Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa bỏ học của học viên các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên, thành phố Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Đôi nét về tình hình giáo dục ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên thành phố Hải Phòng

2.1.1. Về phát triển số lượng học viên ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên

Chúng tôi tiến hành thống kê số học viên của 05 trung tâm trong 2 năm học vừa qua như sau:

Bảng 2.1: Số học viên năm học 2016 – 2017

Xét số học viên đầu năm và cuối năm của từng năm ta thấy: Số học viên qua thống kê trên bảng 2.1, và bảng 2.2 chúng tôi nhận thấy một số vấn đề sau:

  • Tổng số học viên các Trung tâm giảm qua từng năm.
  • Tổng số học viên ở các khối lớp 10 giảm: 253 em chiếm tỉ lệ 22,81%
  • Tổng số học viên đầu vào lớp 10 giảm.
  • Học viên khối 10 của năm học trước lên lớp 11 của năm học sau giảm 229 em chiếm 20,21%.
  • Học viên khối 11 của năm học 2016-2017 lên lớp 12 của năm học 2017-2018 giảm 80 em, chiếm 8,88%.

Có thể nhận thấy rằng, tình hình học viên tăng và giảm ở khối lớp nói trên là do ảnh hưởng của số lượng học viên đầu vào và do học viên bỏ học và có thể một phần do lưu ban, học lại. Số lượng học viên bỏ học ở lớp 10 luôn lớn hơn số học viên bỏ học ở các lớp 11 và 12. Nội dung này chúng tôi sẽ tìm hiểu cụ thể ở các phần sau.

Số học viên các Trung tâm giảm, kéo theo quy mô trường lớp thu hẹp và dẫn đến tình trạng dôi dư giáo viên, gây lãng phí cơ sở vật chất, chất xám… Chưa kể đến, nếu việc giảm học viên do tình trạng bỏ học gây ra thì nó còn kéo theo nhiều hệ lụy đáng ngại hơn nữa.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.1.2. Về chất lượng giáo dục của học viên các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên

Về chất lượng hai mặt giáo dục của học viên các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên

Tìm hiểu về chất lượng hai mặt giáo dục của học viên các Trung tâm, chúng tôi có bảng thống kê sau:

Bảng 2.3: Chất lượng giáo dục hai mặt năm học 2016 – 2017

Từ bảng 2.3, chúng tôi nhận thấy học viên có hạnh kiểm tốt chiếm 82,12%, điều đó chứng tỏ phần lớn các em cần cù, ngoan ngoãn và lễ phép. Chỉ có 17,88% học viên xếp loại hạnh kiểm khá.

Học viên xếp loại học lực khá, giỏi là 54,15%; xếp loại trung bình là 45,6%, chỉ còn lại 0,25% học viên xếp loại yếu.

Như vậy, phần lớn học viên Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên là những học viên biết kính trọng người trên, biết giúp đỡ mọi người, tích cực rèn luyện đạo đức, có lối sống lành mạnh, hoàn thành nhiệm vụ học tập; tuân thủ nội quy Trung tâm; tham gia nhiệt tình các hoạt động do Trung tâm tổ chức…

  • Về số lượng học viên tốt nghiệp Trung học phổ thông Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Tìm hiểu chất lượng đầu ra của học viên ở các Trung tâm qua tỉ lệ tốt nghiệp THPT, chúng tôi có bảng sau:

Bảng 2.4: Số học viên Tốt nghiệp Trung học phổ thông năm học 2016 – 2017

Tỷ lệ trung bình của học viên vượt qua kỳ tốt nghiệp Trung học phổ thông là 81,19%. Trung tâm có tỉ lệ tốt nghiệp cao nhất là Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên quận Hồng Bàng (85,71%). Trung tâm đạt tỷ lệ thấp nhất là Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên huyện Tiên Lãng đạt 72,48%. Nhìn chung tỷ lệ tốt nghiệp Trung học phổ thông ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên còn chưa cao, luôn thấp hơn nhiều so với mức bình quân tốt nghiệp Trung học phổ thông quốc gia hàng năm (2018: 97.57%; 2017: 97,42%; 2016: 92,93% – Nguồn: Thống kê hàng năm của các Trung tâm GDNN-GDTX). Tỷ lệ học viên tốt nghiệp Trung học phổ thông là chỉ tiêu đánh giá rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt động giáo dục của các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên bởi mục đích học tập của phần lớn học viên là học xong chương trình lớp 12 sẽ có bằng Trung học phổ thông và bằng Trung cấp Nghề để ra ngoài cuộc sống lao động mà ít có học viên tiếp tục học lên Cao đẳng và Đại học trong những năm trở về đây. Nên tỷ lệ tốt nghiệp Trung học phổ thông thấp sẽ ảnh hưởng lớn uy tín, đến công tác tuyển sinh nói riêng và hoạt động tại các Trung tâm nói chung.

2.1.3. Đặc điểm về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý

Bảng 2.5: Thống kê về đội ngũ giáo viên năm học 2017 – 2018

Qua tổng hợp số liệu giáo viên của 05 Trung tâm, chúng tôi nhận thấy có 62,5% là giáo viên nữ, 57,5% giáo viên có tuổi nghề dưới 10 năm.

Trình độ chuyên môn: có 6,25 % đạt trình độ trên đại học 84,37% đạt trình độ Đại học; 8,75% trình độ Cao đẳng, 0,63% trình độ Trung cấp; số giáo viên có trình độ Trung cấp là những giáo viên dạy Nghề, hoặc giáo viên có trình độ Cao đẳng nhưng chưa hoàn chỉnh (học Cao đẳng 2 năm). Những giáo viên này đang theo học các lớp hoàn chỉnh trình độ chuyên môn.

