Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật là vấn đề rộng lớn, phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể như: Cá nhân, tổ chức khác nhau nhằm đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn, là quá trình đưa các quy định pháp luật, nguyên tắc pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Quá trình thực hiện pháp luật diễn ra chính trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật và không chỉ là hành vi đơn lẻ của cá nhân mà còn là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cá nhân, tổ chức.
Trong hoạt động của ngành lưu trữ nước ta cho đến nay đã có hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý, chỉ đạo về công tác lưu trữ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Những văn bản quy phạm pháp luật về lưu trữ như Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia (1982, 2001), Nghị định của Chính phủ (năm 1962, 1963, 1995, 2004, 2013), các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư của các Bộ… Hiện nay, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất đang có hiệu lực thi hành, đó là Luật Lưu trữ được Quốc hội thông qua ngày 01/11/2011 đã khẳng định vị trí, vai trò của công tác lưu trữ trong sự chỉ đạo, điều hành và hoạt động của hệ thống các cơ quan Đảng, nhà nước; phục vụ nhu cầu trong đời sống xã hội cũng như trong nghiên cứu khoa học… Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ có cơ cấu tổ chức gồm 05 Tổng cục và tương đương; 22 đơn vị thuộc Bộ (các vụ, cục, thanh tra và văn phòng); 04 đơn vị sự nghiệp) [19, tr. 14 – 15]. Đồng nghĩa với đó là số lượng tài liệu lưu trữ hình thành hàng năm rất lớn khoảng 1.674 mét/năm [16]. Khối tài liệu này góp phần quan trọng trong việc phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước nói chung và nhiệm vụ chuyên môn nói riêng của Bộ Tài chính. Vấn đề đặt ra, làm thế nào để quản lý khối tài liệu trên một cách khoa học, thống nhất, phục vụ thuận lợi cho công tác chỉ đạo điều hành của Bộ và các đơn vị. Trước vấn đề đó, việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về lưu trữ luôn được lãnh đạo Bộ quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc, trực thuộc triển khai thực hiện Luật Lưu trữ và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, tại Bộ Tài chính còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật về lưu trữ. Chính vì vậy, “Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính” được học viên lựa chọn làm đề tài luận văn cao học, chuyên ngành Luật Hành chính và Luật Hiến pháp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, việc nghiên cứu hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ đã được rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý ngành lưu trữ quan tâm. Ngoài những đề tài nghiên cứu, những luận văn tốt nghiệp còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các kỷ yếu của hội nghị, hội thảo. Tuy nhiên, từ góc nhìn pháp luật về lưu trữ, số lượng đề tài nghiên cứu, bài viết về Luật Lưu trữ và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lưu trữ chưa có nhiều. Trong các đề tài, bài viết chủ yếu quan tâm đến cơ cấu tổ chức lưu trữ từ trung ương đến địa phương; đến chế độ chính sách đối với công chức, viên chức làm lưu trữ hoặc đánh giá chung về thực trạng tình hình thực hiện quy định của pháp luật về các khâu nghiệp vụ trong công tác lưu trữ, các vấn đề bất cập trong thực hiện nghiệp vụ về lưu trữ. Có thể kể đến một số đề tài, bài viết tiêu biểu như:
Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng Luật Lưu trữ” do tác giả Dương Văn Khảm làm chủ nhiệm và được nghiệm thu đầu năm 2003. Nội dung chủ yếu của đề tài là giới thiệu khái lược về luật pháp lưu trữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử; giới thiệu sơ lược về tình hình xây dựng luật pháp lưu trữ ở nước ngoài; nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng Luật Lưu trữ Việt Nam; nghiên cứu về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Lưu trữ, đề cương khái quát Luật Lưu trữ. Đề tài này có đóng góp rất lớn trong việc xây dựng Luật Lưu trữ ở nước ta [28]. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Luận văn Thạc sỹ “Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ” của tác giả Triệu Văn Cường, năm 2004 có nội dung về tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ lưu trữ ở nước ta từ 1945 đến năm 2003. Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ và các biện pháp thúc đẩy việc hoàn thiện nó [49].
Luận án Tiến sỹ “Nghiên cứu hiệu quả công bố tài liệu lưu trữ tại Việt Nam” của tác giả Trần Việt Hà, năm 2018. Luận án đã nghiên cứu các kết quả: Tổng quan được tình hình nghiên cứu của Việt Nam và nước ngoài về công bố tài liệu lưu trữ. Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về công bố tài liệu lưu trữ và phân tích tổng quát, toàn diện thực trạng công bố tài liệu lưu trữ tại Việt Nam, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Việt Nam [51].
Luận văn Thạc sỹ “Thực hiện pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Thu Hoài, nghiệm thu năm 2015 tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã phân tích lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay. Qua đó tác giả đề xuất những kiến nghị và giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy định hiện hành nhằm nâng cao chất lượng bảo hiểm xã hội trong những năm tiếp theo cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam [38].
Luận văn thạc sỹ “Thực hiện pháp luật về quản lý thanh niên trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phạm Quốc Vương nghiệm thu năm 2017 tại Khoa Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia đã phân tích lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý thanh niên trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi. Qua đó tác giả đề xuất những kiến nghị và giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy định hiện hành nhằm nâng cao chất lượng quản lý thanh niên cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương [43]. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Các đề án, luận án, luận văn nêu trên cho chúng ta thấy được vai trò của Nhà nước quản lý về công tác lưu trữ, ban hành văn bản, hoàn thiện hệ thống luật pháp về lưu trữ cũng như tính thống nhất công tác lưu trữ phải được thực hiện từ cấp trung ương đến cấp cơ sở và các cơ quan, tổ chức phải thực hiện đúng với quy định đề ra; lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về các lĩnh vực khác nhau như thế nào… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về việc thực hiện pháp luật lưu trữ tại Bộ Tài chính từ khi Luật Lưu trữ có hiệu lực (năm 2012) đến nay. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về lưu trữ và việc triển khai thực hiện tại Bộ Tài chính đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thi hành pháp luật lưu trữ là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật lưu trữ, thực trạng thực hiện pháp luật lưu trữ tại Bộ Tài chính, trên cơ sở đó, tìm kiếm các giải pháp nhằm thực hiện tốt pháp luật về lưu trữ.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về lưu trữ.
