Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. Sơ lược về trường trung học cơ sở Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
Trường THCS Nam Phong được thành lập ngày 5/9/1959, đóng trên địa bàn xã Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Số lớp học 08 và tổng số hơn 200 HS.
Khuôn viên trường có diện tích 4828 m2, CSVC của nhà trường với 8 phòng học, 6 phòng chức năng; 4 phòng hành chính, CSVC, khung cảnh sư phạm, các điều kiện dạy và học đều tốt.
Tập thể cán bộ, giáo viên đoàn kết, nhất trí, có ý thức phấn đấu học hỏi, trau dồi kỹ năng nghiệp vụ. Ban giám hiệu tâm huyết, nhiệt tình, luôn đồng thuận và có trách nhiệm cao.
Phần lớn học sinh có nề nếp, có ý thức phấn đấu trong học tập và rèn luyện, nhiều em đã nỗ lực vượt khó vươn lên để học tập tốt. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Trường THCS Nam Phong là một cơ sở giáo dục đã khẳng định được vị trí đứng đầu trong huyện Phú Xuyên, là địa chỉ đáng tin cậy của các bậc cha mẹ HS trong huyện Phú Xuyên và các vùng lân cận về chất lượng đào tạo HS.
2.1.1. Chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội năm học 2018 -2019
Bảng 2.1. Chất lượng hai mặt giáo dục của THCS Nam Phong
Theo báo cáo tổng kết năm học 2018-2019 của trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
2.1.2. Thông tin về cán bộ, giáo viên
Bộ máy quản lý của Nhà trường đủ về số lượng (SL) và đáp ứng được các yêu cầu GD hiện nay. Cụ thể: + Tổng số CBQL: 02 ( Nữ 02)
+ Giáo viên: 27 ( nữ: 25) + Nhân viên: 07 ( Nữ: 7)
Bảng 2.2. Thông tin về cán bộ, giáo viên trường THCS Nam Phong
Qua bảng số liệu 2.2 cho thấy, cơ cấu tuổi nghề và tuổi đời CBQL và đội ngũ GV các trường THCS Nam Phong được khảo sát tập trung vào nhóm có thâm niên công tác từ 16 đến 25 năm và độ tuổi từ 35 đến 45 tuổi. Với độ tuổi này, các GV và CBQL đã có những tích lũy nhất định về chuyên môn, phương pháp giảng dạy và GD, có khả năng cập nhật cái mới và tiếp nhận sự thay đổi. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và GD KNS cho HS trên địa bàn được khảo sát, đáp ứng được yêu cầu đổi mới GD hiện nay.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.2. Giới thiệu về khảo sát thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
2.2.1. Mục đích khảo sát
Mục đích là tìm hiểu thực trạng KNS của HS của trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội và tìm hiểu về thực trạng việc quản lý hoạt động GD KNS của trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay khi mà nền GD Việt Nam đang đứng trước rất nhiều những khó khăn ảnh hưởng từ nền kinh tế thị trường và cũng là nhằm thực hiện mục tiêu của GD&ĐT là GD con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân qua đó đề xuất được những giải pháp phù hợp cho những tồn tại cần khắc phục.
2.2.2. Nội dung khảo sát Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Khảo sát thực tiễn bao gồm các nội dung sau:
- Thiết kế công cụ điều tra thực tiễn (phiếu khảo sát, phiếu phỏng vấn)
- Xác định độ tin cậy và chỉnh sửa các mệnh đề đưa ra trong bảng hỏi và tính bao quát của các mẫu phiếu
- Phát phiếu điều tra, thu thập thông tin
- Phân tích các kết quả điều tra
Các nội dung khảo sát được thực hiện trên các lĩnh vực và các đối tượng như sau: Khảo sát nhận thức của HS, GV, PHHS, CBQL về vai trò và ý nghĩa của việc GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong; về thực trạng GD KNS cho HS và thực trạng quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong. Khảo sát chương trình GD KNS, phương pháp, hình thức, kết quả GD KNS, nội dung quản lí hoạt động giáo dục KNS và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quản lí hoạt động giáo dục KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
2.2.3. Phương pháp khảo sát
Phỏng vấn sâu: CBQL, GVCN, HS
Quan sát: Quan sát trực tiếp hành vi, những biểu hiện trong quá trình học tập, giảng dạy, thái độ của HS, GV, CBQL đối với hoạt động giáo dục KNS của nhà trường.
Điều tra bằng bảng hỏi: Dựa trên cơ sở lý luận của đề tài, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài và trên cơ sở tham khảo nội dung từ các thang đánh giá khác nhau, tác giả xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến. Các khách thể tham gia điều tra được trả lời độc lập, theo nhận định của cá nhân đối với thực trạng GD KNS và quản lý GD KNS cho HS các trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
2.2.4. Đối tượng khảo sát
- Địa bàn khảo sát: Trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
- Đối tượng khảo sát gồm: HS, GV, PHHS, CBQL và HS các khối lớp 6,7,8,9 của các trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
- Mẫu khảo sát: CBQL 9, GV 27, HS 213 – PHHS 213.
