Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Khu vực Đông Bắc (phạm vi nghiên cứu trong luận văn gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) là vùng lãnh thổ ở hướng Bắc vùng đồng bằng sông Hồng của Việt Nam. Gọi là Đông Bắc để phân biệt với vùng Tây Bắc, còn thực chất nó ở vào phía bắc và đông bắc của Hà Nội. Đây là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Tây Bắc và Đồng bằng sông Hồng).

Ranh giới địa lý phía tây của vùng đông bắc còn chưa rõ ràng. Chủ yếu do chưa có sự nhất trí giữa các nhà địa lý học Việt Nam về ranh giới giữa vùng tây bắc và vùng đông bắc nên là sông Hồng, hay nên là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Vùng đông bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt-Trung, phía đông nam trông ra vịnh Bắc Bộ, phía nam giới hạn bởi dãy núi Tam Đảo và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Khu vực Đông Bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Kỳ Cùng, v.v…

Tuy nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng vì địa hình cao, lại có nhiều dãy núi hình cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, vào mùa Đông có gió Bắc thổi mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó vùng này có đặc khí hậu cận ôn đới. Vùng núi ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống dưới 0°C và có băng giá, đôi khi có tuyết rơi. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió.

Vùng Đông Bắc có vị trí chiến lược và vai trò xung yếu trong an ninh quốc phòng. Trong lịch sử Việt Nam, nhiều lần các thế lực phương Bắc xâm lược đã thâm nhập vào vùng này trước tiên. Nơi đây có các con đường được các nhà sử học Việt Nam gọi là con đường xâm lược, đó là đường bộ qua Lạng Sơn. Đã có nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân Việt Nam với giặc ngoại xâm ngay khi chúng thâm nhập vào vùng này. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng có các trận đánh lớn như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến dịch biên giới thu đông (1949), v.v… Cuối thập niên 1970 và trong thập niên 1980, quân Trung Quốc đã tấn công dữ dội Việt Nam chủ yếu là trên dọc tuyến biên giới ở vùng đông bắc.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1. Điều kiện liên kết xúc tiến du lịch của khu vực Đông Bắc

2.1.1. Tài nguyên du lịch

6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa  dạng và có sức hấp dẫn với du khách, có khả năng tiếp nhận một lượng lớn khách du lịch và đáp ứng các yêu cầu  của nhiều loại hình du lịch với  các đối tượng khác nhau. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Về mặt tự nhiên, vùng này có rất nhiều cảnh đẹp, với địa hình đa dạng chủ yếu là núi đồi và cao nguyên. Đặc biệt, vùng còn có những dãy núi hùng vĩ như đỉnh Tây Côn Lĩnh, Kiều Liên Ti, Ta Pu Leng cao ngất trời, hay những thung lũng nên thơ, huyền ảo. Nơi đây cũng là vùng đất tập trung nhiều sông suối khá dày đặc; tuy một số bị chia cắt nhiều, phức tạp song cũng không làm mất đi vai trò to lớn của nó trong khung cảnh nơi đây và trong việc phát triển kinh tế các tỉnh Đông Bắc. Do địa hình phức tạp nên nhìn chung khí hậu nơi đây phân mùa rõ rệt và nhiệt độ giữa các vùng không đồng đều. Hầu hết các tỉnh đều có khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp. Song mỗi địa phương lại có những nét riêng biệt: nếu Cao Bằng gần như là khí hậu cận ôn đới với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông rõ rệt thì Thái Nguyên lại chia ra hai mùa khô và mưa. Một số vùng núi cao của Hà Giang, Lạng Sơn mang khí hậu ôn đới, còn Tuyên Quang lại mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình toàn vùng khá mát mẻ nhưng có sự chênh lệch giữa các địa phương. Đặc biệt, mùa đông có thể có tuyết rơi ở một số điểm cao như Mẫu Sơn (Lạng Sơn). Diện tích rừng bao phủ của vùng khá lớn, có nơi lên tới hơn 50%.

Cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, đặc biệt là Công viên địa chất toàn cầu – Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) hùng vĩ nằm ở độ cao bình quân trên 1.400 m so với mặt nước biển. Nơi có tới hàng trăm biểu hiện di sản địa chất: cổ sinh, địa tầng, địa mạo, cấu trúc – kiến tạo, karst, đá, cổ môi trường,… Tính đa dạng địa chất và khả năng bảo tồn tốt của chúng trong điều kiện tự nhiên của khu vực đã đem lại những giá trị, tiềm năng lớn cho phát triển du lịch, nghiên cứu và giáo dục địa chất. Những tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên, nổi bật là các di sản địa chất, cùng với những giá trị di sản nhân văn của khu vực Cao nguyên đá Đồng Văn không chỉ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để phát triển một công viên địa chất mà quan trọng hơn là nó sẽ trở thành biểu tượng du lịch và di sản tự nhiên văn hóa của Hà Giang. Đồng thời có nhiều cảnh quan hấp dẫn như hồ Ba  Bể, hồ Núi Cốc, thác Bản Giốc, thác Đầu Đẳng, thác Dải Yếm, thác Mơ và nơi núi Các Mác, suối Lê Nin và các cánh rừng già nguyên sinh như khu rừng cấm Tam Đảo với hệ sinh thái  rừng nhiệt đới làm thoả mãn trí tò mò của các du khách với lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học.

Về mặt văn hoá lịch sử, vùng này phản ánh bề dày  lịch sử Việt Nam. Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông  Sơn nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử qua các triều đại của  nước ta còn được bảo toàn hoặc phục hồi như khu rừng Trần Hưng Đạo, khu Cao Bằng Pắc Pó và nhiều danh thắng lịch sử khác rất có giá trị về khoa học và giáo  dục truyền thống, truyền bá kiến thức. Bên cạnh đó với những lễ hội truyền thống  mang đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho khách du lịch, thăm quan tìm hiểu và nghiên cứu. Đây cũng là vùng được khai sinh từ rất sớm trong lịch sử nên nó là nơi lưu chứa nhiều di sản văn hóa đặc sắc với truyền thống lâu đời của hàng chục dân tộc khác nhau. Đây là một địa danh du lịch đáng nhớ bởi cảnh quan thiên nhiên và con người nơi đây không hề giống so với các vùng còn lại trên cả nước. Hầu như đến với nơi đây, du khách được hòa mình vào trong các điệu múa, tiếng khèn trong các dịp lễ hội, đắm mình vào không gian văn hóa đặc sắc với những sản phẩm kết tinh từ truyền thống văn hóa độc đáo mà chỉ có cư dân miền núi mới có được, đó là những chiếc khăn thêu, túi vải, áo váy với các loại hoa văn rực rỡ, tinh tế. Đặc biệt hơn nữa du khách còn có dịp tham dự các phiên chợ vùng cao của cư dân địa phương và khám phá được nhiều điều mới lạ.