- Nghiên cứu thực trạng của hệ thống pháp luật về lưu trữ hiện nay ở nước ta và thực trạng thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về lưu trữ và thực trạng thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính từ khi có Luật Lưu trữ (năm 2012) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích và tổng hợp thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước; các công trình nghiên cứu, các báo cáo của cơ quan, đơn vị liên quan trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật về lưu trữ; vị trí, vai trò của Bộ Tài chính; đặc điểm, giá trị tài liệu lưu trữ của Bộ Tài chính; nguyên nhân dẫn đến nhiều bất cập trong công tác lưu trữ của Bộ Tài chính.
Phương pháp thống kê: Thông tin định lượng, đề tài đã xử lý số liệu và trình bày chủ yếu dưới dạng bảng biểu giúp nhận dạng quá trình thực hiện pháp luật về lưu trữ; thông tin định tính bổ sung thêm cứ liệu cho thông tin định lượng, làm rõ hơn các ý tưởng mà dữ liệu định lượng chưa phản ánh được hoặc phản ánh chưa đầy đủ.
Phương pháp so sánh: Sử dụng khi nghiên cứu cơ sở khoa học tổ chức và quản lý công tác lưu trữ của Bộ Tài chính; lịch sử hình thành và phát triển Bộ Tài chính; đối chiếu thực trạng công tác lưu trữ của Bộ Tài chính so với yêu cầu cần có về mặt lý luận cũng như quy định của pháp luật…
Tất cả các phương pháp trên đều được vận dụng trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các phương pháp tiếp cận khách quan, khoa học khác để từ đó rút ra những kết luận làm sáng tỏ mục đích của luận văn, phục vụ cho lý luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp của luận văn Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc thêm các vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật lưu trữ; phân tích, đánh giá toàn diện thực tiễn công tác lưu trữ qua thực tiễn Bộ Tài chính, từ đó rút kinh nghiệm cho công tác lưu trữ tại các cơ quan nhà nước; đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác lưu trữ, góp phần phát huy tối đa giá trị của tài liệu lưu trữ phục vụ cho hoạt động quản lý, điều hành của Bộ và các cơ quan nhà nước.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học, dạy – học liên quan đến công tác lưu trữ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật lưu trữ
- Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƯU TRỮ
1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về lưu trữ
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về lưu trữ
Lưu trữ hiểu theo nghĩa chung nhất là giữ lại các loại văn bản, hồ sơ của cơ quan, của cá nhân để làm bằng chứng và tra cứu khi cần thiết. Công tác lưu trữ là một lĩnh vực hoạt động của nhà nước bao gồm các mặt chính trị, khoa học, thực tiễn về bảo quản và tổ chức sử dụng tài liệu lưu trữ. Lưu trữ và công tác lưu trữ là sự nghiệp chính trị thể hiện ở nhiệm vụ bảo quản và tổ chức sử dụng các tài liệu có ý nghĩa chính trị, phục vụ trước hết cho lợi ích của Nhà nước, của Đảng. Công tác lưu trữ là công tác có tính chất chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu. Để bảo quản an toàn và sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ đòi hỏi các khâu nghiệp vụ lưu trữ như: Thu thập, lập hồ sơ, chỉnh lý, xác định giá trị, tổ chức bảo quản tài liệu, xây dựng công cụ tra tìm, tổ chức khai thác sử dụng tài liệu đều phải dựa trên nguyên tắc, phương pháp khoa học và có hệ thống lý luận riêng. Đặc biệt, công tác lưu trữ là một lĩnh vực hoạt động của bộ máy nhà nước, ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước. Vì vậy, hoạt động lưu trữ phải trên cơ sở pháp luật của nhà nước. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Pháp luật hiểu theo nghĩa rộng nhất là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước được ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ khái niệm về pháp luật nói chung thì pháp luật lưu trữ được hiểu là hệ thống văn bản gồm Luật Lưu trữ và các văn bản dưới luật, trong đó có các văn bản hướng dẫn do bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành là cơ sở pháp lý để các cơ quan, tổ chức thực hiện thống nhất các nội dung của hoạt động lưu trữ. Như vậy, Pháp luật về lưu trữ là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức lưu trữ và thực hiện các hoạt động lưu trữ. Các quy tắc xử sự này được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được ban hành để đưa các quy phạm pháp luật vào thực tiễn đời sống, làm cho các yêu cầu, quy định của văn bản pháp luật trở thành hiện thực. Về pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, hành vi đó không trái, không vượt ra ngoài các quy định của pháp luật và có thể là hành vi của cá nhân hay cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy hiện nay có một số quan niệm về thực hiện pháp luật sau: (1) Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [36, tr. 270]; (2) Giáo trình của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [32, tr.494]; (3) Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [33, tr.46].
Từ những quan niệm nêu trên, ta thấy thực hiện pháp luật là một quá trình của chủ thể pháp luật nhằm mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Như vậy, từ nhận thức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về lưu trữ, có thể hiểu: Thực hiện pháp luật về lưu trữ là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về lưu trữ trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Thực hiện pháp luật về lưu trữ có thể được phân tích từ các góc độ khác nhau. Dưới góc độ lý luận chung về pháp luật, thực hiện pháp luật về lưu trữ gồm các hoạt động: Tuân thủ pháp luật các quy định pháp luật về lưu trữ, thi hành các quy định pháp luật về lưu trữ, sử dụng các quy định pháp luật về lưu trữ, áp dụng các quy định pháp luật về lưu trữ. Từ góc độ nội dung công việc của công tác lưu trữ, thực hiện pháp luật lưu trữ gồm các hoạt động sau: Lập hồ sơ và quản lý hồ sơ, tài liệu tại Lưu trữ cơ quan; bảo quản, thống kê tài liệu lưu trữ và tiêu hủy tài liệu hết giá trị; sử dụng tài liệu lưu trữ. Như vậy, thực hiện pháp luật về lưu trữ có các góc nhìn khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, luận văn phân tích theo góc độ nội dung công việc của công tác lưu trữ.