2.3. Kết quả khảo sát Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
2.3.1. Thực trạng về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
2.3.1.1. Thực trạng kỹ năng sống của học sinh trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Thực hiện sự chỉ đạo của Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, trường THCS Nam Phong đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp nâng cao chất lượng GD, tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập của HS theo chuẩn kiến thức kỹ năng; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện tích hợp trong GD; chú trọng GD đạo đức, KNS cho HS.
Trong những năm gần đây kết quả hai mặt GD của nhà trường luôn đứng trong tốp đầu của huyện các thành tích như: ôn thi vào lớp 10 PTTH, HS giỏi các cấp, HS giỏi đạt giải luôn ở mức cao về chất lượng cũng như số lượng, đa số các em HS đã có ý thức tu dưỡng về đạo đức, phẩm chất và nhân cách, tuy nhiên con số điều tra về tình trạng HS ham chơi, trốn học, mắc các thói hư như: hút thuốc lá, nghiện game, vi phạm luật an toàn giao thông, gây mâu thuẫn và tham gia đánh nhau,… xảy ra khá thường xuyên, tình trạng gia lận trong thi cử, thiếu đồ dùng học tập, gây rối trong giờ học cũng khá phổ biến. Nghiêm trọng hơn một bộ phận nhỏ HS có hành vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: trộm cắp tài sản, phá hoại tài sản công dân. Những hiện tượng xấu trên xảy một phần rất lớn là do HS hiện nay chỉ tập trung học kiến thức văn hóa, hoạt động GD đạo đức, KNS bị xem nhẹ, theo số liệu của Công an huyện Phú Xuyên cung cấp thì số HS vi phạm luật an toàn giao thông, gây mất trật tự nơi công cộng chiếm tỷ lệ cao hơn so với các nhóm đối tượng khác.
Để đánh giá thực trạng nhận thức KNS của HS THCS, tác giả đề tài đã khảo sát bằng hình thức phỏng vấn sâu 30 HS trường THCS trong Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Kết quả là 11 HS có câu trả lời là: có được tham gia, số còn lại trả lời là: không’, trong đó 16 HS trả lời: rất muốn được tham gia vào các hoạt động tập thể, 3 HS còn lại trả lời: không và lý do các em đưa ra là các em không đủ tự tin để giao tiếp trong đám đông hoặc thời gian tham gia các lớp học chính khóa và học thêm chiếm phần lớn quỹ thời gian có trong ngày nên các em không thể sắp xếp được thời gian tham gia các hoạt động ngoại khóa khác. Kết quả trên đây cho thấy hầu như HS không có cơ hội để tham gia vào các hoạt động ngoại khóa mang tính trải nghiệm để hình thành KNS.
Để tìm hiểu rõ hơn về những biểu hiện tiêu cực của HS hiện nay, tác giả đã tiến hành trao đổi với 27 GV của trường THCS Nam Phong, cũng như quan sát thực tế từ những biểu hiện hàng ngày trong đời sống, tác giả đã rút ra một số nhận xét sau:
HS còn yếu về KNS, biểu hiện qua các hành động cụ thể: kỹ năng giao tiếp thiếu tự tin, nhận thức về cuộc sống còn lệch lạc, một số ít biểu hiện sự thiếu niềm tin, hoài nghi trong các mối quan hệ với mọi người, kể cả với người thân; ngại bộc bạch, thổ lộ tâm tư, kể cả những suy nghĩ tích cực. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Một số HS khác chia sẻ các em sống trong gia đình có đủ vật chất, mọi mong muốn về vật chất của các em đều được đáp ứng, song đời sống tinh thần còn nghèo nàn, các thành viên trong gia đình ít có cơ hội gặp gỡ, chuyện trò, mọi người đều bận rộn những công việc cá nhân của riêng mình, đo đó các em hầu như cảm thấy bị thiếu thốn tình cảm yêu thương từ bố mẹ, anh chị em, dẫn đến việc các em có những suy nghĩ tiêu cực, mất thăng bằng về tình cảm, dễ bị kích động hoặc trở nên nhu nhược.
Hiện nay số HS trở nên chai lỳ, có biểu hiện phớt lờ mọi việc diễn ra xung quanh, hoặc có hành vi phản ứng hết sức tiêu cực với mọi người, kể cả là người thân, ruột thịt cũng ngày càng phố biến trong xã hội. Nhiều em sống không có ý chí, thiếu mục đích, dễ bị lôi cuốn vào những thói hư, tật xấu hoặc ngại khó, ngại khổ cũng không còn là hiện tượng hiếm gặp.