Đông Bắc nổi tiếng với Hà Giang – vùng đất địa đầu của Tổ quốc, nơi có hơn 20 dân tộc sinh sống, với hàng chục lễ hội đầu xuân kéo dài hàng tuần mang tính chất tổng hợp: cầu mưa, cầu mùa, cầu con trai, mừng công, mừng nhà mới… với các trò chơi dân gian như bắn nỏ, hát giao duyên, ném Pao, lảy cỏ… Đặc biệt, Hà Giang còn có chợ tình Khâu Vai (Mèo Vạc) – là nơi h n hò thiêng liêng cho bao đôi lứa, là hiện thân của sự nhân văn nhân ái trong lối sống của đồng bào vùng cao. Bên cạnh đó là Cao Bằng với truyền thống văn hóa lâu đời của người Tày, thể hiện trong các lễ hội truyền thống, dân ca dân vũ (hát đối đáp, hát Then…). Tiêu biểu nhất là hội M Trăng (với không khí hội pha trộn giữa thực tại và huyền ảo trong mối quan hệ giữa người trần tục và cõi tiên trong tiết trời xuân), hội Lồng tồng, hội Thanh Minh… Với các đền chùa hấp dẫn du khách như: chùa Viên Minh, đền Xuân Lĩnh… nơi ghi dấu công trạng của những anh hùng có công đánh giặc cứu nước. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Còn nói đến di tích cách mạng của vùng Đông Bắc phải kể đến 3 tỉnh nổi bật là Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang. Trong hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ, đây là những cái nôi cách mạng. Ngày nay, Chính phủ đã công nhận một số điểm là di tích cách mạng. Nổi bật nhất là di tích Tân Trào – Thủ đô kháng chiến thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đây là nơi làm việc của các vị lãnh đạo, cơ quan trung ương Đảng và chính phủ Việt Nam. Đình Tân Trào là nơi mà các đại biểu khắp mọi miền đất nước đã về dự họp Quốc dân đại hội 16/08/1945. Cũng từ nơi đây quốc kỳ, quốc ca, ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã được khai sinh. Cây đa Tân Trào gắn với sự kiện đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc bản quân lệnh số 1 và đội quân giải phóng đã lên đường qua Thái Nguyên giải phóng về Hà Nội. Tiếp đến là đình Hồng Thái, nơi dừng chân đầu tiên của Hồ Chủ Tịch trên đường người đến Tân Trào (5/1945), là trạm thường trực của ATK của trung ương đóng ở Tân Trào.

Nói đến Thái Nguyên là người ta nhớ ngay đến tên một địa danh – di tích ATK Định Hóa – đó là an toàn khu, là trung tâm lãnh đạo của kháng chiến 9 năm cứu quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh đạo cách mạng đã họp và làm việc ở đây từ 1947 đến 1954, đồng thời là nơi diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tại đây có nhiều chứng tích về nơi ở và làm việc của Hồ Chủ tịch và nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Ngoài ra còn vô số những điểm gắn với các chứng tích lịch sử như: di tích Pò Ket, hầm bí mật Dốc Tiệm và hội trường chữ U (thuộc tỉnh Bắc Kạn), thành cổ nhà Mạc, di tích đền Hạ, hang Bòng, lán Nà Lừa, di tích Kim Bình, di tích ATK Kim Quan, di tích Đá Bàn (thuộc tỉnh Tuyên Quang), di tích núi Văn – núi Võ, di tích làng Quặng, di tích cách mạng xã Tiên Phong, di tích Căng Bá Vân, nhà tù Chợ Chu, di tích Điềm Mặc (thuộc tỉnh Thái Nguyên).

Hơn nữa, đây cũng là vùng có nhiều dân tộc cùng sinh sống, vì vây kho tàng văn hóa của dân cư trong vùng khá phong phú. Bẳn sắc văn hóa riêng của dân tộc tạo nên sự đa dạng và độc đáo của địa phương. Bản sắc văn hóa truyền thống được lưu giữ như một thứ tài sản vô giá, từ kiến thức trúc nhà cửa, nề nếp sinh hoạt, trang phục đến tập quán sản xuất, quan hệ cộng đồng, làng bản… Mỗi mùa xuân về, người dân nhiều vùng quê lại tưng bừng mở hội, cầu người yên, vật thịnh, cầu mùa vụ bội thu: lễ hội xuân Ba Bể, hội Phủ Thông, hội Lồng tồng, hội chùa Thạch Long, hội Xuân Dương (Bắc Kạn), hội làng Giếng Tanh, lễ hội quá tang của người Dao (Tuyên Quang), lễ hội đền Đuổm, hội Hích, hội chùa Hang, hội làng cơm hỏm (Thái Nguyên)…

Đến với Lạng Sơn, một tỉnh địa đầu của Tổ quốc với nhiều danh thắng đẹp và có nhiều di tích lịch sử và những phong tục mang đậm bản sắc dân tộc.

Tỉnh có di tích văn hóa khảo cổ Bắc Sơn, văn hóa Mai Pha. Đây là nơi phát hiện ra các di chỉ của người Việt thời sơ sử, tiền sử, nó in đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Những dân tộc có đông dân cư như Tày, Nùng, Việt/Kinh, Dao. Họ có nhiều phong tục tập quán rất độc đáo. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Dân tộc Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và nhiều làn điệu dân ca mang đậm bản sắc dân tộc. Người Nùng có hai làn điệu nổi tiếng là Sli và hát Then. Sli là lối hát giao duyên nam – nữ rất độc đáo và ấn tượng. Then là thể loại ca nhạc tín ngưỡng tổng hợp có lời, có nhạc làm say đắm lòng người. Dân tộc Tày có nền văn hóa cổ truyền, có điệu dân ca phổ biến là hát Lượn. Người Sán Chay nổi tiếng với Sình Ca, múa đâm cá, múa thắp đèn… Với truyền thống như vậy, Lạng Sơn có khả năng khai thác những thế mạnh này phục vụ cho khách du lịch trong và ngoài nước. Lễ hội được tổ chức rải rác quanh năm nhưng tập trung chủ yếu vào dịp đầu xuân: lễ hội Kì Lừa (22 – 27 tháng Giêng), hội đền Bắc Lệ (10/1 – 15/2), hội chùa Tà Và (12 – 15/4), lễ hội Cô Hai (giữa tháng Giêng đến giữa tháng Hai ÂL)… Lạng Sơn còn nổi tiếng với các công trình đền chùa. Được nhiều người biết đến nhất là chùa Tam Thanh nằm trong động Tam Thanh, thuộc thành phố Lạng Sơn, có tấm bia “thiền động pháp luân thường chuyển”, hệ thống tượng Phật khá phong phú. Ngoài ra còn có chùa Tam giáo – động Nhị Thanh, chùa Tiên, đền Tả Phù, đền Kỳ Cùng, đền Bắc Lệ, chùa Diên Khánh… với những kiến trúc độc đáo, hấp dẫn du khách đến chiêm ngưỡng. Lạng Sơn cũng có nhiều di tích gắn liền với các sự kiện lịch sử: di tích Bắc Sơn (nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa vũ trang của quân du kích năm 1940, chống phát xít Nhật vào đánh Lạng Sơn), thành cổ Đoàn Thanh, thành nhà Mạc, ải Chi Lăng…

Nhìn chung, khu vực Đông Bắc có một hệ thống tài nguyên du lịch nhiên tạo và nhân tạo đa dạng, phong phú và có sức hấp dẫn du khách, là tiền đề tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù góp phần xác định hình ảnh chung của khu vực. Tuy nhiên, nếu không có hoạt động liên kết xúc tiến du lịch thì tài nguyên du lịch khu vực sẽ bị xé lẻ, giảm tính hệ thống, không có cơ hội tạo thành sản phẩm du lịch theo những chuyên đề nhất định, hạn chế sự kết nối tuor/tuyến trong vùng.

2.1.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch

Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của khu vực Đông Bắc đã có sự phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng. Hiện nay, trên toàn vùng, hệ thống đường bộ với tổng chiều dài chạy qua là 44.250 km, mật độ 66 km/km2. Về hệ thống đường sắt, có tuyến Hà Nội – Đồng Đăng dài 163 km và tuyến Hà Nội – Quán Triều dài 76 km. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ về tăng trưởng kinh tế nói chung, khu vực Đông Bắc cũng đầu tư  phát triển mạng lưới giao thông, nâng cấp các quốc lộ 1, 2, 3, 70… Đồng thời, các tỉnh trong vùng cũng chú ý phát triển mạng thông tin bưu chính viễn thông, cấp điện.

