Luận văn: Thực trạng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt

Đánh giá post

Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn huyện Gio Linh, Tỉnh Quảng Trị

2.1. Tình hình cơ bản của địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Gio Linh

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Gio Linh nằm trên tọa độ địa lý từ 1609’ đến 170 vĩ Bắc và 106052’40” đến 107010’ độ kinh Đông, được giới hạn bởi ranh giới hành chính như sau:

  • Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Linh
  • Phía Nam giáp huyện Triệu Phong, Cam Lộ và thành phố Đông Hà.
  • Phía Đông giáp Biển Đông.
  • Phía Tây giáp huyện Cam Lộ, ĐaKrông, Hướng Hóa.
  • Diện tích đất tự nhiên: 47.289,56ha.
  • Dân số 74.768 người (số liệu thống kê năm 2023)

Huyện có 21 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn là Gio Linh và Cửa Việt; 19 xã gồm: Linh Thượng, Vĩnh Trường, Hải Thải, Gio An, Gio Bình, Gio Châu, Gio Sơn, Gio Hòa, Linh Hải, Gio Phong, Gio Quang, Trung Sơn, Trung Hải, Trung Giang, Gio Mỹ, Gio Thành, Gio Mai, Gio Hải, Gio Việt.

Gio Linh có điều kiện giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thủy. Đi qua địa phận của huyện có các tuyến giao thông huyết mạch như: Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc – Nam; đặc biệt là nằm cuối tuyến đường Xuyên Á thông ra Biển Đông bằng cảng Cửa Việt là một nút quan trọng trong mối liên kết của hành lang kinh tế Đông – Tây, cho phép huyện mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong tỉnh, cả nước, cũng như hội nhập khu vực và quốc tế. Mạng lưới tỉnh lộ trên địa bàn huyện có mật độ khá lớn, cùng với việc xây dựng tuyến đường cơ động ven biển Cửa Việt – Cửa Tùng và hai cầu Cửa Tùng, Cửa Việt đã tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng lưu thông hàng hóa, liên kết phát triển với các huyện Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và các địa phương khác trong tỉnh. Mặt khác, Gio Linh còn tiếp giáp với Thành phố Đông Hà – vùng trung tâm động lực phát triển của tỉnh ra các vùng lân cận. Cùng với sự phát triển đi lên của tỉnh, trên địa bàn Gio Linh đã hình thành các vùng trọng điểm kinh tế lớn của tỉnh như khu Công nghiệp Quán Ngang, khu dịch vụ – du lịch Cửa Việt đã và đang được tập trung đầu tư về kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư. Hệ thống các cơ sở hạ tầng khác như mạng lưới điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông, các kết cấu hạ tầng xã hội không ngừng được nâng đầu tư nâng cấp, mở rộng, tạo thuận lợi cho quá trình phát triển đã và đang tạo ra cho Gio Linh một nền tảng rất cơ bản để có thể tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác kinh tế trong tỉnh và cả nước; tăng cường liên kết, hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, đẩy nhanh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới.

2.1.1.2. Địa hình

Là một huyện có địa hình bán sơn địa nghiêng từ Tây sang Đông, phía tây là đồi núi có diện tích 31.773,8 ha (67,2%), ở giữa là đồng bằng có diện tích 12.631ha(26,7%) và phía Đông là bãi cát và cồn cát ven biển với diện tích 2.893,8ha (6,1%).

2.1.1.3. Điều kiện thời tiết, khí hậu

Khí hậu:Gio linh nằm ở trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa tương đối điển hình. Mùa hè gió Tây Nam khô nóng; mùa Đông gió Đông Bắc ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 24 – 25,50C. Lượng mưa bình quân hàng năm từ 2.500 – 2.700mm. Lượng mưa phân bố không đều, từ tháng 9-11 chiếm 70-75% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí bình quân hàng năm 85-90 %.

Mùa mưa: Bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 2 năm sau tập trung 8090% lượng mưa cả năm, hướng gió chính là hướng Tây Nam, tốc độ 4-5 m/s

Mùa khô: Bắt đầu từ tháng 3 và kết thúc vào tháng 9. Vào mùa khô có ít mưa, hướng gió chính là Đông Bắc, tốc độ gió 2,5-3 5m/s.

Bảng 0.1: Bảng tổng hợp khí hậu và thời tiết trong vùng

Nhìn chung tình hình khí hậu thời tiết ở huyện chỉ tương đối phù hợp với việc phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và chăn nuôi gia súc, gia cầm nói riêng, đặc biệt là ngành trồng trọt mà điển hình là: cao su, cà phê, tiêu, chè…Tuy nhiên, khí hậu đôi khi quá khắc nghiệt gây bất lợi cho sản xuất nông nghiệp nói chung và chăn nuôi gia súc, gia cầm nói riêng. Vì thế, việc nghiên cứu lịch thời vụ, kế hoạch phòng chống dịch bệnh, chống nắng nóng cho vật nuôi vào mùa khô và lũ lụt, rét vào mùa lạnh cũng như công tác chế biến, bảo quản thức ăn để nhằm hạn chế tối đa sự tác động bất lợi của khí hậu, thời tiết là rất quan trọng.

2.1.1.4. Thổ nhưỡng

Đất đai ở đây được hình thành từ quá trình phong hóa feralit trên nền đất bazan, kết hợp với sự hội tụ từ những vùng cao do quá trình rửa trôi.Tầng lớp đất nâu đỏ có diện tích khá lớn chiếm 72,8% phát triển trên đá bazan nên cũng rất thuận lợi cho việc trồng cây lương thực và hoa màu. Đất đai của huyện đa dạng, phù hợp cho nhiều loài động, thực vật phát triển là cơ sở cho phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện trong đó có chăn nuôi lợn.Đặc biệt, là ở những vùng đất gò đồi và vùng đất cát ven biển như xã Linh Hải, Gio An, Trung Giang, Gio Hải…có diện tích khá rộng lớn, có mật độ dân cư thấp nên rất thích hợp để xây dựng các trang trại, gia trại chăn nuôi. Tuy nhiên, đất đai không tập trung thành vùng lớn nên gặp nhiều khó khăn trong công tác quy hoạch, xây dựng các cơ sở hạ tầng để phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lớn, tập trung.

2.1.1.5. Tài nguyên rừng

Năm 2022, tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng của huyện là 21.695,29 ha chiếm 46,09% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện. Trong đó:

Rừng sản xuất: có diện tích là 8.703,73 ha chiếm 40,12% diện tích đất lâm nghiệp có rừng của huyện. Rừng phòng hộ có diện tích 12.991,56 ha, chiếm 59,88 % diện tích đất lâm nghiệp có rừng của huyện.

Tài nguyên rừng không phải là thế mạnh của huyện, độ che phủ rừng chỉ đạt khoảng 33,7%. Phần lớn là rừng phục hồi và rừng nghèo, không có rừng giàu nên trữ lượng gỗ, tre, nứa thấp hơn nhiều so với nhiều huyện khác trong địa bàn tỉnh.

2.1.1.6. Thủy văn

Gio Linh nằm trong lưu vực sông Hiếu và sông Hiền Lương, là 02 nhánh sông lớn của tỉnh Quảng Trị, bắt nguồn từ biên giới Việt – Lào và kết thúc tại 02 cửa sông là Cửa Việt và Cửa Tùng.

Với chiều dài bờ biển kéo dài hơn 16km, Gio Linh có thế mạnh rất lớn để phát triển nghành đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thủy sản

2.1.1.7. Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên khoáng sản của địa bàn có các loại như sau:

Đá mồ côi (làm  nguyên vật liệu để xây dựng nhà cửa) phân bố chủ yếu ở các xã Gio An, Gio Bình, Gio Hòa, Gio Sơn, Hải Thái, Linh Hải và một số xã ở miền tây Gio Linh với trữ lượng ít.

Mỏ đất đen và than bùn làm nguyên liệu sản xuất phân bón ở Gio Quang và Gio Mai với trữ lượng khoảng 30 – 50 nghìn tấn.

Trữ lượng Titan nằm rải rác ở các xã miền đông giáp biển của huyện như Gio Mai, Gio Việt, Gio Mỹ, Gio Hải, Trung Giang, Trung Hải.

Vàng sa khoáng ở thượng nguồn sông Bến Hải.

Các loại khoáng sản trên đều chưa được khảo sát chất lượng, trữ lượng cụ thể và thực tế khai thác chưa đáng kể. Nhìn chung, tiềm năng khoáng sản ở Gio Linh tuy không nhiều như một số huyện khác nhưng nếu được khai thác hợp lý sẽ có tác động nhất định tới phát triển kinh tế – xã hội của huyện.

Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của huyện phù hợp cho hoạt động chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi trâu bò và lợn.

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội

2.1.2.1. Về kinh tế

Qua bảng 2.2 ta thấy, tổng giá trị sản xuất của các ngành kinh tế trong giai đoạn 2021 – 2023 tăng trưởng liên tục qua 3 năm. Nếu như năm 2021, tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế là 3,095 nghìn tỷ đồng thì đến năm 2023 đạt tới 3,470 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 5,9%/năm. Cơ cấu kinh tế của huyện trong những năm gần đây đang chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông – lâm – thủy sản. Năm 2021, tỷ trọng ngành nông – lâm – thủy sản là 52,8%, công nghiệp xây dựng chiếm 15,5%, dịch vụ chiếm 31,6%; đến năm 2023, tỷ trọng của các ngành kinh tế tương ứng là 47,6%, 17,5%, 34,9%. Là một huyện có diện tích đất nông nghiệp lớn (chiếm 83,74% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện) nên cơ cấu kinh tế nông lâm – ngư nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối cao trong cơ cấu kinh tế của huyện.

Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn phát triển mạnh qua các năm, hàng hóa phong phú, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân. Trong năm 2023, tổng giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ đạt 1.211.079 triệu đồng, tăng 8,8% so với năm 2022 và tăng 11,2% so với năm 2021.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì tình hình sản xuất kinh doanh của huyện còn tồn tại những điểm hạn chế, đó là cơ cấu kinh tế tuy đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng vẫn còn chậm, tỷ trọng thương mại, dịch vụ đạt thấp so với kế hoạch, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa có bước đột phá. Do đó, huyện cần tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh hơn nữa sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng thương mại, dịch vụ và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế của huyện trong thời gian đến.