Tất cả những sự thật đáng lo ngại mà tác giả đề cập ở trên đặt ra câu hỏi lớn cho: gia đình, xã hội và đặc biệt là các nhà trường, nơi mà các em dành phần lớn thời gian để sinh hoạt, học tập. Làm thế nào để giảm thiểu các biểu hiện không tốt đó ở trẻ? Phải chăng đó là sự yếu kém trong hoạt động GD KNS ở các nhà trường? Và sự thiếu kết phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng để tiến hành GD cho HS?
2.3.1.2. Thực trạng hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tại trường trung học cơ sở Nam Phong
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một quá trình liên tục, lâu dài và cần có sự thống nhất, liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố: nhận thức của mỗi người GV đến việc khai các nội dung, hình thức, biện pháp GD KNS đến khâu cuối cùng là kiểm tra, đánh giá kết quả của việc thực hiện hoạt động giáo dục KNS cho từng giai đoạn.
Để hiểu thêm về thực trạng hoạt động GD KNS cho HS ở các trường THCS Nam Phong, tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến đánh giá của 27 GV và 213 HS về mức độ thực hiện HĐ GD KNS cho HS và kết quả thu được cụ thể như sau:
Bảng 2.3. Kết quả thực hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Bảng 2.3 cho thấy chỉ có 25,9% GV cho rằng hoạt động giáo dục KNS cho HS đang được thực hiện tốt, 44,4% nhận định công tác GD KNS chỉ ở mức khá và số lượng giáo viên thừa nhận việc triển khai chưa tốt là 29,7%. Số lượng học sinh nhận định về mức độ thực hiện công tác GD KNS cũng có số liệu tương đương như nhận định của GV.
Như vậy có thể thấy rất rõ kết quả hoạt động GD KNS ở trường THCS Nam Phong là chưa đạt hiệu quả như mong muốn và những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên chính là từ những nguyên nhân như: Nội dung GD KNS chưa phong phú, đa dạng, hình thức chưa phù hợp và đặc biệt là do nhận thức của phần lớn GV trong việc thực hiện công tác này còn chưa đúng đắn.
- Thực trạng về các nội dung hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong
Để tìm hiểu thực trạng về việc thực hiện các nội dung của công tác GD KNS cho HS các trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội trong 02 năm học gần đây, tác giả tiến hành khảo sát 57 GV và phát phiếu hỏi đối với 230 CBQL, GV và PHHS. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Phần lớn ý kiến đều cho rằng việc tích hợp tùy thuộc vào mỗi GV, nhà trường chưa có nội dung đồng bộ, thống nhất cho từng chủ đề của tiết GD HĐ NGLL. Trong các hoạt động ngoại khóa của nhà trường, việc tổ chức đều mang tính chất biểu diễn, hình thức, không nhằm mục đích GD KNS cho HS. Lượng HS được tham gia vào các hoạt động chưa nhiều, hình thức chưa phong phú, số HS tham gia chủ yếu tập trung ở các nhóm đối tượng HS ngoan, có năng khiếu, để tìm hiểu rõ hơn về nội dung này tác giả đã tiến hành khảo sát 150 HS về các nội dung mà các em đã được học có liên quan đến GD KNS với những điều cơ bản nhất, cần thiết nhất và gần gũi nhất trong cuộc sống hàng ngày, kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện các nội dung cơ bản liên quan đến hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Số liệu trong bảng cho thấy việc GD những kỹ năng cơ bản nhất đã được các GV triển khai thực hiện, tuy nhiên tỷ lệ ở mức độ thỉnh thoảng vẫn dừng ở con số khá cao: 30% cho việc thực hiện nội dung GD cách lựa chọn trang phục, 26,7% cho việc thực hiện nội dung chỉ dẫn cách sử dụng ngôn ngữ và 16,1% cho việc rèn luyện kỹ năng ứng xử lễ phép, lịch sự, trong khi tất cả những nội dung trên cần phải được GD cho HS một cách rất thường xuyên.
- Thực trạng về các phương pháp được áp dụng để hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong
Thực tế cho thấy hầu hết các trường học ở Việt Nam nói chung và các trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội nói riêng hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn về CSVC: diện tích nhỏ hẹp, không đủ điều kiện về sân chơi, bãi tập; thiếu các phòng học chức năng; các phòng học chưa đạt chuẩn; thời gian biểu còn nhiều bất cập. Với những khó khăn được đề cập ở trên để tiến hành một cách triệt để, có hiệu quả việc đổi mới các phương pháp dạy học tích cực với các bộ môn và đặc biệt khó khăn hơn với việc tổ chức các hoạt động GD KNS cho HS.