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về lưu trữ
Thực hiện pháp luật về lưu trữ có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về lưu trữ là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật (các tổ chức, cá nhân) trong lĩnh vực lưu trữ. Việc hợp pháp đây được hiểu là pháp luật cấm điều gì làm ảnh hưởng tới tài liệu lưu trữ và quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân thì chủ thể không được làm; chủ thể thực hiện những hành vi được pháp luật cho phép; pháp luật có những quy định nào nhằm tạo điều kiện để tổ chức thực hiện tốt công tác lưu trữ thì chủ thể tích cực thực hiện.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về lưu trữ là một quá trình có mục đích, và bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Hoạt động nghiệp vụ lưu trữ cần thiết phải thông qua hàng loạt các hoạt động cụ thể của con người mà các hoạt động đó luôn có mục đích, mục tiêu cụ thể. Tính mục đích, mục tiêu trong hoạt động lưu trữ rất cao.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về lưu trữ mang tính thực hiện quyền lực nhà nước, các chủ thể tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Nhà nước trong hoạt động lưu trữ.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về lưu trữ mang tính xã hội rộng rãi, hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau.
1.2. Vai trò, chủ thể của thực hiện pháp luật về lưu trữ Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
1.2.1. Vai trò của thực hiện pháp luật về lưu trữ
Yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc xây dựng pháp luật của nhà nước là pháp luật phải là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của nhà nước; pháp luật phải là công cụ giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, pháp luật là phương tiện xử sự của mọi công dân. Đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương chính sách của nhà nước, nhu cầu khách quan của xã hội phải được phản ánh thông qua hệ thống pháp luật.
Một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh vẫn chưa đủ vì pháp luật trạng thái đó vẫn là trạng thái tĩnh nó có thể tác động đến trật tự pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển của các quan hệ xã hội nhưng mức độ rất hạn chế và chủ yếu mới chỉ là thông qua ý thức pháp luật của công dân ở một bộ phận không đáng kể. Pháp luật chỉ có thể phát huy hết tác dụng khi nó được tổ chức thực hiện tốt trong đời sống xã hội, khi các quy định của pháp luật trở thành những hành vi, cách xử sự thực tế của các cá nhân, tập thể trong cuộc sống hằng ngày.
Việc thực hiện pháp luật có ý nghĩa to lớn trong đời sống. Vai trò của thực hiện pháp luật nói chung, vai trò thực hiện pháp luật về lưu trữ thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bằng việc thực hiện pháp luật, các quy định của pháp luật đã đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế của các chủ thể. Nhờ đó, pháp luật phát huy vai trò của nó trên thực tế, làm cho đời sống xã hội ổn định, trật tự và có điều kiện phát triển mạnh mẽ, các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức được bảo đảm, bảo vệ, đời sống xã hội được an toàn. Thông qua việc thực hiện pháp luật, những hạn chế, khiếm khuyết (nếu có) của pháp luật sẽ được bộc lộ, nhờ đó pháp luật có thể được hoàn thiện một cách kịp thời. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về lưu trữ làm cho ý thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân được nâng cao; vai trò, trách nhiệm của nhà nước và công dân trong bảo vệ các nguồn tài liệu được xác định rõ ràng. Muốn thực hiện pháp luật về lưu trữ tốt, trước hết cần giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật, các cơ quan, tổ chức và cá nhân công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, tổ chức phải hiểu và nắm chắc các quy định của pháp luật về lưu trữ để cụ thể hóa trong triển khai, tổ chức thực hiện. Từ đó ý thức pháp luật nói chung của các chủ thể được nâng lên.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về lưu trữ là đảm bảo các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đều biết rằng, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Pháp chế trong lĩnh vực lưu trữ là một bộ phận của pháp chế xã hội chủ nghĩa, trong đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ pháp luật về lưu trữ. Theo đó, để đảm bảo và tăng cường pháp chế trong lĩnh vực lưu trữ một mặt đòi hỏi phải xây dựng được hệ thống pháp luật về lưu trữ đầy đủ, hoàn thiện và đồng bộ; mặt khác, yêu cầu mọi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phải thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để hệ thống pháp luật này. Có như vậy mới hiện thực hóa được pháp luật về lưu trữ vào thực tế. Đây cũng chính là biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực lưu trữ hiện nay.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về lưu trữ đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và có vai trò to lớn trong việc cung cấp thông tin cho hoạt động quản lý, điều hành của mỗi cơ quan, tổ chức. Khi các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cán bộ, công chức, nhân viên chấp hành nghiêm chỉnh, tuân thủ và thực hiện đúng pháp luật về lưu trữ là đã góp phần bảo vệ, bảo quản an toàn, khoa học tài liệu của mình để cung cấp thông tin nhanh và chính xác nhất phục vụ cho công tác quản lý, điều hành hiệu quả. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về lưu trữ bảo đảm hoạt động của các cơ quan, tổ chức và Nhà nước nói chung phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế – xu thế yêu cầu tính minh bạch, sự cập nhật thông tin hàng ngày, hàng giờ. Đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước đã liên tiếp ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, văn bản quy định cụ thể đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin tạo nền tảng cho công tác lưu trữ điện tử. Vì vậy, đối với mỗi cơ quan, tổ chức việc thực hiện đúng các quy định của nhà nước về công tác lưu trữ như: Tài liệu giao nộp vào lưu trữ cơ quan sẽ được tự động thu thập, xử lý; bảo quản tài liệu lưu trữ tồn tại dưới dạng số, sẵn sàng cho việc khai thác sử dụng mọi lúc mọi nơi vào mục đích khoa học và thực tiễn quản lý.
1.2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về lưu trữ
Theo Điều 38, Luật Lưu trữ: Bộ Nội vụ là cơ quan được Chính phủ giao giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất trong cả nước về lưu trữ và quản lý tài liệu Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam. Các nội dung quản lý nhà nước về lưu trữ còn được phân cấp cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội, ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về lưu trữ.