Trên cơ sở bảng 2.5, chúng ta thấy có vấn đề cần chú ý sau: Có đến 62,5% giáo viên nữ và 57,5% có tuổi nghề dưới 10 năm, tức là dưới 32 tuổi; đối với một giáo viên, đây là độ tuổi đầy nhiệt huyết, yêu nghề, mến trẻ, tích cực trong mọi phong trào; mặc dù kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học viên chưa nhiều. Song với giáo viên nữ dưới 32 tuổi thì đây là giai đoạn trong độ tuổi sinh con, nuôi con, chăm sóc gia đình nhưng họ vẫn phải đầu tư cho công việc giảng dạy, giáo dục ở nhà trường. Có thể nói, đây là giai đoạn mà tâm lý nữ giáo viên có nhiều biến đổi nhất; nếu gia đình có hoàn cảnh kinh tế ổn định thì sẽ giảm phần nào áp lực cho người giáo viên nữ trong vai trò người con, người vợ, người mẹ, người chăm sóc gia đình, người tham gia hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội; nhưng nếu gia đình của người giáo viên nữ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì áp lực của người giáo viên nữ càng nặng nề. Tâm lý ảnh hưởng đến sinh lý; điều này làm cho giáo viên nữ ở độ tuổi này gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ trong Trung tâm, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc giảng dạy và giáo dục học viên; đặc biệt là đối với học viên ở giai đoạn “quá độ” từ trẻ con sang người lớn.

Bảng 2.6: Thống kê về đội ngũ cán bộ quản lý ở các Trung tâm năm học 2017 – 2018

Từ số liệu trên cho thấy tổng số cán bộ quản lý là đảng viên chiếm 100%. Do đó, họ vừa đồng thời đảm nhiệm các chức vụ chính quyền, vừa đảm nhiệm các chức vụ trong tổ chức đảng, đoàn thể khác; cho thấy phần lớn cán bộ quản lý Trung tâm thực sự là những người có uy tín trong tập thể. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Về thâm niên trong ngành: Số cán bộ quản lý có thâm niên làm quản lý trên 3 năm chiếm tỷ lệ 86,67%; chứng tỏ, phần lớn họ là những người có kinh nghiệm quản lý tập thể.

Phần lớn cán bộ quản lý có trình độ đại học, và hầu hết đã qua các lớp lý luận chính trị; hơn phân nửa trong số này dưới 45 tuổi. Với trình độ chuyên môn, chính trị, với tuổi đời dưới 45, đây sẽ là đội ngũ cán bộ quản lý năng động, nhiệt tình, nhanh chóng thích nghi với sự đổi mới.

Qua thống kê cho thấy số cán bộ quản lý là nữ, chiếm tỷ lệ chỉ 26,67%; trong khi đó số nữ giáo viên lại chiếm tỉ lệ 62,5%. Điều đó có nghĩa là lợi ích của nữ giáo viên sẽ ít được đề cập đến trong các bản kế hoạch năm học, đặc biệt là trong các kế hoạch chiến lược. Nếu coi nhẹ lợi ích của cấp dưới sẽ khó phát huy được tính tích cực của họ nên sẽ khó tạo được sự đồng thuận trong tập thể, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của Trung tâm; quan trọng hơn nữa là chính sự bất thuận trong tập thể sẽ gây ra nhiều phản ứng tiêu cực, mỗi thầy, cô giáo sẽ không thể là tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo cho học viên noi theo. Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây bất mãn khiến một số học viên bỏ học.

2.1.4. Thực trạng học viên bỏ học ở một số Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng

2.1.4.1. Tình hình học viên bỏ học

Song song với việc nâng cao chất lượng học tập đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, thì việc nghiên cứu vấn đề học viên bỏ học và đề ra biện pháp quản lý nhằm khắc phục tình trạng này là rất cần thiết.

Trước khi đưa ra những nhận xét sơ bộ về tình hình học viên bỏ học, chúng ta tìm hiểu qua số liệu điều tra mà các Trung tâm đã cung cấp về học viên bỏ học qua ba năm học gần đây. Ngoài việc tổng số học viên giảm theo từng năm, trong một năm, số học viên cũng biến động. So với đầu năm học, số học viên cuối năm giảm đi nhiều.

Bảng 2.7: Số học viên đầu năm, cuối năm của năm học 2017 – 2018 Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Xét số học viên đầu năm và cuối năm của từng năm ta thấy: Số học viên hao hụt do bỏ học, lưu ban, chuyển đi nơi khác sau mỗi năm học là một con số không nhỏ; nhưng trong đó số học viên chuyển đến, chuyển đi xem như không đáng kể. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch phát triển giáo dục của địa phương, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực của địa phương, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội và xa hơn là ảnh hưởng đến chính sách lớn của Nhà nước trong thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.

Hình 2.1. Biểu đồ so sánh số học viên bỏ học trong hai năm học 2016-2017 và năm học 2017-2018

Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy số học viên bỏ học năm sau tăng lên so với năm học trước, tăng ở tất cả các khối học.

Học viên hao hụt tập trung cao nhất ở khối lớp 10 là vấn đề hợp với quy luật tâm, sinh lý của học viên. Đây là quãng đời diễn ra những “biến cố” đặc biệt, là giai đoạn quá độ từ trẻ con sang người lớn, là giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì của nam và nữ. Hiện tượng các em lớp 10 bỏ học nhiều đã diễn ra trong thời gian dài tại các cơ sở giáo dục.

Ở lứa tuổi của học viên lớp 10, các em đã có thể lao động góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế, hoặc gia tăng thu nhập cho gia đình. Chính vì thế, khi gia đình gặp khó khăn về kinh tế thì sẽ bắt các em bỏ học để giúp gia đình. Trường hợp gia đình không cho các em nghỉ học thì các em tự nghỉ học, bởi vì, ở tuổi này các em thường có tâm lý nâng cao khả năng của mình, đánh giá mình cao hơn thực tế, muốn khẳng định mình và đặc biệt là muốn mọi người xem trọng mình, cộng với tình trạng đua đòi, theo bạn bè nhưng không có đủ tiền đã đẩy học viên lớp 10 đến con đường bỏ học để kiếm tiền giúp gia đình và đáp ứng những nhu cầu của bản thân.

Mặt khác ở tuổi của học viên lớp 10, các em có nhu cầu được giao tiếp với bạn bè cùng lứa. Sự bất hoà trong quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi, sự thiếu bạn hoặc tình bạn bị phá vỡ đều dễ gây ra những xúc cảm nặng nề, được đánh giá như một bi kịch cá nhân. Điều đó có thể các em sẽ bị phê phán bởi xã hội, gia đình, Trung tâm và bạn bè, làm cho các em cảm thấy cô đơn và không được cảm thông, chia sẻ. Tất cả những tình huống đó có thể đẩy các em đi tìm những người bạn ngoài lớp học, ngoài Trung tâm và một số em bị lôi kéo vào những “băng đảng”, những tệ nạn xã hội… và cuối cùng là đến con đường bỏ học.

