Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị, tình hình kinh tế-xã hội huyện Thanh Thủy liên quan đến quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Thanh Thuỷ là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 50 km và cách thủ đô Hà Nội 65 km. Phía Bắc Thanh Thuỷ giáp huyện Tam Nông; phía Tây và phía Nam giáp với huyện Thanh Sơn; phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Huyện Thanh Thuỷ có 15 đơn vị hành chính bao gồm 14 xã và một thị trấn ở khu vực trung tâm huyện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Huyện đạt bình quân 8,3%, hình thành một số khu vực sản xuất hàng hóa, dịch vụ phát triển. Nông, lâm nghiệp, thủy sản có chuyển biến tích cực từ lượng sang chất, tác động mạnh mẽ tới chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Cơ cấu lao động trong các ngành như sau: Tổng số lao động: 48479 người, trong đó: nông lâm nghiệp: 27149 người (56,00%); công nghiệp xây dựng: 9550 người (19,70%); thương mại dịch vụ: 11780 người (24,30%) [15]. Tỉ lệ lao động các ngành (%) được biểu hiện qua sơ đồ sau: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng được quan tâm chú trọng. Hàng năm có gần 75% số chi, đảng bộ cơ sở xếp loại trong sạch, vững mạnh; 83% đảng viên xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ vượt mục tiêu nghị quyết đại hội. Tuy nhiên, chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội chưa đồng bộ, trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp xã chưa đồng đều, còn nhiều khó khăn, bất cập [15].
Bảng 2.1. Cơ cấu trình độ cán bộ, công chức cấp xã của huyện Thanh Thủy năm 2015
Qua bảng 2.1 về cơ cấu trình độ cán bộ cấp xã của huyện Thanh Thủy ta thấy trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán bộ ở các vị trí chưa đồng đều, so với mặt bằng chung trình độ cán bộ các ngành các cấp của toàn xã hội còn thấp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.2. Khái quát về trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy được thành lập theo quyết định số 2297/QĐ-UBND ngày 25-7-2001 của UBND tỉnh Phú Thọ, tọa lạc ở khu 6, thị trấn Thanh Thủy, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Trải qua gần mười lăm năm trưởng thành và phát triển, trung tâm đã có 1029 học viên tốt nghiệp bậc THPT, tỉ lệ tốt nghiệp đạt 93,6%. Hệ liên kết đào tạo trong 15 năm có được 43 lớp, với tổng số 2710 học viên, đã tốt nghiệp là 2408, đang theo học là 302. Trung tâm đã trở thành một địa chỉ giáo dục tin cậy, được Sở GD&ĐT Phú Thọ đánh giá tốp đầu ngành GDTX cấp huyện trong tỉnh, thu hút nhiều học viên không chỉ trên địa bàn tỉnh mà nhiều học viên ở các địa phương miền núi phía Bắc cũng lựa chọn học tập tại đây.
Tình hình giáo dục trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy trong năm 2014 -2015 như sau:
- Học viên lớp đào tạo: Tổng số 493 học viên. Trong đó hệ đại học 6 lớp (301 sinh viên); hệ TCCN 2 lớp (130 học viên); hệ học văn hóa kết hợp với học nghề 3 lớp (62 học viên)
- Học viên học bậc THPT: Tổng số có 7 lớp tương ứng 288 học viên, trong đó nữ 105 em (36,5%); học viên người dân tộc thiểu số có 25 em (8,7%). Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Trong những năm gần đây có nhiều học viên đỗ cao đẳng và Đại học. Trong số học viên được đào tạo, bồi dưỡng tại trung tâm, nhiều học viên đã trưởng thành, giữ các cương vị quan trọng trong các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương.
- Bảng 2.2. Kết quả hai mặt giáo dục năm học 2012 – 2013
- Tỉ lệ thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ: 14/ 107 (13,1 %) [34].
- Bảng 2.3. Kết quả hai mặt giáo dục năm học 2013 – 2014
- Tỉ lệ đỗ vào các trường ĐH, CĐ: 11/ 104 (10,6 %) [34].
- Chất lượng học sinh giỏi của trung tâm giữ ổn định, thể hiện qua kết quả thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh trở lên trong 3 năm gần đây:
- Bảng 2.5. Thống kê số lượng giải của học viên trung tâm khi tham gia kỳ thi chọn học sinh giỏi các cấp
Tỷ lệ tốt nghiệp hàng năm của học viên lớp 12 bình quân đạt 93,6%, vào cao đẳng, đại học đạt khoảng 11,8%.
Trung tâm có 3 cán bộ quản lý, về trình độ quản lý thì các cán bộ quản lý chỉ qua đào tạo ngắn hạn rồi cấp chứng chỉ, vì thế việc quản lý thiên về kinh nghiệm cá nhân, việc đổi mới công tác quản lý để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay còn hạn chế.