Bên cạnh đó, Điều 4 và 5 của Luật Lưu trữ cũng quy định thêm chủ thể thực hiện pháp luật về lưu trữ là những cá nhân, tổ chức, gia đình, dòng họ:
Thừa nhận quyền sở hữu đối với tài liệu lưu trữ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, gia đình, dòng họ hiến tặng, ký gửi, bán tài liệu lưu trữ có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch sử đối với quốc gia, xã hội của mình cho Nhà nước; (2) chỉ được hiến tặng, bán cho Nhà nước các tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia; (3) trả phí bảo quản theo quy định của pháp luật đối với tài liệu ký gửi tại Lưu trữ lịch sử; (4) được ưu tiên sử dụng những tài liệu đã hiến tặng, ký gửi nhưng không xâm hại đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức…
1.3. Nội dung thực hiện pháp luật về lưu trữ Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Luật Lưu trữ ban hành đã đánh dấu một bước phát triển mới của luật pháp lưu trữ Việt Nam, tạo khung pháp lý cao nhất về lưu trữ, tạo điều kiện cho công tác lưu trữ phát triển. Bên cạnh Luật Lưu trữ còn có Nghị định của Chính phủ, các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ. Thực hiện pháp luật về lưu trữ có những nội dung cơ bản sau đây:
1.3.1. Tổ chức lưu trữ và hoạt động quản lý nhà nước về công tác lưu trữ
Điều 38, Chương VI, Luật Lưu trữ quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lưu trữ; Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lưu trữ và quản lý tài liệu Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý về lưu trữ.
Thông tư số 06/2015/TT-BNV ngày 08/12/2015 của Bộ Nội vụ quy định:
Tổ chức lưu trữ của Bộ thuộc Văn phòng Bộ, giúp Chánh Văn phòng Bộ tham mưu cho Bộ trưởng quản lý công tác lưu trữ của các vụ, văn phòng, thanh tra, cục, tổng cục và các tổ chức tương đương, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ và thực hiện công các lưu trữ của Bộ;
Tổ chức lưu trữ giúp Chánh Văn phòng Bộ thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về lưu trữ như: Xây dựng, trình Bộ ban hành các chế độ, quy định về lưu trữ; xây dựng, tổ chức thực hiện các đề án, dự án, chương trình, kế hoạch dài hạn, hằng năm về công tác lưu trữ; tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về lưu trữ.
Ngoài ra, Điều 39 Luật Lưu trữ còn quy định cụ thể về kinh phí cho công tác lưu trữ của các cơ quan nhà nước được bố trí trong dự toán hằng năm và sử dụng vào các việc như: Xây dựng, cải tạo kho lưu trữ; mua sắm thiết bị bảo quản tài liệu; sưu tầm, mua tài liệu quý hiếm; chỉnh lý tài liệu; thực hiện các kỹ thuật bảo quản tài liệu; tu bổ, lập bản sao bảo hiểm tài liệu lưu trữ; công bố, giới thiệu, trưng bày, triển lãm tài liệu lưu trữ; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ lưu trữ; những hoạt động khác phục vụ việc hiện đại hóa công tác lưu trữ.
1.3.2. Thu thập tài liệu lưu trữ Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Chương II Luật Lưu trữ quy định về thu thập tài liệu lưu trữ gồm ba mục: Lập hồ sơ và quản lý hồ sơ, tài liệu tại Lưu trữ cơ quan; chỉnh lý, xác định giá trị tài liệu; thu thập tài liệu vào Lưu trữ lịch sử.
- Lập hồ sơ và quản lý hồ sơ, tài liệu tại Lưu trữ cơ quan
Điều 9, 10, 11, 12 của Luật Lưu trữ quy định cụ thể: Trách nhiệm lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan; trách nhiệm của Lưu trữ cơ quan; thời hạn nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan; trách nhiệm giao, nhận hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan. Những quy định của Luật cũng được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 04/2013/TT-BNV ngày 16/4/2013 của Bộ Nội vụ và Nghị định 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ như sau:
Trách nhiệm lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm phê duyệt, ban hành Danh mục hồ sơ vào đầu năm; chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn việc lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ vào Lưu trữ cơ quan (Khoản 1, Điều 28 và Khoản 1, Điều 31, Nghị định 30/2020/NĐ-CP). Người đứng đầu bộ phận hành chính được giao trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ; tài liệu vào lưu trữ tại cơ quan, tổ chức mình; tham mưu cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn việc lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ đối với các cơ quan, tổ chức cấp dưới (Khoản 2, Điều 31, Nghị định 30/2020/NĐ-CP). Người đứng đầu đơn vị trong cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm trước người đứng đầu cơ quan, tổ chức về việc lập hồ sơ, bảo quản và nộp lưu hồ sơ, tài liệu của đơn vị vào Lưu trữ cơ quan. Mỗi cá nhân phải lập hồ sơ về công việc và chịu trách nhiệm về số lượng, thành phần, nội dung tài liệu trong hồ sơ; bảo đảm yêu cầu, chất lượng của hồ sơ theo quy định trước khi giao nộp vào Lưu trữ cơ quan. Trường hợp nghỉ hưu, thôi việc, đi học tập dài ngày hay chuyển công tác khác thì phải bàn giao hồ sơ cho đơn vị, Lưu trữ cơ quan theo quy chế của cơ quan, tổ chức (Khoản 3, Điều 31, Nghị định 30/2020/NĐ-CP). Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Trách nhiệm của Lưu trữ cơ quan: Lập kế hoạch thu thập hồ sơ, tài liệu; hướng dẫn các đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức chuẩn bị hồ sơ và lập “Mục lục hồ sơ, tài liệu nộp lưu”; chuẩn bị kho và các phương tiện bảo quản để tiếp nhận tài liệu; tiếp nhận hồ sơ, tài liệu đã đến hạn nộp lưu từ các đơn vị, cá nhân, kiểm tra đối chiếu giữa Mục lục hồ sơ và tài liệu thực tế và lập Biên bản giao nhận tài liệu (Điều 28, Thông tư 04/2013/TT-BNV).
