Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Giới thiệu chung về các di sản văn hóa Nam Định

2.1.1. Về di sản văn hóa vật thể

Trên địa bàn tỉnh có gần 2.000 di tích lịch sử văn hóa cách mạng, trong đó 84 di tích được xếp di tích lịch sử quốc gia và 174 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Một nét đặc trưng của tỉnh Nam Định là trên địa bàn có hai quần thể di tích với mật độ di tích lịch sử văn hóa khá dầy, là quần thể di tích lịch sử – văn hóa Trần gắn với lịch sử Vương Triều Trần (45 di tích) và quần thể di tích lịch sử – văn hóa Phủ Dầy (21 di tích) gắn với huyền thoại Thánh Mẫu Liễu Hạnh và tín ngưỡng thờ Mẫu của cộng đồng cư dân phía Bắc. Với tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Đức Thánh Trần gắn liền với hai quần thể di tích lịch sử – văn hóa Trần, Phủ Dầy nên tại Nam Định, loại hình du lịch văn hóa tâm linh khá phát triển và thu hút đông đảo nhân dân và du khách. Những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu có khả năng khai thác phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Nam Định gồm có:

2.1.1.1. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Trần

Quần thể di tích lịch sử văn hóa Trần gồm 45 di tích gắn với lịch sử hình thành, phát triển của vương triều Trần – một triều đại hưng thịnh vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Xưa kia, đây là hành cung Thiên trường – nơi được ví như kinh đô thứ hai của triều Trần với cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa (nơi dành cho các Thái Thượng Hoàng và các vua đương triều ngự), cung đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ (dành cho các hoàng thái hậu, hoàng hậu và các phi tần). Các di tích chính của quần thể bao gồm: đền Trần, chùa Tháp, đền Bảo Lộc, đền Cao Đài, chùa Đệ Tứ … nằm trải rộng trên các xã Lộc Hạ, Lộc Vượng (ngoại thành Nam Định) và xã Mỹ Thành, Mỹ Phúc của huyện Mỹ Lộc.

Đền Trần: là đền thờ nằm trên đường Trần Thừa, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Đây là nơi thờ các vua Trần cùng các quan lại đã có công phò tá nhà Trần. Đền Trần bao gồm ba công trình kiến trúc chính là: Đền Thiên Trường, đền Trùng Hoa và đền Cố Trạch. Đến Thiên Trường được xây dựng trên nền cung Trùng Quang xưa – đây vốn là nơi các Thái Thượng Hoàng nhà Trần sau khi nhường ngôi cho vua trẻ lui về ngự. Chính giữa sân đền được lát gạch hình vuông mô phỏng gạch lát nền thời Trần khi xưa, trông xa như đồng tiền vạn lịch, lại gần có những hoa văn hình tròn bao trùm hình vuông với ý nghĩa trời tròn đất vuông vũ trụ luân hồi, họa tiết hình hoa sen, hoa chanh biểu trưng cho đạo Phật. Vì thời Trần Phật giáo được coi là quốc đạo. Nổi bật trên nền gạch là 4 chữ thọ với ý nghĩa cơ nghiệp nhà Trần trường thọ mãi cùng với trời đất. Trong khuôn viên đền Trần, ngôi đền Thiên Trường là ngôi đền có kết cấu cổ nhất với bộ cánh cửa chạm rồng – được coi là vật báu có 1 không 2 của ngôi đền được chạm khắc từ thời Hậu Lê đến nay đã hơn 300 năm mang nhiều phong cách triều Nguyễn. Đền Trùng Hoa nằm phía Tây đền Thiên Trường, xưa là cung Trùng Hoa – nơi các vua trẻ từ kinh thành Thăng Long về chầu hầu Thái Thượng Hoàng. Năm 2008 nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, UBND thành phố Hà Nội hỗ trợ UBND tỉnh Nam Định xây dựng lại cung Trùng Hoa và đến năm 2013 tỉnh Nam Định đã đúc tượng đồng thờ ở đây. Trong đền hiện có tượng 14 vị vua Trần, mỗi pho nặng 9 tạ và nhiều hiện vật liên quan đến cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt và các di vật khảo cổ thời Trần. Đền Cố Trạch nằm phía Đông đền Thiên Trường, xưa là nhà của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nay là nơi thờ tự ông cùng gia tộc và các danh tướng thân tín. Đền có bộ cửa gỗ cung cấm khắc họa hình ảnh hào hùng của cuộc kháng chiến thần thánh. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Chùa Phổ Minh (chùa Tháp): Chùa được xây dựng lại vào năm Thiệu Long thứ năm (1262) để phục vụ nhu cầu lễ Phật của các Thái Thượng Hoàng và các thân vương quý tộc thời Trần. Sân chùa, theo sử cũ chép lại, có nhà thủy tọa, có đỉnh đồng nặng hơn 7.000 cân, được liệt vào “An Nam tứ đại khí” của Đại Việt. Trước chùa có cây tháp cổ được xây dựng cách đây khoảng 700 năm với chiều cao 19m51, gồm 14 tầng, trên đỉnh tháp đặt quách đá đựng xá lỵ của đức vua Trần Nhân Tông – đệ nhất tông phái Trúc Lâm.

Đền Bảo Lộc: Đền được xây dựng trên đất “thang mộc” của An Sinh Vương Trẫn Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và là anh trai của Trần Thái Tông – vị vua đầu tiên của vương triều Trần. Đây cũng là nơi sinh ra và lớn lên của vị anh hùng tài ba, lỗi lạc Trần Quốc Tuấn.

  • Đền Cao Đài: Đây là thái ấp xưa của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và vợ ông là công chúa Phụng Dương (con gái Thái sư Trần Thủ Độ).
  • Đền Lựu Phố: Đây là nơi thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung. Đền được xây dựng trên địa danh cổ Lựu Viên, tương truyền lúc sinh thời, Thái sư Trần Thủ Độ đã từng sống và làm việc ở đây mỗi khi về chầu, yết kiến vua Trần và Thái thượng hoàng tại cung điện Trùng Quang và Trùng Hoa.
  • Chùa Đệ Tứ: Chùa được xây dựng trên nền cũ của cung Đệ Tứ – nơi ở của các Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu và các cung tần mỹ nữ nhà Trần. Hiện nay chùa Đệ Tứ thờ Phật và danh tướng Trần Nhật Duật.

2.1.1.2. Cụm di tích Phủ Dầy

Phủ Dầy là trung tâm của tín ngưỡng thờ Mẫu, là điểm thu hút khách lớn nhất trong hệ thống các di tích của tín ngưỡng Tứ Phủ. Bởi đây là quê hương của Mẫu Liễu Hạnh (bà sinh ở Vân Cát và hóa ở Tiên Hương) và là nơi tập trung những nét tinh túy nhất của văn hóa Đạo Mẫu. Phủ Dầy là một quần thể gồm 21 di tích nằm ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, cách thành phố Nam Định 14km về phía Tây Nam. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phủ Dầy liên quan đến sự tích, truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh – một trong “tứ bất tử” của điện thần Việt Nam. Các điểm di tích được bao bọc bởi dãy núi Sót, đột khởi giữa vùng đồng bằng châu thổ dập dờn sóng lúa tạo nên nét độc đáo không nơi nào có được. Các di tích được xây dựng với quy mô bề thế mang phong cách kiến trúc cổ truyền dân tộc. Trong đó ba di tích quan trọng nhất là phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng bà chúa Liễu đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Phủ Tiên Hương và phủ Vân Cát đều nằm ở bìa làng trong một không gian thoáng đãng, thiêng liêng, huyền mặc. Phủ quay về hướng Tây Nam theo quan niệm phương Đông truyền thống (phương Nam là miền đất thánh thiện trong sáng, miền của trí tuệ, mát mẻ, miền của Thánh nhân. Quay về hướng Tây là hợp với quy luật đối đãi của âm dương, để di tích có sức linh, vì thuận hướng trời đất). Cụm di tích cũng nằm trên mảnh đất lành với cây cối linh thiêng (cây đại mang tư cách “thiên mệnh thụ” hút khí thiêng của trời truyền xuống cho đất để muôn loài sinh sôi nảy nở; cây mít hiện diện cho đại trí tuệ, đại giác ngộ, đưa tới bờ giải thoát; cây gạo như con đường tiếp cận với cõi niết bàn).

Phủ Tiên Hương : là một kiến trúc khá quy mô, được xây dựng theo kiến trúc Trung Hoa vào cuối thế kỷ XVI, cao rộng thoáng mát. Phủ Tiên Hương có 19 tòa, với 81 gian lớn nhỏ, theo kiến trúc “nội trùng thiềm, ngoại chữ quốc“. Trước cửa phủ là một hồ nước hình bán nguyệt được kè bằng đá bao quanh (mang ý nghĩa tụ thủy để tụ phúc). Bậc lên xuống hồ có tay vịn bằng đá chạm hình rồng uốn khúc. Án ngữ trước mặt đền phía ngoài hồ là ba tòa phương đình cao, mái vuông, các xà, kèo, bẩy gỗ đều chạm trổ hình rồng, phượng và hoa lá công phu. Công trình chính gồm bốn lớp cung bề thế với các cung đệ tứ, cung đệ tam, cung đệ nhị và cung đệ nhất (chính cung). Tại chính cung thờ Tam tòa Thánh Mẫu và Tổ phụ, Tổ mẫu. phía sau phủ có khu vườn nhỏ với động Sơn trang cổ kính. Trải qua nhiều lần tu sửa, phủ có quy mô to lớn như hiện nay và mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn với nhiều công trình xây dựng bằng đá nổi bật là lan can giếng cổ bán nguyệt, thềm phương du và bức bình phong phía trước cửa phủ. Trong phủ còn lưu giữ nhiều đạo sắc phong và cổ vật có giá trị liên quan đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.

Phủ Vân Cát: nằm ở phía tây bắc thôn Vân Cát, xã Kim Thái, cách phủ Tiên Hương chừng 1km. Phủ nằm giữa đền làng và chùa Long Vân, cùng chung một sân lớn, tạo thành một quần thể kiến trúc thờ Mẫu. Thần – Phật có quy mô lớn được dựng nên từ thời Lê Cảnh Trị (1663-1671). Phủ Vân Cát, vì thế còn lưu giữ nhiều mảng kiến trúc gỗ đặc trưng thời Hậu Lê. Bên cạnh đó, nhiều công trình trùng tu thời Nguyễn như thủy đình phía trước cửa phủ và những tấm bia cổ từ thời Tự Đức đến thời Bảo Đại càng làm đa dạng thêm phong cách kiến trúc cho phủ Vân Cát. Phủ Vân Cát được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Lăng Mẫu: Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh xây dựng năm 1938 ở xã Kim Thái (huyện Vụ Bản) – một công trình mang đậm dấu ấn kiến trúc bằng đá thời Nguyễn, làm kiểu hình vuông, trung tâm lăng là ngôi mộ hình bát giác, mộ ở thế đất cao, có bốn cửa và bậc thang lên xuống, từ ngoài vào trong tạo 5 lớp tường hoa có 60 búp sen bằng đá quý. Lăng Mẫu Liễu Hạnh là công trình kiến trúc hoàn toàn bằng đá. Đây là một tác phẩm điêu khắc công phu và đạt yêu cầu kỹ, mỹ thuật cao. Do vậy, năm 1975, Lăng Mẫu đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa. Nhiều thập kỷ nay, lăng Mẫu đã thu hút hàng triệu lượt khách hành hương, tham quan du lịch, góp phần không nhỏ làm tăng ý nghĩa cũng như vẻ đẹp khu quần thể di tích lịch sử – văn hóa Phủ Dầy. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

2.1.1.3. Chùa Cổ Lễ 

Chùa Cổ Lễ thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, cách thành phố Nam Định 15km về phía Đông Nam. Chùa được xây dựng từ thời Lý (khoảng thế kỷ XI), đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Kiến trúc chùa rất độc đáo bởi sự giao thoa, gặp gỡ giữa nghệ thuật kiến trúc phương Đông và phương Tây. Không giống với bất kỳ ngôi chùa nào ở miền bắc Việt Nam, chùa có kiến trúc mái vòm cuốn cao tạo không gian cao, thoáng, rộng rãi. Trước chùa có cây tháp cửu phẩm liên hoa “chín tầng hoa sen” cao 32m được xây dựng trên bè móng ghép bằng 50 cây gỗ lim. Trong chùa có quả chuông đồng nặng tới 9000kg.

2.1.1.4. Chùa Keo Hành Thiện

Chùa nằm ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, nằm đối diện với chùa Keo Thái Bình qua sông Hồng, quê hương Cố Tổng Bí thư Trường Chinh – người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa được xây dựng từ thời Lý. Kiến trúc chùa chủ yếu bằng gỗ được chạm khắc tinh xảo mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Nét độc đáo là ngôi chùa không có sư tăng trụ trì. Hàng năm lễ hội chùa Keo Hành Thiện mở trùng thời gian với lễ hội chùa Keo Thái Bình. Nhiều hoạt động văn hóa thể thao dân gian truyền thống được tổ chức như thi đấu võ vật dân tộc, thi bơi trải, thi bắt vịt, thi cọ lửa, thi thổi cơm…

2.1.1.5. Nhà lưu niệm Cố Tổng bí thư Trường Chinh

Đây là nơi sinh thành của cố Tổng bí thư Trường Chinh. Ngôi nhà nằm trong làng Hành Thiện – một ngôi làng cổ có truyền thống học vấn khoa bảng của Nam Định, có nhiều người đỗ cao trong các kỳ thi ngày xưa. Người xưa từng nói: “Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện” là để so sánh truyền thống hiếu học, khoa bảng của người làng Hành Thiện với người dân Cổ Am (Vĩnh Bảo – Hải Phòng là quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm). Tại đây còn lưu giữ nhiều hiện vật quý có liên quan đến thân thế, sự nghiệp của vị lãnh tụ – người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đặc biệt là không gian kiến trúc tiêu biểu của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ thời phong kiến với hai dãy nhà gỗ lợp ngói và dãy nhà ngang lợp bổi…

2.1.1.6. Nhà thờ Phú Nhai

Thuộc xã Xuân Phương – huyện Xuân Trường. Nhà thờ Phú Nhai được xây dựng năm 1930, có tháp chuông cao 44m. Đây là nhà thờ có quy mô lớn, kiến trúc độc đáo. Hàng năm, vào ngày lễ thánh nơi đây là điểm tập trung hàng ngàn các con chiên trong mọi miền của đất nước.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1.2. Về di sản văn hóa phi vật thể 

Nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, Nam Định có nền văn hóa dân gian phong phú. Nền văn hóa này bắt nguồn từ đời sống của nhân dân và được phát triển với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa đa dạng với các loại hình nghệ thuật như hát chèo, hát văn, rối nước, hát xẩm… với những hội làng truyền thống như vật võ, bơi chải, rước kiệu… Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Nam Định, trên 100 lễ hội truyền thống được tổ chức vào dịp đầu xuân, cuối thu. Các lễ hội truyền thống trong tỉnh thu hút nhiều người tham dự như: Hội chợ Viềng xuân, lễ hội Đền Trần, lễ hội Phủ Dầy, lễ hội chùa Keo Hành Thiện, chùa Cổ Lễ …

2.1.2.1. Hội chợ Viềng  Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Hội chợ Viềng xuân là sinh hoạt văn hóa độc đáo của tỉnh Nam Định. Đây là phiên chợ đặc biệt, mỗi năm chỉ họp một lần, từ đêm mồng 7 đến sáng mùng 8 tháng giêng âm lịch, người đi chợ không vì mục đích mua hàng mà đi chợ để cầu may năm mới là chính. Chợ họp ở hai nơi: Phủ Dầy thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản (nên gọi là chợ Viềng Phủ) và chợ Chùa ở thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực (nên gọi là chợ Viềng Chùa). Phiên chợ, người dân trong vùng và các địa phương lân cận bày bán nhiều loại sản phẩm của địa phương như các loại nông cụ, cây giống, đồ cổ, đồ cũ bằng gốm, sứ, đồng, gỗ… Người đi chợ đông như trẩy hội. Người xem, người đi lễ, người mua, người bán đều với nhu cầu tâm linh, mua bán lấy may cho một năm mới nên rất vui vẻ. Đặc biệt khi đến nơi này còn có món đặc sản thịt bê thui, mang nét rất đặc trưng của hội chợ Viềng, và đa số du khách sau khi chơi chợ đều mua ít nhiều món đặc sản này về làm quà nhân dịp tết đầu năm cho người thân và gia đình.

2.1.2.2. Lễ hội đền Trần:  

Nói tới lễ hội Đền Trần trước hết phải nói tới lễ khai ấn Đền Trần. Đây là một trong những ngày lễ quan trọng nhất của người dân Nam Định nói riêng và người dân cả nước nói chung. Lễ khai ấn thường diễn ra vào đêm 14, rạng sáng ngày 15 tháng giêng âm lịch, tại đền Trần, với ý nghĩa cầu mong thiên hạ thái bình, thịnh vượng. Người dân xin ấn với mong ước được may mắn, mạnh khỏe, bình an, làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức.

Bên cạnh lễ khai ấn được diễn ra tại quần thể di tích lịch sử đền Trần còn có lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo được tổ chức từ ngày 1-20 tháng 8 âm lịch hàng năm để tưởng nhớ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Các nghi thức tế lễ long trọng cùng với các hoạt động văn hóa thể thao dân gian truyền thống đặc sắc được tổ chức tại nhiều điểm thuộc quần thể di tích này.