Tỉnh Thái Nguyên: ngành du lịch đã chủ động tham mưu cho UBND tỉnh đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng du lịch như: Dự án cụm công trình dịch vụ du lịch ATK Phú Đình; dự án đường đi bộ lên hang Phượng Hoàng- suối Mỏ Gà, bãi đỗ xe khu du lịch phía Bắc Hồ Núi Cốc, dự án đầu tư tôn tạo di tích lịch sử Đồi Khau Tý, di tích Thẩm Khen, di tích Tỉn Keo…Về cơ sở vật chất du lịch (khách sạn, nhà hàng ăn uống) đến hết năm 2014, trên địa bàn tỉnh có 212 cơ sở lưu trú du lịch (40 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 sao, 4 khách sạn 3 sao, 1 khách sạn 4 sao). Quy mô các khách sạn ngày càng mở rộng theo hướng tăng các dịch vụ phụ trợ bổ trợ cho dịch vụ lưu trú. Năm 2015, có nhiều dự án đầu tư cơ sở lưu trú khách sạn cao cấp, khu nghỉ dưỡng, khu dịch vụ du lịch với giá trị hàng trăm tỷ đồng như: Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương mại Đông Á đầu tư khu nghỉ dưỡng Phúc Xuân tiêu chuẩn 3 sao, Khu trung tâm thương mại, khách sạn Đông Á Plaza tiêu chuẩn 4 sao; Công ty cổ phần khách sạn Công đoàn Hồ Núi Cốc đầu tư mở rộng quy mô, tăng các dịch vụ vui chơi giải trí với số vốn 70 tỷ đồng; Công ty TNHH tranh đá quý Dũng Tân đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng trung tâm dịch vụ, mua sắm phục vụ du khách… Như vậy, hiện nay các cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng phục vụ cho du lịch tỉnh Thái Nguyên đã được chú trọng nâng cấp, đầu tư: hệ thống đường giao thông nối liền các điểm du lịch trong tỉnh đảm bảo xuyên suốt, an toàn, thuận lợi; hệ thống nhà nghỉ, khách sạn và các trang thiết bị phụ trợ hiện đại, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Tỉnh Hà Giang: toàn tỉnh hiện nay có 135 cơ sở lưu trú với hơn 1.517 phòng nghỉ, trong đó có trên 15 khách sạn đạt chuẩn 1 sao, 3 khách sạn đạt chuẩn 2 sao và nhiều cơ sở lưu trú đã được xếp hạng chuẩn. Hiện nay toàn tỉnh có 29 làng du lịch cộng đồng được công nhận và đi vào hoạt động đã thu hút khách đến tham quan thường xuyên như: thôn Tha, xã Phương Độ; thôn Tiến Thắng, xã Phương Thiện của thành phố Hà Giang; Làng văn hóa du lịch Mông hoa, xã Sủng Là, huyện Đồng Văn; làng dân tộc người Pà Thẻn, huyện Quang Bình… Về địa điểm phục vụ ăn uống, toàn tỉnh có 228 nhà hàng với khả năng phục vụ 2.089 bàn ăn cùng một lúc. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng tỉnh Hà Giang đã có sự phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh đã có sự đổi mới về phương thức kinh doanh cho phù hợp với tình hình thực tế, như: kết hợp giữa các dịch vụ ăn nghỉ cũng như các loại hình dịch vụ bổ sung khác, tạo mối liên kết qua lại tương trợ lẫn nhau, luôn có mức giá hợp lý và thu hút khách thường xuyên. Trong có sự kiện được tổ chức tại tỉnh Hà Giang, các cơ sở lưu trú còn thực hiện giảm giá và có nhiều chương trình khuyến mại nhằm thu hút du khách.

Tỉnh Tuyên Quang: là một tỉnh giáp biên, còn khó khăn về kinh tế, tuy nhiên trong năm 2014, toàn tỉnh Cao Bằng có “164 cơ sở lưu trú du lịch được thẩm định xếp hạng (tăng 1.1 lần so với năm 2013), với 2.151 phòng, 3.292 giường đạt tiêu chuẩn. Công suất sử dụng phòng bình quân đạt 57%”. Trong 6 tháng đầu năm 2015 đã thẩm định, phân loại, xếp hạng thêm 13 cơ sở lưu trú trong tổng số 187 cơ sở, với 2.160 phòng, 3.420 giường, trong đó có 33 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1-2 sao, 01 nhà hàng đạt tiêu chuẩn cấp biển hiệu phục vụ khách du lịch….Thực hiện Chương trình số 12-CTr/TU, ngày 29/4/2011 của Tỉnh ủy về Phát triển du lịch Cao Bằng giai đoạn 2011 – 2015, những năm qua, Cao Bằng đã chú trọng đến việc quy hoạch phát triển du lịch, quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở giao thông đến các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh. Đến nay, phần lớn các khu, điểm du lịch đã được quy hoạch và công bố theo quy định: “hoàn thành các tuyến đường tỉnh lộ 206 đoạn Cao Bằng – Bản Giốc; đường Hồ Chí Minh đoạn Cao Bằng – Hà Quảng; quốc lộ 34 đoạn Khau Đồn – Nguyên Bình, đầu tư cải tạo, nâng cấp tuyến từ tỉnh lộ 206 vào Khu du lịch động Ngườm Ngao (Trùng Khánh); cải tạo, nâng cấp đoạn từ tỉnh lộ 212 lên đỉnh núi Phja Oắc – Khu du lịch sinh thái Phja Oắc – Phja Đén; cải tạo, sửa chữa tỉnh lộ 202 đoạn từ quốc lộ 34 vào Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo…”.

Đặc biệt, việc huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng các khu du lịch có trọng tâm, trọng điểm đã tạo được tỉnh Cao Bằng phát triển bứt phá trong thời gian qua. Cụ thể, việc đầu tư xây dựng Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó trở thành một điểm du lịch mang tầm cỡ Quốc gia, có thương hiệu, dấu ấn riêng biệt được tỉnh rất quan tâm.  Đến nay, các hạng mục đã hoàn thành và phát huy được đúng giá trị, nhằm đưa vào phục vụ bước đầu có hiệu quả, như: Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh; bãi đỗ xe khu di tích; nhà sinh hoạt cộng đồng; san nền, sân, kè, đường khu trung tâm Khu di tích; hệ thống cấp nước khu trung tâm Khu di tích; nhà công vụ cho cán bộ, công nhân viên; cắm mốc chỉ giới đường đỏ và cốt quy hoạch… Những nỗ lực về cải thiệnn điều kiện cơ sở hạ tầng/vật chất kỹ thuật du lịch của Cao Bằng được thể hiện trong Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm 2016 của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, cụ thể như sau: “Dự án Sài Gòn – Bản Giốc Resort tại thác Bản Giốc – Trùng Khánh do Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (Saigontourist) làm chủ đầu tư, vốn đầu tư trên 170 tỷ đồng; khởi công xây dựng tháng 12/2012, đã hoàn thành một số hạng mục dự án, ngày 15/12/2014 đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Dự án chùa Phật tích Trúc Lâm Bản Giốc do Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm chủ đầu tư, khởi công xây dựng tháng 6/2013 cũng đã hoàn thành và đưa vào khai thác trong tháng 12/2014. Dự án cải tạo nâng cấp đường vào Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo và các hạng mục: Nhà đón tiếp trong Khu di tích; Nhà tưởng niệm…, được tôn tạo mới, bước đầu thu hút khách đến tham quan, du lịch”.

Như vậy, về cơ bản, các cơ sở hạ tầng/vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch khu vực Đông Bắc ngày càng được cải thiện, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, tình hình an ninh trật tự được đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho du khách lưu trú, tham quan, mua sắm trong quá trình tham quan tại các khu, điểm du lịch. Song song với các dịch vụ ăn nghỉ, một số dịch vụ đi kèm như: vui chơi giải trí, karaoke, vật lý trị liệu, các sản phẩm địa phương cũng được phát triển, mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách cho các địa phương.

2.1.3. Nguồn nhân lực thực hiện liên kết xúc tiến du lịch Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Luật Du lịch (2005) có quy định rõ ràng 2 thành phần tham gia hoạt động xúc tiến du lịch, đó là cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch và doanh nghiệp du lịch. Trong khuôn khổ luận văn này, người nghiên cứu tập trung mô tả về nhóm nhân lực thuộc cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện hoạt động liên kết xúc tiến du lịch.