- Thời hạn, thành phần tài liệu, thủ tục nộp lưu vào Lưu trữ cơ quan:
Hồ sơ, tài liệu nộp lưu vào Lưu trữ cơ quan phải đủ thành phần, đúng thờ hạn và thực hiện theo quy trình, trình tự, thủ tục quy định. Thời hạn nộp lưu: Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày công việc kết thúc; trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày công trình được quyết toán. Khi nộp lưu tài liệu, đơn vị hoặc cá nhân giao nộp phải lập hai bản “Mục lục hồ sơ, tài liệu nộp lưu” và hai “Biên bản giao nhận hồ sơ, tài liệu”. Sau khi giao nhận xong, đơn vị hoặc cá nhân giao nộp tài liệu và Lưu trữ cơ quan giữ mỗi loại một bản (Điều 30, Nghị định 30/2020/NĐ-CP).
Bên cạnh việc lập hồ sơ giấy nêu trên, tại Điều 2 Nghị định số 01/2013/NĐ-CP quy định việc “lập hồ sơ điện tử là việc áp dụng công nghệ thông tin nhằm liên kết các tài liệu điện tử hình thành trong quá trình theo dõi, giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân thành hồ sơ điện tử”. Như vậy, tài liệu lưu trữ điện tử có các đặc điểm về cách biểu diễn thông tin, đặc thù về vật mang tin với những tính chất lý hóa khác nhau, tạo khả năng xử lý, truyền, tra cứu và cung cấp thông tin nhanh chóng, đa diện, đầy đủ và chính xác với nhiều hình thức biểu đạt khác nhau; có thể bị virus xâm nhập, phá hoại, có thể bị đánh cắp thông tin, bị sửa đổi thông tin nếu không có những kỹ thuật phòng ngừa kèm theo một chế độ bảo vệ, bảo mật nghiêm ngặt. Đây là một trong những bước đột phá trong cải cách hành chính, trước hết là cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tiết kiệm chi phí, hướng tới một nền hành chính hiện đại, không giấy tờ, góp phần đổi mới lề lối, cách thức giải quyết công việc, xây dựng Chính phủ điện tử. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Chỉnh lý, xác định giá trị tài liệu được quy định tại các Điều 15, 16, 17, 18 của Luật Lưu trữ bao gồm: Chỉnh lý tài liệu, xác định giá trị tài liệu, thời hạn bảo quản tài liệu và Hội đồng xác định giá trị tài liệu. Những quy định của Luật về nội dung này đã được cụ thể hóa bằng các thông tư, quyết định, công văn hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.
Về chỉnh lý tài liệu do người đứng đầu cơ quan, tổ chức chỉ đạo thực hiện. Khi tiến hành chỉnh lý tài liệu phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản như: Tài liệu được phân loại theo nguyên tắc nghiệp vụ lưu trữ, được xác định thời hạn bảo quản, được hoàn thiện và hệ thống hóa, có Mục lục hồ sơ, cơ sở dữ liệu tra cứu và Danh mục tài liệu hết giá trị. Việc chỉnh lý cần phải tuân thủ đủ 23 bước và được quy định chi tiết tại Công văn 283/VTLTNN-NVTW ngày 19/5/2004 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về việc ban hành Bảng hướng dẫn chỉnh lý tài liệu hành chính, Quyết định 128/QĐ-VTLTNN ngày 01/6/2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về việc ban hành Quy trình “chỉnh lý tài liệu giấy” theo TCVN ISO 9001:2000.
(2) Xác định giá trị tài liệu phải đảm bảo đúng nguyên tắc, phương pháp và các tiêu chuẩn cơ bản, từ đó xác định thời hạn bảo quản cho từng loại tài liệu như: Tài liệu bảo quản vĩnh viễn, tài liệu bảo quản có thời hạn (có số năm cụ thể), tài liệu hết giá trị cần loại ra để tiêu hủy. Việc xác định thời hạn bảo quản tài liệu quy định tại Thông tư số 09/2011/TT-BNV ngày 03/6/2011 của Bộ Nội vụ quy định về thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức và là căn cứ để các cơ quan, tổ chức quản lý ngành ở trung ương quy định thời hạn bảo quản cho các nhóm hồ sơ, tài liệu của ngành mình.
Theo Điều 18, Luật Lưu trữ, Hội đồng xác định giá trị tài liệu được thành lập để tham mưu cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc xác định thời hạn bảo quản, lựa chọn tài liệu để giao nộp vào Lưu trữ cơ quan, lựa chọn tài liệu của Lưu trữ cơ quan để giao nộp vào Lưu trữ lịch sử và loại tài liệu hết giá trị. Hội đồng xác định giá trị tài liệu thảo luận tập thể, quyết định theo đa số, các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp để trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Trên cơ sở đề nghị của Hội đồng xác định giá trị tài liệu, người đứng đầu quyết định thời hạn bảo quản tài liệu, lựa chọn tài liệu để giao nộp vào Lưu trữ cơ quan, lựa chọn tài liệu của Lưu trữ cơ quan để giao nộp vào Lưu trữ lịch sử và hủy tài liệu hết giá trị.
- Giao nộp tài liệu vào Lưu trữ lịch sử Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Điều 21 và 22, Luật Lưu trữ quy định: Trong thời hạn 10 năm kể từ năm công việc kết thúc, cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu có trách nhiệm nộp lưu tài liệu có giá trị vĩnh viễn vào Lưu trữ lịch sử; cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu có trách nhiệm chỉnh lý tài liệu trước khi giao nộp, lập danh mục tài liệu có đóng dấu chỉ các mức độ mật (nếu có), giao nộp tài liệu và công cụ tra cứu vào Lưu trữ lịch sử; Lưu trữ lịch sử có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận tài liệu và lập Biên bản giao nhận tài liệu; Mục lục hồ sơ nộp lưu và Biên bản giao nhận hồ sơ được lập thành 03 bản (trong đó: Cơ quan, tổ chức nộp lưu hồ sơ giữ 01 bản, Lưu trữ lịch sử giữ 02 bản). Việc giao nộp vào Lưu trữ lịch sử được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 16/2014/TT-BNV ngày 20/11/2014 của Bộ Nội vụ.