Nhìn chung, nền kinh tế của huyện đã có mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng lên, thu nhập bình quân đầu người ngày càng được nâng cao. Kết quả đạt được trong thời gian qua phù hợp với định hướng phát triển của huyện nhà.

2.1.2.2. Tình hình đất đai

Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Gio Linh là 47.067,68 ha, với diện tích đất khá rộng nhưng chủ yếu vẫn là địa hình đồi núi nên việc phát triển nông nghiệp gặp khá nhiều khó khăn.

Qua bảng 2.3, đất nông nghiệp có diện tích là 39.415.41 ha chiếm 83,74% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Trong đó: so với đất toàn huyện, diện tích đất trồng cây hàng năm là 8.701,31 ha chiếm 18,49%, đất trồng cây lâu năm là 8.448,89 ha chiếm 17,95% diện tích đất nông nghiệp toàn huyện; đất lâm nghiệp là loại đất chiếm nhiều diện tích nhất với: 21.695,329 ha chiếm 46,09%.

Đất phi nông nghiệp chiếm 5.428,75 ha tương đương với 11,53% tổng diện tích toàn huyện. Trong đó đất ở là 414,34 ha chiếm 0,88% tổng diện tích đất tự nhiên, đất chuyên dùng là 2,664,91 ha chiếm 5,66%; đất sông suối và mặt nước chuyên dùng là 1468,7 ha chiếm 3,12% diện tích đất toàn huyện.

Trên địa bàn huyện Gio Linh có 2.223,52 ha đất chưa sử dụng chiếm 4,72% tổng diện tích đất toàn huyện. Trong đó, chủ yếu là đất bằng chưa sử dụng, đây là một sự lãng phí rất lớn về nguồn lực đất đai đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương cần sớm có phương án sử dụng hợp lý loại đất này như quy hoạch quỹ đất phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại.

Bảng 0.3: Hiện trạng sử dụng đất đai của huyện Gio Linh năm 2023

2.1.2.3. Tình hình dân số và lao động

Theo số liệu thống kê của huyện Gio Linh,số hộ dân sinh sống trên địa bàn huyện năm 2023 là 17.933 hộ, tăng so với năm 2022 là 58 hộ, tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn 2021 – 2023 là 0,26%/năm. Bên cạnh đó, dân số trung bình của thị xã cũng gia tăng qua các năm, cụ thể là năm 2021 dân số của huyện là73.564 người và đến năm 2021 là 74.768 người, tăng 0,8%. Dân số của huyện chủ yếu sống tập trung ở vùng nông thôn.Trên địa bàn huyện Gio Linh có 3 dân tộc cùng sinh sống: Kinh, Vân Kiều, Pa Cô. Giai đoạn từ 2021 – 2023 dân số trung bình toàn huyện nhìn chung có xu hướng tăng. Mật độ dân số năm 2023 đạt đến 159,03 người/km2.

Huyện Gio Linh có nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động khá tốt thể hiện ở tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao có khả năng tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại. Là một huyện nông nghiệp nên số lao động trong lĩnh vực nông – lâm – thủy sản luôn chiếm tỷ lệ cao hơn lao động phi nông nghiệp. Qua bảng 2.4, cho thấy lao động của huyện đang chuyển dần từ làm nông nghiệp sang thương mại, dịch vụ và công nghiệp, xây dựng. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2021 – 2023, tỷ lệ lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 51,3% xuống còn 50,6%; lao động phi nông nghiệp tăng từ 48,7% lên 49,1%. Sự tăng, giảm về tỷ lệ cơ cấu lao động trong các ngành nghề của huyện Gio Linh tuy chưa rõ rệt nhưng bước đầu đã cho thấy đây là một sự chuyển dịch cơ cấu lao động đúng hướng. Trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì và phát huy hơn nữa những kết quả đã đạt được nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội tại huyện nhà.

Bảng 0.4: Tình hình dân số và lao động của huyện Gio Linh qua 3 năm 2021 – 2023

Trong lĩnh vực chăn nuôi nhìn chung, lực lượng lao động trực tiếp là tương đối dồi dào, tuy nhiên lao động chưa qua đào tạo chính quy còn phổ biến. Bên cạnh đó, hiện tượng thanh thiếu niên nông thôn đến tuổi trưởng thành đang có xu hướng rời khỏi địa phương tìm kiếm việc làm có thu nhập cao trong các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp ngày càng phổ biến nên đã ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng lao động trực tiếp trong ngành chăn nuôi. Mặt khác, khoa học kỹ thuật về chăn nuôi phát triển không ngừng, đòi hỏi của người chăn nuôi ngày càng phải được đào tạo một cách bài bản.

2.1.2.4. Tình hình cơ sở hạ tầng

  • Giao thông

Gio Linh có điều kiện giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ. đường sắt và đường thủy. Đi qua địa phận của huyện có các tuyến giao thông huyết mạch như: Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc – Nam; đặc biệt là nằm cuối tuyến đường xuyên Á thông ra Biển Đông bằng cảng Cửa Việt là một nút quan trọng trong mối liên kết của hành lang kinh tế Đông – Tây, cho phép huyện mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong tỉnh. cả nước. cũng như hội nhập khu vực và Quốc tế. Mạng lưới Tỉnh lộ trên địa bàn huyện có mật độ khá lớn. cùng với việc xây dựng tuyến đường cơ động ven biển Cửa Việt – Cửa Tùng và hai cầu Cửa Tùng, Cửa Việt đã tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng lưu thông hàng hóa, liên kết phát triển với các huyện Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và các địa phương khác trong tỉnh.

Nhìn chung hệ thống giao thông có trong huyện tương đối đồng bộ, trước mắt đang được tiếp tục nâng cấp sửa chữa nên khai thác sử dụng tốt; tuy nhiên để tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì các tuyến giao thông nói trên đều cần được nâng cấp lên ở cấp độ mới, nhất là các tuyến đường vào thị trấn huyện.

  • Thủy lợi, nước sinh hoạt

Trên địa bàn huyện hiện có 34 trạm bơm điện gồm: 30 trạm bơm tưới, 01 trạm bơm tưới tiêu kết hợp, 02 trạm bơm tiêu, 01 trạm bơm tạo nguồn; 158 máy bơm bằng động cơ chạy dầu; có 6 hồ chứa, 6 đập dâng; tổng số kênh mương: 133,4 km đã bê tông hoá 58,3 km đạt 43,7 %.

Nhìn chung do phần lớn công trình thủy lợi trong huyện là công trình nhỏ đã xuống cấp hệ thống kênh mương mới được xây dựng kiên cố khoảng 167 km (chiếm 37,9%). Tổng diện tích tưới thực tế khoảng 2.249 ha, mới đạt khoảng 37,3% diện tích so với thiết kế (riêng các công trình hồ chứa hiệu suất tưới chỉ đạt 34,2% so với thiết kế). Diện tích tưới chủ yếu là lúa, các cây trồng khác có diện tích được tưới không đáng kể.

Nước sinh hoạt nông thôn: Nguồn sinh hoạt chính của huyện được khai thác từ nguồn nước mặt từ các hồ chứa và nước ngầm. Nhìn chung các nguồn nước phục vụ sinh hoạt hầu hết chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn nước sạch theo tiêu chí của ngành Y tế.

2.1.3. Những hạn chế và thách thức ảnh hưởng tới sự phát triển nông nghiệp của huyện

Bên cạnh những lợi thế và tiềm năng kể trên, trong thời gian tới, kinh tế nông nghiệp huyện Gio Linh cũng phải đối mặt với một số khó khăn và thách thức sau đây:

Huyện Gio Linh tuy có nguồn lao động dồi dào nhưng tỷ lệ lao động chưa đào tạo còn lớn, cơ cấu lao động còn mất cân đối, tỷ lệ chưa có việc làm còn cao.

Tình trạng ô nhiễm môi trường, những bức xúc về các vấn đề xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường có xu hướng ngày càng gia tăng, tư duy và việc làm của một bộ phận cán bộ công chức nhà nước vẫn mang nặng dấu ấn của thời bao cấp đang là những cản trở vô hình đối với quá trình phát triển. Tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới cũng đang đặt ra nhiều thách thức lớn cho phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện nhà.

Trong thời gian tới, nông nghiệp vẫn hết sức quan trọng trong sự phát triển của huyện Gio Linh.Chính vì vậy, cần có những mô hình sản xuất nông nghiệp mới, ứng dụng khoa học kỹ thuật cao và tận dụng những lợi thế phát triển của huyện mới có thể bắt kịp xu thế phát triển chung của tỉnh.

2.1.4. Tình hình chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện Gio Linh

Chăn nuôi có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, cũng như trong đời sống của người nông dân ở nơi đây. Phát triển chăn nuôi đang là một trong những định hướng phát triển kinh tế quan trọng của huyện.

Mặc dù, phát triển chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn nhưng những năm qua chăn nuôi lợn của huyện đã và đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa với các mô hình chăn nuôi trang trại, gia trại. Phương thức nuôi công nghiệp đang có chiều hướng phát triển; các tiến bộ về giống được ứng dụng đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.

2.1.4.1 Các loại hình chăn nuôi lợn chủ yếu trên địa bàn huyện Gio Linh

Nông hộ chăn nuôi lợn: Theo báo cáo tổng kết tình hình chăn nuôi của huyện năm 2023, số hộ tham gia chăn nuôi lợn là 3.805 hộ, chiếm 19,3% tổng số hộ trên toàn huyện. Trong đó, chăn nuôi lợn theo hình thức nhỏ lẻ, phân tán ở cấp nông hộ rất phổ biến. Trung bình mỗi hộ nuôi từ 1 – 3 con lợn nái, hay 5 – 10 con lợn thịt. Có hộ chỉ nuôi 1 – 2 con lợn thịt. các hộ chăn nuôi này chủ yếu sử các chất dư thừa của nông nghiệp để làm thức ăn chăn nuôi và lấy phân  bón ruộng. Mặc dù loại hình này quy mô nhỏ nhưng lại là loại hình sản xuất rất quan trọng trong hệ thống chăn nuôi lợn của huyện.