Luật Du lịch (2005) cũng chỉ rõ: “Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch quốc gia; chủ trì, phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài; điều phối các hoạt động xúc tiến du lịch liên vùng, liên địa phương… Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch của địa phương; tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch tại địa phương; phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và ở địa phương khác trong hoạt động xúc tiến du lịch”.

Theo quy định quản lý Nhà nước thì Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện xác chương trình xúc tiến du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng. Thông thường, ở mỗi tỉnh đều có Trung tâm Xúc tiến

Du lịch – là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng theo quy định; chịu sự chỉ đạo về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đồng thời chịu sự chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, cụ thể là Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.  Như vậy, theo phạm vi h p (mang tính chuyên môn hóa) thì nhân lực thực hiện liên kết xúc tiến du lịch chính là lao động làm việc trong các Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch. Đối với khu vực Đông Bắc, đó là:

Bảng 2.1: Các đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp xúc tiến du lịch của các tỉnh khu vực Đông Bắc

Tuy tên gọi của các đơn vị này có thể không hoàn toàn giống nhau nhưng về cơ bản chúng đều có những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gần như tương tự. Cụ thể là: Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Về chức năng:

  • Tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch trên địa bàn tỉnh.
  • Tham gia đề xuất với Sở VHTT&DL xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển du lịch; cơ chế quản lý và hoạt động du lịch; các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển du lịch trình UBND tỉnh phê duyệt.

Về nhiệm vụ:

  • Xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động xúc tiến du lịch; các đề án, các hoạt động liên kết, phối hợp kêu gọi các nguồn đầu tư về du lịch…tổ chức thực hiện khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
  • Là đầu mối liên hệ với các hiệp hội du lịch, các đơn vị lữ hành trong và ngoài tỉnh, kết nối với các tour lữ hành đến tỉnh nhằm đẩy mạnh các hoạt động du lịch.
  • Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch văn minh, lành mạnh, an toàn và hấp dẫn.
  • Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường du lịch; xây dựng và quảng bá sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch.
  • Huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển du lịch tỉnh Bắc Kạn với nhiều loại hình độc đáo, đa dạng, chất lượng cao.
  • Các nhiệm vụ khác do Sở VHTT&DL giao.

Về quyền hạn:

  • Đơn vị được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở và trước pháp luật trong việc thực hiện quyền tự chủ về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính đơn vị.
  • Được thu các khoản kinh phí tài trợ từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp và cá nhân thông qua các hoạt động xúc tiến du lịch và các hoạt động hợp pháp khác.

Về tổ chức bộ máy

Thông thường mỗi đơn vị đều có Ban lãnh đạo/Ban giám đốc chịu trách nhiệm quản lý, sau đó là các Phòng chuyên môn. Tùy vào tình hình thực tế của từng tỉnh mà đơn vị này có số lượng và tên gọi các phòng chuyên môn khác nhau. Về cơ bản, có các phòng chuyên môn sau:

  • Phòng Hành chính – Tổng hợp.
  • Phòng Xúc tiến Du lịch.
  • Phòng Thông tin tuyên truyền
  • Phòng Thị trường du lịch      – …

Dưới sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các Trung tâm xúc tiến du lịch ở mỗi tỉnh đã đóng vai trò như cầu nối trung gian nhằm gắn kết các đơn vị, doanh nghiệp du lịch trong và ngoài tỉnh, thực hiện nhiều chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch. Nội dung tuyên truyền, quảng bá được xây dựng đầy đủ, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, các thông tin về du lịch địa phương được thể hiện dưới nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn, nhờ vậy lượng khách vùng Đông Bắc trong những năm gần đây liên tục tăng lên.  Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau nên trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ lao động trực tiếp thực hiện xúc tiến du lịch và liên kết xúc tiến du lịch không đồng đều. Cụ thể, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực này được thể hiện trong bảng sau: Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Bảng 2.2. Cơ cấu trình độ chuyên môn nhân lực tại các Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc

Như vậy, có thể thấy điều kiện nguồn nhân lực trực tiếp thực hiện liên kết xúc tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc là không giống nhau. Về cơ bản là còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Nguồn lao động này sớm được kiện toàn bằng việc tuyển dụng mới, đào tạo mới và đào tạo lại giúp nâng cao chuyên môn nghiệp vụ phục vụ hoạt động xúc tiến du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.

2.1.4. Chủ trương và chính sách liên kết xúc tiến du lịch

Hiện nay, với nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng việc quảng bá đến thị trường hình ảnh các tuyến, điểm du lịch được tạo bởi sản phẩm du lịch hấp dẫn và đặc trưng liên vùng là yêu cầu cấp thiết. Việc liên kết phát triển du lịch giữa các địa phương (trong đó có liên kết xúc tiến du lịch) sẽ cho phép khai thác những lợi thế của nhau về tài nguyên du lịch, về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và các nguồn lực khác cho phát triển du lịch, tạo ra được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn đối với các bên liên quan. Vấn đề là các địa phương phải bắt tay liên kết thực sự bằng những chương trình, việc làm cụ thể.

Liên kết quảng bá, xúc tiến sẽ giúp cho các tỉnh hiểu rõ về tiềm năng thế mạnh của các tỉnh trong khu vực. Qua đó các tỉnh có điều kiện để xác định xây dựng những sản phẩm du lịch đặc trưng và có thế mạnh của mỗi địa phương tránh trùng lắp với các địa phương khác trong khu vực. Hơn nữa, trong quá trình liên kết các Trung tâm Thông tin – Xúc tiến du lịch có thể trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của nhau rất nhiều về cách thức tổ chức, tham gia các sự kiện, các hình thức quảng bá, xúc tiến v.v..

Mặc dù yêu cầu liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc ngày càng trở nên cấp thiết nhưng hiện nay chưa có một cơ chế chính thức cho hoạt động liên vùng này. Tuy nhiên tình hình thực tế tại Đông Bắc cũng đã ghi nhận những nỗ lực không nhỏ của các địa phương trong việc hướng tới xây dựng một cơ chế liên kết xúc tiến du lịch.

Với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh, các Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch đã tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến về du lịch; tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương, chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm du lịch. Đặc biệt, dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch các tỉnh miền núi Đông Bắc cũng có có nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia trực tiếp vào các hoạt động liên kết xúc tiến du lịch. Ngoài ra, các tỉnh đã thành lập Hiệp hội Du lịch như cánh tay nối dài của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, góp phần làm đầu mối liên kết các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn và trong khu vực.

Trong khuôn khổ Ngày hội Văn hóa – Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc lần thứ IX – Bắc Kạn 2015, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch Việt Nam phối hợp với tỉnh Bắc Kạn tổ chức tọa đàm “Liên kết phát triển du lịch tiểu vùng Đông Bắc“. Tại diễn đàn này, đại diện các tỉnh tham dự cũng đã bày tỏ mong muốn về việc xác lập một cơ chế chính sách cụ thể cho việc liên kết xúc tiến du lịch trong khu vực. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Đó là việc cần tăng cường hợp tác giữa cơ quan quản lý Nhà nước của mỗi tỉnh, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm; chú trọng cải thiện các tuyến đường nối các điểm, khu du lịch nội tỉnh và liên tỉnh; xây dựng quỹ xúc tiến du lịch vùng; liên kết đường dẫn, đăng tải thông tin du lịch lẫn nhau trên trang website để cập nhật dữ liệu thường xuyên (về tài nguyên du lịch, các tour, tuyến, điểm du lịch, sự phát triển của các dịch vụ lữ hành, lưu trú, vui chơi giải trí, mua sắm, ẩm thực…); các sự kiện tại mỗi tỉnh phải có nội dung giới thiệu, quảng bá cho du lịch các tỉnh bạn và ngược lại; xây dựng bản đồ chung của 10 tỉnh trong vùng Đông Bắc…

“Liên kết phát triển du lịch là vấn đề được các địa phương vùng Đông Bắc coi trọng trong bối cảnh Vùng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Các tỉnh Đông Bắc cần đẩy mạnh liên kết để đề xuất các cơ chế, chính sách, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch; liên kết trong nghiên cứu định hướng, xác định thị trường du lịch; liên kết trong công tác xúc tiến, quảng bá, đầu tư; liên kết về đào tạo phát triển nguồn nhân lực; liên kết để giữ gìn, bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch. Từ đó, có những giải pháp phù hợp để phát triển du lịch, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Bắc”.