Lứa tuổi của học viên lớp 10 chính là lứa tuổi khó khăn điển hình của học viên Trung học phổ thông. Ở lứa tuổi này, các em thường không nghe lời cha mẹ, thầy cô, các em thường gây gổ, đánh nhau, bỏ học… để chứng tỏ mình là quan trọng. Tuy nhiên giai đoạn khó khăn này sẽ sớm trở lại vị trí cân bằng, nếu gia đình và Trung tâm có thể giải quyết được bằng con đường giáo dục đúng đắn. Nghĩa là, một mặt người lớn phải hiểu được những thay đổi cơ bản của lứa tuổi này, thông cảm với những biểu hiện khác lạ của các em và có biện pháp giáo dục phù hợp. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Học viên ở khối lớp 11 và 12 ít hao hụt hơn, mặc dù vẫn là đối tượng có thể giúp gia đình làm kinh tế, nhưng khi đã lên được lớp 11, 12 thì trong tư tưởng của gia đình và bản thân học viên đều có ý nghĩa là cố gắng học hết bậc học Trung học phổ thông, cố gắng có được bằng tốt nghiệp để có thể xin được việc làm, đã tạo động lực giữ chân các em ở lại Trung tâm.

Qua bảng 2.7, bảng 2.8, bảng 2.9, chúng tôi nhận thấy tình trạng học viên bỏ học vẫn đang biến động hoặc tăng hoặc giảm gây khó khăn trong việc ổn định và phát triển quy mô giáo dục ở các Trung tâm.

2.1.4.2. Nguyên nhân bỏ học của học viên

Nguyên nhân bỏ học của học viên theo số liệu thống kê và kết luận từ các Trung tâm.

Bảng 2.10: Nguyên nhân học viên bỏ học từ nhìn phía Trung tâm

  • Từ bảng trên, ta thấy nguyên nhân bỏ học của học viên phần lớn là do hoàn cảnh của gia đình học viên. Trung bình ở các Trung tâm là 56,92%, trong đó cao nhất là ở Trung tâm huyện Tiên Lãng và huyện Thủy Nguyên.
  • Nguyên nhân xếp thứ hai là do học lực của học viên. Một số nguyên nhân không đáng kể là do giao thông, do bệnh tật.
  • Dựa trên số liệu trên, chúng tôi có biểu đồ so sánh nguyên nhân bỏ học của học viên như sau:

Hình 2.2. Biểu đồ nguyên nhân bỏ học

Qua bảng 2.13 và biểu đồ trên, chúng tôi nhận thấy: Học viên bỏ học với tỉ lệ đáng báo động, trong đó, có đến 465/817 học viên bỏ học vì gia đình nghèo khó, cha mẹ ít quan tâm chiếm tỷ lệ 56,92 %; có 295/817 học viên bỏ học vì học lực yếu kém chiếm tỷ lệ 36,11%; 28/817 học viên bỏ học vì giao thông không thuận tiện, chiếm tỷ lệ 3,43%; 8/817 học viên nghỉ học do thiên tai, dịch bệnh chiếm tỷ lệ 0,98% và có đến 21/817 học viên bỏ học vì nguyên nhân khác, chiếm tỷ lệ 2,56%;

  • Theo kết quả lấy ý kiến của cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ học viên và học viên

Tổng hợp 200 ý kiến trả lời của học viên đang học, 100 ý kiến trả lời của cha mẹ học viên có con đang học, 87 ý kiến trả lời của giáo viên và cán bộ quản lý ở 5 Trung tâm được nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng: Học viên bỏ học ở các Trung tâm phần lớn là con gia đình nghèo, đời sống kinh tế còn khó khăn, cha mẹ các em ít quan tâm, nhắc nhở nên các em thường xuyên nghỉ học, khi trở lại học các em bị mất kiến thức, dẫn đến học yếu và cuối cùng là chán học và bỏ học. Có những em phải nghỉ học để lao động trong các khu công nghiệp kiếm tiền phụ giúp gia đình. Sau khi thôi học các em chủ yếu là lao động chân tay phụ giúp gia đình, đi làm thuê, rất ít khi được đi học nghề hoặc kỹ thuật hay dịch vụ. Chính vì thế, tương lai của học viên bỏ học không có gì sáng sủa.

Chúng tôi điều tra nguyên nhân học viên bỏ học qua lấy ý kiến của học viên, cha mẹ học viên cũng như giáo viên và cán bộ quản lý. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

  • Nguyên nhân bỏ học nhìn từ phía học viên và cha mẹ học viên

Bảng 2.11: Nguyên nhân bỏ học nhìn từ phía học viên và cha mẹ học viên

Như vậy, theo học viên thì nguyên nhân các em bỏ học chủ yếu là vì học lực yếu, kém và hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Nhưng cũng có hai lý do khác mà chúng ta phải lưu ý là ham chơi, có bạn khác giới, bị bạn xấu lôi kéo (5.0%).

  • Nguyên nhân học viên bỏ học nhìn từ phía cán bộ quản lý và giáo viên

Bảng 2.12: Nguyên nhân bỏ học nhìn từ phía cán bộ quản lý và giáo viên

Qua bảng trên và qua phỏng vấn một số cán bộ quản lý và giáo viên thì có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học viên bỏ học là do học lực yếu kém và do hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nếu học viên bỏ học vì hoàn cảnh gia đình khó khăn thì trách nhiệm là của xã hội, gia đình, bản thân học viên và Trung tâm; Nếu học viên bỏ học vì học lực yếu kém thì trách nhiệm phần lớn thuộc về Trung tâm, phần còn lại là bản thân học viên và gia đình học viên. Trách nhiệm của Trung tâm là tạo mọi thuận lợi cho học viên được học và học được. Nếu các em học yếu kém thì trách nhiệm của Trung tâm phải tổ chức phụ đạo, nâng kém, hoặc phải đổi phương pháp giảng dạy của giáo viên sao cho phù hợp với trình độ của từng đối tượng học viên. Hơn nữa, Trung tâm còn phải kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học viên nắm bắt kịp thời tình hình học tập nhà, báo cho cha mẹ học viên biết được tình hình học tập ở Trung tâm, chuyển biến tình cảm của các em để kịp thời uốn nắn sửa chữa.