Thực tế cho thấy, chăn nuôi quy mô nhỏ đã khẳng định được hiệu quả khá tốt trong việc phát triển kinh tế nông hộ, cải thiện thu nhập cho người dân vùng nông thôn. Tuy nhiên, do phát triển tự phát, thiếu liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nên gặp nhiều rủi ro, nhất là khi chi phí đầu vào đang tăng mạnh và các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp.

Gia trại chăn nuôi lợn: Là hộ chăn nuôi lợn chưa đạt tiêu chí trang trại song có nuôi thường xuyên từ 30 con lợn trở lên; số lần xuất chuồng trong năm từ 2 lần trở lên. Năm 2023, toàn huyện có 142 gia trại, trong đó 131 gia trại chăn nuôi lợn. Hoạt động của các gia trại đã tạo việc làm ổn định và nâng cao thu nhập cho kinh tế hộ gia đình trên địa bàn.

Trang trại chăn nuôi lợn: Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá quy mô lớn trong nông nghiệp, chủ yếu dựa vào hộ gia đình.Theo Thông tư số 27/2018/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2018 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định: Cơ sở chăn nuôi đạt tiêu chí trang trại là cơ sở đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1tỉ đồng/năm trở lên.

Năm 2023, toàn huyện có khoảng 9 trang trại chăn nuôi lợn, chiếm 12,2 % tổng số trang trại chăn nuôi trên toàn tỉnh.

Bảng 0.5: Quy mô trang trại của huyện Gio Linh năm 2023

Trong tổng số 11 trang trại trên toàn huyện thì trang trại chăn nuôi chiếm chủ yếu (81,8%). Các trang trại chủ yếu nuôi lợn, ngoài ra một số trang trại kết hợp thêm chăn nuôi gà, bò, trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả…nhưng không đáng kể. Diện tích bình quân một trang trại khoảng 2-3 ha. Giá trị sản xuất bình quân trên một trang trại chăn nuôi lợn là 2.528,4 triệu đồng, tuy thấp hơn trang trại thủy sản và trang trại tổng hợp nhưng vì là loại hình trang trại phổ biến nên góp phần không nhỏ cho giá trị sản xuất chăn nuôi của toàn huyện.

Ngày nay, chăn nuôi lợn ở huyện Gio Linh đang có sự chuyển dịch từ nhỏ lẻ, hộ gia đình sang chăn nuôi quy mô lớn, theo hình thức gia trại, trang trại nhằm tăng hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, chăn nuôi quy mô nhỏ vẫn tồn tại và chiếm ưu thế vì vốn đầu tư ít, tận dụng được lao động nhàn rỗi và nguồn phụ phẩm nông nghiệp trong nông thôn.

Muốn chăn nuôi lợn phát triển bền vững, phải hướng đến việc tổ chức liên kết các hộ nhỏ thành trang trại, tổ nhóm sản xuất hay hợp tác xã kiểu mới để nối kết với các nhà máy thức ăn, nguồn cung ứng giống và thị trường tiêu thụ. Một khi thực hiện được liên kết sẽ giúp các hộ chăn nuôi nhỏ tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao chất lượng thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm trong chăn nuôi và vận chuyển. Do vậy, trước mắt ngành nông nghiệp cần có định hướng khuyến khích nông dân thực hiện các mô hình liên kết và mời gọi các doanh nghiệp đến địa phương tham gia liên kết với nông dân. Việc phát triển tốt các mô hình chăn nuôi quy mô nhỏ tại các nông hộ sẽ là nền tảng quan trọng để hình thành các mô hình chăn nuôi quy mô lớn theo hướng an toàn sinh học.

2.1.4.2. Đặc điểm của sản xuất chăn nuôi lợn của huyện Gio Linh

Đặc điểm nổi bật nhất của chăn nuôi lợn ở địa bàn là quy mô chăn nuôi còn nhỏ lẻ, khó áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật.Chăn nuôi công nghiệp mặc dù đang có xu thế phát triển mạnh, nhưng còn chiếm tỷ trọng rất thấp. Hầu hết các hộ chăn nuôi đều tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác, chủ yếu là trồng trọt.

Chăn nuôi lợn ở huyện Gio Linh sử dụng lao động gia đình là chủ yếu: Do quy mô sản xuất chưa lớn, chăn nuôi công nghiệp còn ở mức độ thấp nên hầu hết các hộ gia đình và trang trại chăn nuôi sử dụng lao động gia đình là chủ yếu.

Lợn được nuôi nhiều trên địa bàn huyện, chủ yếu theo hình thức hộ gia đình và gia trại. Có nhiều hộ gia đình mở rộng nuôi lợn với số lượng lớn để tận dụng phân hữu cơ xây dựng hầm khí Biogas làm chất đốt.Hiện nay trên địa bàn huyện có khoảng 100 hộ gia đình nuôi lợn theo mô hình này. Tuy nhiên, một số mô hình vẫn không đảm bảo vệ sinh môi trường ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của các hộ dân do xây dựng không đúng quy chuẩn hoặc quá tải.

  • Trong tổ chức sản xuất:

Chọn giống là yếu tố tiền đề, trực tiếp quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm đầu ra và hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn. Các loại giống lợn được nuôi ở huyện nhà khá phong phú và đa dạng. Trước đây, khi đại bộ phận người dân nuôi lợn đều nhằm mục đích tận dụng thức ăn thừa và lao động nhàn rỗi trong gia đình thì lợn được nuôi chủ yếu là giống lợn nội (Lợn Móng Cái), ít có giống lợn ngoại. Khi nhu cầu thị trường ngày càng cao, cùng với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ, người dân đã dần coi nuôi lợn cũng là một nghề kinh doanh để thu lợi nhuận góp phần phát triển kinh tế gia đình. Các trang trại và các hộ nông dân đều chọn giống lợn mau lớn, tỷ lệ nạc cao, sức sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao để như lợn lai và lợn ngoại. Giống được cung cấp từ các công ty sản xuất giống hoặc các hộ gia đình tự sản xuất.

Thức ăn công nghiệp hiện được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở các hộ chăn nuôi trên địa bàn do đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng cho sự phát triển và sinh trưởng của lợn. Tuy nhiên, giá cả thức ăn công nghiệp tương đối cao so với giá cả lợn hơi bán ra. Để tiết kiệm, một số hộ chăn nuôi đã sử dụng các công thức tự phối trộn thức ăn vừa đảm bảo chất dinh dưỡng vừa tiết kiệm chi phí đầu vào trong chăn nuôi.

Các biện pháp kỹ thuật phòng chống dịch bệnh tuy đã được người dân quan tâm chú ý và áp dụng trong quá trình chăn nuôi, nhưng dịch bệnh vẫn xảy ra gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi lợn.  Ngoài các biện pháp phòng chống dịch bệnh bằng các qui trình, pháp lệnh thú y, các hộ nuôi đã chú ý tăng cường nâng cao sức đề kháng để phòng, chống lại bệnh dịch cho đàn lợn bằng biện pháp, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng.

2.1.4.3 Số lượng và sản lượng thịt đàn lợn ở huyện Gio Linh giai đoạn 2019 – 2023

Chăn nuôi gia súc trên địa bàn huyện bao gồm trâu, bò, lợn. Trong đó chăn nuôi lợn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Chăn nuôi lợn được xác định là một ngành có hiệu quả và đóng vai trò quan trọng trong việc tăng thu nhập cho kinh tế hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu.

Tỷ trọng sản lượng thịt lợn trong tổng sản lượng thịt hơi thể hiện qua Bảng 0.6.

Bảng 0.6: Sản lượng thịt hơi năm 2019 – 2023

Sản lượng thịt hơi đạt được cũng tương ứng với số lượng đầu con qua các năm. Số liệu trên bảng 2.6. cho thấy tỷ trọng sản lượng thịt lợn đa số chiếm trên 75% trong tổng số sản lượng thịt hơi. Điều đó cho thấy, lợn là vật nuôi chủ yếu và mang lại thu nhập chính cho các hộ gia đình từ hoạt động chăn nuôi.

Trong những năm qua tổng số đàn lợn trên địa bàn huyện có nhiều biến động. Năm 2023, sản lượng thịt lợn hơi đạt 5,2 nghìn tấn và sản lượng thịt gia cầm là 1,12 nghìn tấn, tốc độ tăng bình quân hàng năm về sản lượng thịt lợn hơi trong giai đoạn 2019 – 2023 đạt 2,4%/năm và sản lượng thịt gia cầm giết mổ tăng bình quân là 4,9%/năm. Sự tăng trưởng sản lượng thịt gia cầm khá nhanh trong giai đoạn này được giải thích bởi nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng về thịt gia cầm ngày càng tăng, đồng thời giá bán liên tục tăng và ổn định hơn giá thịt lợn hơi nên các hộ chăn nuôi đã mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sản lượng thịt trâu, bò đang trên đà suy giảm, bình quân trong giai đoạn 2019 – 2023 sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng giảm 0,9%/năm và thịt bò hơi giảm 0,2%/năm.

Biến động về số lượng và sản lượng thịt của đàn lợn trên địa bàn huyện Gio Linh được thể hiện của biểu đồ sau:

Biểu đồ 0.1: Số lượng và sản lượng thịt đàn lợn của huyện Gio Linh giai đoạn 2019– 2023

Giai đoạn 2019 – 2020,  số lượng đàn lợn ít biến động. Đến năm 2021 là 45.686 con tăng 10.346 con so với năm 2019. Số lượng tăng đột biến là do năm 2021, giá cả thịt lợn hơi có xu hướng tăng. Đồng thời sự phát triển về quy mô chăn nuôi ở các hộ gia đình, gia trại và các trang trại làm số lượng đàn lợn tăng lên một cách nhanh chóng.Đến năm 2022, đàn lợn có xu hướng tăng không đáng kể do tác động của dịch bệnh trên gia súc ảnh hưởng đến số lượng lợn đưa vào nuôi. Tuy nhiên, sản lượng thịt hơi vẫn tăng so với năm 2021, chứng tỏ người chăn nuôi đã đầu tư thâm canh tăng năng suất và đạt hiệu quả. Năm 2023, do tác động của giá lợn hơi giảm nên ảnh hưởng đến khả năng tái đàn trong chăn nuôi lợn thịt.

Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng đàn lợn thịt của huyện trong thời gian qua chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do chăn nuôi quy mô nhỏ chiếm ưu thế trong ngành chăn nuôi lợn thịt. Hơn thế nữa, giá cả thị trường trong hai năm gần đây không ổn định, dịch bệnh thường xuyên xảy ra nên người chăn nuôi đã thu hẹp quy mô sản xuất. Một bộ phận người lao động ở trên địa bàn đã chuyển đổi sang một số ngành nghề khác có thu nhập tương đối ổn định hơn làm giảm về số lượng và sản lượng thịt lợn của huyện năm 2023.

2.1.4.4. Quy mô đàn lợn của huyện Gio Linh phân theo địa bàn xã

Quy mô đàn lợn ở các vùng trên địa bàn huyện cũng có sự khác biệt rỏ rệt. Tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế của từng vùng, chăn nuôi phát triển mạnh ở các vùng diện tích đất chưa sử dụng lớn thuận lợi để mở rộng các trang trại và gia trại.

Năm 2023, đàn lợn tập trung nhiều nhất ở các xã vùng đồng bằng như Gio phong, Gio Mỹ, Gio Quang. Trên địa bàn các xã trên, sự phát triển mạnh các trang trại có quy mô lớn và các gia trại.

Sản phẩm ngành chăn nuôi lợn thịt của huyện được tiêu thụ ngay trong nội vùng và trên cả nước, một phần được các cơ sở thu gom ngoại tỉnh mua xuất khẩu sang Trung Quốc. Hình thức tiêu thụ thịt lợn ở đây chủ yếu là tiêu thụ ngay tại địa phương và tiêu thụ ở các tỉnh khác. Các hình thức này áp dụng với các hộ nông dân chăn nuôi quy mô gia trại và nông hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, còn lợn ở các trang trại quy mô lớn thường được xuất khẩu, tỷ lệ tiêu dùng trong địa phương là rất nhỏ.

  • Kênh 1:

Lợn thịt ở các cơ sở chăn nuôi được xuất bán cho người thu mua ở huyện Gio Linh, sau đó được vận chuyển đến các cơ sở giết mổ tập trung. Do người thu gom lợn thịt cũng chính là người giết mổ lợn thịt nên lợn thịt sau khi giết mổ thường được giữ lại một phần để bán trực tiếp cho người tiêu dùng tại các chợ ở trên địa bàn huyện Gio Linh. Thịt lợn được tiêu thụ qua kênh này hướng trực tiếp vào phục vụ người tiêu dùng chủ yếu là người dân ở huyện Gio Linh. Chủ cơ sở chăn nuôi cho biết, mặc dù giữa họ và người thu gom-giết mổ luôn có mối quan hệ quen biết từ lâu nhưng hầu như không có tính hợp tác lâu dài nên khi bán người chăn nuôi bị ép giá và gặp nhiều bất lợi.

Việc tiêu thụ sản phẩm thịt lợn có một đặc điểm đặc trưng là có rất nhiều khâu trung gian tham gia vào việc đưa sản phẩm từ tay người sản xuất đến người tiêu dùng. Người tiêu dùng phải mua với giá rất cao mà lợi nhuận người sản xuất thu được vẫn ở mức thấp. Đó là một tồn tại lớn của thị trường nội địa của ta và ở huyện nhà cũng không ngoại lệ.

  • Kênh 2:

Theo kênh này, người bán lẻ tại các chợ trên địa bàn huyện Gio Linh sẽ trực tiếp đến lấy thịt lợn từ các lò mổ tập trung trên địa bàn, sau đó được những người bán lẻ này vận chuyển đến các chợ trên địa bàn để bán cho người tiêu dùng hưởng chênh lệch từ giá bán.

  • Kênh 3:

Ngoài tiêu thụ trực tiếp tại địa phương, thịt lợn được tiêu thụ ở các huyện, thị xã lân cận là khá lớn. Lợn hơi được người thu gom trên địa bàn huyện và các địa phương lân cận như Vĩnh Linh, thị xã Đông Hà thu mua vận chuyển về các lò mổ. Sau đó, người bán lẻ ngoài địa bàn trực tiếp đến nhận thịt lợn và vận chuyển đến các chợ ngoài huyện để bán trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm hưởng chênh lệch từ giá bán. Người bán lẻ ở các chợ ngoài huyện Gio Linh có mối quan hệ hợp tác lâu dài với các cơ sở giết mổ.

  • Kênh 4:

Theo kênh này, lợn thịt được bán cho người thu gom ở địa bàn sau đó nhập cho thương lái ngoài tỉnh (chủ yếu là thương lái ở tỉnh Thừa Thiên Huế).

Vấn đề khó khăn trong chăn nuôi lợn tại Huyện Gio Linh trong những năm qua là thị trường tiêu thụ chưa ổn định, dịch bệnh xảy ra nhiều, phổ biến nhất là bệnh tai xanh. Do đó khi có dịch xảy ra, thịt lợn không được tiêu thụ, giá cả thấp, thậm chí còn bị tiêu hủy hàng loạt khiến cho nhiều hộ gia đình bị thua lỗ nặng.

Cuối năm 2023, giá lợn hơi giảm mạnh. Nguyên nhân chính làm giá lợn xuống thấp là do cung vượt cầu. Vì sau nhiều năm phát triển, các loại thực phẩm sản xuất và cung ứng đã vượt khá xa khả năng tiêu thụ của thị trường trong nước. Về lâu dài, cần phải xem lại quy hoạch chăn nuôi, việc phát triển các trang trại chăn nuôi lợn một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu xúc tiến thị trường, chế biến. Đặc biệt, cần phải đưa ra tiêu chuẩn lợn xuất chuồng, góp phần phát triển chăn nuôi lợn bền vững hơn.

2.2. Kết quả nghiên cứu, khảo sát các hộ chăn nuôi lợn thịt

Để đánh giá HQKT chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn huyện Gio Linh, tôi đã tiến hành khảo sát các cơ sở chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn nghiên cứu.

Dựa vào số liệu điều tra 100 cơ sở chăn nuôi lợn thịt ở 5 xã Linh Hải, Gio Mỹ, Gio Phong, Gio Quang, Trung Giang của  huyện Gio Linh. Tôi đã tổng hợp, tính toán, phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt của hộ nông dân ở Huyện Gio Linh qua các nội dung sau.

2.2.1. Thông tin chung về nguồn lực của cơ sở chăn nuôi lợn thịt

2.2.1.1. Thông tin cơ bản của người chăn nuôi

Một số đặc điểm cơ bản của người chăn nuôi lợn thịt ở huyện Gio Linh được thể hiện qua Bảng 0.7.

Bảng 0.7: Một số thông tin cơ bản của cơ sở chăn nuôi lợn thịt được khảo sát

Qua bảng 2.7 cho ta thấy, tuổi đời bình quân của người chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn huyện Gio Linh là 43,4 tuổi. Trong đó cơ sở quy mô trang trại có tuổi đời nhấp thất 39 tuổi, thấp hơn tuổi đời của các cơ sở quy mô gia trại (43,6 tuổi) và quy mô nông hộ (46,8 tuổi). Đây là điều kiện thuận lợi để các cơ sở chăn nuôi tiếp cận được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, mạnh dạn mở rộng và phát triển chăn nuôi lợn thịt.

Về trình độ học vấn thì trung học phổ thông vẫn chiếm chủ yếu (68%).Trong đó, quy mô trang trại chiếm cao nhất 75%, đến quy mô gia trại 66,7 % và quy mô nông hộ 65,7%. Qua đây cũng cho thấy được trình độ học vấn có khả năng ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận các kỹ thuật và phương thức nuôi của người chăn nuôi. Một số hộ chăn nuôi đã ý thức được tầm quan trọng này, họ đã tham gia học nghề chăn nuôi thú y, sau khi tốt nghiệp đã mạnh dạn đầu tư trang trại chăn nuôi lớn có hiệu quả kinh tế cao.

Về kinh nghiệm chăn nuôi, 77% người chăn nuôi được điều tra có kinh nghiệm chăn nuôi trên 10 năm. Trong đó,nông hộ chiếm tỷ lệ cao nhất là 100%. Thường những cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại có số năm kinh nghiệm chăn nuôi ít hơn và trình độ học vấn cao hơn, đây cũng là lợi thế của cơ sở chăn nuôi này, giúp họ có khả năng tiếp thu và thay đổi tiến bộ kỹ thuật mới và giống mới dễ dàng hơn so với các gia trại và nông hộ chăn nuôi quy mô nhỏ.

Về cơ cấu thu nhập, chăn nuôi lợn thịt vẫn là nguồn thu chủ yếu của các cơ sở điều tra, chiếm 68% tổng thu nhập của gia đình, đặc biệt là các gia trại và trang trại. Như vậy, chăn nuôi lợn đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho các nông hộ ở trên địa bàn huyện Gio Linh.

2.2.1.2 Tình hình về nguồn lực của các cơ sở chăn nuôi lợn thịt

Để phát triển CNLT quy mô lớn, người nuôi phải có diện tích đất đai đủ rộng, có vốn để xây dựng hệ thống chuồng trại. Nguồn lực của các cơ sở chăn nuôi lợn thịt được khảo sát thể hiện qua bảng 2.8

Bảng 0.8: Một số thông tin về nguồn lực của cơ sở chăn nuôi lợn thịt được khảo sát

Qua bảng 2.8, diện tích đất nông nghiệp trung bình 1 cơ sở chăn nuôi lợn thịt ở huyện Gio Linh là 4.006 m2, trong đó diện tích nhiều nhất chủ yếu là các cơ sở trang trại và gia trại vừa với 5.615 m2 và 3.731,6 m2. Qua đây cho ta thấy để phát triển chăn nuôi quy mô lớn, tập trung và chuyên canh chăn nuôi các hộ phải có diện tích đất nông nghiệp lớn để mở rộng quy mô.