Hội thảo cũng đề cập tới việc nên thành lập Ban Chỉ đạo phát triển du lịch vùng Đông Bắc, thành viên là các tỉnh. Hàng năm, Ban Chỉ đạo xây dựng kế hoạch hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên; thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi, giải quyết đánh giá tình hình thực hiện công tác phát triển du lịch, giải quyết các vấn đề vướng mắc nhằm đẩy mạnh hoạt động du lịch của vùng phát triển.  Đẩy mạnh liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch và hợp tác quốc tế về du lịch. Các tỉnh phải tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác, đẩy mạnh liên kết phát triển du lịch của các địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế giữa các tỉnh trong vùng Đông Bắc…

2.2. Nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Xét về mặt lý thuyết (như đã trình bày ở chương 1 luận văn này), nguyên tắc liên kết xúc tiến bao gồm:

  • Thống nhất quan điểm liên kết
  • Xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ liên kết
  • Phải xác định rõ ràng thị trường và thông điệp quảng cáo
  • Đồng thuận trong quyết định ngân sách xúc tiến

Thường xuyên giám sát chương trình liên kết xúc tiến du lịch Tuy nhiên, đối với khu vực Đông Bắc, qua điều tra thực địa thì hoạt động liên kết xúc tiến du lịch mới đang ở những bước khởi đầu vì vậy việc tiếp cận và nhận diện các nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch vùng rất khó khăn. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một vài thành tố của các nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch khu vực này thể hiện trong các thông tin về liên kết phát triển du lịch của toàn vùng Đông Bắc.

Đối với khu vực Đông Bắc, mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020, du lịch các tỉnh tiểu vùng Đông Bắc nói riêng và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ nói chung có hệ thống sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc hấp dẫn khách du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc vùng núi. Đẩy mạnh hơn nữa về liên kết phát triển sản phẩm du lịch trong tiểu vùng với nhau hoặc giữa tiểu vùng Đông Bắc với Tây Bắc, Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng để tạo thành tam giác phát triển du lịch Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng – Đông Bắc – Tây Bắc, là một trong những chương trình du lịch đặc sắc của ngành du lịch Việt Nam.

Mặc dù những nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc chưa thực sự được xác lập nhưng các địa phương đã hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc xây dựng một số chương trình phát triển du lịch (trong đó có nội dung liên kết xúc tiến du lịch) như: chương trình “Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc”, Chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”. Đặc biệt, là đối với Chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”, từ năm 2009 đến nay, chương trình phát triển du lịch này đã trở thành một trong những hoạt động xúc tiến du lịch, tạo sự liên kết, hợp tác, xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng của mỗi tỉnh, kết nối và tạo các tour, tuyến du lịch mới trên quy mô vùng – khu vực Đông Bắc.

Đông Bắc là vùng có một hệ thống tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn du khách, là tiền đề để phát triển các loại hình du lịch đặc thù như: du lịch sinh thái, du lịch lịch sử và du lịch tâm linh, du lịch văn hóa… Tuy nhiên cho đến nay, du lịch Đông Bắc vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có này. Vì vậy, liên kết vùng trong phát triển du lịch Đông Bắc là cần thiết nhưng cần sớm xác định các nguyên tắc liên kết du lịch nói chung và các nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch nói riêng để tạo sự đồng thuận và thống nhất trong thực hiện nhằm quảng bá hình ảnh du lịch Đông Bắc ra thị trường một cách hiệu quả.

2.3. Nội dung liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Về mặt lý luận thì liên kết xúc tiến du lịch được thực hiện theo các nội dung đã được khái quát ở Chương 1 luận văn này, gồm 4 nội dung cơ bản sau:  – Liên kết trong nghiên cứu thị trường và sản phẩm du lịch

  • Liên kết trong tuyên truyền, quảng cáo, truyền thông và quan hệ công chúng
  • Liên kết xây dựng thương hiệu du lịch vùng
  • Liên kết quản lý điểm đến du lịch

Tuy nhiên, đối với các tỉnh miền núi Đông Bắc, nhìn nhận từ phạm vi tổng quát là quy mô vùng thì 4 nội dung liên kết xúc tiến du lịch nói trên gần như không được nhận diện rõ ràng mà chúng được thực hiện lồng ghép, đan xen với nhau. Bởi, như thực trạng về điều kiện liên kết xúc tiến du lịch vùng Đông Bắc đã trình bày ở trên thì các tỉnh trong vùng đang ở giai đoạn sơ khởi của việc thực hiện liên kết xúc tiến du lịch. Nói một cách khác, yêu cầu về liên kết xúc tiến du lịch thì rất cấp thiết nhưng ngoài sự đảm bảo về điều kiện tài nguyên du lịch thì những điều kiện khác như nhân lực, cơ sở hạ tầng/vật chất kỹ thuật du lịch, cơ chế chính sách liên kết còn nhiều bất cập. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Chính vì vậy, trong những năm qua, vùng Đông Bắc mới chỉ tập trung vào hợp tác thực hiện những chương trình phát triển du lịch trong đó có lồng ghép nội dung liên kết xúc tiến du lịch ở những mức độ khác nhau, mà trong đó nổi rõ nội dung liên kết trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, truyền thông và quan hệ công chúng. Nội dung liên kết này được thể hiện rõ ràng qua 2 chương trình phát triển du lịch mà vùng Đông Bắc đã thực hiện, đó là:  – Chương trình hợp tác phát triển du lịch “Qua những miền di sản Việt  Bắc” 

Ngày hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc

2.3.1. Liên kết xúc tiến du lịch bằng Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc”

Sáu tỉnh miền núi Đông Bắc mà luận văn đang tập trung nghiên cứu (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) thuộc khu tự trị Việt Bắc được thành lập vào năm 1956, mặc dù thời gian sau khu tự trị Việt Bắc giải thể nhưng danh từ này vẫn tồn tại. Vùng Việt Bắc là nơi cư ngụ chính của các dân tộc Tày-Nùng, thuộc dòng ngôn ngữ Thái, dân tộc Dao và các nhóm thiểu số khác. Năm 1947, danh từ Việt Bắc xuất hiện để chỉ chung vùng căn cứ cách mạng, tháng 10-1954, danh từ này lại được dùng để chỉ chung toàn căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 6 tỉnh thuộc vùng Việt Bắc xưa nay đã nhiều đổi khác với những thành tựu lớn trong kinh tế-xã hội, trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của du lịch.   Với mong muốn thúc đẩy du lịch, những năm qua, 6 tỉnh vùng Việt Bắc xưa đã bắt tay nhau luân phiên tổ chức chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” để giới thiệu, tuyên truyền về tiềm năng du lịch của vùng đất đặc biệt này. Đây là hoạt động thường niên, được triển khai lần đầu tiên vào năm 2009, theo hình thức tổ chức luân phiên giữa 6 tỉnh Việt Bắc là Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang. Thông qua chương trình nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về miền đất, con người, tiềm năng văn hóa, du lịch của 6 tỉnh vùng Việt Bắc. Trên cơ sở đó tăng cường mối quan hệ giao lưu, học tập giữa các tỉnh, đồng thời, góp phần thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư đến tham gia liên kết, đầu tư phát triển du lịch trong vùng.