2.1.2.3. Lễ hội Phủ Dầy

Người dân Nam Định có câu: “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Lễ hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm từ ngày mồng 3 đến ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch. Theo truyền thuyết dân gian, bà Chúa Liễu Hạnh được nhân dân suy tôn là Thánh Mẫu – một trong “tứ bất tử” của điện thần Việt Nam. Lễ hội Phủ Dầy là một trong những lễ hội có nhiều loại hình thể thao, văn hóa dân gian độc đáo, tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước sông Hồng được bảo tồn như thi đấu cờ đèn dưới nước, Hoa Trượng Hội, Múa Rồng, thả Rồng bay, thả đèn trời, hát cung văn… Hàng năm, lễ hội Phủ Dầy thu hút hàng trăm nghìn lượt khách trong đó có nhiều khách du lịch quốc tế.

2.1.2.6.  Nghi lễ  Chầu văn – Hát văn hầu đồng

Trong năm 2020, 2021 “Nghi lễ chầu văn của người Việt” “Lễ hội Phủ Dầy” đã được Bộ VHTT &DL đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là hình thức diễn xướng tổng hợp giữa âm nhạc, hát, thờ cúng, nhảy múa. Ban văn chuyên tấu nhạc và hát văn chầu theo làn điệu và bài bản riêng, sao cho phù hợp, ăn khớp với người lên đồng. hát văn có làn điệu riêng, độc đáo, nhưng trong đó cũng thu hút nhiều hình thức dân ca khác, như ca trù, trống quân, quan họ, cải lương… Người lên đồng để cho hồn các thần linh của tín ngưỡng Tứ phủ nhập vào thân xác mình, rồi làm các nghi lễ trước ban thờ, ăn mặc, nhảy múa, phán truyền theo tư cách và địa vị của thần linh ấy để ban phúc lộc, trừ tà, chữa bệnh … cho người dân.

2.1.3. Văn hóa ẩm thực Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Trong mỗi chuyến du lịch của du khách tới một điểm du lịch nào đó họ không thể không thưởng thức những món ăn ngon, lạ, độc đáo, mang đậm bản sắc địa phương. Với mỗi điểm đến, sức hấp dẫn khách du lịch không chỉ bởi các tài nguyên du lịch tự nhiên, nhân văn mà còn phải kể tới một nét văn hóa nữa đó chính là văn hóa ẩm thực. Đến Nam Định du khách được thưởng thức rất nhiều món ăn ngon, nổi tiếng từ bao đời nay như:

Phở bò: Phở bò Nam Định từ lâu đã là một thương hiệu nổi tiếng không chỉ trong tỉnh mà còn lan sang nhiều tỉnh khác. Trước đây, nói tới phở ngon người ta chỉ nghĩ đến phở Hà Nội, nhưng những năm gần đây phở Nam Định đang dần gây dựng được chỗ đứng vững chắc trong lòng người yêu ẩm thực bởi hương vị độc đáo của mình.

Bánh nhãn Hải Hậu: Nhiều người nhầm tưởng rằng bánh nhãn được làm từ quả nhãn nhưng kỳ thực không phải vậy. Do hình dạng tròn tròn, vàng ngon như long nhãn nên người dân địa phương mới sáng tạo đặt tên như thế. Bánh nhãn được làm từ bột gạo nếp trộn với trứng gà tươi đánh nhuyễn. Bánh nhãn ngọt vừa, không đậm sắc như kẹo, ăn lâu ngấy. Nó có vị thơm dẻo, mềm giòn của nếp, vị bùi béo của trứng gà, vị mát thanh của đường kính nên rất hợp ăn cùng khi uống trà hoặc mang theo đi dã ngoại. Tới Nam Định du lịch, đặc biệt là khi về nghỉ dưỡng tại vùng biển Hải Hậu, du khách nào cũng thưởng thức và mua về làm quà món bánh thanh ngon này.

Nem nắm Giao Thủy: Sở dĩ gọi là nem nắm bởi nem có hình một nắm tròn, màu vàng nhạt, được làm từ bì và thịt lợn trộn đều với thính gạo lẫn các phụ gia khác như tỏi, nước mắm… rồi ăn cùng với lá sung và lá đinh lăng. Nó có vị béo ngậy của thịt, vị thơm nồng của thính, vị sần sật của bì lợn, vị bùi của lá sung và hòa quyện với vị đặc trưng của nước mắm Sa Châu. Vị ngon ấy đưa đến xuất xứ của câu ca dao “Tay cầm bầu rượu nắm nem. Mải vui quên hết lời em dặn dò”

Bánh gai Bà Thi: Nam Định là mảnh đất sinh ra những chiếc bánh gai thơm ngon, dẻo ngọt và nó là thứ đặc sản tiêu biểu của đất Thành Nam này. Bánh gai Nam Định nổi tiếng nhất là Bánh gai Bà Thi. Đây là món bánh gai truyền thống giữ được hương vị nguyên bản của lá gai và gạo nếp. Cùng với nhân bánh là sự tổng hợp của nhiều nguyên liệu như đỗ xanh bỏ vỏ, thịt mỡ, lạc, sen, dừa… mỗi loại một chút nhưng những nguyên liệu đó đủ để hòa quyện vào nhau và tôn lên một mùi vị khác biệt, thơm ngậy và ngọt bùi. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Kẹo Sìu Châu: Khi được thưởng thức chiếc kẹo sìu châu thì người ta có thể cảm nhận được hương thơm vương giả như hoa lan, ăn vào sẽ nhận ra ngay hương vị thơm ngon, đặc sản của vùng quê Nam Định. Kỹ thuật làm kẹo sìu châu được xem là một tuyệt đỉnh của kỹ thuật làm kẹo lạc. Để nấu được kẹo, người thợ cần phải có đôi tay tinh tế, phải giữ được nhiệt độ ổn định của bếp và khó nhất là sự cân đong đo đếm của những nguyên liệu làm nên chiếc kẹo sìu châu.

Ngoài ra còn nhiều món ăn đặc sắc khác như: chuối ngự Đại Hoàng, mắm cáy Hành Nha, giò lụa Nam Định, bánh cuốn làng Kênh, bánh síu páo… Tất cả tạo cho ẩm thực Nam Định có nhiều nét riêng độc đáo, hấp dẫn nhiều khách du lịch khi đến với Nam Định.

2.2. Thị trường – khách du lịch và vấn đề bảo tồn các di sản văn hóa Nam Định

Cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội, trong những năm gần đây du lịch Nam Định đã có những bước phát triển quan trọng về thị trường khách du lịch.

2.2.1. Số lượng khách du lịch

Trong những năm gần đây, số lượng khách du lịch đến Nam Định có mức tăng trưởng nhanh và đều, trong giai đoạn 2019-2023, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 5,0%, trong đó khách có lưu trú tăng trưởng 6,5%/năm.

Bảng 2.1. Hiện trạng khách du lịch đến Nam Định 2019-2023

Đơn vị: Lượt khách

Năm Tổng lượng khách đến Khách do các cơ sở kinh doanh du lịch phục vụ
Tổng số Không lưu trú Có lưu trú
Tổng số Quốc tế Nội địa
2019 1.700.000 812.551 435.441 377.110 5.123 371.987
2020 1.840.000 956.800 507.104 449.696 5.635 444.061
2021 1.925.000 1.097.250 636.405 460.845 6.150 454.695
2022 2.060.000 1.150.000 655.000 495.000 8.650 486.350
2023 2.175.000 1.195.000 675.000 520.000 9.200 510.800
Tăng TB 2019- 2023 5,0% 8,0% 9,2% 6,6% 12,4% 6,5%

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

Qua bảng số liệu trên ta thấy lượng khách du lịch vẫn tăng đều hàng năm và khá ổn định. Năm 2019, lượng khách du lịch đến Nam Định là 1.700.000 lượt, năm 2020 tăng lên 1.840.000 lượt, năm 2021 tăng lên 1.925.000 lượt, năm 2022 tăng 2.060.000 lượt và năm 2023 là 2.175.000 lượt (tăng gấp 1,3 lần so với năm 2019). Tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,1%. Số lượng khách có lưu trú tăng từ 377.110 lượt khách năm 2019 đến 520.000 lượt khách năm 2023. Tốc độ tăng trưởng trung bình là 6,7%/năm. Như vậy, tốc độ tăng trưởng giai đoạn này thấp hơn giai đoạn 2014-2020 (tốc độ tăng trưởng giai đoạn này là 9,9%), song nhìn chung lượng khách du lịch đến Nam Định vẫn tăng khá ổn định. Điều này được thể hiện rõ hơn qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.1. Hiện trạng khách du lịch đến Nam Định 2019-2023 

2.2.2. Thị trường khách du lịch Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Khách du lịch đến Nam Định chủ yếu là khách du lịch nội địa với mức tăng 5,0% trong vòng 5 năm, chiếm tới 98 % tổng lượng khách tới tỉnh.

Bảng 2.2. Hiện trạng khách du lịch đến Nam Định giai đoạn 2019-2023

Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Năm 2023
Tổng lượng khách DL lượt người 1.700.000 1.840.000 1.925.000 2.060.000 2.175.000
Trong đó:  
+ Khách quốc tế Lượt người 5.123 5.635 6.150 8.650 9.200
+ Khách nội địa Lượt người 371.987 444.061 454.695 486.350 510.800

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

  • Khách du lịch nội địa:

Đây là thị trường khách chính của du lịch Nam Định, số lượng khách nội địa luôn chiếm khoảng trên 98% tổng lượng khách lưu trú tại Nam Định. Năm 2019, số lượng khách nội địa có lưu trú tại Nam Định là 371.987 lượt (chiếm tỷ trọng 98,6% tổng số khách có lưu trú trên địa bàn), năm 2020 là 444.061 lượt (chiếm 98,7%), năm 2021 có 454.695 lượt (chiếm 98,7%), năm 2022 có 486.350 lượt khách (chiếm 98,3 %) và đến năm 2023 số lượt khách nội địa là 510.800 lượt khách (chiếm tỷ trọng 98,2%).

Tốc độ tăng trưởng khách nội địa trong giai đoạn 2019-2023 là 6,5%/năm.

Qua khảo sát thực địa của tác giả, khách nội địa của Nam Định phần lớn đến từ thủ đô Hà Nội và các tỉnh khu vực phía Bắc, một số ít đến từ các tỉnh phía Nam. Bên cạnh các thị trường này, một phần lớn người dân địa phương ở tỉnh Nam Định cũng tham gia vào dòng khách du lịch nội địa. Khách nội địa đến đây phần lớn vào dịp lễ khai ấn đền Trần, hội chợ Viềng, lễ hội đền Trần, lễ hội Phủ Dầy, lễ hội chùa Cổ Lễ, lễ hội chùa Keo Hành Thiện… Ngày lưu trú của khách nội địa đến với Nam Định khoảng 1,5 – 1,6 ngày. Ngoài các điểm du lịch trên còn các điểm khác cũng thu hút khách nội địa đến ngày một nhiều hơn. Sở dĩ Nam Định ngày càng được du khách tới tham quan, nghỉ dưỡng đông hơn bởi nhiều yếu tố. Thứ nhất do nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng trong cả nước đặc biệt là từ các thành phố lớn như Hà Nội ngày càng cao. Thứ hai, ngành du lịch Nam Định cũng đã chú trọng phát triển các loại hình du lịch đặc biệt là du lịch văn hóa – lễ hội phù hợp với nhu cầu của khách du lịch trong nước. Qua đây ta thấy thị trường khách du lịch nội địa sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của du lịch Nam Định. Khách du lịch nội địa đến Nam Định thường đi theo nhóm do các công ty du lịch, lữ hành tổ chức hoặc do các tổ chức công đoàn của các cơ quan, xí nghiệp tổ chức hoặc tự tổ chức. Nam Định nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nên có nhiều lợi thế về mặt địa lý so với nhiều tỉnh trong vùng nên có tiềm năng phát triển du lịch tốt. Tuy nhiên, trong thực tế lượng khách du lịch nội địa đến và ở lại Nam Định còn hạn chế so với các địa phương trong vùng. Ngày lưu trú bình quân và mức chi tiêu trung bình trong một ngày của một khách thấp. Khách nội địa đến Nam Định phần lớn là khách đi về trong ngày. Có thể thấy rằng, Nam Định có nhiều di sản văn hóa để phát triển du lịch nhưng nếu không biết tận dụng lợi thế sẵn có và phát huy nó thì sẽ có nguy cơ tụt hậu về thu hút khách du lịch nói chung và khách du lịch nội địa nói riêng. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Bảng 2.3. Khách du lịch nội địa đến Nam Định giai đoạn 2019 – 2023

Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021  Năm 2022 Năm 2023
Khách nội địa Lượt người 371.987 444.061 454.695 486.350 510.800
Thời gian lưu trú bình quân của khách nội địa ngày 1,6 1,5 1,5 1,5 1,5
Ngày khách nội địa Ngày khách 595.179 666.092 682.043 729.525 766.200
Mức chi tiêu bình quân/ngày/khách nội địa Triệu đồng 0,3 0,35 0,38 0,4 0,4

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

  • Khách du lịch quốc tế:

Cũng như một số tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ, lượng khách du lịch quốc tế đến Nam Định thấp, chỉ chiếm trung bình khoảng 1,3-1,7% tổng lượng khách. Năm 2019, có 5.123 lượt khách, chiếm tỷ trọng 1,4% tổng số khách có lưu trú; đến năm 2020 có 5.635 lượt khách, chiếm tỷ trọng 1,3%; năm 2021 có 6.150 lượt khách, chiếm tỷ trọng 1,3%; năm 2022 có 8.650 lượt khách, chiếm tỷ trọng 1,7%. (Bảng 2.2.).

Tốc độ tăng trưởng khách quốc tế trong giai đoạn 2019-2023 là 12,4%/năm.

Khách du lịch quốc tế đến Nam Định là khách đi công vụ kết hợp tham quan nghiên cứu tìm hiểu khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần – chùa Tháp và vườn quốc gia Xuân Thủy, một số ít khách quốc tế đi lễ hội đền Trần, lễ hội Phủ Dầy, và các làng nghề. Tỷ lệ khách quốc tế trong tổng số khách du lịch đến Nam Định tăng khá ổn định. Ngày lưu trú trung bình của khách du lịch quốc tế đến Nam Định còn hạn chế (năm 2019 là 1,8 ngày, năm 2023 là 2 ngày) (Bảng 2.4.). Khách du lịch quốc tế cũng là khách có khả năng chi trả cao cho các sản phẩm du lịch nhưng mức chi tiêu bình quân một khách trong một ngày tại Nam Định cũng rất thấp (năm 2019 là 750.000 đồng, năm 2023 là 1 triệu đồng) (Bảng 2.4.). Điều này được giải thích do Nam Định còn thiếu sản phẩm du lịch hấp dẫn trong đó có cả sản phẩm du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng để có thể giữ chân được khách du lịch quốc tế ở lại Nam Định lâu hơn. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Bảng 2.4. Khách du lịch quốc tế đến Nam Định giai đoạn 2019 – 2023

Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Năm 2023
Khách quốc tế Lượt người 5.123 5.635 6.150 8.650 9.200
Thời gian lưu trú bình quân  của khách quốc tế ngày 1,8 2 2 2 2
Ngày khách quốc tế Ngày khách 9.221 11.270 12.300 17.300 18.400
Mức chi tiêu bình quân/ngày/khách quốc tế Triệu đồng 0,75 0,85 0,9 1 1

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

Mặc dù lượng khách du lịch tới Nam Định vẫn tăng cao nhưng chất lượng nguồn khách du lịch ngắn, chi tiêu cho mua sắm của cả khách quốc tế và khách nội địa thấp là do những nguyên nhân cơ bản sau:

Khách du lịch quốc tế đến Nam Định đều đi theo chương trình du lịch trọn gói của các công ty lữ hành ở các tỉnh lớn như Hà Nội, Hải Phòng… tổ chức. Thời gian gần đây, các công ty lữ hành này cắt ngắn dần thời gian lưu trú tại Nam Định để giảm chi phí để có giá tour trọn gói hấp dẫn. Khách du lịch nội địa có số lượng lớn nhưng lượng khách có thời gian lưu lại Nam Định tương đối ngắn lại chiếm tỷ trọng lớn nguồn khách nên làm giảm thời gian lưu trú bình quân của du khách.

Các sản phẩm du lịch và dịch vụ của Nam Định còn đơn điệu, chủ yếu khai thác những cái sẵn có, chưa đầu tư đồng bộ nên chưa tạo ra được các sản phẩm thực sự hấp dẫn du khách.

Chưa nghiên cứu, kết nối được các điểm du lịch hấp dẫn thành những chương trình du lịch dài ngày, hợp lý có sức hút đối với các công ty lữ hành và bản thân khách du lịch.

Chưa phát huy được những ưu thế của các di sản văn hóa vốn có của Nam Định để phục vụ cho du lịch nhằm thu hút khách ở lại.

2.2.3. Cơ cấu khách Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định và theo khảo sát điều tra của tác giả, khách đến du lịch nơi đây chủ yếu vì ba mục đích: công vụ, thăm thân, nghỉ biển và khách đến lễ hội tâm linh.