Khi được hỏi về các phương pháp thường được áp dụng để giảng dạy trong các tiết học, trong đó có tiết HĐ GDNGLL 13 GV được hỏi đều có chung câu trả lời: đã có ý thức thay đổi phương pháp nhưng không thể thực hiện triệt để, phần lớn các tiết dạy vẫn tiến hành theo các phương pháp truyền thống: Phát vấn, Thuyết trình, Thảo luận,., một số các phương pháp khác mang tính tích cực hơn cũng được áp dụng như: Thảo luận nhóm, Giải quyết tình huống, Hoạt động theo cặp,… nhưng chưa nhiều và chưa thường xuyên, các phương pháp truyền thống có những hạn chế nhất định: coi người thầy là trung tâm của quá trình giảng dạy trên lớp, tập trung vào truyền thụ kiến thức, HS lĩnh hội kiến thức một cách thụ động, phần lớn thời gian HS làm việc riêng lẻ, độc lập, không có sự trao đổi hay hoạt động theo nhóm nhiều để phát huy hết vai trò trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau…
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ GD KNS cho HS thì một trong những phương pháp quan trọng nhất là phương pháp trải nghiệm sáng tạo, một phương pháp mà trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình các giá trị sống, các KNS và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế phương pháp này hầu như chưa được sử dụng một cách triệt để, để tìm hiểu cụ thể hơn, chính xác hơn kết luận trên, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 8 GVCN.
Kết quả là có tới 6 đồng chí GVCN trả lời chỉ thỉnh thoảng áp dụng vì điều kiện kinh tế của các em HS chưa đáp ứng được việc tham gia các hoạt động trải nghiệm, vì các Trung tâm tổ chức các hoạt động trải nghiệm còn rất ít và vì điều kiện CSVC của nhà trường chưa đủ để tự tổ chức, sân bãi hẹp, ảnh hưởng đến các lớp học xung quanh và vì không nhận được sự ủng hộ từ phía PHHS, 02 đồng chí có câu trả lời là đã triển khai thường xuyên thực hiện vì trong lớp chủ nhiệm của những đồng chí này có bậc cha mẹ đã từng tham gia các buổi hội thảo về giá trị của việc GD KNS nên hiểu được tầm quan trọng của KNS đối với HS, có cha mẹ HS hiện đang trực tiếp tham gia hoạt động trong các Trung tâm GD KNS của huyện.
Vậy có thể khẳng định các biện pháp thực hiện GD KNS trong trường THCS Nam Phong chưa đạt kết quả tốt.
- Thực trạng về các hình thức tổ chức GD KNS cho HS THCS Nam Phong
Qua khảo sát, các nhà trường đã triển khai các HĐ GD KNS cho HS, phần lớn thông qua tiết HĐ GDNGLL và các hoạt động ngoại khóa như các chuyên đề, các buổi nói chuyện, một số câu lạc bộ: Câu lạc bộ Tiếng anh, Câu lạc bộ sao tuổi thơ, Chiến sỹ an ninh nhỏ tuổi, Kể chuyện sách báo, … hoặc lồng ghép vào một số các môn học khác: Tiếng Anh, GDCD, Văn,…Tuy nhiên, tiết HĐ NGLL là phân môn cứng trong chương trình GD có kế hoạch, có phân phối chương trình và những quy định cụ thể về cách soạn giáo án, về hình thức tổ chức,… nên việc thực hiện diễn ra khá nghiêm túc. Có GV tận dụng tiết GD HĐ NGLL để dạy bù những tiết chậm chương trình hoặc dạy thay bằng môn Văn, Toán là 2 môn bắt buộc để lấy điểm số cho kỳ thi vào lớp 10 THPT. Các hoạt động còn lại thì việc tổ chức hầu hết là các hoạt động văn nghệ thông qua các bài hát, múa và tập trung ở những đối tượng có năng khiếu, phần lồng ghép trong qua các tiết dạy thì hầu như không có sự kiểm soát, kiểm tra, đánh giá của BGH, do đó phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức tự giác của mỗi GV. Các hoạt động dã ngoại diễn ra rất ít, nếu được sự động thuận của PHHS thì nhà trường thực hiện được 01 lần/ năm vào dịp cuối năm học hoặc dịp nghỉ hè, những gia đình điều kiện kinh tế khó khăn hoặc PHHS sợ những nguy cơ rủi ro, thì không tham gia hoạt động dã ngoại, kết quả bảng khảo sát 35 GV và PHHS của nhà trường thể hiện rõ những nhận định ở trên: Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Bảng 2.5. Các hình thức hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
GD KNS cho HS là một quá trình liên tục, lâu dài và cần có sự thống nhất, liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố: nhận thực của mỗi người GV đến việc triển khai các nội dung, hình thức, biện pháp GD KNS đến khâu cuối cùng là kiểm tra, đánh giá kết quả của việc thực hiện hoạt động giáo dục KNS cho từng giai đoạn.