Ngoài ra, Điều 23, Luật Lưu trữ quy định: “Tài liệu lưu trữ được hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức không thuộc Danh mục cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu hoặc tài liệu không thuộc Danh mục tài liệu nộp lưu vào Lưu trữ lịch sử được quản lý tại Lưu trữ cơ quan”.
1.3.3. Bảo quản, thống kê tài liệu lưu trữ, hủy tài liệu hết giá trị
Công tác bảo quản tài liệu lưu trữ: Là một trong những mặt hoạt động lưu trữ. Điều 6, Luật Lưu trữ xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong công tác lưu trữ “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý về lưu trữ, áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thu thập, quản lý, bảo quản và sử dụng tài liệu lưu trữ; ban hành quy chế về công tác lưu trữ của cơ quan, tổ chức mình”. Điều 25, Luật Lưu trữ quy định: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm xây dựng, bố trí kho lưu trữ, thiết bị, phương tiện cần thiết và thực hiện các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để bảo vệ, bảo quản an toàn tài liệu lưu trữ và đảm bảo việc sử dụng tài liệu lưu trữ”. Điểm c, Khoản 1, Chỉ thị số 35/CT-TTg ngày 07/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan, Lưu trữ lịch sử quy định “Các cơ quan, tổ chức bố trí kho lưu trữ đáp ứng yêu cầu bảo vệ, bảo quản an toàn tài liệu lưu trữ theo quy định của pháp luật; tổ chức khai thác tài liệu lưu trữ có hiệu quả”.
Bảo quản tài liệu lưu trữ là quá trình áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật nhằm kéo dài tuổi thọ và bảo đảm an toàn cho tài liệu lưu trữ, bao gồm: Xây dựng, cải tạo kho lưu trữ; trang thiết bị kỹ thuật bảo quản; xử lý kỹ thuật bảo quản; tổ chức tài liệu trong kho lưu trữ; tu bổ và phục chế tài liệu lưu trữ. Xử lý kỹ thuật bảo quản được thực hiện bằng các biện pháp kỹ thuật chống hoặc hạn chế những ảnh hưởng của khí hậu, môi trường, công trùng và các tác nhân khác. Những công việc phổ thông nhất trong xử lý kỹ thuật là xử lý nhiệt độ, độ ẩm với các thiết bị chuyên dụng, khử trùng, khử axit để hạn chế hư hại tài liệu. Do tác động của môi trường, nhiệt độ, ẩm độ, con người, trong kho lưu trữ còn thường xuyên phải xử lý bụi, nấm mốc và các tác nhân khác như chống mất mát tài liệu và tiết lộ thông tin đối với tài liệu còn giá trị mật.
Việc bảo quản tài liệu lưu trữ được quy định chi tiết tại Thông tư số 09/2007/TT-BNV ngày 26/11/2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về kho lưu trữ chuyên dụng, Quyết định 262/QĐ-VTLTNN ngày 17/12/2008 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về việc ban hành quy trình vệ sinh kho bảo quản tài liệu và quy trình vệ sinh tài liệu lưu trữ trên nền giấy, Công văn số 203/VTLTNN-TCCB ngày 23/3/2010 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về việc tăng cường công tác phòng cháy chữa cháy, bảo vệ an toàn hồ sơ, tài liệu. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Thống kê tài liệu lưu trữ: Là nhiệm vụ quan trọng của công tác lưu trữ, thực hiện tốt nghiệp vụ thống kê tài liệu lưu trữ góp phần nâng cao chất lượng cho công tác báo cáo thống kê công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ định kỳ hàng năm theo quy định. Thống kê tài liệu lưu trữ là việc thu thập, ghi chép lại các số liệu định kỳ hàng năm về tài liệu lưu trữ. Thông qua kết quả thống kê tài liệu lưu trữ giúp cho các cơ quan, đơn vị nắm được số lượng, thể loại, chất lượng tài liệu lưu trữ và báo cáo thống kê định kỳ theo quy định của pháp luật; làm cơ sở để đề ra biện pháp, giải pháp xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm tổ chức quản lý tốt tài liệu lưu trữ góp phần phát triển công tác lưu trữ.
Điều 27, Luật Lưu trữ quy định việc thống kê tài liệu lưu trữ: “Cơ quan, tổ chức có tài liệu lưu trữ phải định kỳ thực hiện chế độ thống kê và số liệu báo cáo thống kê được tính từ ngày 01/01 đến hết 31/12 hằng năm; đối với cơ quan, tổ chức ở cấp trung ương tổng hợp số liệu của các đơn vị trực thuộc và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về lưu trữ ở trung ương”. Việc thống kê tài liệu lưu trữ được Bộ Nội vụ cụ thể hóa tại Thông tư số 03/2018/TT-BNV ngày 06/3/2018 quy định chế độ báo cáo thống kê ngành Nội vụ và thực hiện việc báo cáo trên Phần mềm báo cáo thống kê ngành Nội vụ.
Hủy tài liệu lưu trữ: Điều 28, Luật Lưu trữ quy định việc hủy tài liệu hết giá trị phải đảm bảo đúng thẩm quyền, thủ tục, hủy hết thông tin trong tài liệu và lập thành biên bản, lập hồ sơ tiêu hủy tài liệu hết giá trị và hồ sơ được bảo quản tại cơ quan, tổ chức có tài liệu bị hủy ít nhất 20 năm. Hướng dẫn tổ chức tiêu hủy tài liệu hết giá trị được Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước quy định chi tiết tại Công văn số 879/VTLTNN-NVĐP ngày 19/12/2006, theo đó việc xét và tiêu hủy tài liệu hết giá trị được thực hiện theo bảy bước gồm: Lập danh mục tài liệu hết giá trị và viết bản thuyết minh tài liệu hết giá trị; trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức hồ sơ xét hủy tài liệu hết giá trị; Hội đồng xác định giá trị tài liệu thực hiện việc xét hủy tài liệu hết giá trị; thẩm tra tài liệu hết giá trị trước khi tiêu hủy; hoàn thiện hồ sơ trình cấp có thẩm quyền ra quyết định tiêu hủy tài liệu hết giá trị; tổ chức tiêu hủy tài liệu hết giá trị; lập hồ sơ về việc tiêu hủy tài liệu hết giá trị.
