trong việc triển khai thực hiện Xây dựng Nông thôn mới tại địa phương, không để phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản trong xây dựng NTM.

1.4.2. Tỉnh Hà Tĩnh

Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ. Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt gần 1.229.300 người [36], đa phần sống ở nông thôn (1.032.500 người, chiếm 78,5% [35]).  Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 31 dân tộc cùng sinh sống. Trong đó dân tộc kinh là đông nhất với 1.224.869 người, còn lại là dân tộc thiểu số. Hà Tĩnh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 10 huyện, trong đó có với 262 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 12 thị trấn, 21 phường và 229 xã [37]. Kinh tế Hà Tĩnh chủ yếu dựa vào nông, lâm, ngư nghiệp và thủ công nghiệp. Phần lớn diện tích đất canh tác là trồng lúa, còn lại chủ yếu là cây công nghiệp thương phẩm và hoa màu.

Khi bước vào xây dựng nông thôn mới, bình quân Hà Tĩnh mới đạt 3,5 tiêu chí và có đến 52% số xã đạt dưới 5 tiêu chí, trong đó có 20 xã không đạt tiêu chí nào, tỷ lệ hộ nghèo lên đến 23,91%… .

Sau 8 năm xây dựng, ngoài thực hiện Bộ tiêu chí theo quy định của Trung ương (gồm 19 tiêu chí), tỉnh Hà Tĩnh còn bổ sung tiêu chí thứ 20 (khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu, vườn mẫu). Đến nay bức tranh về nông nghiệp, nông thôn và nông dân Hà Tĩnh đã có sự đổi thay căn bản, toàn diện, nổi bật, mới mẻ trên tất cả các lĩnh vực. Tỉnh đã xây dựng và triển khai 28 quy hoạch, 18 đề án và hệ thống các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, đảm bảo có tính chiến lược, phù hợp với mục tiêu nghị quyết và thực tiễn sản xuất, đời sống người dân [5].

Từ năm 2011 đến cuối năm 2017, tổng nguồn vốn huy động thực hiện Chương trình xây dựng NTM đạt 100.226 tỷ đồng, trong đó, vốn trực tiếp cho Chương trình 5.185 tỷ đồng; vốn lồng ghép 6.814 tỷ; vốn tín dụng 80.534 tỷ; vốn DN góp 2.127 tỷ đồng; dân đóng góp 4.702 tỷ và vốn huy động từ nguồn khác hơn 861 tỷ đồng. Ngoài ra có 111 đơn vị được Ủy ban Nhân dân tỉnh giao, chấp thuận đỡ đầu cho 173 xã; các huyện, TX, TP kêu gọi được 745 tổ chức, cá nhân tài trợ thực hiện

Chương trình với tổng kinh phí đỡ đầu tài trợ hơn 1.253 tỷ [48]. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Với những thành tích xuất sắc trong xây dựng NTM, Hà Tĩnh vinh dự là 1 trong 13 tỉnh của cả nước được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất tại lễ biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng NTM”, giai đoạn 2010-2015 [5]. Hà Tĩnh cũng là tỉnh đầu tiên trong cả nước có 2 xã miền núi, biên giới đạt chuẩn NTM (xã Sơn Kim 1, Sơn Kim 2, huyện Hương Sơn), là một trong những tỉnh đầu tiên có 100% xã hoàn thành quy hoạch xây dựng NTM. Tổng số xã đạt chuẩn đến cuối năm 2018 là 158 xã, (chiếm 68,99% tổng số xã ), về đích trước thời hạn 2 năm so với chỉ tiêu của Trung ương và Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII. Nghi Xuân đạt chuẩn huyện NTM trước thời hạn 2 năm [48].

Qua những kết quả đạt được trong Xây dựng Nông thôn mới của Hà Tĩnh, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

  • Thứ nhất, xây dựng lộ trình và giải pháp huy động nguồn lực, cân đối nguồn vốn. Chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể đối với việc thực hiện những tiêu chí khó, cần nguồn lực lớn, không quá chờ đợi, dựa chủ yếu nguồn Ngân sách hỗ trợ trong năm đạt chuẩn; khắc phục tình trạng dồn việc xây dựng các công trình, hoàn thiện các tiêu chí vào năm đạt chuẩn.
  • Thứ hai, kiên trì trong chỉ đạo, lãnh đạo Xây dựng Nông thôn mới, xây dựng khu dân cư kiểu mẫu, phải huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc một cách tích cực, phát huy sự sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện, gắn mục tiêu, trách nhiệm với người đứng đầu
  • Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biền về xây dựng nông thôn mới, đưa người dân vào cuộc sâu hơn, gắn quyền lợi, trách nhiệm trong thực hiện chương trình, khơi dậy được sức mạnh nội sinh to lớn trong nhân dân, góp phần Xây dựng Nông thôn mới bền vững.
  • Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác Xây dựng Nông thôn mới từ Ban Chỉ đạo tới

Văn phòng điều phối cũng như cán bộ trực tiếp thực hiện có phương pháp, cách làm sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm, biết khơi dậy sức dân, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

Thứ năm, thường xuyên kiểm tra, sâu sát cơ sở. Tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm giữa các địa phương, để hỗ trợ, động viên, khơi dậy mạnh mẽ phong trào thi đua, nâng chất lượng đạt chuẩn các tiêu chí; quan tâm công tác sơ tổng kết, khen thưởng, vinh danh các tập thể, cá nhân điển hình.