Để hiểu thêm về thực trạng hoạt động GD KNS cho HS ở các truờng THCS trên địa bàn trường THCS Nam Phong, tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến đánh giá của 27 GV và 150 HS của trường về mức độ thực hiện HĐ GD KNS cho HS và kết quả thu được cụ thể như sau:
Bảng 2.6. Kết quả thực hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Qua số liệu ở bảng trên cho thấy chỉ có 14,9% GV cho rằng hoạt động giáo dục KNS cho HS đang được thực hiện tốt, 33,3% nhận định công tác GD KNS chỉ ở mức khá và số lượng GV thừa nhận việc triển khai chưa tốt là 51,8%. Số lượng HS nhận định về mức độ thực hiện công tác GD KNS cũng có số liệu tương đương như nhận định của GV.
Như vậy có thể thấy rất rõ kết quả hoạt động GD KNS ở các trường THCS Nam Phong là chưa đạt hiệu quả như mong muốn và những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên chính là từ những nguyên nhân như: Nội dung GD KNS chưa phong phú, đa dạng, hình thức chưa phù hợp và đặc biệt là do nhận thức của phần lớn GV trong việc thực hiện công tác này còn chưa đúng đắn.
2.3.2. Thực trạng quản lý hoạt động hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
2.3.2.1. Thực trạng quản lý kế hoạch hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Để tìm hiểu thực trạng quản lý việc thực hiện các nội dung của công tác hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội trong 2 năm học gần đây, tác giả tiến hành điều tra 57 GV, bí thư chi đoàn, GV TPT, GVCN, GV dạy Hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) về thực trạng quản lý việc lập kế hoạch thực hiện GD KNS nhà trường THCS ở một số nội dung và đã thu được kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.7. Thực trạng quản lý việc lập kế hoạch thực hiện giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường.
Qua bảng khảo sát cho thấy công tác quản lý xây dựng chương trình, kế hoạch GD KNS ở trường THCS Nam Phong đã được BGH quan tâm ở mức độ nhất định, ngay từ đầu năm học, kế hoạch GD KNS đã được xây dựng, cùng với đó là chương trình cụ thể từng tuần, từng tháng tích hợp vào các hoạt động GDNGLL, nhưng chỉ có 50,9% đối tượng khảo sát đánh giá là tốt. Bên cạnh đó, việc quản lý xây dựng kế hoạch GD KNS do GVCN đề ra và triển khai đến lớp chỉ có 45,6% nhận định ở mức tốt. Các nội dung quản lý còn lại như việc quản lý việc xây dựng kế hoạch sử dụng trang thiết bị, CSVC phục vụ cho GD KNS, quản lý việc xây dựng kế hoạch kết phối hợp với các lực lượng GD, quản lý việc xây dựng kế hoạch kiểm tra đánh giá… đều được đánh giá chủ yếu ở mức độ khá hoặc trung bình. Riêng nội dung quản lý việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động GD KNS còn có 3,5% ý kiến đánh giá ở mức yếu mà BGH cần có biện pháp khắc phục.
2.3.2.2.Thực trạng tổ chức, triển khai chương trình GD KNS
Để tìm hiểu việc tổ chức, triển khai chương trình GD KNS cho HS các trường THCS Nam Phong. Tác giả tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với 9 CBQL của trường và chuyên viên của phòng GD&ĐT và thu được kết quả như sau:
Bảng 2.8. Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý việc thực hiện kế hoạch giáo dục kĩ năng sống ở các trường THCS Nam Phong
Bảng 2.8 cho thấy việc quản lý thực hiện kế hoạch GD KNS của các BGH nhà trường chưa đồng đều ở các khâu. Để giám sát việc thực hiện kế hoạch, chương trình GD KNS nhà trường thông qua các báo cáo của GV, cán bộ Đoàn – Đội và những người được phân công thực hiện chuyên đề, thông qua việc kiểm tra hồ sơ giáo án, thông qua việc dự giờ, thông qua báo cáo của bộ phận tài chính và kiểm tra đánh giá sau mỗi hoạt động. Bảng cho thấy việc quản lý thực hiện kế hoạch thực hiện tốt nhất thông qua hình thức kiểm tra hồ sơ giáo án của giáo viên và những người thực hiện chuyên đề (53,9%) đánh giá tốt và (45,1%) đánh giá khá. Qua việc kiểm tra hàng tháng kết quả được sử dụng như một tiêu chí thi đua xếp loại giáo viên. Thông qua việc kiểm tra nhà trường biết được GV thực hiện như thế nào để từ đó BGH nhà trường kịp thời nhắc nhở, điều chỉnh các trường hợp không thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra. Hình thức dự giờ thăm lớp được đánh giá thấp nhất có tới (53.9% ) đánh giá trung bình và thậm chí có (7,6%) đánh giá Yếu. Trên thực tế việc dự giờ các tiết hoạt động GDNGLL có nội dung GD KNS còn ít chỉ thực hiện chủ yếu vào những dịp đặc biệt như 20/11, 26/3. BGH thường xuyên đi dự giờ nhưng chủ yếu là các môn khoa học cơ bản chưa quan tâm nhiều đến các tiết GD KNS. Quản lý thông qua kiểm tra – đánh giá cũng bị đánh giá ở mức thấp với (15,4%) ở mức độ trung bình và (7,7%) ở mức độ Yếu. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