1.3.4. Sử dụng tài liệu lưu trữ Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Điều 29, Luật Lưu trữ quy định quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng tài liệu lưu trữ: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng tài liệu lưu trữ để phục vụ công tác, nghiên cứu khoa học, lịch sử và các nhu cầu chính đáng khác. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi sử dụng tài liệu có các nghĩa vụ phải tôn trọng tính nguyên bản tài liệu khi công bố, trích dẫn, không xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức có tài liệu lưu trữ có trách nhiệm chủ động giới thiệu tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài liệu lưu trữ đang trực tiếp quản lý; hằng năm rà soát, thông báo tài liệu lưu trữ thuộc danh mục tài liệu có đóng dấu mật đã được giải mật”.
Điều 31, 32, 33, 34 của Luật Lưu trữ quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ, trong đó có các hình thức sử dụng, sao tài liệu lưu trữ, chứng thực lưu trữ, mang tài liệu lưu trữ ra khỏi Lưu trữ cơ quan và người đứng đầu cơ quan, tổ chức căn cứ quy định của Luật và các quy định khác của pháp luật có liên quan để quy định việc sử dụng tài liệu lưu trữ tại Lưu trữ cơ quan, tổ chức mình.
1.3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lưu trữ
Tin học hóa các khâu trong quy trình nghiệp vụ lưu trữ như: Thu thập, chỉnh lý, bảo quản, khai thác và sử dụng tài liệu; tích hợp và chuyển dữ liệu văn bản đã được số hóa vào phần mềm quản lý hồ sơ lưu trữ, tạo lập hồ sơ điện tử; số hóa và xây dựng kho tài liệu lưu trữ số cho cơ quan; tài liệu được định dạng ở nhiều ngôn ngữ cho phép đọc được ở mọi nơi, mọi lúc trên các phương tiện công nghệ hiện đại như máy tính cá nhân, Ipad; Iphone;… sẽ hỗ trợ cán bộ trong việc tìm kiếm, tra cứu, chiết xuất thông tin nhanh chóng chính xác, tiện lợi.
Nhà nước ta đã rất kịp thời khi ban hành Nghị định 01/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 quy định chi tiết một số điều của Luật Lưu trữ và dành một chương về quản lý tài liệu lưu trữ điện tử bao gồm các nội dung sau:
Thu thập tài liệu lưu trữ điện tử là bước đầu tiên trong quy trình nghiệp vụ lưu trữ. Trường hợp tài liệu lưu trữ điện tử và tài liệu lưu trữ giấy có nội dung trùng nhau thì thu thập cả hai loại. Khi giao nhận tài liệu lưu trữ điện tử, Lưu trữ cơ quan, Lưu trữ lịch sử phải kiểm tra tính xác thực, tính toàn vẹn và khả năng truy cập của hồ sơ. Hồ sơ phải bảo đảm nội dung, cấu trúc và bối cảnh hình thành và được bảo vệ để không bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại, sửa chữa hay bị mất dữ liệu. Việc thu thập tài liệu lưu trữ điện tử vào Lưu trữ cơ quan được thực hiện theo đúng quy trình. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Quy định về bảo quản tài liệu lưu trữ điện tử: Tài liệu lưu trữ điện tử phải được bảo quản an toàn và được chuyển đổi theo công nghệ phù hợp. Lưu trữ cơ quan phải thường xuyên kiểm tra, sao lưu để bảo đảm an toàn, tính toàn vẹn, khả năng truy cập của tài liệu lưu trữ điện tử và sử dụng các biện pháp kỹ thuật để việc phân loại, lưu trữ được thuận lợi nhưng phải bảo đảm không thay đổi nội dung tài liệu. Phương tiện lưu trữ tài liệu lưu trữ điện tử phải được bảo quản trong môi trường lưu trữ thích hợp. Việc bảo quản tài liệu điện tử đồng nghĩa với việc đảm an toàn và bảo mật tài liệu lưu trữ điện tử. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm định kỳ kiểm tra và bảo đảm an toàn hệ thống quản lý tài liệu điện tử, thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn và bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật trong việc quản lý tài liệu lưu trữ điện tử.
Khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ điện tử có sự khác biệt với tài liệu giấy. Nghị định 01/2013/NĐ-CP đã quy định như sau: Thẩm quyền cho phép đọc, sao, chứng thực lưu trữ đối với tài liệu lưu trữ điện tử được thực hiện như đối với tài liệu lưu trữ trên các vật mang tin khác. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đăng tải thông tin về quy trình, thủ tục, chi phí thực hiện dịch vụ sử dụng tài liệu lưu trữ điện tử trên trang tin điện tử của cơ quan, tổ chức. Khuyến khích việc thực hiện dịch vụ sử dụng tài liệu lưu trữ điện tử trực tuyến. Phương tiện lưu trữ tài liệu lưu trữ điện tử thuộc Danh mục tài liệu hạn chế sử dụng không được kết nối và sử dụng trên mạng diện rộng.
Tài liệu lưu trữ điện tử hết giá trị được hủy theo thẩm quyền, thủ tục như tài liệu lưu trữ trên các vật mang tin khác. Việc hủy tài liệu lưu trữ điện tử phải được thực hiện đối với toàn bộ hồ sơ thuộc Danh mục tài liệu hết giá trị đã được phê duyệt và phải bảo đảm thông tin đã bị hủy không thể khôi phục lại được. Trên thực tế việc tiêu hủy tài liệu lưu trữ điện tử khó khăn hơn nhiều so với tài liệu giấy do việc sao lưu tài liệu dễ dàng chúng ta không kiểm soát được.
Để đảm bảo tính xác thực và hiệu lực pháp lý của văn bản điện tử, hồ sơ, tài liệu điện tử, ngày 24 tháng 01 năm 2019, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 02/2019/TT-BNV quy định tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào và yêu cầu bảo quản tài liệu lưu trữ điện tử.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về lưu trữ Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quá trình thực hiện pháp luật về lưu trữ. Các yếu tố này ở những hoàn cảnh địa lý, kinh tế, chính trị xã hội khác nhau ảnh hưởng khác nhau đến công tác lưu trữ.