Bảng 2.5. Cơ cấu khách phân theo mục đích du lịch của Nam Định 2019 – 2023

Năm: Khách du lịch

Đơn vị tính 2019 2020 2021 2022 2023
Tổng số khách du lịch đến các điểm DL của tỉnh Nam Định  Lượt khách 1.700.000 1.840.000 1.925.000 2.060.000 2.175.000
Khách đi công vụ hoặc các mục đích khác kết hợp DL Lượt khách 211.400 226.300 233.100 250.000 260.000
Tỷ lệ % so với tổng số khách % 12,5 12,3 12,1 12,1 12
Khách du lịch biển Lượt khách 365.710 482.100 511.400 540.000 575.000
Tỷ lệ % so với tổng số khách 21,5 21,5 26,2 26,6 26,2 26,4
Khách du lịch lễ hội Lượt khách 1.122.890 1.131.600 1.180.500 1.270.000 1.340.000
Tỷ lệ % so với tổng số khách % 66 61,5 61,3 61,7 61,6

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

  • Qua bảng số liệu trên ta thấy:

Lượng khách công vụ hoặc các mục đích khác kết hợp du lịch đến Nam Định tương đối ổn định và có sự tăng trưởng nhẹ qua các năm từ 211.400 lượt khách năm 2019 tăng lên 226.300 lượt khách vào năm 2020, năm 2021 tăng lên 233.100 lượt khách, năm 2022 tăng lên 250.000 lượt khách và đạt 260.000 lượt khách vào năm 2023. (Bảng 2.5.) Đối tượng khách này tuy ít, chiếm tỷ trọng khoảng 12% tổng lượng khách đến Nam Định nhưng ổn định và là lượng khách chính của các cơ sở lưu trú, ăn uống.

Lượng khách du lịch biển cũng tăng đều qua các năm. Số lượng khách này tăng so với 5 năm trước bởi hai lý do:1) Việc quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, khu vui chơi giải trí tại các khu du lịch biển được nâng cấp do đó thu hút được nhiều khách hơn; 2) Do cùng với xu thế chung toàn thế giới đang khủng hoảng kinh tế dẫn đến xu hướng đi du lịch ở những nơi gần, thuận tiện đi lại và chi phí thấp luôn được khách du lịch lựa chọn.

Nếu như hai dòng khách trên có tăng nhưng tăng nhẹ thì dòng khách lễ hội tại Nam Định lại chiếm tỷ lệ lớn tới gần 70% tổng số khách và luôn duy trì mức tăng trưởng đều đặn qua các năm. Năm 2019, tổng số lượt khách du lịch lễ hội tại Nam Định là 1.122.890 lượt khách thì chỉ một năm sau năm 2020 con số này lên là 1.131.600 lượt khách, năm 2021 tăng lên 1.180.500 lượt, năm 2022 tăng lên 1.270.000 lượt và năm 2023 con số này lên đến 1.340.000 lượt khách (tăng gấp 1,2 lần so với năm 2019) (Bảng 2.5.). Điều này chứng tỏ sức hấp dẫn của các điểm du lịch văn hóa tâm linh tín ngưỡng tỉnh Nam Định tương đối lớn, ta thấy rõ hơn điều này qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.2.  Cơ cấu khách phân theo mục đích du lịch của Nam Định 2019 – 2023

2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Nam Định Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Để phục vụ tốt nhu cầu của du khách tham gia du lịch cần sự đồng bộ của nhiều yếu tố trong đó có cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn uống, thể thao, vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển và các tiện nghi phục vụ khác…

Bảng 2.6. Thống kê các cơ sở kinh doanh du lịch Nam Định

(Tính đến tháng 12/2023)

Chỉ tiêu Đơn vị tính Khu vực TP KDL Quất Lâm KDL Thịnh Long Khu vực khác Tổng số
Tổng số cơ sở kinh doanh du lịch Cơ sở         555
– Cơ sở lưu trú Cơ sở 92 57 96 74 319
   + Số buồng phòng phòng 1325 1003 1010 865 4203
– Cơ sở kinh doanh lữ hành Cơ sở 18 0 0 0 18

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

2.3.1. Hệ thống cơ sở lưu trú

Trong những năm gần đây, hệ thống các cơ sở lưu trú, dịch vụ tỉnh Nam Định phát triển với tốc độ khá nhanh, từng bước đã được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch ở mức độ nhất định.

  • Về số lượng:

Năm 2019, cả Nam Định có 298 cơ sở lưu trú với 3.839 buồng; năm 2020 có 306 cơ sở lưu trú với 3.989 buồng; năm 2021 có 310 cơ sở lưu trú với 4288 buồng; năm 2022 có 315 cơ sở lưu trú với 4274 buồng; đến năm 2023 con số này tăng lên 319 cơ sở lưu trú với 4203 buồng (Bảng 2.7.) Tốc độ tăng trưởng trung bình về cơ sở lưu trú du lịch là 1,4%/năm, về số buồng là 1,8%/năm. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Bảng 2.7. Hiện trạng về cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Nam Định

Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Năm 2023
     Số cơ sở lưu trú cơ sở 298 306 310 315 319
    Số buồng phòng phòng 3.839 3.989 4.288 4.274 4.203

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

Sự phân bố các cơ sở lưu trú ở Nam Định cũng không đều, tập trung chủ yếu ở khu vực thành phố Nam Định (92 cơ sở với 1325 buồng); khu du lịch biển Quất Lâm (57 cơ sở với 1003 buồng); khu du lịch biển Thịnh Long (96 cơ sở với 1010 buồng) và các khu vực khác (74 cơ sở với 865 buồng). (Bảng 2.6.)

Biểu đồ 2.3. Số lượng cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Nam Định

  • Về chất lượng:

Tuy số các cơ sở lưu trú tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng không được cải thiện nhiều. Theo số liệu thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định, toàn tỉnh có 2 khách sạn 3 sao tập trung ở thành phố với 156 phòng, 239 giường; 18 cơ sở đạt tiêu chuẩn 2 sao và tương đương với 676 phòng, 1264 giường, trong đó có 7 khách sạn ở thành phố, 5 khách sạn ở Quất Lâm, 3 khách sạn ở Thịnh Long và 3 khách sạn ở các khu vực khác; Các cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn 1 sao và tương đương có 39 cơ sở với 945 phòng, 1600 giường, trong đó có 14 khách sạn ở thành phố, 16 khách sạn ở Quất Lâm, 6 khách sạn ở Thịnh Long và 3 khách sạn nằm ở các khu vực khác. Các cơ sở còn lại đạt tiêu chuẩn có 75 cơ sở với 1077 phòng, 1422 giường, trong đó 30 khách sạn ở thành phố, 18 khách sạn ở Quất Lâm, 12 khách sạn ở Thịnh Long và 15 khách sạn nằm ở các khu vực khác trong tỉnh (Bảng 2.8.). Các khách sạn này quy mô nhỏ, lượng phòng ít, trang bị không đồng bộ. Sự phát triển kinh doanh tự phát (gia đình tận dụng nhà mình làm nhà nghỉ đón khách), không có quy hoạch đã dẫn đến tình trạng hàng loạt các nhà nghỉ, nhà trọ tư nhân ra đời. Tuy có giải quyết tạm thời nhu cầu ăn nghỉ của khách du lịch nhưng về lâu dài những cơ sở này sẽ có những tồn tại khó khắc phục ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch, mà một phần lý do là vì chúng ta không kiểm soát được việc kinh doanh của các cơ sở này. Mặt khác do đặc điểm thị trường khách du lịch đến Nam Định và tính mùa vụ của hoạt động du lịch nên thời gian lưu trú của khách thấp, công suất sử dụng buồng phòng bình quân dưới 50%. Mặc dù các cơ sở lưu trú thì nhiều, song khi có các sự kiện lớn thì thường thiếu buồng khách sạn có chất lượng đạt tiêu chuẩn phục vụ nhu cầu của khách song lại thừa buồng phòng của các cơ sở kinh doanh lưu trú bình dân với các tiện nghi tối thiểu cho khách du lịch. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khách du lịch không lưu trú dài ngày tại Nam Định.

Bảng 2.8. Hiện trạng chất lượng cơ sở lưu trú ở Nam Định năm 2023 Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

TT Các chỉ tiêu chất lượng Số cơ sở Số phòng
1 3 sao 2 156
2 2 sao và tương đương 18 676
3 1 sao và tương đương 39 945
4 Đạt tiêu chuẩn 75 1077
5 Tổng số 134 2854

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

2.3.2. Hệ thống cơ sở kinh doanh ăn uống

Trong mỗi chuyến du lịch ngoài việc tham quan, giải trí, các du khách còn có nhu cầu được thưởng thức những món ăn ngon, lạ, độc đáo, được phục vụ bởi các cơ sở kinh doanh đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, cung cách phục vụ cởi mở, thân thiện. Khách du lịch tới Nam Định tăng qua các năm, điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu về ăn uống cũng gia tăng. Đứng trước thực trạng đó, hệ thống các nhà hàng ở Nam Định phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nam Định trong nhiều năm qua vẫn nổi tiếng là một tỉnh có nhiều món ăn ngon lại rẻ – đây là điều kiện thuận lợi để khách du lịch có thể an tâm khi tới Nam Định thưởng thức các món ăn ngon. Đa số trong các cơ sở lưu trú lớn đều được đầu tư xây dựng các nhà hàng để phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch, còn lại là các nhà hàng nằm độc lập bên ngoài (ở các điểm tham quan du lịch, trong khu vui chơi giải trí hoặc gần đường quốc lộ…).

Trong đó có 19 nhà hàng lớn có sức hấp dẫn với du khách như Câu lạc bộ Vị Hoàng, nhà hàng Cánh Diều Vàng, nhà hàng Phố Hội, nhà hàng Cửa đông Plaza, làng văn hóa ẩm thực Hoàng Gia, nhà hàng Thành Nam quán, nhà hàng Hương Sen …. Mạng lưới phục vụ ăn uống tư nhân ở Nam Định phát triển với tốc độ khá nhanh trong vài năm gần đây, nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở thành phố Nam Định và các khu du lịch biển. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Các nhà hàng thường bài trí đơn giản, các món ăn giá cả bình dân, chất lượng các món ăn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân. Tuy nhiên vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đồ uống chất lượng phục vụ của nhân viên, giá cả vẫn là vấn đề mà các nhà hàng cần phải luôn chú trọng nhiều hơn nữa. Các cơ sở kinh doanh ăn uống của tỉnh do mặt bằng hẹp, thiếu không gian cây xanh, chỗ đỗ xe nên ít đón được đoàn khách lớn, ví dụ như nhà hàng Cửa đông Plaza. Nếu ngành du lịch Nam định giải quyết tốt các vấn đề này thì chắc chắn sẽ hấp dẫn khách du lịch hơn.

2.3.3. Cơ sở vui chơi giải trí

Các cơ sở vui chơi giải trí, dịch vụ phục vụ khách du lịch ở Nam Định nhìn chung còn rất hạn chế. Ở các khách sạn đạt tiêu chuẩn, những dịch vụ bổ sung thường chỉ gồm: massage, tennis, bể bơi, phòng karaoke. Trên địa bàn tỉnh có 8 sân tennis, dịch vụ giải trí chủ yếu là karaoke tập trung gần hồ Vị Xuyên nên không hấp dẫn khách du lịch. Không chỉ tại các khu du lịch, các điểm du lịch, trung tâm các huyện trong tỉnh mà ngay tại trung tâm thành phố Nam Định cũng chưa có một cơ sở vui chơi giải trí quy mô nào đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trong tỉnh và nhu cầu của du khách.

Sự hạn chế này, một mặt đã không kích thích được khả năng chi tiêu của khách, mặt khác hạn chế thời gian lưu trú của họ. Đây là nguyên nhân khiến khách du lịch chỉ đi về trong ngày và mức chi tiêu thấp.

2.3.4. Hệ thống cơ sở kinh doanh lữ hành

Hiện tại hoạt động kinh doanh lữ hành tỉnh Nam Định tương đối tốt. Tính đến năm 2023 đã có 18 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, chưa có cơ sở kinh doanh lữ hành quốc tế, trong đó có nhiều doanh nghiệp tư nhân, liên doanh. Các doanh nghiệp lữ hành sau nhiều năm hoạt động đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm kinh doanh phục vụ nên được khách du lịch trong tỉnh tín nhiệm, lượng khách đông, doanh thu từ hoạt động lữ hành tăng. Một số đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh lữ hành khá tốt như: Công ty cổ phần Tasco, Công ty lữ hành khách sạn Công Đoàn, Trung tâm lữ hành Công ty cổ phần du lịch Nam Định, Công ty lữ hành Lửa Việt…

Tuy nhiên, những doanh nghiệp này phần lớn là vừa và nhỏ, vốn kinh doanh ít, khả năng tổ chức hoạt động kinh doanh (đặc biệt trong lĩnh vực xúc tiến quảng bá du lịch) còn hạn chế. Phạm vi kinh doanh chủ yếu là đưa khách trong tỉnh đi tham qua du lịch tỉnh ngoài, chưa liên kết tổ chức được nhiều tour đưa khách từ ngoài vào Nam Định, chưa tạo được nguồn khách thường xuyên cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch của tỉnh.

2.3.5. Phương tiện vận chuyển khách du lịch Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Hệ thống phương tiện vận chuyển khách du lịch tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Năm 2014, toàn tỉnh có 5 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch và một số cá thể với tổng số 200 xe, đến nay đã có 20 doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch với trên 800 xe. Hiện nay, Nam Định cũng đã có 7 hãng taxi uy tín và 5 tuyến xe buýt chạy từ thành phố Nam Định xuống các huyện. Các tuyến xe buýt này đều đi qua các điểm du lịch (khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần – chùa Tháp, chùa Cổ Lễ, nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh, khu di tích lịch sử văn hóa Phủ Dầy, các làng nghề ở huyện Ý Yên, làng hoa cây cảnh Vị Khê…) nên rất thuận tiện cho du khách tham quan có thể đi về trong ngày với điểm xuất phát từ thành phố Nam Định.

Nhìn chung các phương tiện vận chuyển khách du lịch của Nam Định đều đảm bảo chất lượng, tiện lợi và an toàn, góp phần hoàn thiện thêm hệ thống dịch vụ ở Nam Định.

2.3.6. Các trung tâm văn hóa, thể thao phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí

Cũng như nhiều địa phương trên cả nước, hoạt động du lịch tại Nam Định mới chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, khách sạn, việc phát triển các tiện nghi thể thao, vui chơi giải trí cũng như các hoạt động tiêu khiển khác ở Nam Định còn rất hạn chế, hầu như chỉ có massage, karaoke, bơi lội, đánh tennis, chưa có hệ thống các công trình thể thao đạt chuẩn để tổ chức các sự kiện lớn, phục vụ khách du lịch cao cấp. Tỉnh hiện có 50 thiết chế văn hóa (gồm 8 nhà bảo tàng, trong đó bảo tàng Nam Định được xếp hạng II, 15 nhà truyền thống, 20 phòng truyền thống, 8 phòng lưu niệm), 2 trung tâm văn hóa, 4 rạp chiếu phim, 1 nhà hát chèo, 1 nhà hát cải lương, 1 đoàn kịch, 2 nhà thi đấu, 4 bể bơi lớn, 6 sân tennis, 2 siêu thị lớn, 5 công viên… góp phần đáp ứng nhu cầu của khách du lịch ở một mức độ nhất định. Các cơ sở vui chơi giải trí ngoài khách sạn như các câu lạc bộ đêm, các điểm tham quan và các hoạt động tiêu khiển khác còn thiếu. Đây chính là nguyên nhân chính không giữ được khách lưu trú dài ngày và mức chi tiêu của khách không cao. Để tạo điều kiện tăng doanh thu của ngành du lịch thì một trong những định hướng quan trọng là phải đầu tư xây dựng các khu vui chơi, giải trí tổng hợp, hiện đại cỡ quốc tế, có khả năng cạnh tranh với các trung tâm du lịch lớn của các nước trong khu vực.

Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của Nam Định vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu của khách du lịch. Cơ sở lưu trú, dịch vụ ăn uống còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng; tỉnh chưa có khách sạn có buồng, phòng chất lượng cao; các công ty lữ hành hoạt động trong phạm vi ngắn, chưa có tầm với tới thị trường  khách miền Trung, miền Nam hay nước ngoài; phương tiện vận tải chưa thực sự đa dạng; cơ sở vui chơi giải trí, mua sắm quá ít, quy mô nhỏ hẹp và không có sức hấp dẫn lớn.

Tóm lại, trong thời gian tới, ngành du lịch Nam Định muốn phát triển tốt hơn phải quan tâm, đầu tư hơn nữa việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Đây là nhiệm vụ cấp bách mà các ban ngành liên quan phải chú trọng.

2.4. Hình thức, sản phẩm du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Nam Định Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

2.4.1. Các tuyến, điểm du lịch

Ở Nam Định hiện nay có một số khu, điểm du lịch văn hóa chính sau:

Khu du lịch văn hóa lễ hội Phủ Dầy (xã Kim Thái – huyện Vụ Bản): Hiện nay khu di tích này đang được khai thác ở dạng tự nhiên, đón khách đến với mục đích tâm linh, lễ Mẫu là chính. Ở đây chưa có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ du lịch nên mặc dù hấp dẫn cả về cảnh quan nhưng chất lượng sản phẩm du lịch thấp, chưa đồng bộ, chưa thu hút được khách du lịch thuần túy. Cũng vì lý do này mà không lưu giữ được khách du lịch ở lại dài ngày.

Khu du lịch thành phố Nam Định: chủ yếu phục vụ các loại hình du lịch MICE kết hợp với tham quan các di tích lịch sử, các làng nghề truyền thống. Cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ khá đầy đủ.

Cụm điểm du lịch văn hóa Nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh, làng cổ Hành Thiện, chùa Keo Hành Thiện (xã Xuân Hồng – Huyện Xuân Trường). Điểm du lịch làng nghề trồng hoa cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá – huyện Nam Trực).

Nam Định có gần 2008 di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng. Trong đó có 84 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và 174 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Đây là tiềm năng phong phú để xây dựng các tour, tuyến, điểm du lịch hấp dẫn. Hệ thống tuyến du lịch của Nam Định bao gồm tuyến du lịch nội tỉnh và tuyến du lịch liên tỉnh.