Ngày 17/8/2009 tại thị xã Hà Giang, lãnh đạo UBND 4 tỉnh Hà Giang – Tuyên Quang – Bắc Kạn – Cao Bằng đã có buổi làm việc thống nhất nội dung thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch và đã ký kết Biên bản thoả thuận khung về hợp tác phát triển du lịch 4 tỉnh trên nguyên tắc “Tự nguyện, bình đẳng, hiệu quả và cùng có lợi” với mục tiêu liên kết, hợp tác cùng nhau phát triển du lịch vùng, từng bước giảm thiểu khó khăn, khai thác tiềm năng thế mạnh của mỗi địa phương. Nội dung hợp tác bao gồm 6 nhiệm vụ.

Một là, tổ chức chương trình gắn với chuỗi sự kiện trong đó đẩy mạnh việc liên kết tổ chức các sự kiện du lịch trong cụm nhằm tạo thành chuỗi sự kiện du lịch để các doanh nghiệp xây dựng chương trình du lịch đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước, đặc biệt cùng phối hợp tổ chức chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” theo hình thức luân phiên.

Hai là, xây dựng cơ chế quản lý và phát triển du lịch địa phương theo hướng quản lý du lịch thống nhất và phù hợp cho khu vực 4 tỉnh, đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư khai thác phát triển du lịch.

Ba là, hợp tác phát triển sản phẩm du lịch và lữ hành, xây dựng và triển khai kế hoạch hợp tác phát triển sản phẩm du lịch liên vùng, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của mỗi địa phương nhằm hấp dẫn thị trường khách du lịch quốc tế và nội địa.

Bốn là, hợp tác tuyên truyền quảng bá – xúc tiến du lịch, liên kết tổ chức quảng bá sản phẩm, quảng bá điểm đến và tổ chức tiếp thị cho thị trường du lịch; hợp tác trong công tác tuyên truyền quảng bá liên vùng, tập trung xây dựng ấn phẩm quảng bá chung, lên phương án tham gia Hội chợ du lịch, xây dựng kế hoạch chung để xúc tiến và quảng bá điểm đến và thu hút đầu tư. Thường xuyên trao đổi thông tin du lịch giữa các tỉnh. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Năm là, hợp tác phát triển nguồn nhân lực du lịch địa phương nhằm nâng cao chất lượng lao động trong ngành du lịch, coi trọng đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch, đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ du lịch, bồi dưỡng kiến thức về văn hóa truyền thống các dân tộc.

Sáu là, hợp tác xây dựng hạ tầng giao thông và viễn thông trong đó coi trọng việc phối hợp xây dựng kế hoạch phát triển đường giao thông nối liền các tuyến du lịch”.

Để thực hiện thỏa thuận hợp tác trên, Thường trực Uỷ ban nhân dân và lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 4 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng đã có buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh cùng các Cục, Vụ liên quan. Trên cơ sở báo cáo và kiến nghị của 4 tỉnh về định hướng hợp tác phát triển du lịch, tại Thông báo kết luận số 3205/TB-BVHTTDL ngày 23/9/2009 của Bộ trưởng nêu rõ:

Bốn tỉnh miền núi Đông Bắc cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội rất khó khăn, là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, đậm bản sắc văn hóa các dân tộc, có nhiều di tích lịch sử cách mạng, nhiều danh thắng nổi tiếng và có nhiều tiềm năng, lợi thế để hợp tác phát triển du lịch. Với những điểm tương đồng trên đồng ý cho 4 tỉnh tổ chức Chương trình du lịch qua những miền di sản theo hình thức luân phiên, mở đầu là tỉnh Hà Giang, năm 2009; khi tổ chức thực hiện Chương trình phải coi trọng yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc, có sự gắn kết chặt chẽ giữa các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch”.

Ngày 13/8/2010, tại Hội nghị xúc tiến Chương trình hợp tác phát triển du lịch 6 tỉnh: Cao Bằng – Bắc Kạn- Lạng Sơn – Thái Nguyên – Tuyên Quang – Hà Giang, đại diện lãnh đạo Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh đã họp bàn và ký kết biên bản ghi nhớ làm cơ sở tham mưu cho UBND các tỉnh về công tác phát triển du lịch trên địa bàn. Trong đó thống nhất việc đề xuất với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa 2 tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn tham gia vào cụm hợp tác phát triển du lịch. Tiếp đó tại văn bản số 692/TCDL-LH ngày 12/7/2011 của Tổng cục Du lịch Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã chấp thuận cho 2 tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn tham gia nhóm hợp tác phát triển du lịch vùng cùng với các địa phương trên để tạo thành vùng du lịch Chiến khu Việt Bắc.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” đã lần lượt được tổ chức tại tỉnh, cụ thể như sau: Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Bảng 2.3: Thời gian và đơn vị đăng cai tổ chức chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

Như vậy, mặc dù mới hình thành khối liên kết hợp tác phát triển du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng nhưng bước đầu hoạt động du lịch khu vực Đông Bắc đã gặt hái được một số kết quả đáng khích lệ như: Năm 2009, doanh thu hoạt động du lịch của 4 tỉnh tham gia chương trình đạt gần 2.000 tỷ đồng, năm 2010 doanh thu đạt trên 2.500 tỷ đồng; công tác tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng không ngừng được đẩy mạnh; chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch từng bước được nâng cao; số lượng các nhà đầu tư, khách du lịch đến hợp tác, tham quan, nghỉ dưỡng ngày một tăng góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo ở các địa phương. Đồng thời bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, di sản văn hoá các dân tộc của các tỉnh.

Qua sáu năm thực hiện Chương trình Du lịch qua những miền di sản Việt Bắc, hoạt động du lịch các tỉnh trong vùng đã có những bước phát triển khá, góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế- xã hội phát triển, ngày càng thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, nghiên cứu, tìm hiểu về mảnh đất, con người Việt Bắc. Thông qua Chương trình việc liên kết hợp tác giữa các tỉnh đã được những thành tựu quan trọng, công tác cập nhật trao đổi thông tin được nâng cao, hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch thông qua các kỳ hội chợ, triển lãm được đẩy mạnh; các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành của các tỉnh trong vùng đã thực hiện trao đổi khách, liên kết tour, tuyến tương đối tốt và bước đầu đã đạt được hiệu quả nhất định góp phần tích cực trong công tác phát triển sản phẩm du lịch mới tại các địa phương. Chương trình Du lịch Qua những miền di sản Việt Bắc đang dần tạo được thương hiệu riêng cho vùng và tạo được sự chú ý của các nhà đầu tư, khách du lịch trong và ngoài nước.

Như vậy, có thể khẳng định chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” là một cách làm hiệu quả mà khu vực Đông Bắc đang áp dụng để thúc đẩy du lịch phát triển. Bởi đây là con đường bảo tồn, phát huy giá trị của các di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, coi đây là nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, kinh tế quan trọng. Các tỉnh trong vùng đã thống nhất liên kết triển khai nhiều hoạt động nhằm bảo tồn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và phát triển sự nghiệp du lịch, như khảo sát, phối hợp xây dựng các tour, tuyến du lịch liên tỉnh, kết nối với các địa phương, các tỉnh trong nước và khu vực châu Á…

Rõ ràng, theo Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã xác định, phát triển du lịch theo vùng có chiều sâu, trọng tâm, trọng điểm, có thương hiệu và khả năng cạnh tranh là định hướng lớn nhằm phát triển du lịch trong vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm, tài nguyên du lịch gắn với đặc trưng của vùng, tạo thành các cụm liên kết phát triển mạnh du lịch.  Vì thế, du lịch Việt Bắc muốn phát triển cần tạo được liên kết vùng vững chắc. Việc luân phiên tổ chức Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” hằng năm cũng là một cách làm hiệu quả mà các tỉnh vùng Việt Bắc đang áp dụng để thúc đẩy phát triển liên kết vùng du lịch. Từ chương trình này, lãnh đạo các tỉnh trong vùng có cơ hội gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm phát triển du lịch; các hãng lữ hành biết thêm nhiều tuyến, điểm du lịch mới qua sự giới thiệu của ngành du lịch địa phương… Sở hữu nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo, du lịch vùng Việt Bắc sẽ thực sự cất cánh nếu có sự đầu tư thỏa đáng trong tương lai.