Nói tóm lại, học viên bỏ học là trách nhiệm của Trung tâm và khắc phục tình trạng học viên bỏ học là trách nhiệm của Trung tâm.

2.2. Thực trạng về hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên thành phố Hải Phòng Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

2.2.1. Thực trạng xác định, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục

Chương trình giáo dục là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt được, đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương pháp, cách thức tổ chức học tập, cách đánh giá kết quả học tập… nhằm đạt được các mục tiêu học tập đề ra. (Nguyễn Hữu Chí, Viện KHGD 2002).

Như vậy, những thành phần cơ bản của một chương trình giáo dục bao gồm:

  • Nhu cầu đào tạo
  • Mục đích, mục tiêu đào tạo
  • Nội dung đào tạo
  • Phương thức đào tạo
  • Các hình thức tổ chức hoạt động đào tạo
  • Các hình thức kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo.

Từ cách tiếp cận chương trình giáo dục như trên, tác giả đã tiến hành khảo sát trên 150 giáo viên và 15 cán bộ quản lý tại 5 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng

Bảng 2.13: Mức độ xác định, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy, số giáo viên xác định, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học ở mức độ, chưa đủ và không đúng chiếm tới 91,88%, trong đó tỉ lệ giáo viên nhận thức không đúng là 72,50%, tỉ lệ giáo viên nhận thức đúng nhưng chưa đầy đủ là 19,38%. Điều này có nghĩa là một số giáo viên đã xác định, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học đúng song chưa đầy đủ, chưa toàn diện.

Còn đối với cán bộ quản lý, có 53,34% nhận thức đúng nhưng chưa đầy đủ. Với con số 13,33% cán bộ quản lý nhận thức không đúng về xác định, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học, chúng ta thấy rằng đây là một thực tế đáng buồn. Đôi khi, nội dung giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học hiện nay vẫn còn mang tính đối phó và hình thức hoặc chưa được quan tâm sâu sát.

2.2.2. Thực trạng về thực hiện nội dung giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Thực tế việc thực hiện nội dung giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học tại các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên đang đứng trước những khó khăn, thử thách sau:

Kinh tế – xã hội: Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần làm cho kinh tế nước ta tăng trưởng, đời sống của đại bộ phận dân cư đã được cải thiện rõ rệt, tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho một bộ phận dân cư đang bị nghèo đi, trở thành nhóm xã hội bên lề của sự phát triển. Đây có thể được xem là nguyên nhân chính của tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh khó khăn dẫn đến tình trạng bỏ học. Bên cạnh đó, tình trạng một số trong những sinh viên ra trường, những người có học thức cao vẫn chưa tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn được đào tạo. Bệnh duy ý chí vẫn còn trong một số cấp lãnh đạo trong việc đề ra mục tiêu và chính sách giáo dục; đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn… đã tác động đến Trung tâm và thông qua đó lại tác động trở lại học viên.

Toàn cầu hoá là cơ hội để đất nước ta tiếp cận với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nhưng bên cạnh đó cũng không tránh được sự du nhập của những văn hoá phẩm đồi trụy làm tha hoá một bộ phận gồm những người không có tư tưởng kiên định và niềm tin trong sáng, biến họ thành những kẻ hám lợi, trục lợi từ đối tượng học viên, dẫn đến việc các em mất lòng tin vào người lớn, vào cộng đồng và xã hội, dẫn đến việc các em bị sa ngã, dẫn đến việc tâm hồn các em bị “nhiễm bẩn”. Mất niềm tin đã dẫn các em đến con đường ham chơi, hư hỏng, và đây chính là ngưỡng cửa của việc bỏ học.

Hơn nữa, sự tham gia của cộng đồng và các đoàn thể xã hội trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn chưa thường xuyên và rộng khắp do nguồn kinh phí hạn hẹp và không ổn định, cho nên vẫn còn có những học viên phải bỏ học vì nghèo.

Trung tâm: Trung tâm được xem là hạt nhân của cộng đồng trong việc mang ánh sáng tri thức đến cho cộng đồng, là nơi thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự phát triển của phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, quá trình đào tạo của giáo dục nói chung và Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên nói riêng đang gặp nhiều thách thức như sau:

Trừ những Trung tâm do có sự đầu tư tốt và ở vào các vùng thuận lợi đạt chuẩn về cơ sở vật chất-sư phạm, số còn lại vẫn còn trong tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất sư phạm, môi trường thiếu tính thẩm mỹ so với cơ sở vật chất tiên tiến của cộng đồng nên không có sức hấp dẫn và gây ấn tượng với học viên. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Bên cạnh đó, sự tồn tại của một “nhà trường thứ hai” qua phương tiện thông tin đại chúng dồn dập đưa các tri thức không hệ thống đến học viên. Nhà trường truyền thống có những mặt lạc hậu so với nhà trường thứ hai này, không đủ sức kế hoạch hoá, điều phối tri thức thiết yếu tới học viên, một số giáo viên vẫn dùng lối sư phạm quyền uy để thực hiện tiến trình đào tạo, và một bộ phận giáo viên chưa đủ năng lực và phẩm chất,… đã làm phát sinh mâu thuẫn trong quan hệ thầy trò, làm xói mòn truyền thống tôn sư trọng đạo, làm mất đi hình ảnh cao đẹp của người thầy trong niềm tin của học viên.

Đời sống giáo viên mặc dù đã được cải thiện, song vẫn còn nhiều khó khăn, chính điều này đã sinh ra việc dạy thêm, học thêm tràn lan, cộng thêm chương trình học ngày càng khó và càng quá tải đã tạo cơ hội cho một số giáo viên thiếu phẩm chất biến việc dạy thêm thành việc cải thiện thu nhập, trục lợi bằng cách ép buộc học viên đi học thêm. Dạy thêm, học thêm bị tác động bởi cơ chế thị trường đã trở thành một vấn nạn làm xói mòn quan hệ thiêng liêng của tình thầy trò.