Giáo viên của trung tâm có tuổi đời trung bình là 35 tuổi. 100% giáo viên đều đạt chuẩn trình độ. Trung tâm đã cử 2 giáo viên đi học cao học để nâng cao trình độ, phục vụ cho công tác dạy học và quản lý.
Trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy thành lập 04 tổ, cơ cấu như sau:
Bảng 2.6. Cơ cấu cán bộ, giáo viên trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
2.2.1. Tình hình phân luồng học viên trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy
Bước vào thế kỷ XXI, các quốc gia lại càng chú ý vào việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, dần chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Việc phân luồng học sinh phổ thông liên quan trực tiếp đến mục tiêu tổng quát của giáo dục Việt Nam: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Theo thống kê của bộ phận giáo vụ, hành chính thì năm 2015, trung tâm có 21 học viên (đạt tỉ lệ 20,2%) đăng ký tham gia kỳ thi THPT với mục đích lấy kết quả xét tuyển vào các trường cao đẳng, đại học. Số học viên đăng ký xét vào các trường trung cấp 15 em (đạt tỷ lệ 14,4%). Hàng năm, tỷ lệ học viên thi đỗ vào các trường CĐ, ĐH trên tổng số đã đăng ký khoảng 11,8%. Như vậy, số học viên đăng ký thi để lấy kết quả xét vào đại học không nhiều, số đăng ký xét vào trung cấp còn ít, số còn lại không đăng ký vào bất cứ trường nào và các em cũng không được tư vấn hướng nghiệp đến nơi đến chốn.
2.2.2. Tình hình phát triển giáo dục hướng nghiệp ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Về thực hiện nội dung chương trình sinh hoạt hướng nghiệp: công tác hướng nghiệp ở trung tâm GDTX Thanh Thủy căn cứ chương trình giáo dục hướng nghiệp do Bộ GD&ĐT ban hành (Hướng dẫn số 61/SHHN-BGD&ĐT, ngày 26 tháng 7 năm 2006). Theo hướng dẫn, mỗi năm học có 9 chủ đề, trải đều ở 9 tháng. Mỗi chủ đề có xác định cụ thể mục tiêu, các hoạt động chính. Trung tâm triển khai tập trung nhiều vào các chủ đề: Tìm hiểu nghề giáo viên, nghề y, nông lâm ngư nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải, viễn thông, cơ khí, xây dựng, tìm hiểu các trường ĐH, CĐ và TCCN; nội dung hướng nghiệp cán bộ xã ít được chú ý. Các chủ đề tư vấn nghề nghiệp giao cho GVCN phối hợp Ban Thường vụ đoàn trung tâm triển khai dưới dạng đối thoại, trao đổi, lồng ghép sân khấu hóa. Tuy nhiên, Ban Thường vụ đoàn là những giáo viên kiêm nhiệm chưa đủ tầm đi sâu vào GDHN, các trắc nghiệm tâm lý làm cơ sở để tư vấn nghề nghiệp hầu như không thực hiện, do trung tâm chưa có cán bộ chuyên sâu về chẩn đoán tâm lý. Giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã phục vụ cho huyện nhà chưa được Giám đốc trung tâm chỉ đạo quyết liệt.
Các nội dung GDHN chủ yếu giao cho GVCN lớp trực tiếp giảng dạy. Tuy nhiên, GVCN ở trung tâm còn thiếu thông tin về nghề nghiệp xã hội, giảng dạy thiên về kinh nghiệm, mang nặng phương pháp dạy học bộ môn do họ chưa được đào tạo chính quy chuyên biệt về hướng nghiệp. Từ năm 2013-2015, trung tâm tổ chức dạy học hướng nghiệp 1 tiết/tháng (dựa theo chương trình hướng nghiệp của Bộ GD&ĐT cho các khối lớp để triển khai phù hợp), đồng thời phối hợp với một số trường CĐ, ĐH, TCCN và trung tâm tiến hành tiếp thị tuyển sinh hơn 10 buổi cho 520 học viên trung tâm, 06 lần tham quan cơ sở trồng hoa, sản xuất nấm, xưởng mộc, cơ khí xây dựng, … trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, điều đó đã góp phần phân luồng học viên, gợi mở những hướng đi thiết thực trên con đường tìm kiếm việc làm, hướng tới sự ổn định lao động địa phương.
2.3. Thực trạng giáo dục hướng nghiệp và quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Tác giả tiến hành khảo sát thực trạng GDHN và quản lý GDHN như sau:
- Mục đích khảo sát:
Qua kết quả khảo sát, tác giả nắm được thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp tại trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, để làm căn cứ thực tiễn đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học viên đạt hiệu quả cao hơn.