Diện tích đất giành cho chăn nuôi lợn ở các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện Gio Linh trung bình 180,6 m2, diện tích khu chăn nuôi lợn của cơ sở chăn nuôi trang trại (510 m2) cao gấp 15,3 lần diện tích chăn nuôi của nông hộ quy mô nhỏ và 4,1 lần diện tích chăn nuôi của các gia trại.

Số lao động dành cho chăn nuôi trung bình của các cơ sở chăn nuôi là 2,2 người, lớn nhất ở quy mô trang trại với 2,9 người trong đó thuê lao động 0,5 người và lao động gia đình 2,4 người và thấp nhất là quy mô nông hộ với 1,5 lao động. Do giá cả đầu ra bị giảm nên các cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại, gia trại có xu hướng cắt giảm chi phí thuê lao động và tận dụng lao động gia đình để tiết kiệm chi phí.

Tỷ lệ cơ sở chăn nuôi có vay vốn trung bình là 26%. Trong đó cơ sở chăn nuôi trang trại có tỷ lệ vay vốn cao nhất (30%). Một trong các yếu tố phát triển chăn nuôi lợn là phải có nguồn vốn đủ lớn để đầu tư chuồng trại, mua con giống và thức ăn và đất đai. Số vốn vay của các cơ sở chăn nuôi đã có xu hướng giảm do giá lợn hơi giảm làm cho người chăn nuôi ngại đầu tư thêm. Mặt khác, trong điều kiện khó khăn, các cơ sở chăn nuôi mong muốn được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi nhưng do thủ tục phức tạp nên ít hộ vay được từ nguồn này.

Tình hình tham gia tập huấn cho thấy tỷ lệ tham gia tập huấn trung bình của người chăn nuôi được khảo sát là 85%. Trong đó, các cơ sở quy mô trang trại chiếm cao nhất (90%), đến quy mô gia trại (86%) và nông hộ là 78,3%. Qua đây cho thấy người chăn nuôi đã biết được tầm quan trọng của việc tập huấn và cập nhật thông tin mới và các tiến bộ kỹ thuật mới về chăn nuôi cho mình. Đặc biệt là các cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại, gia trại họ rất tích cực tham gia mặc dù không có nhiều thời gian nhưng vẫn bố trí sắp xếp để có thể tham gia các lớp tập huấn để tăng cường kiến thức mới cho phát triển chăn nuôi. Những năm trở lại đây, nhờ các chương trình đào tạo nghề cho nông dân trên địa bàn được tổ chức thường xuyên nên tỷ lệ người dân được tham gia tập huấn tăng lên rỏ rệt.

2.2.1.3. Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của hoạt động chăn nuôi lợn thịt

Kết quả khảo sát cho thấy, các cơ sở chăn nuôi sử dụng chủ yếu là lợn lai chiếm 73% đa phần là hộ chăn nuôi quy mô nhỏ 100%, quy mô vừa 79%. Nguyên do là giống lai dễ nuôi và nguồn vốn bỏ ra ít hơn, cơ sở hạ tầng và công chăm sóc cũng ít hơn so với lợn ngoại nên phù hợp với điều kiện chăn nuôi của các cơ sở trên địa bàn nghiên cứu.

Tỷ lệ giống lợn ngoại trung bình của huyện Gio Linh chiếm 27%. Trong đó giống lợn ngoại chủ yếu tập trung ở các cơ sở quy mô lớn (75%) là các cơ sở chăn nuôi gia trại, trang trại có trình độ chăm sóc và quản lý tốt, họ đã mạnh dạn đầu tư vào chăn nuôi các giống lợn ngoại để mang lại HQKT cao hơn so với giống lợn lai.

Bảng 0.9: Một số đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của hoạt động chăn nuôi lợn thịt

Số lứa nuôi trung bình là 2,7 lứa, trong đó số lứa nuôi của cơ sở quy mô lớn (3,35 lứa) cao hơn cơ sở quy mô vừa (2,7 lứa), hộ quy mô nhỏ (2,2 lứa). Điều này có thế thấy khả năng chăm sóc của các cơ sở quy mô lớn tốt hơn hẳn. Ngoài ra, bình quân trọng lượng xuất chuồng các cơ sở chăn nuôi lợn thịt 76,7 kg/con, cao nhất là cơ sở chăn nuôi quy mô lớn do lợn chủ yếu là giống ngoại nên tăng trọng nhanh. Mặt khác, phẩm chất thịt của giống lợn ngoại ngon nhất khi trọng lượng đạt từ 95 – 100kg. Tuy nhiên, năm 2024, người thu mua có xu hướng mua lợn có trọng lượng bình quân từ 80 – 85 kg nên cơ sở chăn nuôi giảm thức ăn để tiết kiệm chi phí và thuận lợi khi bán.

2.2.2. Quy mô, năng suất và sản lượng chăn nuôi lợn thịt của cơ sở

Khối lượng xuất chuồng của giống lợn lai bình quân của huyện Gio linh là 74,1 kg/con và không có sự khác biệt lớn giữa các cơ sở có quy mô khác nhau. Về tăng trọng bình quân của giống lợn lai là 0,66 kg/ngày. Trong đó cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại, gia trại có tăng trọng bình quân (0,7 kg/ngày) cao hơn quy mô nông hộ (0,64kg/ngày).

Bảng 0.10: Một số thông tin về đặc điểm kỹ thuật của hoạt động chăn nuôi lợn thịt

Còn về giống lợn ngoại thì khối lượng xuất chuồng và tăng trọng bình quân là 83,89 kg/con và 0,75kg/ngày. Do yêu cầu về kỹ thuật cũng như chi phí đầu tư chuồng trại, giống lợn ngoại không phù hợp với nông hộ chăn nuôi nhỏ. Ngược lại giống lợn được đưa vào nuôi thịt ở các trang trại chủ yếu là lợn ngoại, do đó tuổi nuôi thịt và trọng lượng nhập chuồng cao hơn nhiều. Mặt khác, sự gia tăng đầu tư thức ăn công nghiệp, cộng với quy trình nuôi khép kín nên khả năng tăng trọng của lợn thịt rất nhanh, góp phần rút ngắn thời gian nuôi.

2.2.3. Đầu tư chi phí chăn nuôi lợn thịt

2.2.3.1. Chi phí chăn nuôi lợn thịt theo quy mô nuôi

Mức CPTG bình quân cho 1 tấn thịt hơi của cơ sở chăn nuôi lợn thịt ở địa bàn huyện Gio Linh là 26,7 triệu đồng. Trong đó, chi phí thức ăn chiếm nhiều nhất với 69,8% tổng CPTG và tiếp theo là chi phí giống 27,3%. So sánh chi phí trung gian giữa các cơ sở chăn nuôi quy mô khác nhau thì cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại có chi phí trung gian là cao nhất (28,4 triệu đồng), cơ sở chăn nuôi gia trại (26,5 triệu đồng), hộ chăn nuôi quy mô nhỏ (25,8 triệu đồng). Về chi phí thức ăn ở cả 3 quy mô cho thấy nông hộ mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi phí của hộ chiếm 72,7%, gia trại chiếm 71% và quy mô trang trại là 63,8%. Sở dĩ có sự khác nhau về tỷ trọng chi phí thức ăn là do các cơ sở trang trại sử dụng thức ăn cám công nghiệp và giống ngoại nhiều hơn, khả năng tăng trọng nhanh hơn dẫn đến thời gian nuôi giảm đi và trọng lượng bán lớn hơn, tận dụng lượng thức ăn tối đa cho lợn nên chi phí thức ăn chiếm thấp trong cơ cấu tổng chi phí cơ sở. Đối với các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, tuy đã ý thức được con giống nhưng do vốn không đủ nên không thể thay thế được con giống, dẫn đến chi phí thức ăn tốn hơn vì con giống tăng trưởng chậm và thời gian kéo dài hơn nên dẫn đến tiêu tốn thức ăn nhiều làm cho hiệu quả thấp hơn.

Sau thức ăn, chi phí về giống là khoản chí phí chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng chi phí chăn nuôi lợn. Cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại thường nuôi giống ngoại, trọng lượng đưa vào nuôi cao khoảng 15 kg nên chi phí về giống cao là 8,5 triệu đồng chiếm 29,9% tổng CPTG; hộ chăn nuôi quy mô nhỏ 6,6 triệu đồng chiếm 25,6% và quy mô gia trại là 7,13 triệu đồng chiếm 26,9% trong tổng CPTG.

Chi phí khấu hao TSCĐ bình quân 0,14 triệu đồng chiếm 0,5% tổng chi phí và tăng dần theo quy mô do cơ sở chăn nuôi trang trại chí phí đầu tư ban đầu khá cao. Tương tự ở chi phí thuê lao động bình quân chung chiếm tỷ lệ 40,8% chi phí khác trong đó gia trại chiếm 36,5% và cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại là 54,5% còn chăn nuôi quy mô nông hộ không thuê lao động. Chi phí thuê lao động bình quân/ 1 tấn thịt lợn hơi không cao chỉ hơn 0,05tr là do năm 2024, nhiều trang trại, gia trại giảm lao động thuê do giá lợn ở mức thấp.

Trong tổng chi phí trung gian, chi phí thú y chiếm tỷ trọng không cao nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả chăn nuôi lợn thịt với trung bình khoảng 0,24 triệu đồng chủ yếu là chi phí tiêm phòng. Quy mô chăn nuôi càng lớn thì công tác thú y càng được chú trọng và thực hiện rất tốt. Tỷ lệ cơ sở được tham gia tập huấn khá cao nên cơ sở chăn nuôi đã có kỹ thuật tiêm phòng và chữa trị thú y rất tốt. Mặt khác, năm 2024, thời tiết thuận lợi, dịch bệnh ít xảy ra trên đàn gia súc nên chi phí chữa bệnh không nhiều.