Tất cả những tiêu cực trên đã tác động trực tiếp đến học viên và hậu quả là các em bỏ học vì chán chường. Tình trạng bỏ học đang ở mức báo động; nhưng một số Trung tâm vẫn xem đó là chuyện nhỏ, bởi vì số học viên bỏ học thường không quá 25% so với số học viên của Trung tâm; còn đối với một số giáo viên chủ nhiệm và một số người trong các bộ phận đoàn thể của Trung tâm thì việc bỏ học của học viên là làm giảm đi gánh nặng cho Trung tâm, cho lớp, vì họ cho rằng đa số các em bỏ học là vì quá nghèo, quá yếu và khó giáo dục.

Gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, là xã hội thu nhỏ, là môi trường gần gũi của học viên, những nhân tố tích cực, tiêu cực hàng ngày hàng giờ tác động đến học sinh. Nhận thức hạn hẹp về mục đích học tập, trình độ giáo dục thấp, phương pháp giáo dục của cha mẹ không phù hợp với tâm lý của con cái, hoàn cảnh sống, nề nếp gia đình… gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Bên cạnh đó còn phải kể đến những tác động của xã hội đến gia đình và thông qua gia đình tác động đến học viên, về mặt này có thể kể đến tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường gây phân hoá xã hội mạnh mẽ làm thay đổi sâu sắc định hướng giá trị của cha mẹ học viên về việc học của con mình.

Gia đình là chủ thể đầu tiên trong việc thực hiện chăm sóc và giáo dục trẻ em. Pháp lệnh Nhà nước quy định rõ: cha mẹ phải làm đầy đủ nghĩa vụ của mình là chăm sóc, giáo dục các con phát triển toàn diện, nhưng ở nhiều gia đình khó khăn thì “lực bất tòng tâm”, cho dù rất hiểu lợi ích của việc học tập, cho dù Nhà nước quy định phổ cập bắt buộc và miễn phí, trên thực tế, chi phí cho một đứa con đi học là quá tốn kém. Hơn nữa, những gia đình khó khăn thường ít chú ý, chăm sóc và tạo điều kiện học tập cho con cái, bởi những lo toan kiếm sống trước mắt còn quan trọng hơn nhiều so với việc đầu tư cho con em học tập. Chỉ cần biết đọc biết viết để xoá mù, rồi làm việc giúp đỡ cha mẹ hoặc ra ngoài xã hội tìm cách kiếm sống. Trong điều kiện kinh tế và việc làm hiện nay dưới con mắt của nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn thì tương lai đầu ra của việc học tập không mấy lạc quan: học cao mấy rồi cũng quay về kiếm việc làm và sinh sống. Chính vì quan niệm như vậy, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thường thất học và bỏ học giữa chừng. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Bảng 2.14: Mức độ thực hiện các nội dung giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Nhìn chung, đối với giáo viên cũng như cán bộ quản lý đều nhận thức đúng và đánh giá cao tầm quan trọng của nội dung giáo dục hành vi và thái độ học tập. Đây là điều hoàn toàn đúng với thực tế. Hiện nay, đối với các Trung tâm, hàng ngày lên lớp, giáo viên vẫn thường xuyên nhắc nhở các em về hành vi và thái độ học tập của các em dựa trên các nội quy, quy định của Trung tâm và lớp học của mình.

Bên cạnh đó, nhìn vào bảng 2.14 chúng ta còn thấy điểm trung bình cho việc thực hiện nội dung 1 – giáo dục nhận thức đúng về học tập còn tương đối thấp. Đây là điều đáng phải suy nghĩ, nhưng theo chúng tôi, đó cũng là điều dễ hiểu và đúng thực tế, nhất là hiện nay, vì đi học, chúng ta mới chỉ coi trọng nghĩa vụ, trách nhiệm, những điều học viên phải làm chứ chưa chú trọng đến những điều mà học viên thích và mong muốn. Phong trào xây dựng Trung tâm thân thiện, học viên tích cực còn là hình thức. Đặc biệt để việc đi học là hạnh phúc còn là điều còn xa vời với các em vì không có thái đọ và hành vi tốt nghĩa là đi học chưa phải là niềm vui và hạnh phúc.

2.2.3. Thực trạng về các phương pháp giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên

Để đánh giá mức độ sử dụng thường xuyên, liên tục các phương pháp giáo dục phòng ngừa bỏ học của học viên, tôi đã tiến hành khảo sát tại các Trung tâm, kết quả như sau:

Nhìn chung, đối với giáo viên cũng như cán bộ quản lý, phương pháp thi đua đều được đánh giá xếp thứ hạng cao. Đây là điều hoàn toàn đúng với thực tế. Hiện nay, đối với các Trung tâm, hàng ngày lên lớp, giáo viên vẫn thường đem việc thi đua giữa các lớp ra làm tiêu chí để nhắc nhở các em, giáo dục các em không nên nghỉ học hay bỏ học.

Sau phương pháp thi đua, hai phương pháp cũng được thực hiện thường xuyên và tương đối hợp lý là phương pháp trách phạt và phương pháp khen thưởng, cùng được các giáo viên và cán bộ quản lý đánh giá xếp ở thứ hạng 2 và 3.

Nhìn vào bảng 2.15, chúng ta còn thấy điểm trung bình cho việc thực hiện phương pháp trải nghiệm thực tế tương đối thấp. Đây là điều dễ hiểu và đúng thực tế nhất là hiện nay. Việc tổ chức được các hoạt động cho học viên tham gia các cơ sở sản xuất hay gặp gỡ người lao động đòi hỏi nhiều về kinh phí, thời gian và cả tâm huyết nhiệt tình của nhà giáo dục. Vì thế, phương pháp này thường được sử dụng ở các buổi tham gia các hoạt động văn hóa, lễ hội của địa phương.