  • Tuyến du lịch nội tỉnh:

Hiện nay, Nam Định đã và đang khai thác các tour du lịch văn hóa kết hợp với nghỉ dưỡng, tắm biển, du lịch sinh thái. Trong đó có thể đến một số tour du lịch chính đang được nhiều công ty lữ hành ở Nam Định khai thác như:

  • Tuyến du lịch Nam Định – Cổ Lễ – Ngô Đồng:

Các điểm tham quan chính:

  • Đền Trần – Chùa Tháp – Đền Bảo Lộc
  • Bảo tàng Cổ vật, cột cờ Nam Định
  • Làng hoa cây cảnh Vị Khê
  • Chùa Cổ Lễ
  • Làng Hành Thiện, nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh và nhà thờ Phú Nhai.
  • Vườn quốc gia Xuân Thủy Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Thời gian tham quan từ 2-3 ngày. Hành trình theo tuyến đường bộ. Khách lưu trú tại thành phố Nam Định hoặc thị trấn Quất Lâm.

  • Tuyến du lịch Nam Định – Cổ Lễ – Yên Định – Thịnh Long:

Các điểm tham quan chính:

  • Đền Trần – Chùa Tháp – Đền Cố Trạch
  • Bảo tàng cổ vật – Cột cờ Nam Định
  • Chùa Cổ Lễ
  • Nhà thờ Phú Nhai
  • Cầu Ngói – Chợ Lương
  • Khu nghỉ mát Thịnh Long

Thời gian tham quan từ 2 -3 ngày. Khách lưu trú tại thành phố Nam Định, thị trấn Thịnh Long.

  • Tuyến Nam Định – Gôi – Cát Đằng:

Các điểm tham quan chính:

  • Đền Trần – Chùa Tháp – Đền Bảo Lộc
  • Bảo tàng Cổ vật, cột cờ Nam Định
  • Khu di tích lịch sử văn hóa Phủ Dầy
  • Làng nghề La Xuyên
  • Đình Thượng Đồng

Thời gian lưu trú từ 1-3 ngày. Du khách lưu trú tại thành phố Nam Định.

  • Tuyến du lịch liên tỉnh:

Nam Định nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển kết hợp với nhiều điểm du lịch khác để tạo thành chương trình du lịch văn hóa hấp dẫn, thu hút khách du lịch.

  • Tuyến du lịch Nam Định – Ninh Bình
  • Tuyến du lịch Nam Định – Hà Nội – Quảng Ninh.
  • Tuyến du lịch Nam Định – Hà Nội – Hải Phòng
  • Tuyến du lịch Nam Định – Thái Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh

Nhìn chung, Nam Định có nhiều tuyến du lịch để đáp ứng nhu cầu tham quan du lịch của khách du lịch. Du khách khi đến Nam Định tùy theo nhu cầu của mình mà có những sự lựa chọn tuyến đi sao cho phù hợp, vừa giảm được chi phí, vừa tiết kiệm được thời gian, vừa thỏa mãn sở nguyện của mình một cách tốt nhất. Với nhiều tuyến điểm như thế, Nam Định có thể đáp ứng được phần lớn nhu cầu của du khách một cách tốt nhất. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

2.4.2. Các sản phẩm du lịch

2.4.2.1. Du lịch tham quan các di tích tôn giáo, tín ngưỡng

Với gần 2008 di tích lịch sử văn hóa với đủ loại hình phong phú, đa dạng: 352 di tích thờ Mẫu, 166 di tích thờ Đức Thánh Trần. Bên cạnh đó còn có rất nhiều công tình kiến trúc tôn giáo đặc sắc như chùa, đền, nhà thờ… Các di tích tín ngưỡng, tôn giáo này đều hàm chứa nhiều giá trị lịch sử, thẩm mỹ, kiến trúc, nghệ thuật … tiêu biểu như chùa Cổ Lễ (Thị trấn Trực Ninh), khu di tích Phủ Dầy (Kim Thái – Vụ Bản), khu di tích lịch sử đền Trần – chùa Tháp (phường Lộc Vượng – TP Nam Định), chùa Keo Hành Thiện (Xuân Trường)… Ngoài ra Nam Định còn là nơi tiếp nhận đạo Thiên chúa sớm nhất cả nước nên Nam Định cũng có nhiều nhà thờ Thiên chúa. Các nhà thờ Nam Định có 2 loại: loại mang phong cách kiến trúc phương Tây và loại mang phong cách kiến trúc Á Đông (hay còn gọi là nhà thờ Nam). Trong đó nổi bật có các nhà thờ như: Nhà thờ Phú Nhai (Xuân Phương – Xuân Trường), nhà thờ Bùi Chu (Xuân Ngọc – Xuân Trường), đền thánh Kiên Lao (Xuân Tiến, Xuân Trường), nhà thờ đổ (Hải Lý, Hải Hậu)…Đây đều là những điểm du lịch tín ngưỡng, tôn giáo hấp dẫn và có giá trị thẩm mỹ cao. Ưu điểm của sản phẩm du lịch này là không phụ thuộc vào thời vụ mà có thể được tiến hành quanh năm theo nhu cầu của khách du lịch.

Tuy nhiên, ngoại trừ hai điểm du lịch chính là quần thể di tích lịch sử đền Trần và cụm di tích Phủ Dầy thì hầu hết các di tích còn lại ở Nam Định đều không được chú trọng về công tác bảo tồn, không có hướng dẫn viên tại điểm, cơ sở vật chất thiếu thốn và dịch vụ du lịch còn lạc hậu, đơn sơ. Điều này phần nào hạn chế lượng khách tham quan, đặc biệt là khách có lưu trú.

Để tạo được sản phẩm du lịch tốt, thu hút được khách thì các doanh nghiệp lữ hành có thể khai thác các giá trị văn hóa trong mỗi tài nguyên du lịch văn hóa để xây dựng chương trình du lịch văn hóa đặc sắc bán cho khách kết hợp với du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng tắm biển. Hiện nay, các doanh nghiệp lữ hành ở Nam Định và các doanh nghiệp lữ hành ngoài tỉnh mới chỉ dừng lại ở việc đưa khách đến tham quan các di tích mà chưa chú trọng đến việc xây dựng các chương trình quảng cáo hoặc các bài thuyết minh hấp dẫn để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của du khách về lịch sử các di tích cũng như giá trị kiến trúc và văn hóa truyền thống của người dân địa phương. Từ đó hình thành ý thức, thái độ, hành vi ứng xử nghiêm túc trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa trong chuyến du lịch của họ.

Đến với các điểm tham quan này, du khách không chỉ tìm hiểu các giá trị về mặt kiến trúc mà họ còn có thêm nhiều kiến thức về các giá trị văn hóa nơi đó. Điển hình như khi tham quan khu di tích lịch sử đền Trần, khách du lịch có thêm những kiến thức sâu sắc về các giá trị văn hóa Trần.

Nam Định là nơi gia tộc nhà Trần chọn làm nơi cư trú, khởi nghiệp nên mọi nơi trên đất Nam Định đều mang bóng dáng văn hóa của triều đại này. Ngoài quần thể di tích văn hóa nhà Trần tập trung tại khu vực thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc, còn có hàng trăm di tích gồm đền, phủ, chùa, miếu, lăng với các kiểu dáng kiến trúc đa dạng thờ Đức Thánh Trần và các vua quan, hoàng thân quốc thích nhà Trần. Hệ thống các di tích này là những điểm du lịch hấp dẫn với du khách ưa thích tìm hiểu văn hóa địa phương, đặc biệt và văn hóa Trần triều. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Trong các sản phẩm du lịch gắn với văn hóa Trần, nổi tiếng và có sức thu hút lớn là lễ khai ấn đền Trần vào đêm 14 tháng giêng âm lịch. Đây là một lễ hội lớn nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, tưởng nhớ công đức của các vị tiền bối đã làm rạng danh quê hương đất nước, động viên mọi người làm tốt công việc của mình trong dịp năm mới. Ngày nay lễ khai ấn đền Trần đã trở thành một ngày lễ lớn của Nam Định nói riêng và cả nước nói chung.

Bên cạnh lễ khai ấn đền Trần, còn một loại hình sản phẩm du lịch cũng gắn với đền Trần đó là tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần là một hiện tượng đặc biệt của đời sống văn hóa dân gian Việt Nam. Nó như một minh chứng tiêu biểu về mối liên hệ giữa các yếu tố lịch sử và dân gian trong các hiện tượng văn hóa cổ truyền. Bên cạnh khuynh hướng lịch sử hóa huyền thoại (như về Mẫu Liễu Hạnh), còn có một khuynh hướng khác là huyền thoại hóa cuộc đời và chiến công của các nhân vật lịch sử (như về Trần Hưng Đạo). Trong dòng tâm thức sùng kính đến mức thần thánh hóa những người có công với nước, với dân; người Việt đã tôn vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lên thành vị Thánh của dân gian: Đức Thánh Trần. Đức Thánh Trần được thờ tự ở khắp nơi trên cả nước, nhưng nổi tiếng nhất là ba di tích: đền Bảo Lộc ở Nam Định, đền Kiếp Bạc ở Hải Dương và đền Trần Thương ở Hà Nam – những vùng đất gắn bó chặt chẽ với cuộc đời và sự nghiệp của ông (sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê Bảo Lộc).

Với vị thế là quê hương của Hưng Đạo Vương, đền Bảo Lộc đã trở thành trọng điểm xây dựng sản phẩm du lịch gắn với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần. Đền được xây dựng trên phần đất vốn là ấp An Lạc – trang ấp của An Sinh vương Trần Liễu và hiện là nơi thờ tự Trần Hưng Đạo cùng gia tộc và các tướng lĩnh của ông. Theo truyền thuyết, Hưng Đạo Vương mất ngày 20/8 âm lịch và được dân gian gọi là ngày “giỗ Cha”, nhưng từ đầu tháng 8 âm, người dân đã nô nức kéo về Bảo Lộc để dâng hương, cúng lễ vả cầu xin sức khỏe. Trong lễ hội giỗ Cha cũng có hình thức hầu đồng. Ở đây Đức Thánh Trần giáng thế chuyên chữa bệnh, giúp những người đau yếu, đàn bà hiếm muộn hoặc trừ tà. Những người chuyên thờ Đức Thánh Trần được gọi là thanh đồng.

Thanh đồng là người được ăn lộc Thánh và được Thánh giáng nhập để giúp dân trong các buổi hầu đồng.

Hiện nay bên cạnh hầu đồng còn nhiều hình thức xin lộc Thánh khác như bùa trấn trạch, bùa hộ mệnh… Sau khi lễ Thánh Trần, người ta đem về dán ở nhà hoặc đeo ở người để trừ tà ma. Ngoài ra tại đền Bảo Lộc còn phổ biến hình thức bán khoán cho trẻ em đến năm 13 tuổi. Đó là những đứa trẻ khó nuôi, người dân có lệ đem bán cho Đức Thánh Trần, mong dùng oai linh của ngài để trừ tà ma, giúp cho đứa trẻ ngoan ngoãn, khỏe mạnh. Thậm chí, có người còn đổi họ cho con thành họ Trần để mong ngài che chở. Cho đến ngày nay chưa có một công trình khoa học nào đưa ra kết luận rằng các hình thức tâm linh gắn với Đức Thánh Trần có mang lại kết quả thực sự hay không. Nhưng trong tâm thức dân gian, đó là một “biện pháp cứu cánh” trong quan niệm “có bệnh thì vái tứ phương“. Và đó là nguyên nhân chính đưa du khách đến với đền Trần Nam Định.

Bên cạnh Đức Thánh Trần thì thánh Mẫu Liễu Hạnh cũng là đối tượng được nhiều du khách quan tâm khi đến với Nam Định gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu. Đây là hình thức tín ngưỡng đặc biệt của người Việt Nam. Nó là một mảnh phân thân từ “nguyên lý Mẹ” đặc trưng của dân tộc Việt và là bộ phận góp phần quy định thiên tính nữ cho văn hóa Việt. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, coi trọng người phụ nữ và trong tín ngưỡng là sự chiếm ưu thế của các nữ thần. Tín ngưỡng thờ Mẫu là hình thức nâng cao từ tín ngưỡng thờ nữ thần từ xa xưa và nằm trong mối liên hệ mật thiết với các tôn giáo, tín ngưỡng khác của Việt Nam, đặc biệt là thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng Tứ bất tử. Đó là nguyên nhân đưa đẩy tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành tín ngưỡng dân gian điển hình của người Việt Nam. Ở đó, Mẫu Liễu Hạnh được tôn thờ ở ngôi chính vị và là biểu trưng cao nhất có tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Bởi vậy ngoài đền, phủ ra thì mọi ngôi chùa đều có ban thờ Mẫu (tiền Phật, hậu Mẫu). Ngôi chùa nào không có ban thờ Mẫu thì luôn vắng vẻ. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Ngoài ra, đạo Mẫu cũng sản sinh ra những sinh hoạt tín ngưỡng đặc sắc, trong đó, nét hấp dẫn nhất là nghi lễ lên đồng. Nhưng so với lên đồng trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần có sự khác biệt. Nếu như Đức Thánh Trần chuyên chữa bệnh, giúp người đau yếu thì Mẫu Liễu Hạnh giáng trần lại ban phát tài lộc hoặc trừng phạt những kẻ không tin vào oai linh của Mẫu. Những người chuyên thờ Mẫu Liễu được gọi là đồng cốt (ông đồng, bà cốt). Nghi lễ này có các điệu múa thiêng, và sân khấu thiêng với nhiều vai ông Hoàng, bà Chúa, cô, cậu… với nhiều trang phục độc đáo Kinh, Mường, Tày… làm say mê lòng người, giải tỏa ấm ức, tạo ảo tưởng giải thoát và ước vọng hạnh phúc cho mỗi người tham dự. Lễ tục thờ Mẫu cũng tạo ra các khúc nhạc.

Chầu văn rộn rã với cây đàn đáy độc đáo, với nhiều đảo phách, gây bứt rứt cử động chân tay múa nhảy, đi về miền ảo tưởng, phá đi cái đơn điệu tẻ nhạt thường ngày của cuộc sống con người. Bởi thế hầu đồng có sức mê hoặc mạnh mẽ, có khả năng lôi kéo cực độ. Bên cạnh đó, hầu đồng còn gắn liền với chầu văn – di sản văn hóa nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam. Còn hầu đồng thì còn chầu văn. Tuy nhiên, với xu thế hiện nay, các giá hầu đã có sự biến đổi. Từ điệu múa, trang phục, cách hát, lời ca. Sự biến tấu này không phải hoàn toàn xấu, nhưng nếu không có biện pháp bảo tồn sẽ dần bị mai một, nhất là các làn điệu hát văn.

Vị trí đặc biệt quan trọng của Mẫu Liễu Hạnh cùng các giá trị văn hóa đặc sắc của Đạo Mẫu đã tạo nên sức hấp dẫn cho sản phẩm du lịch tín ngưỡng Nam Định. Ở đây, Mẫu Liễu Hạnh và các vị Thánh trong Đạo Mẫu không chỉ được thờ ở phủ mà còn được phối thờ ở khắp các đình, đền, chùa, miếu trong toàn tỉnh. Trong hệ thống đó Phủ Dầy là cụm di tích quan trọng nhất bởi đây là quê hương của Thánh Mẫu, bà sinh ở Vân Cát và hóa ở Tiên Hương.

Lễ hội Phủ Dầy hàng năm được tổ chức để kỷ niệm ngày mất của Mẫu Liễu Hạnh và đó cũng chính là ngày “Giỗ Mẹ” trong tâm thức dân gian. Vào dịp lễ hội này, du khách có tham gia vào một số hoạt động như tế, lễ rước, trò chơi kéo chữ… nhưng hầu như mối quan tâm lớn nhất của họ vẫn là cúng lễ cầu công danh, sức khỏe, tài lộc và tham dự các buổi hầu đồng. Đã có thời gian dài lễ hội Phủ Dầy bị cấm tổ chức do có nhiều yếu tố mê tín dị đoan. Mặc dù vậy nhưng trên thực tế người dân vẫn công khai đi lễ Mẫu và phần lễ được diễn ra suốt ngày đêm. Từ năm 1998 sau khi Bộ trưởng Bộ Văn hóa ký quyết định cho phép mở cửa chính thức thì hội Phủ Dầy được tiến hành thường niên vào dịp giỗ Mẫu từ mùng 3 đến mùng 8 tháng 3 âm lịch hàng năm với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao dân gian đặc sắc. Đến nay, tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành di sản văn hóa quốc gia và đang được hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO công nhận “tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”. Trong hai ngày 5 và 6 tháng 1 năm 2024 tại Nam Định đã diễn ra hội thảo khoa học do Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam kết hợp với UBND tỉnh Nam Định, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Nam Định với nhiều tham luận có giá trị của các chuyên gia trong nước và quốc tế về lĩnh vực này. Hội thảo kết thúc thành công rực rỡ và trong một tương lai không xa chúng ta hy vọng sẽ có thêm một di sản văn hóa nữa của nhân loại.

2.4.2.2. Sản phẩm du lịch lễ hội Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Cùng với các di tích lịch sử văn hóa thì các lễ hội ở Nam Định cũng mang những nét độc đáo và đặc trưng riêng so với các địa phương khác. Theo số liệu thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định, tỉnh Nam Định hiện có gần 100 lễ hội tuyền thống trong đó có 56 lễ hội được tổ chức vào mùa xuân, 42 lễ hội được tổ chức vào mùa thu. Các lễ hội tiêu biểu như lễ hội khai ấn đền Trần, lễ hội Phủ Dầy, lễ hội chợ Viềng, lễ hội chùa Keo Hành Thiện…. diễn ra hàng năm thu hút ngày càng đông khách du lịch. Thông qua lễ hội du khách hiểu sâu hơn về đời sống văn hóa tinh thần cũng như mong ước của người dân địa phương đối với các vị thần.