2.3.2.3. Thực trạng quản lý việc sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Cơ sở vật chất, trang thiết bị và kinh phí luôn là những điều kiện để đảm bảo chất lượng chung trong nhà trường. Nhận thức được điều đó nhà trường luôn coi việc đầu tư CSVC, trang thiết bị dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý. Tuy nhiên ưu tiên vẫn dành cho công tác dạy và học còn hoạt động GD KNS chưa được đầu tư nhiều. Tác giả thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi với 36 CBGV và nhân viên của nhà trường và thu được kết quả như sau:
Bảng 2.9. Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Bảng 2.9 cho thấy việc quản lý xây dụng kế hoạch sử dụng CSVC phục vụ cho hoạt động GD KNS chỉ có (27,8%) đánh giá ở mức tốt, phần còn lại đánh giá ở mức Khá và Trung bình. Lập kế hoạch mua sắm bổ sung trang thiết bị phục vụ cho hoạt động GD KNS hầu như chưa được chú ý, có tới (30,6%) đánh giá ở mức Trung bình, (16,6%) đánh giá ở mức Yếu. Hầu hết trang thiết bị phục vụ cho hoạt động GD KNS là những thứ được sử dụng cho các môn văn hóa được trưng dụng phục vụ cho hoạt động GD KNS. Việc xây dựng quy định sử dụng bảo quản các trang thiết bị này cũng chưa hoàn thiện. Sân chơi, bãi tập chủ yếu được dùng cho môn thể dục rất hiếm khi được sử dụng cho GD KNS.
Việc tổ chức các cuộc thi làm đồ dùng phương tiện phục vụ cho hoạt động GD KNS rất ít được triển khai vì vậy có tới (19,4%) đánh giá là Yếu.
Về kinh phí dành cho GV, cán bộ Đoàn – Đội và các lực lượng GD tham gia hoạt động được đầu tư rất ít, không đáng kể. Chủ yếu là phát động mang tính chất phong trào, tự nguyện hoặc tham gia các buổi tập huấn do cấp trên tổ chức.
Việc quản lý sử dụng, phát triển CSVC, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động GD KNS đòi hỏi BGH phải năng động, có sự phối kết hợp các lực lượng GD để hoạt động này ngày càng có hiệu quả.
2.3.2.4. Thực trạng chỉ đạo việc thực hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường hiện nay còn nhiều lúng túng, chưa đồng bộ, tác giả tiến hành khảo sát việc chỉ đạo thực hiện GD KNS để tìm hiểu được rõ hơn thực trạng chỉ đạo thực hiện hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống
2.3.2.5. Thực trạng quản lý việc thu hút các lực lượng giáo dục trong nhà trường tham gia tổ chức hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục kĩ năng sống chưa đầy đủ sự phối kết hợp các lực lượng GD chưa nhịp nhàng nên hiệu quả chưa cao. Kết quả điều tra thực trạng của nội dung trên được tác giả tiến hành khảo sát 29 GV ở trường THCS Nam Phong và thu được kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.10 Ý kiến đánh giá thực trạng các lực lượng giáo dục trong nhà trường tham gia tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Các lực lượng trong nhà trường thực hiện GD KNS được đánh giá ở mức Tốt bao gồm Chi bộ Đảng (82.7%), Đoàn – Đội (93.1%), GVCN (96.6%), GVBM (62,1%). Điều này phản ánh chính xác thực tế đây chính là những lực lượng chính tham gia vào GD KNS. Các bộ phận khác chưa phát huy hết tiềm năng như: Công đoàn, Y tế, Thiết bị. BGH nhà trường cần có các biện pháp để phát huy hết tiềm năng của các lực lượng này.
2.3.2.6.Thực trạng quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động giáo dục kĩ năng sống ở trường THCS Nam Phong
Kiểm tra là một chức năng quan trọng của quản lý. Kiểm tra là công cụ để nhà quản lý phát hiện những sai sót và có biện pháp điều chỉnh. Kiểm tra tạo ra các bằng chứng cụ thể, rõ ràng phục vụ cho việc hoàn thiện các quyết định quản lý. Nếu BGH các trường không làm tốt chức năng này sẽ dẫn đến tình trạng làm qua loa, đại khái mang tính đối phó.