2.3. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên thành phố Hải Phòng Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Để tìm hiểu thực trạng quản lý của Giám đốc nhằm khắc phục tình trạng học viên bỏ học, chúng tôi đã tiến hành các hoạt động sau:

  1. Tổ chức nghiên cứu thực tế 05 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên
  2. Tham khảo kế hoạch hoạt động, kế hoạch phòng chống tình trạng bỏ học, Sổ Gọi tên và Ghi điểm (Sổ điểm lớn), Sổ Ghi đầu bài của một số Trung tâm.
  3. Tham gia phỏng vấn trực tiếp, tọa đàm với một số Trung tâm về vấn đề học viên bỏ học.
  4. Sử dụng phiếu hỏi, điều tra với đối tượng: Cán bộ quản lý, giáo viên các Trung tâm, cha mẹ học viên và học viên của các Trung tâm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
  5. Tham dự các buổi Họp hội đồng, Họp giáo viên chủ nhiệm, hội thảo phòng chống tình trạng học viên bỏ học ở một số Trung tâm.
  6. Phỏng vấn 20 học viên bỏ học trở lại xin rút hồ sơ hoặc xin học lại ở một số Trung tâm.

Trên cơ sở nghiên cứu thực tế cùng với sự phân tích xử lý số liệu đã thu thập được, chúng tôi đã dựa vào điểm trung bình để xếp thứ bậc từ 1 đến 5. Trên cơ sở đó, so sánh mức độ thực hiện được của các nội dung đã đưa ra nhằm nắm được thực trạng các biện pháp quản lý của Giám đốc trong việc khắc phục tình trạng bỏ học. Chúng tôi nhận thấy thực trạng về việc quản lý khắc phục tình trạng học viên bỏ học ở các Trung tâm được thể hiện ở các nội dung sau:

2.3.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Để đánh giá thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học, tôi đã tiến hành khảo sát tại các Trung tâm, kết quả như sau:

Bảng 2.16: Thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Qua bảng 2.16, chúng tôi nhận thấy, ở nội dung xây dựng kế hoạch tổng thể được đánh giá tập trung ở mức tốt và chưa tốt. Điều đó chứng tỏ Giám đốc các Trung tâm có thu thập, xử lý và phân tích thông tin và đưa ra những dự báo về xu hướng phát triển trong việc xây dựng kế hoạch tổng thể giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học. Xong việc xây dựng kế hoạch chi tiết lại tập trung ở mức bình thường và chưa tốt, chính vì thế học viên vẫn tiếp tục bỏ học.

2.3.2. Thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Để đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học, tôi đã tiến hành khảo sát tại các Trung tâm, kết quả như sau:

Bảng 2.17: Thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Qua bảng 2.17, từ thứ bậc của các nội dung, chúng tôi nhận thấy các nội dung quan trọng trong việc khắc phục tình trạng học viên bỏ học là nội dung 2, 3, 4, 5 và 6 xếp loại thấp hơn. Chứng tỏ vấn đề tổ chức thực hiện giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học của Giám đốc chỉ diễn ra ở mặt nhận thức. Thực tế một số Giám đốc có tổ chức cho toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên học tập các nghị quyết, các chỉ thị của cấp trên, có nhận thức đúng về hậu quả của việc học viên bỏ học, cũng như tầm quan trọng của việc ổn định sĩ số, ổn định quy mô trường lớp. Song thực tế lại chưa có chương trình hành động phù hợp, chưa tổ chức được các hoạt động vui chơi học tập bổ ích cho học viên. Nên mặc dù việc có đầu tư kinh phí, cở sở vật chất và thiết lập được mạng lưới thông tin xuyên suốt từ Ban Giám đốc đến giáo viên, cha mẹ học viên song không ngăn ngừa được hiện trạng học viên bỏ học nhiều. Như mọi người đều biết, học viên Trung tâm có diễn biến tâm lý rất phức tạp, cần có giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn có kỹ năng sư phạm tốt để hiểu tâm tư tình cảm của các em giúp các em kịp thời giải tỏa những bức xúc trong lòng, giúp các em yên tâm học tốt, sự kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn là sự kết hợp tuyệt đối cần thiết trong hoạt động giảng dạy, giáo dục và phòng ngừa tình trạng bỏ học của các em. Hơn nữa, các em học viên dù chưa ngoan, dù khả năng học tập có hạn nhưng các em tất có sở trường riêng, cho nên trong hoạt động ngoại khoá, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp chính là việc để các em có cơ hội phát huy khả năng của bản thân, giúp các em có được niềm tin vào cuộc sống; điều đó sẽ góp phần đáng kể vào việc giáo dục học viên chưa ngoan và giảm tỷ lệ học viên yếu, kém.

2.3.3. Thực trạng chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Kết quả thực trạng chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học được tác giả tổng hợp từ 150 phiếu khảo sát:

Bảng 2.18: Thực trạng chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Qua bảng 2.18, chúng tôi nhận thấy chỉ có nội dung thứ 1 và 4 có nhiều đánh giá trái chiều: Mức đánh giá rất tốt và yếu cao hơn các nội dung 2 và 3. Xét về thứ bậc ta thấy ngay tình trạng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và các đoàn thể trong Trung tâm lựa chọn và xây dựng nội dung, chương trình phù hợp tốt (bậc 1), chỉ đạo thực hiện kế hoạch nâng cao chất lượng dạy học chưa tốt (bậc 4). Như chúng ta đều thấy, việc nâng cao chất lượng dạy học là biện pháp cốt lõi làm tăng vị thế và uy tín của Trung tâm cũng như làm cho học viên yêu trường, yêu lớp, giảm thiểu tối đa tình trạng bỏ học nhưng thực trạng chỉ đạo thực hiện kế hoạch này lại không tốt. Đây là một thực tế mà các nhà quản lý giáo dục cần thay đổi.

2.3.4. Thực trạng kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Bảng 2.19: Thực trạng kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học

Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của học viên. Việc kiểm tra đánh giá không công bằng, không nghiêm túc của giáo viên sẽ gây bất mãn rất lớn đối với học viên, việc nhận xét thiếu tế nhị về kết quả học tập của giáo viên sẽ gây cho học viên tâm lý chán nản, không muốn đến lớp, muốn bỏ học. Chính vì thế việc tăng cường quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên là vô cùng cần thiết, nhưng có đến 4 nội dung bị đánh giá ở mức dưới bình thường. Các nội dung 1, 2, 5 và 6 có thứ bậc thấp đã phản ánh thực trạng việc đổi mới trong kiểm tra và đánh giá học viên không được thực hiện tốt theo tinh thần chỉ đạo của ngành Giáo dục và Đào tại các Trung tâm đã khảo sát.