Cũng như nhiều địa phương khác, loại hình du lịch lễ hội ở Nam Định có không gian tổ chức rộng khắp các huyện, thị với nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, hấp dẫn. Tuy nhiên nó mới chỉ thu hút được một phần khách du lịch nội địa ở Hà Nội và một số tỉnh khác trong vùng đồng bằng sông Hồng, còn khách quốc tế có nhưng ít. Có rất nhiều nguyên nhân. Trong đó nguyên nhân chính là do lễ hội ở đây quá đông người nên dẫn đến tình trạng quá tải, lộn xộn trong tổ chức, giao thông ùn tắc, ô nhiễm môi trường, chất lượng phục vụ kém… Một nguyên nhân khác nữa là do tính thương mại hóa, hiện đại hóa trong các lễ hội truyền thống ngày càng đậm nét đặc biệt là tại hội chợ Viềng, lễ khai ấn đền Trần và lễ hội Phủ Dầy.

Lễ khai ấn đền Trần là một nét đẹp văn hóa của người thành Nam. Người dân coi đó là lễ hội cầu danh, cầu chức quyền, cầu tước, cầu lộc, cầu sức khỏe. Hầu hết người đi lễ đều cho rằng ấn đền Trần có một sức mạnh siêu nhiên, giúp họ hiện thực hóa mong ước danh – tiền – bình an. Thế nên, họ sẵn sàng chen lấn, xô đẩy, cướp giật lẫn nhau miễn là lấy được ấn quý mang về. Tâm lý này là nguyên nhân chính biến lễ khai ấn đền Trần trở nên nhốn nháo, lộn xộn và mất đi nhiều vẻ trang nghiêm của nó trong những năm trước đây. Trong nhiều năm qua những lá ấn thiêng liêng đền Trần cũng đã bị thương mại hóa, thần linh hóa khiến cho nhiều người dân lầm tưởng về ý nghĩa của việc xin ấn. Với mong muốn được thăng quan tiến chức, tấn tài tấn lộc, người ta sẵn sàng dẫm đạp lên nhau để có trong tay lá ấn mang về. Lễ khai ấn trở thành nơi vụ lợi, buôn thần bán thánh và nhiều chuyện khác. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Đứng trước thực trạng đó, UBND tỉnh Nam Định kết hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định đã có những biện pháp can thiệp cụ thể để giảm bớt tình trạng này. Những năm trước lễ khai ấn được tổ chức đúng đêm 14 tháng giêng và trao ấn luôn cho du khách thì ba năm trở lại đây ban tổ chức chỉ phát lộc cho nhân dân và du khách thập phương bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày rằm và kéo dài đến hết tháng Giêng. Ấn được phát trong các ngày tiếp theo sau đêm 14 để giảm thiểu tình trạng chen lấn, xô đẩy nhau để lấy được ấn. Ban tổ chức cũng không thu tiền phát ấn mà để người dân tùy tâm công đức. Để giãn lượng khách đến dự lễ hội, tránh xảy ra chen lấn, xô đẩy, trong 3 ngày lễ hội, ban tổ chức đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa, thể thao dân gian truyền thống như múa rồng, múa lân, hát chèo, hát văn , đấu cờ … Bên cạnh đó tỉnh cũng mở thêm các điểm trông giữ xe với cam kết thực hiện 3 nội dung: thu đúng giá quy định của tỉnh; sử dụng vé do ngành Thuế phát hành và niêm yết công khai giá vé. Ngoài ra, công tác y tế, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy ở lễ hội cũng đã được đảm bảo. Việc tổ chức cắm biển báo, phân luồng giao thông nhằm tránh ùn tắc tại khu vực lễ hội khai ấn, bố trí lực lượng trông coi phương tiện giao thông tại các bãi xe khu vực đền Trần, chùa Tháp và 02 bãi xe mới do Ban quản lý các công trình trọng điểm tỉnh bàn giao tạm thời, bảo đảm an toàn. Nhờ những nỗ lực này, lễ khai ấn đền Trần năm 2022 đã diễn ra an toàn trật tự, và văn minh hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, lễ khai ấn đền Trần vẫn còn một số tồn tại như: Tình trạng hành khất hoạt động phía ngoài đường vào đền vẫn diễn ra; tuyến đường dẫn vào đền Trần cấm các phương tiện giao thông vào khu vực đền làm lễ nhưng còn nhiều xe ôm vẫn hoạt động và chèo kéo khách tới đền Trần; trước và trong giờ khai ấn, an ninh được đảm bảo nhưng sau khi nghi lễ khai ấn kết thúc tình hình an ninh trật tự còn hạn chế. Mặc dù ban tổ chức đã tiến hành không tổ chức phát ấn ngay sau lễ hội khai ấn nhưng vẫn còn một số lượng lớn du khách đội mưa, ăn chực nằm chờ qua đêm tại khu vực di tích để sáng hôm sau nhận lộc ấn gây khó khăn cho việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường, các hoạt động dịch vụ cũng như việc điều hành của ban tổ chức lễ hội và nhà đền trong đêm. Bên cạnh đó còn số ít người có suy nghĩ cho rằng việc không tổ chức phát ấn ngay sau lễ khai ấn là trái với truyền thống, tập tục từ xưa để lại, làm giảm mất đi tính linh thiêng của lễ hội.  Tóm lại dù đã nhiều cố gắng trong đổi mới việc tổ chức phát ấn nhưng những tình trạng chen lấn, xô đẩy, giá vé gửi xe cao … vẫn diễn ra trong lễ này khiến khách du lịch không hài lòng. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Bên cạnh lễ khai ấn đền Trần thì lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo được tổ chức vào tháng 8 âm lịch, nhân dịp kỷ niệm ngày mất của ông cũng là một lễ hội lớn, thu hút đông đảo du khách thập phương. Về dự lễ hội này, du khách không chỉ thỏa mãn ước nguyện cầu lộc, cầu phúc, cầu may mà còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính, độc đáo của quần thể di tích lịch sử, văn hóa Trần. Tuy nhiên, công tác quản lý và tổ chức lễ hội Trần vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần được sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền để khắc phục. Hiện nay, việc phân cấp quản lý giữa ngành và cấp trong công tác tổ chức lễ hội vẫn còn sự chồng chéo, ảnh hưởng tới công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di tích và lễ hội. Lễ hội còn nặng về phần hành lễ, chưa khai thác và phát huy giá trị văn hóa của các trò chơi dân gian độc đáo của địa phương. Các hình thức kinh doanh dịch vụ như hàng quán bày bán trước khuôn viên di tích gây mất trật tự, mỹ quan lễ hội, thậm chí một số người kinh doanh dịch vụ vẫn cố tình vi phạm quy định, tìm mọi cách đối phó với các lực lượng chức năng, khiến cho việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm quy chế lễ hội chưa đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các quán ăn trong khu vực di tích đền Trần – chùa Tháp còn nhếch nhác, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Tại đền Bảo Lộc, khuôn viên rộng rãi của đền được người dân tận dụng để kinh doanh buôn bán, bên ngoài cổng đền là các hàng hoa quả rong, hàng bán quần áo giảm giá…. qua cổng đền là các hàng đổi tiền lẻ, bán đồ lễ tràn lan, các hàng bán rong, hàng ăn uống… Lối lên đền thờ Mẫu bị chắn bởi hàng chục hàng ngồi viết sớ, lối ra phía sau đền Khải Thánh là các cửa hàng ăn uống phục vụ khác nhưng lại không mấy mỹ quan ở chốn cần sự trang nghiêm này. Hơn nữa, ý thức của người dân tham gia lễ hội còn chưa tốt, không ít người đi lễ hội mà không hiểu biết về nơi mình đến, về lễ hội mình đang tham gia, về danh nhân, về nhân vật lịch sử được thờ tại di tích. Việc thắp hương, đốt vàng mã còn gây nhiều lãng phí tiền bạc và ảnh hưởng tới môi trường. Người đi lễ chỉ chú trọng đến mâm lễ, thắp hương, khấn vái cầu lộc mang tư tưởng vị kỷ cá nhân, làm mất ý nghĩa tôn kính đối với các bậc tiền nhân có công trong đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ quê hương.

Hội chờ Viềng (còn gọi là chợ âm phủ) là lễ hội mang quan niệm độc đáo: mua may, bán rủi. Người đi chợ mua một vật dụng nào đó với quan niệm những đồ vật ấy sẽ mang lại may mắn cho mình suốt một năm. Theo truyền thống, chợ Viềng họp không phải để buôn lãi, kiếm lời mà cốt để “bán rủi, mua may” nên không có cảnh người bán nói thách, người mua mặc cả. Nhưng trên thực tế lại khác. Du khách bị chặt chém từ tiền xe ôm, tiền gửi xe đến mua phải hàng hóa Trung Quốc, thịt bò chết, đồ mới giả đồ cổ… Bên trong chợ, lấn át hơn và đắt khách hơn cả lại là những sới bạc với đủ trò chiêu lừa khách. Các mặt hàng đồ cổ, mây tre đan, hoa, cây cảnh trước kia là mặt hàng chủ yếu của chợ Viềng thì nay chợ bày bán tràn lan các mặt hàng Trung Quốc từ đồ chơi bạo lực cho trẻ em, quần áo giảm giá, cầu thuê khấn mướn, coi bói…. Trong phiên chợ hiện tượng cò mồi, chèo kéo khách du lịch vẫn còn phổ biến. Bên cạnh đó là tình trạng ùn tắc giao thông, do nhiều tuyến đường nhánh cũng như đường chính dẫn tới xung quanh chợ Viềng không tổ chức cấm xe ô tô nên dẫn đến tình trạng này kéo dài. Nam Định vẫn nổi tiếng với hai chợ Viềng nhưng gần đây đã không còn thu hút khách nhiều như trước nữa bởi tình trạng trên vẫn còn tiếp diễn tràn lan, gây ức chế cho người tới chợ. Uy tín của phiên chợ đã giảm sút nghiêm trọng.

Cũng tương tự với hai lễ hội trên, tính thương mại hóa đang là vấn đề gây nhức nhối ở Phủ Dầy. Điều này thấy rõ nhất ở thái độ của người dân địa phương với lễ hội này. Nếu như trước kia cư dân háo hức, chờ mong được tham gia lễ hội, thì giờ đây hầu như dân làng không còn ai tham gia đám rước và các trò chơi trong lễ hội bởi họ còn tranh thủ thời gian bán hàng kiếm tiền. Thủ nhang phải thuê người ngoài tham gia các nghi lễ. Hoạt động lễ hội không còn là hình thức sinh hoạt chung thiêng liêng của cộng đồng dân cư mà trở thành những màn biểu diễn quy mô, được dàn dựng kỹ lưỡng của cư dân nơi khác vì mục đích kiếm tiền. Bên cạnh đó hầu như các di tích ở Phủ Dầy đều tràn lan các ban thờ, hòm công đức, dẫn đến việc đặt tiền vung vãi, gây phản cảm. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Các hoạt động tín ngưỡng theo đó cũng mang màu sắc thương mại hóa: viết sớ thuê, khấn thuê, bói quẻ và đặc biệt là hầu đồng. Các buổi hầu đồng cũng không còn tính nguyên vẹn của nó. Những buổi hầu này thường thu hút đông người với rất nhiều lễ vật, hoa quả, hình nhân, mũ, voi, ngựa… to nhỏ tùy theo điều kiện kinh tế của chủ lễ, nhưng một giá hầu thấp nhất cũng tốn khoảng vài chục đến vài trăm triệu đồng. Điều này vừa gây tốn kém tiền bạc cho chủ lễ lại làm mất tính nhân văn của buổi lễ. Mặc dù Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có nhiều chỉ thị nhắc nhở, nghiêm cấm và xử phạt đốt vàng mã tại các di tích đền chùa, nhưng tại hội Phủ Dầy tình trạng đốt quá nhiều vàng mã vẫn tiếp tục diễn ra trong nhiều năm qua. Tính thương mại hóa này đang dần hiện đại hóa lễ hội Phủ Dầy và một ngày nào đó nếu không có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến hủy diệt các tinh hoa của Đạo Mẫu. Một điều nữa là tệ nạn ăn xin, sư giả diễn ra khá phổ biến ở lễ hội Phủ Dầy. Du khách đến đây mong cầu được sự bình an, may mắn cho năm mới thì lại phải chứng kiến những cảnh tượng không mấy đẹp mắt này. Thậm chí những người ăn xin này còn tập hợp nhau, lập thành một tổ, đội gần hai chục người xếp thành hàng dài trên đường vào đền chính để chèo kéo khách thập phương xin tiền. Để xin được tiền du khách, nhiều người ăn xin không chỉ kêu nghèo, kể khổ mà còn kéo áo, bám đuôi thậm chí văng tục, chửi bậy nếu như du khách nào có phản ứng lại. Thậm chí để tác động đến lòng thương của người đi lễ, họ còn mang cả con em mình, có những em còn rất bé, bế ẵm trên tay mà vẫn phải theo bố mẹ lê lết nơi cửa phủ để xin ăn. Chính những hình ảnh này cộng với tính thương mại hóa trong lễ hội đã làm giảm đi sức hấp dẫn của lễ hội Phủ Dầy.

Có thể thấy rằng, đây là nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng về số lượng nhưng sản phẩm du lịch lễ hội ở đây vẫn chưa có khả năng thu hút khách đến và lưu trú lại. Lý do bởi việc khai thác các giá trị của các lễ hội này vào hoạt động kinh doanh du lịch chưa được chú trọng nhiều, nhất là phần hội chưa được đầu tư mở rộng để đa dạng các hình thức vui chơi giải trí nhằm thu hút hơn nữa khách tham gia trực tiếp vào lễ hội. Lễ hội của Nam Định phong phú về số lượng nhưng hạn chế về chất lượng. Cũng giống như lễ hội của nhiều địa phương khác, lễ hội ở Nam Định vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Sự thanh tịnh vốn có của những chốn linh thiêng đã phải nhường chỗ cho sự vội vàng, xô bồ của hàng vạn lượt người vào mỗi ngày lễ hội. Sự hỗn loạn, xô bồ, thương mại hóa, hiện đại hóa trong lễ hội đang là vấn đề nan giải. Khi đi lễ người ta tìm đủ mọi cách để đạt được mục đích của mình từ chen lấn, xô đẩy, dẫm đạp, giành giật nhau để mong thánh thần nhìn thấy mặt, điểm được tên. Khi đi hội thì các trò chơi dân gian dần mất đi thay vào đó là các trò chơi cờ bạc, lừa bịp phổ biến, hiện tượng mua thần bán thánh công khai, rác thải tràn lan, khách bị móc từ giá vé gửi xe cho đến tiền xe ôm, ăn uống… Thực tế đó diễn ra ở hầu hết các lễ hội ở Việt Nam nói chung và lễ hội Nam Định nói riêng. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Như vậy, để lưu giữ được nét đẹp nguyên bản của lễ hội và tạo được sức hấp dẫn với du khách, điều bắt buộc là phải thay đổi, cải cách cách thức tổ chức để hạn chế tính thương mại hóa, thần linh hóa ngày càng gia tăng trong các lễ hội, và giải quyết vấn nạn quá tải người tham gia, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường…

2.4.2.3. Ẩm thực trong du lịch

Đến với Nam Định, ngoài việc tham quan tìm hiểu các di tích lịch sử văn hóa, tham dự các lễ hội truyền thống thì du khách còn được thưởng thức nhiều món ăn ngon, mang nét đặc thù riêng của địa phương. Khách du lịch nào tới Nam Định chắc hẳn không thể không thưởng thức những món ăn như: phở Nam Định, bánh gai Bà Thi, kẹo Sìu Châu, nem nắm Giao Thủy, chuối ngự…. Mỗi địa phương ở Nam Định đều có những món ăn riêng, độc đáo, đặc trưng riêng để hấp dẫn du khách. Tuy nhiên các nhà hàng Nam Định chưa khai thác được hết các giá trị văn hóa ẩm thực của tỉnh trong kinh doanh du lịch. Các nhà hàng, khách sạn mới chỉ dừng lại ở việc chế biến, phục vụ các món ăn đáp ứng nhu cầu hàng ngày của du khách, chưa có một nhà hàng, khách sạn nào đưa các món ăn đặc sản của Nam Định vào thực đơn của mình và cũng chưa có một nhà hàng mang phong cách truyền thống phục vụ các món ăn đặc sản của riêng Nam Định.

Có thể nói rằng việc khai thác các giá trị văn hóa ẩm thực vào hoạt động kinh doanh du lịch của Nam Định còn mang tính tự phát, chưa có sự đầu tư nên chưa đáp ứng được nhu cầu và làm hài lòng khách du lịch.

Ngoài các sản phẩm du lịch trên, Nam Định còn có các sản phẩm khác như du lịch làng nghề, du lịch nông thôn. Hai loại hình này cũng góp một phần không nhỏ vào việc phát triển du lịch tỉnh Nam Định.