Bảng 2.11. Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý công tác kiếm tra đánh giá kết quả thực hiện hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Bảng 2.11 cho thấy thực trạng quản lý công tác kiểm tra đánh giá chủ yếu được đánh giá thấp. Chỉ có công tác kiểm tra đánh giá thông qua hồ sơ giáo án được đánh giá cao đạt ( 82,7% ) mức Tốt và (17.3%) đánh giá mức Khá. Tuy nhiên việc kiểm tra hồ sơ giáo án mới chỉ dừng lại ở việc GV có soạn nội dung GD KNS hay không còn việc thực hiện có hiệu quả hay không hay công tác tự kiểm tra còn yếu. Việc kiểm tra thường xuyên các hoạt động ngoại khóa với nội dung giáo dục kỹ năng sống chưa được quan tâm đúng mức.
Việc kiểm tra, đánh giá đôi khi mang tính hình thức, chủ yếu là giao phó cho Đoàn – Đội với mục đích là để xếp loại thi đua giữa các lớp trong trường mà chưa làm tốt việc đánh giá rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội dung phương pháp tổ chức hoạt động. Việc tuyên dương phê bình cá nhân tập thể có (44.8% ) đánh giá loại Tốt, (51,8%) đánh giá là Khá. Trên thực tế việc làm này mới chỉ thực hiện sau các đợt thi đua lớn như thi đua chào mừng 20/11, 26/3.
Việc nắm bắt tình hình thực hiện hoạt động GD KNS để kịp thời phát hiện những sai lệch từ đó có biện pháp tư vấn, phương thức thúc đẩy kịp thời chưa được BGH nhà trường quan tâm đúng mức.
Việc kiểm tra đánh giá các hoạt động trong mỗi học kỳ cũng chưa được thực hiện bài bản, do đó chưa động viên khích lệ được các lực lượng GD KNS phát huy hết khả năng của mình, chưa chỉ ra được những điểm yếu, những điểm cần khắc phục.
Việc quản lý bổ sung, cải tiến phương pháp kiếm tra đánh giá không có ai đánh giá ở mức Tốt, chỉ có (44,8 % ) đánh giá ở mức Khá còn đến (17,3%) đánh giá ở mức Yếu. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Từ thực tế cho thấy CBQL giáo dục ở trường THCS Nam Phong cần phải có những biện pháp phù hợp và hiệu quả hơn để quản lý việc kiểm tra, đánh giá.
2.4. Đánh giá chung về công tác quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
2.4.1 Điểm mạnh
Đa số học sinh trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội có nhận thức đúng về KNS, các em đã vươn lên tự khẳng định mình trong học tập và trong cuộc sống, có lối sống lành mạnh, có ước mơ, hoài bão cao đẹp. Nhiều học sinh đã không ngừng rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực để phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ.
Ban Giám hiệu các trường THCS đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của GDKNS cho học sinh, đã có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GD KNS cho học.
2.4.2. Điểm yếu
Từ kết quả điều tra bằng phiếu cũng như trao đổi trực tiếp, tổng kết thực tiễn, cho thấy những năm gần đây quản lý giáo dục KNS cho học sinh trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, mặc dù các cán bộ giáo viên của nhà trường đều có nhận thức về tầm quan trọng của quản lý giáo dục KNS cho học sinh nhưng thực sự chưa sâu sắc. Trên thực tế vẫn còn nhiều giáo viên khi lên lớp chỉ chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức, làm sao truyền thụ được hết nội dung trong bài học mà ít quan tâm đến việc liên hệ thực tế, quan tâm đến giáo dục KNS. Ngoài ra việc xây dựng và triển khai kế hoạch, hoạt động giáo dục KNS còn mang tính thụ động, nhà trường chưa thực sự chủ động đề ra các chương trình, kế hoạch tổ chức GD KNS cho học sinh ở tầm vĩ mô, thường xuyên và liên tục mà chỉ khi nào cấp trên như Bộ, Sở Giáo dục và Đào tạo phát động mới thực hiện tốt. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Tóm lại, kết quả khảo sát học sinh và các LLGD, cho thấy một số yếu tố chủ yếu tác động trực tiếp tác động đến giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở Nam Phong, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Từ những yếu tố trên đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến giáo dục KNS cho học sinh và ở các mức độ ảnh hưởng khác nhau, có thể đưa ra một số nguyên nhân ảnh hưởng đến giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở.