Tóm lại, với Chương trình “Du lịch qua những miền di sản Việt Bắc”, khu vực Đông Bắc đang từng bước thắt chặt mối liên kết, xây dựng cơ chế quản lý du lịch thống nhất và phù hợp, khai thác những tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Đồng thời, nỗ lực thực hiện liên kết xúc tiến du lịch nhằm huy động tối đa nguồn lực của các địa phương trong phát triển du lịch, tránh lãng phí tài chính, tránh trùng lặp sản phẩm du lịch, xây dựng và quảng bá sản phẩm du lịch đặc thù vùng; xây dựng, xác lập và quảng bá hình ảnh du lịch vùng ra thị trường… Đồng thời thực hiện các chương trình du lịch liên kết vùng, định hướng theo nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, quyết tâm xây dựng mảnh đất Việt Bắc thành vùng phát triển du lịch theo hướng bền vững trong tương lai.

2.3.2. Liên kết xúc tiến du lịch qua sự kiện “Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc” Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Khu vực Đông Bắc – miền phên dậu – vùng đất thiêng luôn bảo vệ, chở che cho Tổ quốc Việt Nam. Đây là nơi căn cứ địa vững chắc của nhiều thời kỳ cách mạng với những chiến công hào hùng. Mỗi tên đất, tên bản làng đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Đông Bắc còn là nơi hội tụ và kết tinh nhiều giá trị văn hóa lịch sử bất diệt từ quá khứ đến hiện đại.  Nhìn nhận được điều đó, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo các tỉnh trong khu vực thực hiện Ngày hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc.

Mục đích: Đây là một hoạt động văn hóa chính trị quy mô lớn được tổ chức nhằm giới thiệu, quảng bá với bạn bè trong nước và quốc tế về tiềm năng, thế mạnh phát triển văn hóa, thể thao, du lịch và các giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Thông qua đó, góp phần gìn giữ, phát huy và tôn vinh bản sắc văn hóa các dân tộc, giáo dục truyền thông yêu nước, lòng tự hào dân tộc, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Ngày hội còn là cầu nối giao lưu, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm giữa nghệ nhân, diễn viên, vận động viên các tỉnh trong khu vực.

  • Yêu cầu:

Các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch được tổ chức trong Ngày hội phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, đảm bảo chất lượng, hiệu quả, thiết thực và tiết kiệm.

Gắn hoạt động văn hóa, thể thao với quảng bá tiềm năng thu hút phát triển du lịch của các tỉnh. Các nội dung hoạt động của Ngày hội phải do các nghệ nhân, nghệ sỹ, diễn viên, nhạc công, vận động viên đến từ các tỉnh vùng Đông Bắc thực hiện.

Chọn lọc đặc trưng văn hóa tiêu biểu của đồng bào trong khu vực, tổ chức hoạt động mang tính cộng đồng, đề cao vai trò chủ thể văn hóa, giao lưu văn hóa, đảm bảo yếu tố bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn với các yếu tố tiến bộ của thời đại; góp phần tạo dựng một sân chơi văn hóa, thể thao và du lịch thật sự bổ ích của cộng đồng các dân tộc vùng Đông Bắc. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Về công tác chỉ đạo phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, linh hoạt, sáng tạo trong công tác chỉ đạo, phối hợp tổ chức thực hiện kế hoạch Ngày hội giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn và các tỉnh vùng Đông Bắc.

Các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trong ngày hội là dịp để các nghệ nhân, diễn viên, vận động viên các địa phương gặp gỡ, giao lưu, học hỏi và giới thiệu những nét văn hóa, thể thao và du lịch truyền thống tốt đ p, đặc sắc của mỗi dân tộc; đồng thời phát huy giá trị di sản văn hóa của vùng Đông Bắc trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Ngày hội còn là dịp nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và đồng bào các dân tộc trong khu vực về ý thức trách nhiệm của mình trong việc xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn công tác văn hóa, thể thao và du lịch với việc thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã đề ra… Như vậy, Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc mặc dù nhằm giới thiệu tiềm năng văn hóa, thể thao và du lịch… nhưng chỉ thể hiện tính liên kết xúc tiến du lịch thông qua việc các tỉnh trong khu vực cùng tổ chức một hoạt động chung về văn hóa, thể thao và du lịch. Hoạt động này chưa hẳn là liên kết xúc tiến du lịch.

Bảng 2.4: Một số chương trình Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc giai đoạn 2008 – 2015

Như vậy có thể khẳng định, ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc là một hoạt động văn hóa chính trị quy mô lớn được tổ chức nhằm giới thiệu, quảng bá về tiềm năng, thế mạnh phát triển văn hóa, thể thao, du lịch và các giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Đồng thời, góp phần gìn giữ, phát huy và tôn vinh bản sắc văn hóa các dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Bên cạnh đó, Ngày hội cũng là cầu nối giao lưu, gặp gỡ giữa các nghệ nhân, diễn viên, vận động viên các tỉnh trong khu vực.

Theo góc nhìn liên kết xúc tiến du lịch thì trong tổng hòa các hoạt động của Ngày hội Văn hóa thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc mục tiêu liên kết xúc tiên du lịch còn rất mờ nhạt. Khu vực Đông Bắc chưa thực sự tận dụng triệt để sự kiện này để cùng nhau thiết lập chiến lược và hành động đưa hình ảnh đặc trưng của vùng quảng bá ra thị trường trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc lần thứ IX 2015 tại Bắc Kạn, đã diễn ra buổi tọa đàm với chủ đề “Liên kết phát triển du lịch tiểu vùng Đông Bắc, năm 2015”. Các tham luận tại buổi tọa đàm đều hướng về một số vấn đề trọng tâm như: Sản phẩm du lịch đặc thù vùng Đông Bắc; liên kết phát triển sản phẩm du lịch tiểu vùng Đông Bắc và các khu vực khác; cơ chế, chính sách đẩy mạnh phát triển du lịch tiểu vùng Đông Bắc… Các đại biểu cũng chia sẻ kinh nghiệm về phát triển kinh tế du lịch bền vững của từng địa phương, đề đạt các kiến nghị, giải pháp để từng bước cải thiện và nâng cao sự hợp tác của các tỉnh trong vùng Đông Bắc. Tuy nhiên, cũng giống như các Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch trước, buổi tọa đàm lần này vẫn chưa xem xét một cách nghiêm túc và thấu đáo riêng lẻ vấn đề liên kết xúc tiến du lịch vùng mà lồng ghép hoạt động này trong các vấn đề có liên quan khác đến sự phát triển du lịch chung cho toàn vùng.

Tuy nhiên, từ việc tổ chức các Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc, chúng ta thấy rõ việc cần thiết phải liên kết phát triển du lịch vùng nói chung và liên kết xúc tiến du lịch vùng nói riêng. Chính vì vậy, trên cơ sở phát huy những lợi thế về tài nguyên và vị trí du lịch, chính quyền các địa phương cần có những định hướng và giải pháp quản lý phát triển du lịch của riêng mình. Để du lịch khu vực Đông Bắc phát triển tương xứng với tiềm năng các tỉnh cần tập trung phát triển các sản phẩm du lịch dựa trên các giá trị nổi bật của tài nguyên du lịch, tạo nên nét đặc trưng về sản phẩm du lịch nhằm thu hút du khách. Phát triển du lịch có chiều sâu, theo hướng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp để bảo đảm sản phẩm du lịch ngày càng khẳng định thương hiệu và tính cạnh tranh cao.

2.4. Đánh giá chung Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

2.4.1. Kết quả đạt được

Nhận thức của các tỉnh Đông Bắc về vai trò của du lịch, trong đó có liên kết xúc tiến du lịch đã được củng cố, nâng dần lên và chuyển biến theo hướng tích cực.