2.4. Thực trạng về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến hoạt động quản lý của Giám đốc Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên

2.4.1. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan

Bảng 2.20: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan

Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả khảo sát trên, chúng ta thấy các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động quản lý của Giám đốc trong việc giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học. Đặc biệt, yếu tố trình độ và năng lực quản lý có ảnh hưởng nhiều nhất, mức độ theo đánh giá là ảnh hưởng nhiều chiếm tới 92,5%. Yếu tố có mức độ ảnh hưởng ít nhất là trình độ chuyên môn của Giám đốc, có tới 55/160 ý kiến cho rằng yếu tố này có ảnh hưởng ít, chiếm 34,37%. Một yếu tố cũng đáng lưu ý đó là phẩm chất và tâm huyết của Giám đốc cũng có nhiều ảnh hưởng tới quá trình quản lý của họ. Như vậy, bên cạnh những năng lực, yếu tố “cứng” như trình độ chuyên môn và quản lý, thì những yếu tố “mềm” như kinh nghiệm và phẩm chất, tâm huyết của Giám đốc cũng có nhiều ảnh hưởng tới hoạt động quản lý của người đứng đầu trong phòng ngừa học viên bỏ học ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên.

2.4.2. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan

Bảng 2.21: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan

Không được đánh giá có ảnh hưởng rất nhiều như những yếu tố chủ quan nhưng những yếu tố khách quan cũng có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động quản lý của Giám đốc Trung tâm. Yếu tố có tác động nhiều nhất là những tác động từ ngay trong Trung tâm. Đó chính là những hoạt động, những biện pháp đang tiến hành của Trung tâm, đó là sự đồng lòng thực hiện công việc hay thực hiện mang tính đối phó của các cán bộ, giáo viên, nhân viên cấp dưới. Yếu tố gia đình và xã hội cũng có những ảnh hưởng nhất định, tác động đến hoạt động quản lý giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học của Giám đốc, với mức độ ảnh hưởng nhiều lần lượt là 42,5% và 16,9%. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

2.5. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học của Giám đốc các Trung tâm

2.5.1. Ưu điểm

Những chủ trương của Đảng, văn bản, chỉ thị, kế hoạch của cấp trên về việc khắc phục tình trạng học viên bỏ học đã được các Giám đốc triển khai đến tập thể giáo viên, cán bộ – công nhân viên của Trung tâm.

  • Cán bộ quản lý của các Trung tâm đã nhận thức được việc khắc phục tình trạng học viên bỏ học là nhiệm vụ quan trọng của Trung tâm.
  • Cơ sở vật chất của các Trung tâm đang từng bước đầu tư và hoàn thiện, tạo môi trường xanh, sạch đẹp an toàn cho học viên vui chơi và học tập.
  • Xây dựng tốt nề nếp dạy học và giáo dục, phần lớn học viên ngoan, lễ phép và chăm học.
  • Tổ chức quản lý chặt chẽ sĩ số học viên qua việc đưa cụ thể chỉ tiêu duy trì sĩ số vào tiêu chuẩn thi đua.
  • Cán bộ quản lý và giáo viên từng bước được chuẩn hóa, được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

2.5.2. Hạn chế, tồn tại

Giám đốc các Trung tâm chưa xây dựng được một hệ thống biện pháp toàn diện, đồng bộ, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng Trung tâm, mà chủ yếu là thực hiện các biện pháp theo chủ quan một cách rời rạc, chưa kết hợp được các biện pháp trong một thể thống nhất. Hầu hết các Giám đốc chưa xây dựng được một kế hoạch chiến lược nhằm quy hoạch và phát triển Trung tâm lâu dài, bền vững. Các kế hoạch chi tiết được xây dựng chưa cụ thể, chưa phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị cũng như thực tế tại địa phương nên quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học chưa có hiệu quả

Chưa có biện pháp cụ thể và hữu hiệu ngăn chặn tình trạng học viên bỏ học; nếu có thì chỉ dừng lại ở mức tổ chức, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đánh giá nên kết quả là học viên vẫn tiếp tục bỏ học.

Chưa chú ý đúng mức đến việc khắc phục tình trạng học viên yếu, kém nhằm giảm tối đa học viên lưu ban. Đây là biện pháp cơ bản khắc phục tình trạng học viên bỏ học hiệu quả. Nếu có nâng kém thì tổ chức cho cả lớp, không phân loại học viên, không nâng kém theo từng đối tượng yếu, kém, nên kết quả yếu vẫn yếu, kém vẫn kém.

Còn nhiều giáo viên chưa linh hoạt điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp với trình độ học viên yếu, kém; chưa tâm lí trong nhận xét đánh giá, gây bất mãn cho học viên vốn học yếu và chán học. Còn có nhiều giáo viên chưa thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học khi lên lớp gây nhàm chán cho học viên, không tạo được sức lôi cuốn các em đối với mỗi tiết học, với môn học. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Còn nhiều Giám đốc chưa chú ý đến các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động trải nghiệm, vui chơi, giải trí lành mạnh để kích thích học viên hứng thú học tập.

  • Các biện pháp kết hợp với cha mẹ học chưa hiệu quả; hoạt động của hội cha mẹ học viên chưa có chiều sâu.
  • Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, và các đoàn thể trong Trung tâm hoạt động chưa có sự gắn kết chặt chẽ.
  • Công tác tham mưu với cấp ủy, Đảng chưa hiệu quả nên chưa được sự hỗ trợ từ các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, chưa có được sức mạnh tổng hợp trong việc phòng chống tình trạng học viên bỏ học.