- Địa bàn và quy mô khảo sát, thời gian khảo sát: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Đề tài tập trung nghiên cứu tại trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tính đến thời điểm điều tra (tháng 3/2016) Trung tâm có 30 cán bộ giáo viên, 477 học viên. Trong luận văn, tác giả tiến hành khảo sát 160 học viên, 30 cán bộ giáo viên và 141 cha mẹ học viên trung tâm đồng thời tham vấn cán bộ, giáo viên, chuyên viên các phòng ban của Sở GD&ĐT Phú Thọ, của UBND huyện Thanh Thủy và Trường Trung cấp Kỹ thuật và Nghiệp vụ Sông Hồng, Đại học Hùng Vương thuộc tỉnh Phú Thọ, cán bộ công chức thuộc 15 xã (thị trấn) ở huyện Thanh Thủy. Tổng số 340 người được khảo sát, tham vấn.
Thời gian lấy số liệu khảo sát trong năm học, từ năm học 2012 -2013 đến năm học 2014-2015.
- Mức độ khảo sát:
Mức độ thực hiện công tác quản lý GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã cho học viên bậc THPT của trung tâm GDTX Thanh Thủy.
Mức độ quản lý, sự phối hợp của các lực lượng tham gia vào quá trình quản lý GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã cho học viên trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp khảo sát:
Nghiên cứu hoạt động lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá công tác quản lý GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã cho học viên trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp đánh giá:
Tổng hợp số liệu qua các phiếu điều tra, các ý kiến thông qua phỏng vấn, trao đổi với các cán bộ, giáo viên, học viên và cha mẹ học viên của trung tâm và trao đổi với các cơ sở giáo dục và quản lý giáo dục, thể hiện qua các bảng số liệu. Từ đó, đánh giá mức độ tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã cho học viên trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Đánh giá kết quả khảo sát: kết quả điểm được tính toán và xử lý bằng toán thống kê bằng cách tính %, giá trị trung bình theo mức độ khác nhau. Từ các kết quả định lượng, rút ra các nhận xét, kết luận định tính phục vụ cho nghiên cứu biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã tại trung tâm.
2.3.1. Thực trạng giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
2.3.1.1.Thực trạng học viên tìm hiểu về nghề nghiệp từ nhiều nguồn thông tin khác nhau
Qua tìm hiểu nhu cầu của học viên liên quan đến việc lựa chọn các nghề để học và nghề nghiệp sau này trong quá trình thực hiện giáo dục hướng nghiệp, kết quả cho thấy có 137/150 chiếm tỉ lệ 91,3% học viên trả lời rằng: các em có nhu cầu tìm hiểu về nghề nghiệp tương lai của mình. Chỉ có 13/150 chiếm tỉ lệ 8,7% học viên được hỏi không có nhu cầu tìm hiểu về nghề nghiệp sau này. Điều đó được thể hiện qua kết quả trả lời câu hỏi: “Em có hiểu biết về nghề nghiệp là nhờ vào nguồn thông tin nào dưới đây”. Kết quả cho thấy, học sinh tìm hiểu về nghề nghiệp từ nhiều nguồn thông tin khác nhau chứ không chỉ từ trung tâm. Tác giả lấy phiếu khảo sát từ 150 học viên lớp 11 và 12 của trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Số phiếu phát ra: 150 phiếu; số phiếu thu về: 150 phiếu. Kết quả như sau: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Bảng 2.7. Học viên tìm hiểu về nghề nghiệp từ các nguồn thông tin khác nhau
Qua bảng số liệu trên, ta thấy thông tin về nghề nghiệp mà học viên có được từ các giờ học hướng nghiệp chiếm tỉ lệ khá cao (69,33%). Kế tiếp là thông tin đại chúng (50,67%) và giáo viên chủ nhiệm (37,33%) và thấp nhất là hai lựa chọn: hỏi người thân trong gia đình (17,33%) và hỏi người đang đi làm (15,33%). Như vậy học viên không chỉ dừng lại ở nhu cầu muốn biết và thụ động chờ đợi từ hình thức GDHN ở trung tâm, mà các em còn chủ động tìm hiểu những nguồn thông tin xung quanh mình như hỏi người thân, các phương tiện thông tin đại chúng, chuyên gia tư vấn,…
2.3.1.2. Thực trạng hình thức tổ chức giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Theo điều tra trung bình hàng năm, số học viên nộp hồ sơ thi hoặc xét tuyển vào ĐH, CĐ khoảng 20 %; số xét tuyển vào trung cấp, cao đẳng nghề 33%; xuất khẩu lao động 20%; lao động tự do 17%; còn khoảng 10% học viên chưa định hướng công việc bản thân. Như vậy phần lớn học viên trung tâm có mong muốn nhanh chóng định hình một nghề nghiệp trong xã hội để đảm bảo sự ổn định và tính tiếp việc phát triển bản thân trong tương lai. Tuy nhiên việc chọn ngành nghề để học còn cảm tính, theo trào lưu, do các em chưa được gia đình và trung tâm tư vấn đầy đủ về năng lực cá nhân, thị trường lao động nghề nghiệp. Tỉ lệ trở lại với lĩnh vực cán bộ xã để phục vụ quê hương còn thấp dẫn đến thiếu hụt và mất cân đối trong tổ chức cán bộ cấp xã, ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương.