Bảng 0.11: Chi phí và cơ cấu chi phí chăn nuôi lợn thịt theo quy mô

Chi phí trung gian khác thì chủ yếu là việc chi phí về điện, nước, sửa chữa chuồng trại bình quân chung chiếm đến 2,0% trong tổng chi phí trung gian, lớn nhất là cơ sở quy mô trang trại chiếm tỷ lệ cao nhất là 5,4%, cao hơn so với quy mô nông hộ (1,08%) và gia trại là 1,14%.

Chi phí tự có tính bình quân cho 1 tấn thịt lợn hơi là 2,67 triệu đồng chiếm 9% trong tổng chi phí và chủ yếu là chi phí lao động ước tính và chi phí thức ăn tự có. Trong đó chi phí lao động gia đình, chi phí thức ăn tự có đều có xu hướng giảm dần khi quy mô tăng do các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn họ đầu tư các các thiết bị chăn nuôi hiện đại hơn như máng ăn, máng uống tự động nên giảm được thời gian chăm sóc, các cơ sở quy mô lớn sử dụng giống lợn ngoại không có khả năng đáp ứng hoặc không muốn đưa thêm loại thức ăn này vào chăn nuôi mà dùng cám công nghiệp hoàn toàn. Do chi phí tự có cao làm cho tổng chi phí chăn nuôi tính trên 1 tấn thịt lợn hơi của hộ chăn nuôi quy mô nhỏ cao hơn trang trại và gia trại. Tóm lại, sự chênh lệch chi phí giữa các quy mô khác nhau có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi lợn thịt.

Về mặt trực quan chúng ta nhận thấy có sự khác biệt về giá trị trung bình các khoản mục chi phí giữa các quy mô. Kết quả kiểm định với mức ý nghĩa 0,05 cũng cho thấy chỉ có thức ăn và lãi vay là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các quy mô nuôi. Còn tất cả các khoản mục chi phí còn lại, căn cứ vào giá trị Sig. chúng ta có thể bác bỏ giả thiết Ho (chí phí trung bình ở các quy mô nuôi là như nhau), và có thể kết luận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các khoản mục chi phí này giữa các quy mô nuôi khác nhau.

2.2.3.2. Chi phí chăn nuôi lợn thịt theo giống nuôi

Qua bảng 2.12. cho ta thấy, theo giống nuôi thì tổng chi phí ở nhóm lợn ngoại cao hơn nhiều so với lợn lai, cụ thể tổng chi phí chăn nuôi cho lợn ngoại là 31,84 triệu đồng còn cho lợn lai là 29,09 triệu đồng. Trong đó chi phí chi phí trung gian, chi phí khấu hao, chi phí khác của nhóm lợn ngoại là cao hơn. Chi phí trung gian của nhóm lợn ngoại cao là do giống lợn ngoại thường được mua ở các cơ sở sản xuất giống chất lượng tốt, trọng lượng bình quân đưa vào nuôi lớn nên có chi phí cao hơn giống lợn lai. Mặt khác, lợn lai chủ yếu được nuôi ở cơ sở quy mô lớn nên chi phí dịch vụ điện nước bình quân cũng cao hơn. Ngược lại, chi phí tự có của nhóm lợn ngoại là 1,49 triệu đồng thấp hơn nhóm lợn lai là 3,1 triệu đồng.

Bảng 0.12: Chi phí và cơ cấu chi phí chăn nuôi lợn thịt theo giống lợn nuôi

Về mặt trực quan chúng ta nhận thấy có sự khác biệt về giá trị trung bình các khoản mục chi phí giữa hai giống lợn nuôi. Kết quả kiểm định với mức ý nghĩa 0,05 cũng cho thấy chỉ có thức ăn và thuốc thú y là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giống lợn nuôi. Còn tất cả các khoản mục chi phí còn lại, căn cứ vào giá trị Sig. chúng ta có thể bác bỏ giả thiết Ho (chí phí trung bình ở hai giống lợn nuôi là như nhau), và có thể kết luận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các khoản mụcchi phí này giữa giống lợn nuôi.

Kết luận, Từ bảng 2.11, và bảng 2.12 ta có thể thấy được giá thành bình quân của 1 kg lợn hơi xuất chuồng là 29.659 đồng/kg. Giá thành lợn hơi của cơ sở chăn nuôi quy mô nông hộ nhỏ là lớn nhất 30.715 đồng/kg và lợn ngoại cao nhất là 31.184 đồng/kg. Vậy, với mức giá lợn trên thị trường ở thời điểm hiện tại giao động từ 30.000 đồng đến 32.000 đồng thì các cơ sở chăn nuôi tùy vào quy mô, giống lợn nuôi và mức chi phí đầu tư của mình để xác định giá bán nào là hòa vốn, giá bán nào là có lãi.

2.2.4. Kết quả và hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt

Tình hình chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn huyện Gio Linh trong những năm gần đây phát triển cả về quy mô và năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên cuối năm 2023, qua năm 2024 trở lại đây, do giá lợn giảm sâu đã gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi lợn của huyện nhà nói chung và người chăn nuôi lợn nói riêng. Hiện tại, giá lợn giao động khoảng 32.000 đồng nên các cơ sở chăn nuôi lợn thịt vẫn có lãi ròng.

2.2.4.1. Kết quả và hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt theo quy mô.

Việc lựa chọn quy mô sản xuất phù hợp có ý nghĩa rất quan trọng đối với nâng cao HQKT CNLT. Để lựa chọn quy mô chăn nuôi phù hợp, bên cạnh các yếu tố chủ quan như khả năng đáp ứng về nguồn lực và trình độ quản lý của người chăn nuôi, còn phải dựa vào các yếu tố khách quan như biến động giá cả thị trường, sự sẵn có các yếu tố đầu vào, quan hệ cung cầu về sản phẩm đó…

Trong thời điểm ngành chăn nuôi đang gặp khó khăn như hiện nay, việc lựa chọn quy mô sản xuất phù hợp có ý nghĩa rất quan trọng đối với nâng cao HQKT. Trong qúa trình điều tra chúng tôi nhận thấy rằng, các hộ chăn nuôi lợn nái kết hợp với lợn thịt bị thua lỗ là do để duy trì đàn nái cần chi phí quá tốn kém, trong khi giá lợn giống quá thấp buộc các cơ sở chăn nuôi phải thải nái dần. Hộ chăn nuôi quy mô nhỏ nếu không tính thức ăn tận dụng và lấy công làm lãi thì họ vẫn có thể duy trì hoạt động chăn nuôi.

Bảng 0.13: Kết quả và hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt theo quy mô nuôi

Qua bảng 2.13 cho ta thấy kết quả sản xuất chăn nuôi lợn thịt năm 2024 tính bình quân trên 1 tấn thịt lợn hơi khoảng 30 triệu đồng. Giá trị gia tăng thu được là 3,28 triệu đồng. Trong đó, cơ sở chăn nuôi quy mô gia trại có VA cao nhất 3 , 39 triệu đồng. Giá trị gia tăng ở cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại thấp hơn quy mô hộ là do các trang trại thường chọn giống ngoại có năng suất cao để nuôi nên chi phí con giống lớn hơn nhiều so với chi phí lợn lai. Mặt khác, giá lợn hơi giảm nên các cơ sở chăn nuôi quy mô hộ có xu thế giảm thức ăn công nghiệp và tận dụng thêm thức ăn tự có nên VA của họ cao hơn. Tuy nhiên, nếu tính thêm thức ăn tự có và lao động gia đình vào chi phí thì hộ chăn nuôi quy mô nhỏ có lợi nhuận ròng bị âm. Trong khi đó ở quy mô gia trại và quy mô trang trại các chi phí này rất thấp, các trang trại không có thức ăn nào ngoài cám công nghiệp, lao động gia đình sử dụng hiệu quả hơn do hệ thống chuồng trại được đầu tư hiện đại nên lợi nhuận ròng đạt 0,81 triệu đồng ở gia trại và 1,27 triệu đồng ở quy mô trang trại .

Xét về hiệu quả sử dụng chi phí ở cơ sở chăn nuôi quy mô gia trại, người chăn nuôi bỏ ra một đồng IC thu được 1,14 đồng GO, 0,14 đồng VA và 0,13 đồng MI, cao hơn cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại đã thu được 1,12 đồng GO, 0,11 đồng VA, 0,09 đồng MI và những con số này ở quy mô nông hộ không có sự khác biệt lớn so với quy mô gia trại. Tuy nhiên, người chăn nuôi ở quy mô nông hộ bỏ ra một đồng TC thì sẽ thiệt hại thêm 0,05 đồng NB, bỏ ra một đồng IC thiệt hại 0,06 đồng NB, những con số này đối với cơ sở quy gia trại là 0,04 đồng, trong khi đó quy mô lớn thu được 0,05 đồng.

2.2.4.2. Kết quả và hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt theo giống lợn nuôi.

Trong chăn nuôi lợn thịt, do đặc điểm kinh tế – kỹ thuật giữa các giống lợn nuôi khác nhau nên chi phí chăn nuôi là khác nhau. Bên cạnh đó chất lượng thịt của các giống lợn nuôi cũng khác nhau nên dẫn tới giá bán là khác nhau. Chính những lý do này đã dẫn tới có sự khác biệt về kết quả và HQKT giữa các giống lợn, điều này được thể hiện ở số liệu trình bày ở Bảng 2.14.

Bảng 0.14: Kết quả và hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt theo giống lợn nuôi

Kết quả nghiên cứu cho thấy GO của giống lợn ngoại là lớn nhất, khoảng 32 triệu đồng/1tấn thịt hơi kg, cao hơn giống lợn lai với GO chỉ hơn 29 triệu đồng. Điều này xuất phát từ giống lợn ngoại (thường gọi là lợn siêu nạc) có tỷ lệ nạc cao nên giá bán cao hơn, dẫn đến kết quả và HQKT của giống này cao hơn.