2.5.3. Nguyên nhân

Có một số nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên:

  • Một số Giám đốc chưa thực sự quan tâm đến hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học.
  • Hoàn cảnh, môi trường, các phương tiện và điều kiện quản lý của Giám đốc còn nhiều khó khăn.
  • Một số Giám đốc chưa năng động trong việc tranh thủ sự ủng hộ từ các cấp, các ban ngành, của cộng đồng trong việc giáo dục học viên nên các biện pháp giáo dục được triển khai thiếu đồng bộ, không hiệu quả.

Kết luận chương 2 Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Qua khảo sát thực trạng, chúng tôi nhận thấy vấn đề bỏ học của học viên ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên tuy có giảm song vẫn chiếm tỷ lệ cao. Trước thực trạng này, các Trung tâm đã tìm ra các nguyên nhân khiến học viên bỏ học nhiều. Các nguyên nhân chủ yếu được chỉ ra là do hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế, cha mẹ ít quan tâm đến việc học hành của các con (chiếm 57%) và nguyên nhân do học lực của các em còn yếu kém (chiếm 36%). Đồng thời các Trung tâm cũng đã tổ chức các hoạt động giáo dục phòng ngừa bỏ học nhằm hạn chế tối đa học viên bỏ học nhưng hiệu quả không cao. Nguyên nhân khiến cho hoạt động giáo dục phòng ngừa bỏ học thiếu hiệu quả ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất là, về việc xác định, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phòng ngừa bỏ học: phần lớn các giáo viên và cán bộ quản lý có nhận thức không đúng hoặc đúng nhưng chưa đầy đủ (tỉ lệ 72,50% đối với giáo viên, 53,35% đối với cán bộ quản lý).

Thứ hai là, về việc thực hiện nội dung giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học chỉ tập trung vào giáo dục thái độ và hành vi trong học tập mà ít quan tâm đến việc giáo dục nhận thức đúng về học tập cho các em.

Thứ ba là, về các phương pháp giáo dục phòng ngừa: Chủ yếu vẫn dùng các phương pháp giáo dục truyền thống, các phương pháp giáo dục hiện đại như phương pháp tranh luận, phương pháp trải nghiệm thực tế ít được sử dụng.

Đồng hành với các hoạt động giáo dục phòng ngừa bỏ học, các Giám đốc

Trung tâm đã tiến hành hoạt động quản lý các hoạt động này được đánh giá như sau:

Ưu điểm:

  • Những chủ trương của Đảng, văn bản, chỉ thị, kế hoạch của cấp trên về việc khắc phục tình trạng học viên bỏ học đã được các Giám đốc triển khai đến tập thể giáo viên, cán bộ – công nhân viên của Trung tâm.
  • Cán bộ quản lý của các Trung tâm đã nhận thức được việc khắc phục tình trạng học viên bỏ học là nhiệm vụ quan trọng của Trung tâm.
  • Cơ sở vật chất của các Trung tâm đang từng bước đầu tư và hoàn thiện, tạo môi trường xanh, sạch đẹp an toàn cho học viên vui chơi và học tập.
  • Xây dựng tốt nề nếp dạy học và giáo dục, phần lớn học viên ngoan, lễ phép và chăm học.
  • Tổ chức quản lý chặt chẽ sĩ số học viên qua việc đưa cụ thể chỉ tiêu duy trì sĩ số vào tiêu chuẩn thi đua.
  • Cán bộ quản lý và giáo viên từng bước được chuẩn hóa, được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Hạn chế: Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

  • Giám đốc chưa xây dựng được một kế hoạch chiến lược nhằm quy hoạch và phát triển Trung tâm lâu dài, bền vững. Các kế hoạch chi tiết được xây dựng chưa cụ thể, chưa phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị cũng như thực tế tại địa phương nên quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa học viên bỏ học chưa có hiệu quả
  • Chưa có biện pháp cụ thể và hữu hiệu ngăn chặn tình trạng học viên bỏ học; nếu có thì chỉ dừng lại ở mức tổ chức, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đánh giá nên kết quả là học viên vẫn tiếp tục bỏ học.
  • Chưa chú ý đúng mức đến việc khắc phục tình trạng học viên yếu, kém nhằm giảm tối đa học viên lưu ban. Đây là biện pháp cơ bản khắc phục tình trạng học viên bỏ học hiệu quả.
  • Còn nhiều giáo viên chưa linh hoạt điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp với trình độ học viên yếu, kém; chưa tâm lí trong nhận xét đánh giá, gây bất mãn cho học viên vốn học yếu và chán học. Còn có nhiều giáo viên chưa thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học khi lên lớp gây nhàm chán cho học viên, không tạo được sức lôi cuốn các em đối với mỗi tiết học, với môn học.
  • Còn nhiều Giám đốc chưa chú ý đến các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động trải nghiệm, vui chơi, giải trí lành mạnh để kích thích học viên hứng thú học tập.
  • Các biện pháp kết hợp với cha mẹ học chưa hiệu quả; hoạt động của hội cha mẹ học viên chưa có chiều sâu.
  • Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, và các đoàn thể trong Trung tâm hoạt động chưa có sự gắn kết chặt chẽ.
  • Công tác tham mưu với cấp ủy, Đảng chưa hiệu quả nên chưa được sự hỗ trợ từ các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, chưa có được sức mạnh tổng hợp trong việc phòng chống tình trạng học viên bỏ học.

Trước tình hình học viên bỏ học vẫn đang biến động như hiện nay, đòi hỏi các Giám đốc Trung tâm phải thực hiện ngay việc xây dựng được một hệ thống biện pháp toàn diện, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đơn vị mình. Trong quá trình thực hiện các biện pháp, Giám đốc phải tận dụng và phát huy những điều kiện hiện có của Trung tâm, đồng thời tranh thủ cho được các yếu tố ngoại lực, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc phòng chống tình trạng học viên bỏ học. Đặc biệt, phải chú đến việc kết hợp các biện pháp với nhau nhằm phát huy thế mạnh tổng hợp từ các biện pháp riêng lẻ để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ khắc phục tình trạng này. Luận văn: Thực trạng QL giáo dục phòng ngừa bỏ học ở học viên.

Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có của một hệ thống các biện pháp quản lý nhằm khắc phục tình trạng bỏ học của học viên ở các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên trên địa bàn Thành phố.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Biện pháp QL giáo dục phòng ngừa bỏ học của học viên

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993