2.4.2.4. Sản phẩm du lịch du khảo đồng quê

Hình thái loại hình tham quan cảnh quan làng quê tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ gắn với văn hóa mở đất của cộng đồng cư dân các huyện ven biển Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng… Đây là nơi tiếp cận, giao thoa với văn hóa phương Tây cùng với sự xuất hiện sớm của đạo Thiên chúa và hệ thống các nhà thờ. Tham gia các tour du lịch nông thôn, du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống của người nông thôn Nam Định khi ở homestay, làm bánh cuốn làng Kênh, nem nắm Giao Thủy… Những hoạt động đó sẽ khiến du khách vô cùng thích thú bởi họ vừa được trải nghiệm, vừa quên đi những ưu phiền của cuộc sống thường nhật, vừa thưởng thức không khí trong lành, yên bình của vùng quê. Đài truyền hình Việt Nam và đài truyền hình thông tấn xã Việt Nam đã thực hiện một chương trình giới thiệu về du lịch Nam Định qua hình ảnh các làng quê. Đây là cơ hội để du lịch nông thôn Nam Định đến gần hơn với du khách. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

2.4.2.5. Du lịch làng nghề

Với sản phẩm truyền thống có sức hấp dẫn đối với du khách quốc tế như làng nghề đúc đồng Tống Xá, chạm khắc gỗ La Xuyên, sơn mài Cát Đằng (huyện Ý Yên), các làng nghề cây cảnh của huyện Nam Trực, Hải Hậu. Du lịch làng nghề là loại hình du lịch có khả năng thu hút khách du lịch quốc tế và tăng chi tiêu mua sắm. Đặc điểm nổi bật của tỉnh Nam Định là ngành nghề truyền thống luôn gắn với nông nghiệp nông thôn. Sản phẩm du lịch làng nghề chủ yếu là tham quan làng nghề truyền thống, tìm hiểu hình thức sản xuất và cuộc sống của người dân địa phương kết hợp với khám phá cảnh quan nông nghiệp, nghỉ ngơi, thưởng thức ẩm thực tại đây. Nam Định có nhiều làng nghề thủ công truyền thống có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch song những sản phẩm du lịch làng nghề ở đây còn đơn điệu, chưa biết cách phát huy, khai thác nó để thu hút khách du lịch. Du khách đến đây ngoài việc mua hàng hóa về sử dụng và làm quà cho người thân thì họ còn có nhu cầu được tham quan, tìm hiểu về cơ sở sản xuất, về cách thức làm ra những sản phẩm đó, về lịch sử làng nghề, thậm chí còn có nhiều du khách muốn được trải nghiệm, muốn được tự tay mình làm một vài sản phẩm đơn giản nhưng đặc thù ở đây. Tuy nhiên, các cơ sở kinh doanh của làng nghề và các công ty lữ hành chưa biết cách khai thác các giá trị văn hóa của làng nghề và chưa xác định đây là tài nguyên du lịch văn hóa quan trọng để xây dựng nên sản phẩm du lịch làng nghề đặc trưng riêng của Nam Định.

Bên cạnh đó, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng các ban ngành chưa có kế hoạch đầu tư, hướng dẫn các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp lữ hành khai thác yếu tố tài nguyên này. Vì thế các sản phẩm du lịch làng nghề của Nam Định còn nghèo nàn, thiếu hấp dẫn.

Nhìn chung, Nam Định là một tỉnh có nhiều sản phẩm du lịch đa dạng, có khả năng hấp dẫn du khách. Tuy nhiên, tỉnh Nam Định chưa biết khai thác đúng tiềm năng của nó để thúc đẩy du lịch phát triển. Hầu hết các điểm du lịch đã bị thương mại hóa, thần thánh hóa, mất dần đi nét đẹp nguyên bản, trong sáng của nó. Thêm vào đó là sự thiếu thốn nhân lực, cơ sở vật chất phục vụ du lịch, đội ngũ hướng dẫn viên tại điểm có trình độ nghiệp vụ ít. Hiện trạng này đã và đang hạn chế cản trở du khách đến với Nam Định, đặc biệt là khách quốc tế. Do đó để xây dựng được các sản phẩm đặc thù, thu hút được khách du lịch, Nam Định cần có những thay đổi cụ thể trong cách quản lý di tích, tổ chức lễ hội, bảo tồn các di sản văn hóa, phát triển làng nghề và quảng bá hình ảnh làng quê.

2.5. Nhân lực du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Nam Định Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Số lượng nguồn nhân lực và cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực trong du lịch có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dịch vụ du lịch và chất lượng sản phẩm du lịch. Nguồn nhân lực trong du lịch bao gồm nguồn nhân lực trực tiếp và nguồn nhân lực gián tiếp. Nguồn nhân lực trực tiếp là những nhân lực làm việc trong các công ty lữ hành, khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ khác. Nguồn nhân lực gián tiếp tham gia vào các hoạt động liên quan đến du lịch.

Lao động trực tiếp trong ngành du lịch của Nam Định trong những năm qua có sự gia tăng cả về mặt số lượng và chất lượng.

Bảng 2.9. Hiện trạng chất lượng lao động du lịch Nam Định

Đơn vị tính: Người

Năm Tổng số lao động trực tiếp

Trình độ đào tạo

Đại học – Cao đẳng Tỷ lệ % Trung và sơ cấp Tỷ lệ % Đào tạo khác Tỷ lệ %
2019 2.790 203 7,3 472 15,3 2.115 75,8
2020 2.987 255 8,5 572 19,1 2.160 72,3
2021 3012 407 13,5 425 14,1 2.180 72,4
2022 3200 435 13,6 450 14,1 2.315 72,3
2023 3250 440 13,5 460 14,2 2.350 72,3

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

  • Về số lượng:

Theo số liệu thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định, năm 2019 lực lượng lao động trong ngành du lịch của tỉnh là 2.790 người, năm 2020 tăng lên 2.987 người, năm 2021 là 3.012 người, năm 2022 tăng 3.200 người và năm 2023 tăng lên 3250 người.( Bảng 2.9.) Tốc độ tăng trưởng trung bình lao động giai đoạn 2019-2023 là 3,1%. So với các tỉnh phụ cận có du lịch phát triển thì số lượng lao động trong ngành du lịch của Nam Định còn khiêm tốn. Ngoài lực lượng lao động này ra còn có các lực lượng lao động mang tính thời vụ (vào mùa du lịch hè tại các điểm du lịch biển Thịnh Long, Quất Lâm). Các cơ sở kinh doanh sử dụng khoảng 1.000 lao động hợp đồng ngắn hạn và lao động phổ thông tại địa phương.

Bên cạnh đó, ngành du lịch tỉnh còn thu hút hàng nghìn lao động gián tiếp, tham gia các hoạt động dịch vụ phục vụ khách tại các điểm du lịch như chụp ảnh lưu niệm, trông giữ xe, cho thuê phao bơi, quần áo tắm, bán quà lưu niệm …

  • Về chất lượng: Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Chất lượng lao động của ngành du lịch Nam Định còn thấp, thể hiện qua trình độ và cấp đào tạo. Trong tổng số lao động trong ngành, số lao động có trình độ đại học – cao đẳng tuy có tăng nhưng vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng 7-8%, số lao động có trình độ trung cấp và sơ cấp nghề là 15 -20%, còn lại lao động phổ thông chưa qua đào tạo hoặc đào tạo tại chỗ (học nghề) chiếm trên 70% (Bảng 2.9.), lực lượng lao động này chủ yếu làm việc tại các cơ sở tư nhân tại các khu du lịch biển, mang tính mùa vụ, tuy góp phần giải quyết vấn đề thiếu nhân lực vào mùa du lịch cao điểm nhưng lại là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng chung của lao động trong ngành. Bên cạnh đó trình độ ngoại ngữ của các lao động trong ngành du lịch tỉnh còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng lao động mà các khu, điểm du lịch, các doanh nghiệp du lịch đặt ra.

Thực tế tại các cơ sở lưu trú du lịch đã và đang sử dụng phần lớn lao động chưa đạt tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ. Đội ngũ nhân viên phục vụ du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu mà khách mong đợi, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Do trình độ ngoại ngữ còn hạn chế, kiến thức và kinh nghiệm nghiệp vụ du lịch quốc tế còn non kém. Công tác đào tạo cán bộ, công nhân viên mới chỉ được các doanh nghiệp Nhà nước, các khách sạn đạt tiêu chuẩn của tỉnh quan tâm đến, còn các khách sạn tư nhân thì lao động tại đây thường là không qua đào tạo hoặc mới chỉ đào tạo ngắn hạn. Để khắc phục tình trạng này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định cũng đã kết hợp với đơn vị có liên quan tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về du lịch cho các đối tượng quản lý, nhân viên phục vụ tại các nhà hàng, khách sạn. Mặc dù chất lượng có cải thiện nhưng chưa cao. Lý do là người làm du lịch tại đây còn chưa hiểu rõ tầm quan trọng của lớp học, với họ hoạt động du lịch chỉ đơn thuần là một hoạt động kinh doanh làm sao cho có lãi; chính quyền địa phương cho rằng tỷ trọng đóng góp của ngành du lịch vào nền kinh tế của vùng chỉ chiếm một con số nhỏ, chưa được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của vùng và việc tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch chỉ là theo hình thức, nghĩa vụ mà không nhận thấy được quyền lợi của mình, điều này đã gây lãng phí cho ngân sách của tỉnh.

Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch có trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, sự hiểu biết về lịch sử – xã hội, về tập quán địa phương và dân tộc còn hạn chế. Tại một số điểm, khu du lịch như: khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần – chùa Tháp, nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh … đã có thuyết minh viên nhưng số này lại có trình độ đào tạo về văn hóa chứ không phải là đào tạo về du lịch và chưa được cấp thẻ thuyết minh viên. Lực lượng hướng dẫn viên trong tỉnh chỉ có một người được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế, chưa có hướng dẫn viên nào được cấp thẻ hướng dẫn viên nội địa và thuyết minh viên trong khi thị trường khách du lịch nội địa lại là thị trường chính của du lịch Nam Định. Đây là một hạn chế lớn đối với sự phát triển du lịch và sản phẩm du lịch của tỉnh. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Tính đến nay Nam Định mới có 4 điểm du lịch văn hóa có ban quản lý di tích là: BQL khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần – chùa Tháp, BQL di tích chùa Cổ Lễ, BQL Khu di tích chùa Keo Hành Thiện, BQL khu di tích nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh. Đây đều là những điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh, có bề dày lịch sử văn hóa. Ngoài số nhân sự thuộc BQL khu di tích đền Trần – chùa Tháp khá đông đảo với khoảng trên 20 người, trong đó: có 5 cán bộ quản lý; 4 hướng dẫn viên; 1 nhân viên bảo tàng; 6 nhân viên vệ sinh môi trường; 13 cụ trông coi nhà đền. Còn lại các BQL khác số lượng bình quân là 8-10 người/BQL, với trình độ từ sơ cấp đến đại học, mỗi điểm chỉ có từ 1-2 hướng dẫn viên, nhiều người còn chưa qua đào tạo nghiệp vụ về hướng dẫn du lịch. Hoạt động hướng dẫn lại diễn ra không thường xuyên, thiếu chuyên nghiệp. Điều này gây khó khăn cho hoạt động du lịch của khách. Ngoài ra, vào những dịp tổ chức lễ hội, thì đều huy động thêm một lực lượng lớn quần chúng địa phương như hội người cao tuổi, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ… với số lượng rất đông khoảng vài trăm người tham gia vào các đoàn rước và thực hiện nghi lễ truyền thống. Đội ngũ cán bộ quản lý ít, trình độ chuyên môn thấp, điều này ảnh hưởng tới năng lực quản lý điểm du lịch. Do sự thiếu hiểu biết về du lịch của chính quyền địa phương, những người đứng đầu Ban quản lý du lịch chưa có các hành động, chính sách, biện pháp nào để hướng phát triển du lịch bền vững, hoạt động du lịch trở nên hết sức thụ động.

Nhìn chung, với đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên mỏng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao tại các điểm du lịch nên hoạt động du lịch tại các điểm này chưa phát huy hết tiềm năng vốn có của nó, đồng nghĩa với việc hướng dẫn, tuyên truyền cho cộng đồng dân cư, khách du lịch, cũng như các công ty du lịch trong việc bảo tồn các di sản văn hóa trong khi tham gia du lịch cũng bị hạn chế nhiều.

2.6. Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Nam Định 

Quảng bá, xúc tiến du lịch có thể được hiểu là những hoạt động giới thiệu, tiếp thị các điều kiện, tiềm năng đến nhà đầu tư; tiếp thị các sản phẩm du lịch đến với du khác nhằm thu hút vốn đầu tư cũng như thu hút khách đến du lịch. Để biết đến một địa danh, một vùng đất, một dân tộc ngoài những thông tin qua lịch sử văn hóa, địa lý, kinh tế… còn có một cách tiếp cận luôn tạo nên ấn tượng khó quên đó là qua du lịch. Thực tế cho thấy công tác xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá điểm đến rất quan trọng trong thúc đẩy phát triển du lịch. Nhận thức được tầm quan trọng của xúc tiến, quảng bá du lịch đối với sự phát triển du lịch cũng như sự tăng trưởng của khách du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định đã đề xuất với UBND tỉnh thành lập Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ chuyên trách về xúc tiến, quảng bá, giới thiệu hình ảnh du lịch Nam Định. Trung tâm được thành lập tháng 11 năm 2024 đến nay có 6 cán bộ làm việc tại trung tâm. Từ khi thành lập cho đến nay, trung tâm đã có nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá cho du lịch Nam Định, kêu gọi các tổ chức cá nhân đầu tư vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh đã được chú trọng và bước đầu phát huy hiệu quả.

  • Tham gia các hội chợ du lịch Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Ngành du lịch Nam Định đã tham dự liên hoan du lịch tại Hà Nội và một số trung tâm du lịch như Quảng Ninh, Thanh Hóa, Huế và gần đây nhất là sự kiện năm du lịch quốc gia đồng bằng sông Hồng năm 2021 với chủ đề “Văn minh sông Hồng” được tổ chức tại các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Hồng, mà thành phố Hải Phòng là địa phương đăng cai. Trong dịp này, tỉnh Nam Định cũng đăng cai tổ chức 4 sự kiện gồm:

  • Trưng bày cổ vật, sinh vật cảnh và sản phẩm làng nghề truyền thống Nam Định và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (từ 17-19/2/2021 tức mùng 8-10/1 âm lịch)
  • Lễ hội Phủ Dầy (từ 12-17/4/2021 tức mùng 3-8/3 âm lịch)
  • Hội thi thả Diều sáo các tỉnh đồng bằng sông Hồng và khai trương mùa du lịch biển năm 2021 (từ 30/4-1/5/2021)
  • Lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo (từ 20-24/9/2021 tức 16-20/8 âm lịch). Đây là cơ hội để tỉnh tuyên truyền, quảng bá những tiềm năng, thế mạnh du lịch của tỉnh, nâng cấp sản phẩm du lịch của địa phương, thu hút thêm nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến với Nam Định.

Về công tác thông tin du lịch 

Trong năm 2023, Trung tâm Thông tin xúc tiến Du lịch đã có những bước đi đúng hướng và đạt được những kết quả nhất định:

  • Quản trị, duy trì, cập nhật thông tin và vận hành Trang thông tin điện tử dulichnamdinh.
  • Thực hiện cung cấp thông tin du lịch, tổ chức triển khai các hoạt động thu thập xử lý thông tin, viết tin bài phản ánh kịp thời các sự kiện văn hoá, thể thao, du lịch và gia đình của tỉnh cũng như các sự kiện nổi bật của ngành trên website:
  • Cung cấp các thông tin du lịch, cơ sở lưu trú, các tuyến điểm du lịch trên địa bàn tỉnh, thông tin về các lễ hội cho các hãng báo chí, các đơn vị kinh doanh du lịch trong và ngoài tỉnh.

Về công tác xúc tiến du lịch 

Tận dụng ưu thế về công nghệ thông tin, những năm qua các thông tin tuyên truyền, quảng bá về du lịch Nam Định còn được thường xuyên được đăng tải trên báo, đài trung ương và địa phương, trang thông tin điện tử của ngành làm các chương trình giới thiệu về du lịch Nam Định, tái bản sách Du lịch Nam Định phục vụ lễ kỷ niệm 750 năm Thiên Trường Nam Định và năm du lịch quốc gia đồng bằng sông Hồng năm 2021; phối hợp với Ban thời sự Đài truyền hình Việt Nam thực hiện chương trình “S- Việt Nam hương vị cuộc sống” giới thiệu một số nét đặc sắc văn hóa ẩm thực Nam Định như kẹo lạc Sìu Châu, bánh nhãn Hải Hậu, nem nắm Giao Thủy, bánh cuốn làng Kênh… qua đó đưa ẩm thực Nam Định đến gần hơn với khách du lịch.