Tuy nhiên, nhóm giống lợn lai có VA và MI lần lượt là 3,47 triệu đồng, 3,32 triệu đồng cao hơn giống lợn ngoại với con số tương ứng là 2,75 triệu đồng và 2,22 triệu đồng. Lý do là lợn ngoại yêu cầu kỹ thuật nuôi cũng như chuồng trại phải đầu tư nhiều nên nuôi chủ yếu ở các trang trại, chi phí giống, chi phí trung gian khác cao hơn dẫn đến VA và MI ở nhóm này thấp hơn.

Nhóm giống lợn lai bỏ ra một đồng IC thu được 1,14 đồng GO,0,14 đồng VA và 0,14 đồng MI, trong khi đó nhóm giống lợn ngoại hiệu quả thấp hơn thu được 1,10 đồng GO, 0,10 đồng VA và 0,08 MI. Nhưng hiệu quả cuối cùng thì giống lợn ngoại cho HQKT cao hơn với 0,03 đồng NB khi bỏ ra 1 đồng TC và 0,03 đồng NB khi bỏ ra một đồng IC, những con số này đối với nhóm lợn lai là 0,01đồng, 0,02 đồng.

Tuy nhiên, để các kết luận đưa ra chính xác hơn cho tổng thể nghiên cứu (các kết luận đưa ra có ý nghĩa thống kê), phương pháp kiểm định trị trung bình của hai tổng thể mẫu độc lập được sử dụng. Với mức ý nghĩa 0,05 và căn cứ vào giá trị Sig chúng ta có thể kết luận tất cả chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng là NB và HQKT của nhóm cơ sở nuôi lợn ngoại cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm cơ sở nuôi giống lợn lai.

2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt của các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị

2.2.5.1. Xác định các yếu tố ảnh hưởng

Kết quả và HQKT CNLT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Việc xác định các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng như thế nào đến kết quả và HQKT CNLT là rất cần thiết, đặc biệt trong tình hình khó khăn của các cơ sở chăn nuôi hiện nay. Từ đó có cơ sở khoa học để đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao HQKT CNLT trong thời gian tới.

Từ các thông tin thu thập được từ các cơ sở chăn nuôi lợn thịt ở huyện Gio Linh. Chúng tôi thấy các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt bao gồm ba nhóm yếu tố chính là: nhóm yếu tố về kỹ thuật, nhóm yếu tố thuộc về năng lực của cơ sở chăn nuôi và nhóm yếu tố thị trường. Theo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, và người chăn nuôi lợn có kinh nghiệm lâu năm, chúng tôi đã liệt kê 9 yếu tố có ảnh hưởng đến HQKT chăn nuôi lợn thịt để lấy ý kiến của người chăn nuôi trên địa bàn và kết quả khảo sát thể hiện qua Bảng 0.15:

Bảng 0.15: Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt theo ý kiến của người chăn nuôi

Qua bảng 2.15 cho ta thấy, theo ý kiến chủ quan của các cơ sở điều tra 84% cho rằng quy mô nuôi khá ảnh hưởng đến HQKT chăn nuôi lợn thịt. Giống lợn nuôi cũng ảnh hưởng đến HQKT với 85% ý kiến mức khá ảnh hưởng. Dịch vụ thú y, dịch bệnh đa số cho rằng có ảnh hưởng ở mức trung bình do thời gian qua, thời tiết khá thuận lợi, ít dịch bệnh xảy ra. Kỹ thuật nuôi khá ảnh hưởng đến HQKT với 69% ý kiến. Điều này chứng tỏ, các cơ sở chăn nuôi đã nhận thức được tầm quan trọng của kỹ thuật nuôi và tham gia khá tốt các lớp tập huấn tại địa phương. Trong thời gian qua, giá lợn hơi giảm mạnh đã tác động quá lớn HQKT của các cơ sở chăn nuôi kết quả là 100% ý kiến cho rằng ảnh hưởng từ mức khá đến mức rất ảnh hưởng. Giá cả đầu vào như giống, thức ăn cũng có ảnh hưởng, tuy nhiên thời gian qua đã có xu hướng giảm nên chỉ tác động ở mức khá ảnh hưởng là chủ yếu. Lợn là vật nuôi quen thuộc và dể nuôi nên đa số các cơ sở cho rằng kinh nghiệm nuôi ít ảnh hưởng đến HQKT.

Tuy nhiên, để có cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng đến HQKT, chúng tôi đã tính toán mối quan hệ ảnh hưởng của một số yếu tố đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt được thể hiện và trình bày qua Bảng 0.16

Về quy mô chăn nuôi:Chăn nuôi quy mô trang trại đem lại hiệu quả cao nhất tiếp đến là quy mô gia trại và quy mô hộ được thể hiện qua hiệu quả sử dụng chi phí trung gian (IC) khi ta bỏ ra một đồng chi phí trung gian thì hộ quy mô trang trại thu được 0,05 đồng lợi nhuận ròng (NB) cao hơn so với quy mô gia trại là 0,04 đồng và quy mô nông hộ thiệt hại thêm 0,06 đồng. Nếu tính theo thu nhập hỗn hợp thu được thì người chăn nuôi quy mô hộ và quy mô gia trại có giá trị tương đương (0,13) và cao hơn quy mô trang trại (0,09). Tuy nhiên, xét HQKT cuối cùng thì lợi nhuận ròng tạo ra trên một đồng tổng chi phí ở quy mô trang trại là cao nhất 0,05 đồng, và con số này ở quy mô gia trại là 0,04 đồng, còn quy mô nông hộ thì bỏ ra 1 đồng chi phí sẽ thiệt hại thêm 0,04 đồng.

Qua điều tra thấy được các cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại thường nuôi lợn giống ngoại và đầu tư chăm sóc kỹ thuật cao, nguồn thức ăn chất lượng và mua số lượng lớn nên giá tốt hơn, đầu tư hệ thống cho lợn ăn và uống tự động, cho nên đàn lợn tăng trọng nhanh. Tuy nhiên, trong điều kiện giá cả đầu ra giảm thì việc tiết kiệm chi phí trong chăn nuôi mang lại hiệu quả cho các cơ sở chăn nuôi quy mô gia trại, họ tận dụng nguồn thức ăn tự có để thay thế một phần cám công nghiệp, thời gian nuôi kéo dài nhưng vì sử dụng lao động gia đình là chủ yếu nên thu nhập hỗn hợp tính trên một đồng chí phí của nhóm này cao hơn. Nhóm chăn nuôi quy mô nông hộ, nếu xét HQKT cuối cùng thì họ bị lỗ. Tuy nhiên, trong điều kiện có sẳn nguồn thức ăn tự có, hộ chăn nuôi có thể tận dụng để duy trì đàn lợn, lấy công làm lãi.

Bảng 0.16: Mối quan hệ tác động của một số yếu tố với hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt ở huyện Gio Linh

Về giống lợn nuôi: Để đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu và đòi khỏi khắt khe của thị trường trong và ngoài nước thì cần phải phát triển chăn nuôi tăng tỷ lệ giống ngoại tỷ lệ nạc cao. Thông qua bảng 2.16 cho thấy giống lợn ngoại có hiệu quả kinh tế cao hơn giống lợn lai nên có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn. Nguyên nhân giống lợn ngoại có hiệu quả kinh tế cao hơn một phần do giống lợn ngoại có khả năng tiêu thụ thức ăn và chuyển hóa thức ăn nhanh hơn nên tăng trọng nhanh hơn giống lợn lai làm cho thời gian nuôi ngắn hơn đem lại hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để áp dụng được giống lợn ngoại vào chăn nuôi thì cần đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn và yêu cầu kỹ thuật cao hơn và chất lượng thức ăn, quy trình chăm sóc kỹ lưỡng hơn so với các giống lợn lai. Đặc biệt người chăn nuôi phải nắm rõ được đặc điểm sinh trưởng, phát triển của lợn ngoại để tránh rủi ro.Khi chăn nuôi giống ngoại ngoài ra cần phải tìm mua giống lợn ngoại ở những cơ sở uy tín và lý lịch rõ ràng.

Về hình thức nuôi:Nhóm chuyên nuôi lợn thịt có HQKT cao hơn nhóm nuôi kết hợp giữa lợn nái và lợn thị tthể hiện qua hiệu quả sử dụng chi phí trung gian (IC) của nhóm chăn nuôi chuyên thịt thu được thu nhập hỗn hợp và lợi nhuận ròng khi một đồng chi phí trung gian bỏ ra là 0,15 đồng và 0,02 đồng cao hơn so với nhóm nuôi kết hợp là 0,1 đồng MI và 0,01 đồng NB. Nguyên nhân là do chi phí giống của nhóm nuôi kết hợp khi tính khấu hao của đàn nái vào giá thành lợn giống rất cao trong khi giá lợn giống mua ngoài thị trường thấp hơn nhiều nên các cơ sở nuôi chuyên thịt trong thời điểm này lại có HQKT cao hơn. Trước đây, các cơ sở chăn nuôi có xu hướng chăn nuôi kết hợp lợn nái và lợn thịt để chủ động được nguồn con giống và chất lượng giống tốt, đặc biệt việc phòng trừ dịch bệnh an toàn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong thời điểm này, giá lợn giống quá thấp dẫn đến thua lỗ buộc các cơ sở giảm đàn nái.

Về công tác thú y và tiêm phòng dịch bệnh:Cơ sở có tiêm phòng dịch bệnh đầy đủ thì có hiệu quả kinh tế cao hơn so với cơ sở tiêm phòng không đầy đủ và không tiêm phòng. Như về hiệu quả sử dụng tổng chi phí (TC) khi ta bỏ ra một đồng chi phí thì thu được 0,16 đồng thu nhập hỗn hợp và 0,08 đồng lợi nhuận ròng. Trong khi đó, những con số này ở nhóm không tiêm phòng là 0,08 và – 0,03.