Nguyên nhân thứ nhất: là những nguyên nhân mang tính chủ quan như: Sự biến đổi tâm sinh lý lứa tuổi, đó là sự thiếu ý thức, thiếu tự chủ hay bị cám dỗ lôi kéo từ các phần tử không tiến bộ. Điều này chứng tỏ đa số học sinh trường THCS đang ở lứa tuổi vị thành niên, lứa tuổi mới lớn, thích tìm tòi cái mới lạ nên hay bị sa ngã trước ma lực của những tệ nạn xã hội. Hơn nữa có những học sinh sống trong gia đình chưa được hưởng nền giáo dục tốt tạo cho họ có những thói quen không tốt, không tự giác rèn luyện bản thân.
Nguyên nhân thứ hai: là những nguyên nhân mang tính khách quan như: Tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và ảnh hưởng của xã hội; sự bùng nổ của thông tin văn hóa; đời sống hiện nay còn nhiều khó khăn,…đã ảnh hưởng đến học sinh rất nhiều. Thực tế, do sự phát triển của xã hội, do quá trình mở cửa và hội nhập, nên có nhiều luồng văn hóa xâm nhập vào nước ta, với tâm lý học sinh là thích cái mới, hay học hỏi đua đòi, vì vậy một bộ phận học sinh chạy theo cái mới một cách mù quáng mà không có nhận thức và sự hướng dẫn nhận thức đúng đắn. Với sự phát triển công nghệ thông tin như hiện nay thì những luồng văn hóa tiêu cực, không lành mạnh sẽ ảnh hưởng đến học sinh một cách dễ dàng. Vì vậy vấn đề đặt ra ở chỗ phải giáo dục ý thức tự giác, biết nhận thức một vấn đề một cách đúng đắn. Vì khi nhận thức đúng thì hành động mới chuẩn xác.
Nguyên nhân thứ ba: Là những nguyên nhân thuộc về quản lý xã hội và quản lý giáo dục. Trong các trường THCS hiện nay nói chung và trường THCS Nam Phong nói riêng, chất lượng GD KNS và quản lý GD KNS chưa cao, các bộ phận chức năng trong nhà trường hoạt động chưa đồng đều. Bên cạnh đó các lực lượng xã hội cũng chưa dành sự quan tâm đúng mức cho hoạt động giáo dục KNS cho học sinh. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Bởi nếu trong môi trường xã hội và trong trường trung học cơ sở có các giải pháp hữu hiệu thì sẽ có tác động tích cực tới tâm lý của học sinh, giúp cho họ nhận thức đúng đắn cái đúng, ngăn chặn được những tác động tiêu cực của xã hội đồng thời phát huy được những mặt tốt, tích cực trong học sinh.
Tiểu kết chương Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Giáo dục KNS và quản lý giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở bên cạnh những kết quả được xã hội ghi nhận song vẫn còn không ít những bất cập, yếu kém cần có những biện pháp khắc phục. Những phẩm chất cần thiết trong công tác giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh được trường THCS chú trọng chưa thực sự đầy đủ. Các trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội đã có nhiều cố gắng củng cố bộ máy quản lý, cải tiến nội dung tuyên truyền giáo dục KNS thông qua các hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu niên nhằm phát huy tính độc lập, sáng tạo, tự chủ của học sinh. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ chuyên trách còn thiếu, chưa được thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nên còn gặp khó khăn và lúng túng trong công việc là điều khó tránh khỏi.
Khâu xây dựng và thực hiện kế hoạch GDKNS cho học sinh chưa sát thực tế, thiếu mục tiêu, nội dung, phương pháp cụ thể, còn bị động trong khi triển khai và thực hiện; chưa phát huy hết việc phối kết hợp các LLGD trong và ngoài trường trong việc quản lý giáo dục KNS cho học sinh. Nhiều LLXH chưa chủ động, tích cực tham gia cùng nhà trường trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ và yêu cầu GDKNS cho học sinh. Do đó, chưa tạo được sự thống nhất toàn XH. Vấn đề đặt ra là cần có một cơ chế phối hợp để có thể khai thác được tiềm năng của xã hội trong việc quản lý giáo dục KNS cho học sinh.
Các hình thức, nội dung, Giải pháp GDKNS cho học sinh còn mang nặng tính hình thức, nghèo nàn chưa thu hút được học sinh, thiếu linh hoạt, các hoạt động chưa đan xen, lồng ghép với nhau. Công tác kiểm tra, đánh giá được tiến hành chưa thường xuyên, thiếu quy định cụ thể. Việc khen thưởng, kỷ luật chưa kịp thời, chưa đầu tư cơ sở vật chất và tài chính thỏa đáng đối với các hoạt động GD KNS cho học sinh. Vì thế, chưa đủ mạnh để động viên, khuyến khích các lực lượng tham gia công tác quản lý giáo dục KNS. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Tóm lại, để nâng cao được chất lượng đào tạo của nhà trường nói chung và chất lượng GD KNS nói riêng thì cần phải khắc phục được những hạn chế này. Muốn vậy, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, khoa học và phù hợp để giải quyết thực trạng của trường THCS Nam Phong, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com