 Năm 2023, trung tâm cũng đã có nhiều hoạt động tốt và gặt hái được những kết quả nhất định như:

  • Tổ chức thực hiện nội dung tuyên truyền quảng bá du lịch Nam Định thường xuyên trên website: www.dulichnamdinh.
  • Phối hợp với Ban Truyền hình Đối ngoại- kênh VTV4- Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện chương trình Fine Cuisine tại làng nghề làm đèn ông sao Báo Đáp, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực và ghi hình phong tục đón Tết Trung Thu tại đền Xám, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.
  • Biên tập các ấn phẩm quảng bá du lịch Nam Định: tờ rơi, tập gấp về danh lam thắng cảnh và ẩm thực Nam Định, cẩm nang du lịch Nam Định.
  • Cung cấp ấn phẩm quảng bá cho khách du lịch, cho các đơn vị, địa phương có nhu cầu.
  • Tham gia ký liên kết Hợp tác công tác xúc tiến du lịch vùng miền với các tỉnh Đông bắc bộ tại Lạng Sơn.
  • Tham gia Triển lãm Du lịch – Lữ hành Hoa phượng đỏ tại TP Hải Phòng. – Tham gia khảo sát và tọa đàm “Nâng cao hiệu quả liên kết xây dựng sản phẩm và xúc tiến, quảng bá giữa du lịch Hải Dương với các tỉnh thành phố đồng bằng sông Hồng và phụ cận”
  • Tổ chức khảo sát các điểm du lịch: Tổ chức cho các hãng lữ hành, các đoàn báo chí đi khảo sát các khu du lịch trọng điểm của tỉnh.
  • Tham gia hội thảo phổ biến tập huấn chế độ báo cáo thống kê du lịch tại Ninh Bình.
  • Tham gia lớp tập huấn E-marketing tại Hà Nội.
  • Tham gia Hội Chợ Thương Mại Quốc Tế Việt-Trung năm 2023 tại Lạng Sơn. – Tham gia chương trình khảo sát điểm di tích tâm linh nổi bật và quan trọng của tỉnh Nam Định: Chùa Keo Hành Thiện, Quần thể di tích Đền Trần-chùa Phổ Minh, vườn quốc gia Xuân Thủy, Quần thể di tích Phủ Dầy do Tổng Cục Du Lịch tổ chức.  Nhìn chung, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của Nam Định thời gian qua đã được triển khai toàn diện hơn, giúp cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư đến tìm hiểu, nghiên cứu đầu tư phát triển du lịch tại Nam Định; hoạt động xúc tiến quảng bá đã có tác dụng kích cầu, mở rộng thị trường khách đến với Nam Định đặc biệt là các thị trường trung tâm như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xúc tiến quảng bá trên địa bàn tỉnh Nam Định cũng gặp nhiều hạn chế do:
  • Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn của Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch còn mỏng ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ.
  • Kinh phí cho tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch còn hạn chế; trang thiết bị văn phòng còn thiếu nên hiệu quả công việc chưa cao.
  • Trong công tác xúc tiến, quảng bá du lịch tới khách du lịch chưa chú trọng tới việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của du khách về các di sản văn hóa của tỉnh từ đó hình thành ý thức bảo tồn các di sản văn hóa – nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh. – Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của ngành du lịch Nam Định quy mô còn nhỏ hẹp, nội dung và hình thức chưa phù hợp với các thị trường khách khác nhau. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Tuy nhiên hoạt động xúc tiến quảng bá của các doanh nghiệp chưa tốt. Các doanh nghiệp chưa chủ động, chưa chú trọng hoạt động xúc tiến, quảng bá, kinh phí dành cho hoạt động này cũng rất thấp. Vì vậy, hoạt động tuyên truyền, quảng bá chưa đủ sức vươn tới những thị trường nguồn, những thông tin cung cấp nhiều khi chưa đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của du khách, việc nghiên cứu thị trường còn mang tính tự phát từ các doanh nghiệp. Chưa có các trung tâm thông tin du lịch, văn phòng đại diện du lịch tại các tỉnh bạn. Bên cạnh đó việc quảng cáo của một số doanh nghiệp thiếu trách nhiệm dẫn tới có những tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh du lịch và phát triển du lịch bền vững. Chính những yếu tố trên đã khiến cho hình ảnh du lịch Nam Định còn mờ nhạt trên thị trường du lịch trong và ngoài nước, du lịch Nam Định chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có. Bên cạnh đó trong hoạt động xúc tiến du lịch, việc tuyên truyền, quảng bá cho các hoạt động bảo tồn các tài nguyên du lịch nhân văn trong đó có các di sản văn hóa chưa được chú trọng. Vì vậy vẫn còn xảy ra tình trạng thiếu ý thức trong việc bảo vệ các di sản của du khách, và cộng đồng dân cư khi tham gia vào các hoạt động du lịch.

Tuy nhiên, với mục tiêu “đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh“, hướng tới bảo tồn các di sản văn hóa nhằm phục vụ cho sự bền vững của du lịch tỉnh, Đảng bộ Nam Định đang có những biện pháp cải thiện thiết thực nhất, cụ thể nhất là việc phối hợp với Viện nghiên cứu phát triển du lịch lập “quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” làm cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo của du lịch tỉnh.

2.7. Quản lý du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Nam Định 

2.7.1 Bộ máy quản lý du lịch

  • Ở cấp tỉnh

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: trực thuộc UBND tỉnh, có nhiệm vụ tham mưu và giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, thể dục – thể thao và du lịch của tỉnh. Về mảng văn hóa, Sở có nhiệm vụ sử dụng các nguồn lực để bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa tại địa phương.

Phòng nghiệp vụ du lịch: là phòng chuyên môn trực thuộc Sở và là đơn vị trực tiếp tham mưu và thực hiện toàn bộ các nhiệm vụ quản lý nhà nước về du lịch tỉnh nhà. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Nhưng đội ngũ cán bộ công chức của phòng lại quá ít nên chưa thể phát huy hết vai trò của mình.

Năm 2023, trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen của ngành du lịch Nam Định, điều kiện kinh phí hạn hẹp, phòng nghiệp vụ du lịch đã nỗ lực triển khai, thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo Sở triển khai công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh:

Kiện toàn Ban chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh Nam Định và xây dựng Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo phát triển Du lịch trình UBND tỉnh phê duyệt.

Xây dựng, trình và được UBND tỉnh phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 92/NQ- CP ngày 08/12/2023 của Chính Phủ về một số giải pháp phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới của tỉnh Nam Định (giai đoạn 2023- 2020).

Tham mưu UBND tỉnh và Ban chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh xây dựng báo cáo, đánh giá tổng kết tình hình 10 năm thi hành Luật Du lịch trên địa bàn tỉnh theo chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Tham gia thẩm định 2 dự án đầu tư hạ tầng du lịch tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy và Làng nghề chạm khắc gỗ La Xuyên huyện Ý Yên.

Chỉ đạo các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh chuẩn bị tốt các điều kiện về trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường công tác đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong dịp Tết, các lễ hội, mùa du lịch biển và phục vụ các sự kiện diễn ra trên địa bàn tỉnh Nam Định.

Chỉ đạo các cơ sở kinh doanh du lịch đảm bảo tốt các điều kiện đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ, tham gia phục vụ thành công Hội nghị ngành Công thương 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc lần thứ 2 và Hội chợ Công thương khu vực phía Bắc năm 2023 tại Nam Định.

Phối hợp với UBND các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu chỉ đạo Ban Quản lý các khu du lịch biển tăng cường công tác quản lý, triển khai thực hiện nhiệm vụ, khai trương mùa du lịch biển năm 2023, chú trọng đảm bảo an ninh, vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm, đề cao công tác cứu nạn cứu hộ đảm bảo an toàn cho khách du lịch.

  • Thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ:

Phối hợp với Thanh tra Sở tiến hành thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn các huyện Giao Thủy, Hải Hậu; tuyên truyền phổ biến pháp luật về du lịch nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ cơ sở kinh doanh du lịch đặc biệt tại 2 khu du lịch Quất Lâm và Thịnh Long.

Hướng dẫn các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch thiết lập hồ sơ đăng ký hạng cơ sở lưu trú du lịch và rà soát, đánh giá chất lượng các cơ sở lưu trú đã được phân loại xếp hạng, đảm bảo chất lượng theo quy định, trong năm đã tiến hành thẩm định, tái thẩm định phân loại xếp hạng cho 4 cơ sở lưu trú du lịch theo đúng quy định.

Tham gia đóng góp ý kiến các văn bản của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch và Tổng cục Du lịch như: dự thảo sửa đổi, bổ sung Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4391: 2022 Khách sạn – Xếp hạng và Bộ tiêu chí Nhãn du lịch bền vững Bông sen xanh, quy trình cấp nhãn cho các cơ sở lưu trú du lịch. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Thực hiện sự chỉ đạo của Giám đốc Sở triển khai phối hợp với Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch (Tổng cục Du lịch) khảo sát đánh giá một số khu, điểm du lịch trọng điểm trên địa bàn tỉnh phục vụ công tác xây dựng thương hiệu điểm đến của du lịch Nam Định.

Phối hợp với Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch) tổ chức cho các doanh nghiệp lữ hành, các cơ quan thông tấn báo chí triển khai khảo sát các khu, tuyến, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh trong Chương trình khảo sát tuyến, điểm du lịch tâm linh 6 tỉnh thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam trong tháng 10- 2023)

Tham gia các hội nghị, hội thảo chuyên đề như: Tọa đàm phát triển sản phẩm du lịch đường sông (tuyến du lịch sông Hồng); Hội thảo phát triển tuyến du lịch tâm linh Hà Nội – Hưng Yên – Thái Bình – Nam Định – Ninh Bình – Hà Nam.

Tổ chức triển khai Chương trình khảo sát cho đoàn phóng viên các cơ quan báo chí và Đài Phát thanh – Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tiếp cận các khu điểm du lịch, các di tích lịch sử có tiềm năng khai thác phục vụ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.

Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch: là đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch, đề án hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch ở địa phương. Những hoạt động này hiện đang diễn ra khá tích cực và có đóng góp cho ngành du lịch Nam Định. Mặc dù vậy, kinh phí hạn hẹp, đội ngũ cán bộ mỏng lại non trẻ, thiếu kinh nghiệm nên hiệu quả hoạt động chưa cao.

Ban quản lý di tích và danh thắng: là đơn vị chịu trách nhiệm kiểm kê, quản lý các di tích lịch sử văn hóa cách mạng, trên cơ sở đó lập quy hoạch tổng thể để bảo tồn và tôn tạo đối với từng di tích, đồng thời sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư của nhà nước và đóng góp của nhân dân để tu bổ, tôn tạo và phát huy các giá trị của di tích. Tuy nhiên. ban quản lý này mới chỉ quan tâm đến vấn đề thống kê, công nhận, lập hồ sơ trình báo về di tích và chưa quan tâm đến việc bảo vệ các giá trị văn hóa nguyên bản, đặc sắc của di tích.

Hiệp hội du lịch Nam Định: là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Nam Định hoạt động hợp pháp trong lĩnh vực du lịch. Mặc dù không tham gia quản lý Nhà nước về du lịch, song hiệp hội có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết, hợp tác, hỗ trợ các doanh nghiệp trong kinh doanh du lịch, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của du lịch Nam Định. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

  • Ở cấp huyện:

Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về du lịch ở địa bàn huyện được lồng ghép với phòng văn hóa – thông tin, song chưa quy định rõ ràng, cụ tể từng phần. Phòng văn hóa – thông tin các huyện, thành phố đã triển khai các nhiệm vụ như: tăng cường công tác quản lý đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh du lịch, các khu, điểm du lịch trên địa bàn; phối hợp quảng bá lễ hội, danh thắng, di tích tới du khách; tổng hợp báo cáo tình hình hoạt động du lịch, xây dựng triển khai kế hoạch phát triển du lịch của địa phương hàng quý, hàng năm.

Đội ngũ ban quản lý khu du lịch, điểm du lịch của Nam Định hiện nay chưa nhiều. Ở các điểm du lịch lễ hội lớn, đã thành lập ban quản lý, ban tổ chức. Song lực lượng tham gia vẫn chủ yếu là bán chuyên trách, kiêm nhiệm, lực lượng mỏng, nhiều cán bộ chưa được đào tạo chuyên ngành du lịch, khối lượng công việc lại nhiều nên công tác quản lý tại điểm của các Ban quản lý vẫn còn một số tồn tại, chưa thực sự hiệu quả. Do vậy, việc tổ chức các lễ hội hoặc các chương trình văn hóa, văn nghệ vẫn diễn ra tự phát, thiếu đồng bộ và chỉ chú trọng đến mục đích kinh tế. Song song với nó là do đội ngũ mỏng, trình độ còn non kém nên việc bảo quản, gìn giữ cũng như kịp thời sửa chữa những hư hại của các di tích – điểm du lịch còn chưa tốt.

Tóm lại, có thể thấy, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch chưa được đặt ngang tầm nhiệm vụ chính trị, cả về quy mô, năng lực và quyền hạn. Phòng nghiệp vụ du lịch thực hiện toàn bộ các nhiệm vụ quản lý nhà nước về du lịch do đội ngũ mỏng nên chưa phát huy hết vai trò của quản lý nhà nước đối với du lịch. Ở cấp huyện, đội ngũ cán bộ, chuyên viên làm công tác quản lý du lịch chủ yếu là kiêm nhiệm (trừ huyện Giao Thủy có cán bộ chuyên trách) nên công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở cấp huyện gần như bỏ ngỏ. Chính vì vậy, việc chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra các phòng nghiệp vụ chức năng cấp cơ sở trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa để phục vụ phát triển du lịch chưa được đúng mức, thường xuyên, liên tục dẫn tới nhiều hệ lụy như nhiều tài nguyên du lịch nhân văn đang dần mai một, nhiều di tích đang dần bị phá hủy hoặc có sự trùng tu nhưng không đúng quy chuẩn, không được các cấp có thẩm quyền chỉ đạo, giám sát….

2.7.2. Chính sách phát triển du lịch Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Nam Định gần như chưa có các quy định riêng về du lịch. Các chính sách phát triển du lịch tỉnh được hệ thống hóa từ đường lối phát triển chung của đất nước, Luật du lịch, Thông tư liên tịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các văn bản khác có liên quan. Sau mỗi kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, các chủ trương được cụ thể hóa thành chương trình, đề án phát triển du lịch như: Chương trình phát triển du lịch tỉnh các thời kỳ, chương trình phát triển thương mại du lịch để hội nhập kinh tế quốc tế các giai đoạn, đầu tư tu bổ, sửa chữa các di tích lịch sử, bảo tồn các di sản văn hóa ….

2.7.3. Quy hoạch phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hóa

Với mục tiêu đưa du lịch Nam Định trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương, Nam Định rất quan tâm tới công tác quy hoạch du lịch. Với dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, quy hoạch đã đánh giá các yếu tố nguồn lực, hiện trạng, kết quả thực hiện phát triển du lịch tỉnh Nam Định giai đoạn 2008-2018, từ đó đưa ra những dự báo các yếu tố tác động và cơ hội, thách thức đối với phát triển du lịch Nam Định đến năm 2020. Dựa trên quy hoạch này, trong 5 năm trở lại đây, du lịch Nam Định đã có bước phát triển, phần nào đạt được những chỉ tiêu của dự án đề ra. Tuy nhiên đây là dự án lâu dài nên Nam Định vẫn đang trên con đường phấn đấu để đạt được đúng và vượt so với những chỉ tiêu, định mức đề ra trong quy hoạch.

2.7.4. Quản lý hoạt động kinh doanh du lịch

Trong những năm qua, tình hình hoạt động kinh doanh và công tác quản lý tại các doanh nghiệp du lịch có nhiều chuyển biến tích cực. Triển khai “chương trình hành động quốc gia về du lịch”, tỉnh đã thực hiện các hội nghị phổ biến Luật du lịch, Luật di sản và Bộ tiêu chuẩn quốc gia về phân loại, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch tới các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh. Cùng đó tỉnh tổ chức các hội thảo tổng kết và rút kinh nghiệm sau mỗi lần tổ chức lễ hội lớn như: lễ khai ấn đền Trần, lễ hội chợ Viềng, lễ hội Phủ Dầy…

Công tác thẩm định, xếp hạng các cơ sở lưu trú, ăn uống và cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch được tiến hành thường xuyên. Trong 5 năm trở lại đây, toàn tỉnh có thêm nhiều cơ sở lưu trú. Tính đến năm 2023 có 319 cơ sở với 4.203 phòng (Bảng 2.6.). Tính đến tháng 12 năm 2023, tỉnh có 2 khách sạn 3 sao,18 khách sạn 2 sao và tương đương, 39 khách sạn 1 sao và tương đương và 75 cơ sở đạt tiêu chuẩn (Bảng 2.7.). Các cơ sở, đơn vị kinh doanh hoạt động du lịch tại Nam Định có ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật nhà nước đề ra như: tổng hợp báo cáo hoạt động kinh doanh của đơn vị về Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định theo định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Hiện không có đơn vị kinh doanh nào trên địa bàn vi phạm nghiêm trọng các quy định của nhà nước. Bên cạnh đó, Sở cũng phối hợp với thanh tra Bộ kiểm tra về chất lượng dịch vụ và vệ sinh môi trường tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Năm 2023, trên địa bàn toàn tỉnh có 3 dự án đầu tư hạ tầng du lịch tiếp tục được triển khai thực hiện với tổng vốn ngân sách trung ương hỗ trợ là 23 tỷ đồng. Cùng với đó, một số doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng mới và chỉnh trang nâng cấp các khách sạn, nhà nghỉ với mức vốn đầu tư trên 52 tỷ đồng, nâng tổng số cơ sở kinh doanh du lịch toàn tỉnh lên 555 cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, trong đó có 319 cơ sở kinh doanh lưu trú với 4.203 buồng phòng; 18 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành (trong đó 17 doanh nghiệp lữ hành nội địa và 1 doanh nghiệp lữ hành quốc tế).

Ước cả năm 2023, tổng lượng khách tới các điểm tham quan du lịch của tỉnh ước đạt 2.175.000 lượt tăng 5,6 % so với năm 2022. Trong đó, khách do các cơ sở lưu trú và ăn uống phục vụ đạt 1.195.000 lượt người, chiếm 54,9% tổng lượng khách. Khách tham dự lễ hội và tham quan di tích chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu khách, đạt 1.340.000 lượt (chiếm 61,6% tổng lượng khách). Khách du lịch đến các khu du lịch sinh thái, biển đạt 575.000 (chiếm 26,4% tổng lượng khách). Khách công vụ, thăm thân kết hợp du lịch đạt 260.000 lượt người (chiếm 12% tổng lượng khách).

Thu nhập du lịch ước đạt 520 tỷ đồng tăng 11,6% so với năm 2022. Trong đó, doanh thu ăn uống và lưu trú đạt 385 tỷ đồng (chiếm 74% tổng doanh thu), doanh thu từ khách lễ hội và mua sắm đạt 85 tỷ đồng, doanh thu lữ hành, vận chuyển đạt 50 tỷ đồng.

Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh du lịch Nam Định cũng còn nhiều bất cập:

  • Đa số các doanh nghiệp còn yếu kém trong khâu nắm bắt thị trường, trong kinh doanh chưa xây dựng được chiến lược phát triển lâu dài.
  • Các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú còn thụ động về nguồn khách, chưa chủ động tìm kiếm khách hàng. Doanh nghiệp lữ hành chưa mạnh dạn đầu tư mở rộng các dịch vụ du lịch vì thế sản phẩm du lịch giữa các doanh nghiệp có sự trùng lặp, nghèo nàn.
  • Khả năng liên kết hỗ trợ nhau trong kinh doanh du lịch chưa tốt. Ý thức chấp hành chính sách của Nhà nước, pháp luật của một số doanh nghiệp chưa cao.
  • Các đơn vị kinh doanh trên địa bàn tỉnh phải chịu sự quản lý của quá nhiều ngành nên dẫn đến thiếu đồng bộ. Vì vậy ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp nếu một khâu nào đó bị ách tắc. Việc thanh tra, kiểm tra theo chức năng riêng của từng ngành cũng ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là đối với hoạt động kinh doanh khách sạn, có những khách sạn trong cùng một ngày phải tiếp nhiều đoàn kiểm tra của các cấp, ngành khác nhau.
  • Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh có một số được chuyển từ ngành khác sang, chưa có kiến thức về lĩnh vực này, số còn lại là cán bộ của các doanh nghiệp đơn vị tư nhân lại chưa qua trường lớp đào tạo chính quy về nghiệp vụ du lịch. Đây là một trong những vấn đề cấp bách cần ngành du lịch Nam Định phải giải quyết gấp để có thể phát triển du lịch Nam Định một cách bền vững.

2.7.5. Vấn đề bảo tồn các di sản văn hóa trong phát triển du lịch

2.7.5.1. Kết quả đạt được Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Trong những năm qua công tác bảo tồn các di sản văn hóa ở Nam Định đã đạt được một số kết quả sau:

Trong lĩnh vực tu bổ di tích lịch sử, văn hóa: Thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, Nam Định đã đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc bảo tồn di sản. Ví dụ như huyện Xuân Trường đã tiến hành trùng tu, tôn tạo hàng chục di tích (chùa Keo Hành Thiện, chùa Ngọc Tỉnh, đền Xuân Hy, chùa Lạc Quần…) với kinh phí hàng chục tỷ đồng, trong đó 70% kinh phí là do người dân địa phương đóng góp. Hay huyện Trực Ninh cũng đã nhận được sự ủng hộ của du khách và nhân dân địa phương nên đã có nguồn kinh phí 700 triệu đồng để tiến hành nâng cấp, tu bổ toàn diện các di tích (chùa Cổ Lễ, chùa Cự Trữ, đền Cổ Chất, nhà thờ họ Bùi, nhà thờ Dương Tam Kha). Các huyện thị khác như thành phố Nam Định, huyện Hải Hậu, Vụ Bản… cũng đang thực hiện tốt chủ trương này.

Trong lĩnh vực sưu tầm: Bảo tàng tỉnh Nam Định đã phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai có hiệu quả công tác sưu tầm, bổ sung tài liệu, đổi mới nội dung và hình thức trưng bày. Hiện nay, Bảo tàng có gần 20.000 hiện vật, tài liệu trong đó có nhiều bộ sưu tầm cổ vật có giá trị, vừa phong phú ở loại hình, vừa đa dạng ở chất liệu như: rìu, bôn, bàn mài bằng đá của người Việt cổ có niên đại 4.000-5.000 năm; điêu khắc đá thời Lý, đất nung thời Trần, chạm khắc gỗ thời Hậu Lê… Ngoài ra, những năm qua, Bảo tàng Nam Định đã tổ chức tiếp nhận 4 đợt hiến tặng, với 496 hiện vật của các tổ chức và cá nhân, trong đó, có nhiều bộ sưu tầm đồ đồng thuộc nền văn hóa Đông Sơn.

Trong lĩnh vực thăm dò, khai quật khảo cổ: Ở lĩnh vực này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng tỉnh Nam Định đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành giám sát và khai quật một loạt vị trí thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa Trần như: Vạn Khoảnh, Lựu Phố, Đệ Tam Tây, Hậu Bồi, cánh đồng giữa đền Trần – chùa Tháp. Kết quả đã tìm thấy hàng ngàn di vật gạch ngói, vật liệu, trang trí kiến trúc, gốm men ngọc, đồ kim loại … từ đó làm rõ một phần dấu tích của cung Trùng Hoa và là cơ sở khoa học để khẳng định Hành cung Thiên Trường là kinh đô thứ hai của nhà Trần sau Thăng Long.

  • Trong lĩnh vực phục hồi các giá trị văn hóa: Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Được sự quan tâm của các cấp ban ngành, nhiều loại hình nghệ thuật dân gian trong tỉnh được khôi phục trở lại. Toàn tỉnh hiện có trên 400 đội văn nghệ quần chúng, 1.568 câu lạc bộ sở thích với nhiều loại hình nghệ thuật dân gian phục vụ nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Nhiều đội chèo hoạt động theo phương thức xã hội hóa, tự đóng góp kinh phí, mua sắm thiết bị âm thanh, trang phục biểu diễn. Trong việc tổ chức và quản lý lễ hội ngoài phần “lễ”, trong phần hội, các trò chơi dân gian như: đấu vật, chọi gà, tổ tôm điếm, đánh cờ người… đã từng bước được các địa phương đầu tư khôi phục.

Ngày 25 tháng 12 năm 2023 vừa qua Bảo tàng Nam Định đã kết hợp với Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam tổ chức thành công trưng bày triển lãm “Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt bản sắc và giá trị”. Qua triển lãm du khách hiểu rõ hơn về nguồn gốc tín ngưỡng dân gian này. Bên cạnh đó triển lãm còn tổ chức cho khách tham quan có thể trải nghiệm học vấn khăn, tìm hiểu trang phục của các ông đồng, bà đồng trong các giá hầu đồng – nét đặc trưng của loại hình tín ngưỡng này…

Trên lĩnh vực bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia: Với sự tham gia tích cực Hội cổ vật Thiên Trường; hoạt động sưu tầm, giao lưu cổ vật ở Nam Định đã theo đúng quy định của pháp luật. Hưởng ứng phong trào tự nguyện hiến tặng cổ vật cho Nhà nước do Hội phát động, đến nay 48/50 hội viên của Hội hiến tặng 433 cổ vật cho Bảo tàng tỉnh. Bên cạnh đó, vào ngày mùng 7 tết hàng năm, Hội đều tổ chức mời các giáo sư, các nhà khoa học chuyên về lĩnh vực khảo cổ tới dự qua bồi dưỡng cho hội viên những kiến thức về nguồn gốc, xuất xứ, niên đại sản xuất và kinh nghiệm nhận biết chất lượng cổ vật. Đây cũng là dịp hội tụ cổ vật tiêu biểu để mọi người mua, bán, trao đổi thông tin trong việc sưu tầm và bảo tồn cổ vật. Thông qua đó, hiện tượng trà trộn đồ giả cổ, đồ sửa chữa để chào bán là đồ cổ đã cơ bản chấm dứt. Hội cũng đã tổ chức nhiều đợt trưng bày với quy mô lớn và tổ chức nhiều đợt giao lưu với các tỉnh bạn để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm đồng thời nâng cao vị thế của Hội và quảng bá văn hóa, du lịch tỉnh Nam Định với họ.

Sự tham gia của các nghệ nhân dân gian – “báu vật nhân văn sống” (theo cách gọi của UNESCO) trong việc bảo tồn các di sản văn hóa địa phương. Các nghệ nhân dân gian xuất sắc về một hoặc nhiều lĩnh vực của văn hóa truyền thống có mặt ở nhiều làng quê Nam Định, trong đó có nhiều nghệ nhân dân gian được tôn vinh ở cấp quốc gia, tiêu biểu là hai nghệ nhân: Đào Thị Sại và Hà Thị Cầu. Hai cụ là những nghệ nhân bậc thầy về chầu văn và hát xẩm. Năm 2024, tỉnh Nam Định vinh dự có thêm nhiều nghệ sĩ nhân dân, nghệ nhân ưu tú được nhà nước vinh danh. Tiêu biểu có Bà Nguyễn Thị Kim Liên – Nghệ sĩ nhân dân – nguyên phó trưởng đoàn chèo Hà Nam Ninh. Ông Trần Quang Lộc – Nghệ nhân ưu tú có công trong việc lưu giữ loại hình văn hóa phi vật thể như: hát chèo, hát văn, ca trù. Ông Đỗ Đình Thọ – Nghệ nhân ưu tú nắm giữ loại hình văn hóa phi vật thể đó là kỹ thuật chế biến kẹo Sìu Châu. Tuy nhiên, ngoài các nghệ nhân được tôn vinh hoặc có may mắn được đứng trên sân khấu lớn, đi biểu diễn nước ngoài, còn lại phần lớn các nghệ nhân dù chưa được biết đến song vẫn âm thầm công việc truyền dạy, chuyển tải vốn di sản của mình cho thế hệ trẻ. Hiện nay, phần lớn các nghệ nhân dân gian đều tuổi đã cao, kho tàng văn hóa phi vật thể mà họ nắm giữ lại chủ yếu được lưu trong trí nhớ theo phương pháp truyền miệng, truyền nghề; nguy cơ nhiều di sản văn hóa quý giá sẽ bị mai một nếu không có kế hoạch, biện pháp gìn giữ. Trong thời gian qua, nhận thức được điều đó, các hội viên bộ môn nghiên cứu sưu tầm (hội văn hóa nghệ thuật Nam Định) đã tổ chức các chuyến điền dã nhằm khảo sát thực trạng của di sản văn hóa, văn nghệ dân gian; tìm hiểu và lên danh sách các vị nghệ nhân về các loại hình nghệ thuật; tập trung sưu tầm khai thác các giá trị văn hóa đã được sáng tạo, hun đúc từ các thế hệ nghệ nhân. Qua đó góp phần bảo tồn những di sản văn hóa quý giá của dân tộc cho hôm nay và thế hệ mai sau.

2.7.5.2. Hạn chế Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được. công tác bảo tồn di sản ở Nam Định vẫn còn những hạn chế sau:

  • Nhiều địa phương trong tỉnh tự ý sửa chữa, tu bổ di tích. Điều này khiến cho nhiều di tích dù đã được xếp hạng nhưng bị biến dạng và mất đi các yếu tố gốc. Các chi tiết nề, mộc, tạc, tô tượng, các họa tiết chạm khắc hoa văn thiếu sự chau chuốt, đôi chỗ còn cẩu thả. Các bức tượng được đắp lại bằng xi măng và được tô màu hiện đại. Nhiều nơi còn dùng cả gạch men kính để lát ban thờ, lát nền di tích bằng gạch đá hoa, dùng xi măng trám vào các cột kèo bị mối mọt hoặc tự ý xây thêm các công trình mới…
  • Với các di tích chưa được xếp hạng (gần 1.800 di tích) cũng ở trong tình trạng trên. Địa phương tự ý sửa chữa mà không xin ý kiến của chuyên gia và các cơ quan quản lý.
  • Ở một số nơi vẫn còn diễn ra tình trạng mất cắp cổ vật, di vật, cổ thư.
  • Các lễ hội truyền thống của tỉnh đang dần bị thương mại hóa, thần thánh hóa, hiện đại hóa. Nó đang ngày càng bị biến dạng, mất đi nét đặc thù riêng, giống như bất kỳ lễ nào mà chúng ta đi các địa phương khác cũng bắt gặp.
  • Các trò chơi dân gian truyền thống, các làn điệu dân ca cũng đang dần bị mai một, có nguy cơ thất truyền. Các loại hình nghệ thuật độc đáo như hát xẩm, múa bài bông, ca trù… đang ngày một “vắng bóng” trong đời sống xã hội thay vào đó là các trò chơi không những không có tính nghệ thuật mà còn làm mất đi tính thẩm mỹ, giá trị văn hóa của lễ hội như các trò chơi phi tiêu trúng thưởng, xóc đĩa, đánh bạc…. Du khách đi lễ hội bị móc túi lúc nào không biết khiến cho nhiều người không khỏi khó chịu.

2.7.5.3. Nguyên nhân

Công tác bảo tồn, trung tu di tích gặp nhiều khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chính sau:

Đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong quản lý và thực thi công tác bảo tồn di tích còn thiếu. Người làm công tác bảo tồn đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn sâu và tâm huyết với nghề nhưng trên thực tế nhiều người phải làm công việc này một cách không tự nguyện hoặc tự giành lấy công việc này vì vụ lợi cá nhân. Chính vì vậy việc trung tu di tích được thực hiện với sự chắp vá bởi một kiến thức nông cạn, chắp vá, bàn tay không có tâm, không có nghề nên di tích đã bị xâm hại đến các giá trị vốn có của nó. Để đảm bảo chất lượng của việc bảo tồn di tích, thì công việc này phải được giao phó cho những lực lượng chuyên nghiệp, có đủ kiến thức, năng lực và kinh nghiệm về lĩnh vực này, đồng thời có chính sách đãi ngộ phù hợp và xứng đáng với công việc của họ đang đảm nhận. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Ngân sách chi cho công việc trùng tu, bảo tồn di tích còn hạn chế, thiếu sự quan tâm đồng bộ của các cấp có thẩm quyền. Việc trùng tu di tích khác hẳn với việc sửa chữa nhà cửa thông thường. Nó không chỉ đòi hỏi yếu tố kỹ thuật cao, theo quy định của nhà nước mà còn cần một lượng chi phí lớn cho việc lập dự án trùng tu. Do thiếu kinh phí nên việc khảo sát, nghiên cứu về di tích thường được thực hiện sơ sài. Giai đoạn thiết kế bị tách rời, sau khi thiết kế xong giao cho đơn vị khác thi công.

Người thiết kế không hiểu biết cặn kẽ về di tích, người thi công không hiểu rõ ý đồ dẫn tới việc trùng tu không đảm bảo kỹ thuật, thẩm mỹ, gìn giữ giá trị nguyên bản của nó. Ngoài ra, việc điều chỉnh, bổ sung thiết kế trong suốt quá trình thi công trùng tu di tích rất quan trọng nhưng luôn gặp khó khăn về thủ tục nên thường bị bỏ qua. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư vấn hay thi công vẫn phải đảm bảo duy trì hoạt động và có lợi nhuận. Kết quả là di tích phải gánh chịu tất cả những bất cập đó.

Một nguyên nhân nữa do địa phương quá chú trọng thu lợi kinh tế mà bỏ quên nội hàm văn hóa của nó nên dẫn tới việc “thất lạc“, “biến dạng” các di sản văn hóa phi vật thể.

Nhìn chung, vấn đề bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song vẫn tồn tại những hạn chế lớn trong việc trùng tu, tôn tạo di tích. Di sản văn hóa là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quý giá cần được bảo tồn một cách khoa học, có nguyên tắc, theo quy định của pháp luật và với một tấm lòng thành kính. Các tài nguyên này không thể trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn khách du lịch nếu nó mất đi các giá trị gốc của nó. Vì vậy, để phát triển du lịch bền vững, Nam Định cần chú trọng hơn nữa việc giữ gìn, bảo tồn các giá trị nguyên bản, những nét đẹp của các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.

Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

Nam Định là một tỉnh có nhiều lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch đa dạng về số lượng và thể loại bao gồm các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, di tích kiến trúc, tín ngưỡng, tôn giáo … Có thể nói đây là nguồn tài nguyên vô cùng dồi dào để phục vụ khai thác các hoạt động du lịch. Tiêu biểu như nhà thờ Phú Nhai, quần thể di tích văn hóa lịch sử triều Trần, quần thể di tích Phủ Dầy, nghi lễ chầu văn hầu đồng, lễ hội chùa Keo – Hành Thiện, lễ hội chùa Cổ Lễ, lễ hội đền Trần, lễ hội Phủ Dầy, hội chợ Viềng, văn hóa ẩm thực Nam Định. Bên cạnh đó, được sự quan tâm chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch và sự phối hợp đồng thuận của các cấp ban ngành trên địa bàn cũng như của cộng đồng nên có điều kiện cơ bản để phát triển du lịch. Tuy nhiên du lịch Nam Định vẫn chưa phát triển xứng với tiềm năng. Công tác bảo tồn, tôn tạo và khai thác di sản văn hóa còn thiếu tính bền vững, nhiều bất cập, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chưa đáp ứng nhu cầu du khách, đặc biệt là khách quốc tế.

Bên cạnh đó, việc đầu tư phát triển du lịch còn thiếu tập trung, thiếu vốn; các chính sách về đầu tư chưa kịp thời nên ảnh hưởng nhiều tới việc huy động vốn và khai thác mọi nguồn lực xã hội vào đầu tư phát triển du lịch; công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn và khai thác giá trị của di sản văn hóa còn thiếu định hướng; Hoạt động khai thác tại di tích còn đơn điệu, chưa có sự kết hợp tốt giữa khai thác giá trị văn hóa vật thể và giá trị văn hóa phi vật thể; Việc tạo ra sản phẩm đặc thù để thu hút khách du lịch chưa được chú trọng.

Du lịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình “tiếp thị di sản“, giúp di sản văn hóa Nam Định được nhiều người biết đến. Do đó việc bảo tồn di sản nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch tỉnh nhà là một điều cấp thiết, cần được quan tâm, đầu tư một cách khoa học, nghiêm túc. Luận văn: Thực trạng du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp du lịch bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993