Các cơ sở chăn nuôi lợn thịt không tiêm phòng thường mắc các bệnh như tụ huyết trùng, tiêu chảy, lở mồm lông móng, tai xanh và một số bệnh khác làm cho lợn chậm lớn và tiêu tốn nhiều thức ăn, hiệu quả kinh tế giảm. Vì vậy, cần tiêm phòng định kỳ đầy đủ cho lợn theo khuyến cáo của cán bộ thú y và cần phát hiện sớm bệnh để cách li điều trị tránh lây lan gây nên thiệt hại lớn về kinh tế.

Mặt khác, cơ sở chăn nuôi có tham gia tập huấn thì hiệu quả cao hơn so với không tập huấn và HQKT càng tăng khi trình độ học vấn của người chăn nuôi tăng. Tuy nhiên, kinh nghiệm chăn nuôi lợn chưa phản ảnh tác động đến HQKT do các cơ sở chăn nuôi lợn quy mô lớn có HQKT cao lại là những chủ cơ sở có tuổi đời còn trẻ, mặc dù kinh nghiệm ít hơn nhưng do trình độ học vấn cao hơn, khả năng tiếp cận các tiến bộ về khoa học kỹ thuật tốt hơn nên họ mạnh dạn đầu tư phát triển chăn nuôi lợn theo hướng hiện đại mang lại HQKT cao.

2.2.5.2. Phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn huyện Gio Linh

Kết quả trên bảng 2.16 mới cho chúng ta thấy xu hướng tác động của các yếu tố đến HQKT CNLT nhưng chưa cho biết mức độ tác động như thế nào, để giải quyết vấn đề này chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Mô hình hồi quy tổng thể có dạng như sau: Yi = β0+ β1X1i + β2X2i + β3X3i + β4X4i + β5X5i+ β6D1 + β7D2 +  ui

Trong đó, các biến phụ thuộc Yi là MI, NB của cơ sở chăn nuôi lợn thịt thứ i (NB và MI – triệu đồng/1000 kg thịt lợn hơi xuất chuồng). Các biến X1i, X2i, X3i, X4i, X5i, D1, D2 là các biến độc lập.

  • Các biến X1i, X2i, X3i, X4i, X5i: là các biến định lượng.
  • Các biến D1, D2 : là các biến giả.
  • ui: Sai số ngẫu nhiên

Bảng 0.17: Diễn giải các biến độc lập trong mô hình

Sử dụng dữ liệu điều tra 100 cơ sở chăn nuôi lợn thịt và phần mềm spss 18 chạy mô hình hồi quy cho ta kết quả thể hiện ở bảng 2.18.

Số liệu ở Bảng 2.18 và kết quả ở phụ lục 2 cho thấy: Sig.F của các mô hình = 0,000 nên các mô hình hồi quy có ý nghĩa ở mức 99%. Điều này cho phép bác bỏ giả thiết Ho, tức bác bỏ giả thiết tất cả các hệ số hồi quy riêng bằng 0 và chấp nhận giả thiết H1, giả thiết không phải tất cả hệ số hồi quy riêng bằng 0. Như vậy, chúng ta kết luận là kết hợp của các biến độc lập trong mô hình có thể giải thích được sự thay đổi của biến phụ thuộc Y, điều này cũng có nghĩa là các mô hình xây dựng phù hợp với tập dữ liệu với mức ý nghĩa 99%. Hệ số R2 điều chỉnh của các mô hình tương ứng là 91%, 66%, và 67% có nghĩa 91% sự biến thiên của MI, 66% sự biến thiên của NB và 67% NB/TC là do các yếu tố trong các mô hình. Các hệ số Durbin-Watson là 1,87; 1,46; 1,52 chứng tỏ các mô hình không có hiện tượng tự tương quan. Bên cạnh đó, các hệ số phóng đại phương sai (VIF) của các biến trong các mô hình nhỏ hơn nhiều so với 10 (phụ lục 2) nên có thể kết luận các biến đưa vào các mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Bảng 0.18: Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và HQKT chăn nuôi lợn thịt

Đối với mô hình (1), hàm hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập hỗn hợp với các yếu tố khác có dạng như sau:

Y1 = 26,47 – 0,39 chi phí giống – 1,14 chi phí thức ăn + 0,36 chi phí thuốc thú y + 0,01 quy mô nuôi + 0,17 trình độ học vấn + 0,61 tập huấn kỹ thuật+0,003 hình thức nuôi +  ui

Trong 7 biến đưa vào mô hình thì có 5 biến có ý nghĩa thống kê (mức ý nghĩa trên 90%) và 2 biến không có ý nghĩa thống kê là chi phí thuốc thú y và hình thức nuôi, có thể do mức biến thiên của các yếu tố này thấp.

Đối với mô hình (2), hàm hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận ròng với các yếu tố khác có dạng như sau:

Y1 = 18,16 – 0,27 chi phí giống – 1,17 chi phí thức ăn + 9,53 chi phí thuốc thú y + 0,02 quy mô nuôi + 0,29 trình độ học vấn + 1,31 tập huấn kỹ thuật +0,53 hình thức nuôi +  ui

Trong 7 biến đưa vào mô hình thì có 4 biến có ý nghĩa thống kê (mức ý nghĩa trên 90%) và 3 biến không có ý nghĩa thống kê là chi phí thuốc thú y, trình độ học vấn và hình thức nuôi.

Kết quả phân tích hai mô hình (1), (2) cho thấy, các biến như chi phí giống, thức ăn có tương quan nghịch với thu nhập hỗn hợp cụ thể: trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi khi tăng 1 triệu đồng chi phí giống sẽ làm  MI giảm 0,39 triệu đồng/tấn (với mức ý nghĩa 99%) và NB giảm 0,27 triệu đồng/tấn (với mức ý nghĩa 95%), tương tự với mức ý nghĩa 99%, tăng 1 triệu đồng chi phí thức ăn sẽ làm MI giảm 1,14 triệu đồng/tấn, NB giảm 1,17 triệu đồng/tấn. Hệ số hồi quy riêng của biến giống và thức ăn trong 2 mô hình khá lớn, người chăn nuôi cần tích cực học hỏi các biện pháp khoa học kỹ thuật để có chế độ cho ăn, phối hợp các loại thức ăn hợp lý nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao HQKT chăn nuôi lợn thịt.

Bên cạnh đó, quy mô nuôi với độ tin cậy trên 99%, trình độ học vấn (độ tin cậy 95%)  có tương quan thuận với kết quả CNLT.Với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, khi số lợn nuôi trên lứa tăng lên 1 con thì MI tăng lên khoảng 0,01 triệu đồng/tấn, như vậy hoạt động CNLT trong điều kiện hiện tại là có HQKT theo quy mô. Trình độ học vấn của người nuôi tăng lên 1 Cấp thì MI tăng 0,17 triệu đồng/tấn, điều này chứng tỏ rằng có sự tác động tích cực từ trình độ học vấn đến kết quả CNLT.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tập huấn kỹ thuật cũng có tương quan thuận với kết quả CNLT với mức ý nghĩa 99%, cụ thể: khi các yếu tố khác không đổi, nếu người chăn nuôi có tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật sẽ làm cho MI tăng 0,61 triệu đồng/tấn, NB tăng 1 , 31 triệu đồng/tấn. Hệ số hồi quy của biến tập huấn tương đối lớn cho thấy ý nghĩa của các lớp đào tạo nghề cho nông cơ sở chăn nuôi lợn trong thời gian qua trên địa bàn.

Đối với mô hình (3), hàm hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa tỷ số lợi nhuận ròng/tổng chi phí với các yếu tố khác có dạng như sau:

Y1 = 0,70 – 0,01 chi phí giống – 0,04 chi phí thức ăn + 0,30 chi phí thuốc thú y + 0,001 quy mô nuôi + 0,01 trình độ học vấn+ 0,04 tập huấn kỹ thuật +0,02 hình thức nuôi +  ui

Trong 7 biến đưa vào mô hình có 4 biến có ý nghĩa thống kê và 3 biến không có ý nghĩa thống kê là chi phí thuốc thú y, trình độ học vấn và hình thức nuôi.

Kết quả của mô hình (3) cho thấy, các biến như chi phí giống, thức ăn có tương quan nghịch với thu nhập hỗn hợp với mức ý nghĩa 99% cụ thể: trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi khi tăng 1 triệu đồng chi phí giống sẽ làm  NB/TC giảm 0,01 lần, tương tự, tăng 1 triệu đồng chi phí thức ăn sẽ làm NB/TC giảm 0,04 lần. Quy mô nuôi, tập huấn lỹ thuật với độ tin cậy trên 99% có tương quan thuận với hiệu quả CNLT. Với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, khi số lợn nuôi trên lứa tăng lên 1 con thì NB/TC tăng lên khoảng 0,001 lần. Nếu người chăn nuôi có tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật sẽ làm cho NB/TC tăng 0,04 lần. Như vậy, phần lớn các biến đều tác động đúng như kỳ vọng kỳ vọng dấu, kết quả phân tích là cơ sở để đề xuất các giải pháp tác động đến HQKT chăn nuôi lợn thịt cho các cơ sở chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn huyện trong thời gian tới.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Giá thịt lợn hơi giảm sâu là yếu tố tác động lớn nhất đến HQKT của người chăn nuôi lợn thịt. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn thịt vẫn có lãi trong đó chăn nuôi lợn quy mô trang trại (trên 100 con/lứa) đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Chăn nuôi giống lợn ngoại cũng mang lại HQKT cao hơn các giống lợn lai. Việc tăng chi phí giống, chi phí thức ăn ảnh hưởng lớn đến HQKT chăn nuôi lợn thịt. Trong thời điểm giá thịt lợn hơi giảm, giá lợn giống thấp hơn giá thành sản xuất thì hình thức nuôi chuyên lợn thịt mang lại hiệu quả cao hơn chăn nuôi kết hợp giữa lợn nái và lợn thịt. Ngoài ra các yếu tố như trình độ học vấn của chủ cơ sở, tập huấn kỹ thuật và áp dụng kiến thức kỹ thuật tác động đến năng suất con giống hoặc số lứa nuôi trên năm, dịch vụ thú y cũng ảnh hưởng đến kết quả và HQKT chăn nuôi lợn thịt.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993