1.4.1. Các yếu tố khách quan
Thiên nhiên, môi trường là các yếu tố tác động thường xuyên, liên tục đến công tác lưu trữ tài liệu. Thường thì để hạn chế tác động tiêu cực của các yếu tố này, chúng ta cần phải có các biện pháp dự phòng tốt. Các yếu tố rủi ro như thiên tai, hỏa hoạn, địch họa… khi diễn ra hầu hết các hoạt động của con người và xã hội đều bị tác động. Hoạt động lưu trữ không nằm ngoài những tác động này thậm chí nếu không được bảo đảm bằng những biện pháp bảo vệ dự phòng tốt có thể dẫn đến những hiểm họa nguy hiểm. Ví dụ: Có nhiều trận mưa bão, lũ lụt, hỏa hoạn đã hủy hoại tài liệu lưu trữ mà con người không trở tay kịp. Đối với tài liệu lưu trữ, không có biện pháp sao lưu, bảo hiểm, dự phòng một khi rủi ro xảy ra khả năng tìm kiếm, khôi phục lại rất khó.
Các thế lực thù địch cũng có thể được xem là yếu tố khách quan. Khi tiến hành xâm lược, việc đồng hóa nền văn hóa, chính trị của đất nước trong các lĩnh vực đồng nghĩa với việc chúng muốn xóa sổ lịch sử dân tộc, làm mất đi các tài liệu lưu trữ của chúng ta.
Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của một đất nước là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến đường lối, chính sách, chiến lược phát triển ngành của công tác lưu trữ; hệ thống các quy định của pháp luật về lưu trữ được xây dựng theo ý chí của nhà lập pháp cũng là yếu tố khách quan tác động đến công tác lưu trữ của các cơ quan, tổ chức. Nếu như có đường lối, chính sách đúng, hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ sẽ là một trong những yếu tố tác động lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật về lưu trữ của các cơ quan, tổ chức.
1.4.2. Các yếu tố chủ quan Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo: Việc thực hiện pháp luật về lưu trữ của một cơ quan chỉ có hiệu quả khi được lãnh đạo cơ quan đó quan tâm, đầu tư và đánh giá đúng tầm quan trọng của nó. Quan tâm, đầu tư được thể hiện trong việc xây dựng ban hành các văn bản quy định, tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của nhà nước và của cơ quan, đảm bảo về biên chế, đảm bảo về ngân sách cho hoạt động lưu trữ, xây dựng các chiến lược phát triển dài hạn, đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin… để phát huy tốt nhất giá trị của tài liệu lưu trữ cơ quan cho hoạt động của cơ quan nói riêng và phát huy vai trò đối với xã hội nói chung.
Nhận thức và ý thức của con người: Tài liệu lưu trữ trong cơ quan được hình thành từ hoạt động thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công viên chức cơ quan. Ở Việt Nam nói chung và trong mỗi cơ quan, tổ chức nói riêng, nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức về việc thực hiện các quy định của nhà nước đối với công tác lưu trữ vẫn còn là vấn đề cần phải bàn.
Đội ngũ cán bộ công chức làm lưu trữ: Hoạt động lưu trữ là hoạt động có nhiều khâu máy móc không thể thay thế, do vậy việc đảm bảo về chất lượng và số lượng cán bộ là yếu tố quan trọng để đảm bảo công tác lưu trữ sẽ được tổ chức khoa học và thực hiện đúng quy định.
Công nghệ thông tin: Sự ra đời và phát triển của công nghệ thông tin tác động mạnh mẽ đến hoạt động lưu trữ từ khâu lập hồ sơ điện tử, sao lưu bảo quản tài liệu điện tử và hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động khác trong công tác quản lý tài liệu lưu trữ giúp chuyển tải cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác, thuận tiện cho người cần. Bên cạnh những ưu thế của tài liệu điện tử còn nhiều thách thức mà mỗi cơ quan, tổ chức hiện đang phải đối mặt khi chưa thể thay thế được hoàn toàn tài liệu giấy.
Kinh phí cho hoạt động lưu trữ bao gồm kinh phí đầu tư xây dựng kho bảo quản, trang thiết bị bảo quản, kinh phí tu bổ, phục chế, số hóa, kinh phí chỉnh lý tài liệu… Đây cũng là yếu tố tác động nhiều đến hiệu quả thực hiện pháp luật về lưu trữ. Trên thực tế, hầu hết những đơn vị làm tốt công tác lưu trữ đều là những đơn vị được bố trí đầu tư kinh phí để triển khai chỉnh lý, số hóa tài liệu và xây dựng kho bảo quản tài liệu theo đúng quy định của pháp luật.
Tiểu kết chương 1 Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Thực hiện pháp luật là một quá trình của chủ thể pháp luật nhằm mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Với mục đích nghiên cứu thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính, bước đầu tác giả đã đưa ra được khái niệm thực hiện pháp luật về lưu trữ, đó là “Thực hiện pháp luật về lưu trữ là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về lưu trữ trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật”.
Pháp luật về lưu trữ là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đó là tổng thể các quy định pháp luật về thu thập, bảo quản, sử dụng và tổ chức lưu trữ trong một quốc gia. Pháp luật về lưu trữ là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức lưu trữ và thực hiện các hoạt động lưu trữ. Các quy tắc xử sự này được đảm bảo thực hiện bởi các biện pháp khác nhau, trong đó có các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã phân tích làm rõ hơn các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật lưu trữ, bao gồm các khái niệm cơ bản, đặc điểm, vai trò, chủ thể, hình thức, nội dung của thực hiện pháp luật về lưu trữ. Luận văn: Thực hiện pháp luật về lưu trữ tại Bộ Tài chính.
Kết quả nghiên cứu lý luận thực hiện pháp luật về lưu trữ giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về pháp luật lưu trữ và thực hiện pháp luật về lưu trữ, từ đó triển khai thực hiện các nội dung pháp luật về lưu trữ.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng thực hiện pháp luật về lưu trữ tại bộ tài chính

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com