Quy mô và phạm vi hoạt động liên kết xúc tiến du lịch được mở rộng, không chỉ tại địa phương mình mà mở rộng ra khu vực và cả nước. Có sự liên kết, hợp tác các địa phương với nhau để cùng nhau xúc tiến quảng bá và phát triển du lịch trong vùng.

Chất lượng hoạt động liên kết xúc tiến du lịch ngày càng được cải thiện, với nhiều hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành du lịch, như việc tổ chức các đoàn khảo sát tour, tuyến, điểm du lịch mới cho các đơn vị lữ hành; tham gia các cuộc hội chợ triển lãm chuyên ngành du lịch, tham gia các buổi hội thảo để tìm giải pháp giúp cho ngành du lịch ngành càng phát triển.

Đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch ngày càng trưởng thành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, có những đóng góp tích cực trong việc tham mưu cho các cấp đề ra được những chính sách, chương trình có tính đột phá đối với hoạt động xúc tiến của du lịch, để công tác xúc tiến từng bước đi vào nề nếp và có tính chuyên nghiệp.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

Trong thời gian vừa qua đã có một số hoạt động liên kết quảng bá, xúc tiến của du lịch các tỉnh Đông Bắc như cùng tham dự Hội chợ du lịch quốc tế Hà Nội VITM, Tổ chức Hội chợ du lịch trong khuôn khổ Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các dân tộc tỉnh Đông Bắc, tổ chức các buổi Tọa đàm/Hội nghị về hợp tác phát triển du lịch/xúc tiến du lịch vùng… Tuy nhiên vai trò của các Trung tâm Thông tin – Xúc tiến du lịch của một số tỉnh chưa thực sự rõ nét, có tỉnh giao cho phòng Nghiệp vụ du lịch, có tỉnh thì không tham gia v.v.. Hiện nay việc liên kết quảng bá, xúc tiến của của các tỉnh Đông Bắc mới đang ở mức độ manh nha và còn điểm hạn chế, cụ thể như sau: Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

  • Chưa có sự ký kết hợp tác một cách chính thức giữa các Trung tâm Thông tin – Xúc tiến du lịch của các tỉnh. Hiện nay mới chỉ có một số cuộc họp để trao đổi sơ bộ để thống nhất về chủ trương hợp tác chứ chưa có văn bản ký kết hợp tác với những điều khoản rõ ràng.
  • Chưa xây dựng được nội dung liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch và việc trao đổi thông tin giữa các tỉnh chưa được thường xuyên.
  • Nguồn nhân lực thiếu về số lượng và hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ.
  • Đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp trong xúc tiến du lịch/liên kết xúc tiến du lịch ở từng địa phương không giống nhau: có Trung tâm xúc tiến du lịch trực thuộc Sở VHTTDL tỉnh, có Trung tâm Xúc tiến du lịch trực thuôc UBND tỉnh
  • Các hoạt động xúc tiến du lịch của vùng có liên kết nhưng chưa chặt chẽ và chưa dài hạn.
  • Thiếu chiến lược xúc tiến du lịch cho toàn vùng trong từng giai đoạn, từng thị trường. Tiếp thị điểm đến du lịch Đông Bắc cần thiết phải được tiếp thị đồng bộ cùng với điểm đến du lịch Việt Nam.

Hoạt động liên kết xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc còn có những tồn tại đã nêu bởi rất nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, như:  – Kinh phí : ngân sách quảng bá du lịch của từng địa phương khiêm tốn, cơ chế tài chính còn nhiều vướng mắc, bất cập, thiếu chính sách ưu tiên, cơ chế cấp kinh phí hàng năm chưa linh hoạt để có thể xây dựng và triển khai những kế hoạch xúc tiến du lịch mang tính đột phá.

  • Chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, thiếu tính độc đáo giữa các địa phương trong vùng, gây cảm giác nhàm chán từ du khách, chưa có nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo, sản phẩm quà tặng đặc trưng.
  • Các địa phương, các công ty du lịch chưa có sự hợp tác bền chặt. Việc liên kết nếu có thì chỉ là liên kết trong việc tổ chức sự kiện, chứ chưa thật sự liên kết để cùng phát triển sản phẩm du lịch.
  • Nguồn nhân lực hoạt động trong du lịch còn thiếu về chất và lượng không đủ đáp ứng nhu cầu của vùng.
  • Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu kém chưa được đầu tư đúng mức và thiếu đồng bộ. Thế mạnh của vùng là du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch lịch sử nhưng chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có, khai thác tài nguyên du lịch còn nhiều bất cập. Số khách sạn 3 sao trở lên vẫn còn ít, thiếu các khu vui chơi, và đặc biệt là thiếu các khu mua sắm cao cấp nên không đủ hấp dẫn để giữ chân du khách trong thời gian dài so với các vùng khác. Một trong những nguyên nhân quan trọng là công tác xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá, du lịch vùng Đông Bắc chưa được chú trọng đúng mức, còn bị động.
  • Toàn vùng Đông Bắc chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ nhà đầu tư trong các các lĩnh vực khách sạn 5 sao, Khu vui chơi giải trí tầm cở khu vực và quốc tế, sân golf… nên còn ít nhà đầu tư đến với Đông Bắc.

Nhìn chung, nhược điểm cơ bản trong liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc hiện nay là tự phát và manh mún; thiếu tính lâu dài; hạn chế về năng lực tài chính… Tuy còn nhiều hạn chế nhưng bước đầu liên kết xúc tiến du lịch vùng Đông Bắc đã có một nền tảng tương đối ổn định về mặt tài nguyên du lịch và thống nhất về  chủ trương liên kết để bắt đầu bước vào giai đoạn mới với những thách thức và cơ hội. Vì vậy, du lịch vùng Đông Bắc cần phải gạt bỏ tính cục bộ để tăng cường liên kết, hợp tác thật sự hiệu quả, hơn nữa. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

Như vậy, có thể thấy liên kết xúc tiến du lịch 6 tỉnh miền núi Đông Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) bước đầu cũng đã có những khởi sắc nhất định. Tuy nhiên vẫn nằm trong tình trạng hình thức, chỉ lo tổ chức các sự kiện mang tính chất quảng bá bề nổi mà thiếu chiều sâu. Đặc biệt, liên kết xúc tiến du lịch ở vùng Đông Bắc chưa thực sự hình thành được cơ chế chung trong chỉ đạo, điều hành, khuyến khích mở rộng liên kết song phương giữa hai tỉnh và đa phương với nhiều tỉnh khác nhau. Mặc dù phạm vi liên kết đã mở rộng cả sự quảng bá, tạo sản phẩm, xây dựng các chính sách, đào tạo nguồn nhân lực.

Hi vọng nếu được sự quan tâm của Bộ VHTTDL và TCDL chắc chắn sự liên kết xúc tiến du lịch ở vùng miền núi còn nhiều khó khăn sẽ xuất hiện những  điểm sáng mới, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở vùng cao xa xôi.

Tiểu kết chương 2

Với hệ thống cứ liệu, số liệu cụ thể, nội dung chương 2 đã đi sâu trình bày, phân tích và đánh giá thực trạng liên kết xúc tiến du lịch 6 tỉnh khu vực Đông Bắc hiện nay, chỉ ra những điểm còn hạn chế trong công tác liên kêt xúc tiến du lịch tại 6 tỉnh khu vực Đông Bắc và nguyên nhân của những hạn chế đó. Với những luận cứ trên, chương 2 cũng góp phần làm rõ tính lỏng lẻo và thiếu hiệu quả trong liên kết xúc tiến du lịch giữa 6 tỉnh khu vực Đông Bắc mà luận văn nghiên cứu. Đây chính là cơ sở, làm căn cứ cho việc đưa ra các định hướng và đề xuất giải pháp, kiến nghị ở chương 3. Luận văn: Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993