1.4.3. Tỉnh Lâm Đồng Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Lâm Đồng là tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên với diện tích là 9.773 km2; có 12 đơn vị hành chính cấp huyện (TP Đà Lạt, Bảo Lộc và 10 huyện); 147 đơn vị hành chính cấp xã (117 xã, 18 phường và 12 thị trấn). Dân số trên 1,2 triệu người với 43 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 24,1% (riêng dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên chiếm khoảng 17%) [6].

Để hoàn thành kế hoạch Xây dựng Nông thôn mới,tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, chú trọng mở rộng tuyên truyền đến từng địa bàn, từng hộ gia đình; cụ thể hóa các cơ chế, chính sách, văn bản hướng dẫn của Trung ương, đồng thời tiếp tục rà soát, nghiên cứu, đề xuất để ban hành các chơ chế chính sách phù hợp với điều kiện đặc thù của tỉnh.

Từ năm 2010 đến nay, toàn tỉnh huy động được hơn 57.000 tỷ đồng xây dựng nông thôn mới. Trong đó, ngân sách nhà nước hơn gần 7 tỷ đồng, đạt gần 12%; vốn tín dụng hơn 36 tỷ đồng, đạt gần 60%; tổ chức, doanh nghiệp đóng góp gần 5 ngàn tỷ đồng, đạt gần 10%; vốn đóng góp của cộng đồng dân cư gần 10.000 tỷ đồng, đạt gần 19%…

Tính đến cuối năm 2018, nay có 87/116 xã đạt chuẩn nông thôn mới, với bình quân 17,3 tiêu chí/xã, ngoài huyện Đơn Dương, huyện Đức Trọng đạt chuẩn nông thôn mới, cùng với đó Tp Đà Lạt – Bảo Lộc được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; chương trình giảm nghèo có nhiều chuyển biến mới, với các nguồn lực đầu tư của nhà nước và cộng đồng xã hội, diện mạo nông thôn và đời sống hộ nghèo ngày càng được cải thiện, đến nay tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,91%, hộ nghèo vùng đồng bào DTTS còn 9,56%, thu nhập bình quân đầu người gần 60 triệu đồng. An ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững. Các lĩnh vực an toàn giao thông, văn hóa, y tế, giáo dục, cải cách hành chính được đảm bảo…. [51].

Một vài  kinh nghiệm về Xây dựng Nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới cho tỉnh Gia Lai

  • Thứ nhất, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, nhất là người đứng đầu phải có quyết tâm chính trị cao, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, sâu sát, trách nhiệm, có kế hoạch cụ thể thực hiện; phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của cán bộ cơ sở và cộng đồng dân cư.
  • Thứ hai, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, bồi dưỡng, tập huấn trên cơ sở triển khai thực hiện các chương trình, nội dung, cách làm sát thực, nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và người dân về xây dựng NTM.
  • Thứ ba, chú trọng sơ, tổng kết, đánh giá và bình chọn, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích nổi bật trong Xây dựng Nông thôn mới, địa phương có cách làm hay, mô hình tốt trong xây dựng nông thôn mới.
  • Thứ tư, có cơ chế huy động các nguồn lực và quy định phù hợp tỷ lệ hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để xây dựng nông thôn mới. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

1.4.4. Một số bài học kinh nghiệm cho tỉnh Gia Lai trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Từ thực tiễn xây dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới của một số quốc gia và địa phương trong nước nói trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Gia Lai như sau:

Thứ nhất, phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể. Trong đó, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền có vai trò quan trọng. Thực tiễn cho thấy nơi nào các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể thực sự quan tâm vào cuộc thường xuyên, quyết liệt thì trong cùng hoàn cảnh còn nhiều khó khăn vẫn tạo ra sự chuyển biến rõ nét.

Thứ hai, phải có cách làm phù hợp với điều kiện của từng địa phương thông qua lựa chọn nội dung, nhiệm vụ ưu tiên, vận dụng sáng tạo cơ chế chính sách. Có phương thức huy động và sử dụng lồng ghép các nguồn lực phù hợp.

Thứ ba, phải có hệ thống chỉ đạo, đồng bộ, hiệu quả; có bộ máy giúp việc đủ năng lực, chuyên nghiệp, sát thực tế sẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho công tác chỉ đạo có hiệu quả .

Thứ tư, phải thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân. Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng phải là giải pháp quan trọng hàng đầu. Làm cho dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp công, của và chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình là yếu tố quyết định sự thành công của Chương trình.

Thứ năm, xây dựng nông thôn thực chất là thực hiện các nội dung cụ thể để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Do đó, phải gắn xây dựng nông thôn mới với tái cơ cấu nông nghiệp và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Tiểu kết Chương 1 Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

Trong phạm vi của Chương 1, tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Cụ thể đã đưa ra những khái niệm cơ bản như: nông thôn, nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Thông qua các luận cứ, trên cơ sở các tài liệu khoa học và quan điểm cá nhân, tác giả cũng làm sáng tỏ những vấn đề về sự cần thiết của xây dựng nông thôn mới  cũng như vai trò và nội dung của công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới từ đó khẳng định rằng công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới là vô cùng quan trọng, cần thực hiện một cách đồng bộ, nhất quán.

Ngoài việc làm rõ những vấn đề lý luận, tác giả cũng đưa ra kinh nghiệm của một số nước và một số địa phương khác để rút ra bài học kinh nghiệm quý báu về quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới cho tỉnh Gia Lai.

Tất cả những căn cứ trên làm nên hệ thống cơ sở lý luận để tác giả nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Là tiền đề để phân tích, đánh giá thực trạng của chương 2 cũng như đưa ra những yêu cầu và đề xuất giải pháp, kiến nghị trong chương 3 của đề tài nghiên cứu này. Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng QLNN về xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới tại Gia Lai […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993