Để tìm hiểu rõ hơn về công tác quản lý các hình thức GDHN của giám đốc trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ theo hướng tạo nguồn cán bộ xã, tác giả đã gửi phiếu hỏi đến 30 cán bộ, giáo viên và 160 học viên trung tâm. (Tổng số 190 phiếu). Kết quả cụ thể như bảng 2.8 dưới đây:
Bảng 2.8. Đánh giá thực trạng các hình thức giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Cách tính điểm: Tùy theo mỗi câu, khách thể cho điểm từ 1 đến 5. Sau đó chúng tôi thống kê tính điểm trung bình. Điểm TB trong khoảng từ 1 đến 5. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy:
Tư vấn hướng nghiệp: Tốt chiếm 25,80%, khá chiếm 33,68%, trung bình chiếm 26,84%, yếu chiếm 11,05%, chưa tổ chức chiếm 2,63%. Như vậy qua khảo sát cho thấy hình thức tư vấn hướng nghiệp ở trung tâm tổ chức đánh giá là khá chiếm tỉ lệ cao nhất, tuy nhiên tỉ lệ đánh giá tổ chức yếu vẫn còn trên 11% và đặc biệt tỉ lệ đánh giá chưa tổ chức là 2,63%, con số này đã nêu lên một thực trạng là việc tư vấn hướng nghiệp về cán bộ xã của giáo viên vẫn còn nhiều bất cập.
- Tổ chức tham quan các trường đại học, cao đẳng, trung cấp:
Tỉ lệ đánh giá yếu và chưa tổ chức trên 63% cho thấy việc liên kết với các trường ĐH, CĐ, TCCN và dạy nghề để cho học sinh tiếp cận với các ngành nghề, với môi trường đào tạo ở các trường ĐH, CĐ, trung cấp để thúc đẩy công tác hướng nghiệp đang còn là khâu yếu. Thêm vào đó việc tìm nguồn kinh phí cho việc tổ chức loại hình này cũng là khó khăn của trung tâm.
Tổ chức tiếp cận lĩnh vực cán bộ, công chức xã: Tỉ lệ đánh giá tốt 0%, tỉ lệ đánh giá yếu và không tổ chức trên 59%. Điều này càng chứng tỏ việc hướng nghiệp tạo nguồn cán bộ xã còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu cấp bách về tạo nguồn cán bộ địa phương.
Tổ chức ngoại khóa giáo dục hướng nghiệp: Hình thức này kích thích học viên tìm hiểu về các nghề, từ đó giúp các em có thêm kiến thức về nghề nghiệp và có những định hướng bước đầu cho bản thân. Ở hình thức này, giáo viên và học viên đánh giá: Tốt 1,58%; khá 15,26%; trung bình 46,32%; yếu 22,63%; chưa tổ chức 14,21%. Qua đó chúng ta thấy việc tổ chức ngoại khóa GDHN ở trung tâm ở mức trung bình.
Tổ chức các buổi giáo dục lao động: Thực tế cho thấy, người lao động chỉ có thể yên tâm sống lâu dài với nghề nếu họ có năng lực chuyên môn thực sự, đóng góp được sức lực, trí tuệ để giải quyết tốt nhiệm vụ được giao. Ai cũng có mong muốn năng suất lao động cao, có uy tín trong lao động nghề nghiệp, nhưng nghề nghiệp cũng không chấp nhận những người thiếu năng lực. Ở hình thức này, cán bộ giáo viên và học viên đánh giá: tốt 12,63%; khá 32,63%; trung bình 19,47%; yếu 16,84%; chưa tổ chức 18,43%. Như vậy việc tổ chức giáo dục lao động ở trung tâm có điểm trung bình 3,04, điều đó cho thấy trung tâm đã triển khai hình thức giáo dục hướng nghiệp này khá tốt, xong vẫn còn số phần trăm không nhỏ đánh giá ở mức độ trung bình nói lên vấn đề tổ chức vẫn chưa thật triệt để.
Lồng ghép GDHN vào các môn văn hóa: Những tri thức ngành nghề khác nhau trong xã hội được chứa đựng trong nội dung các môn học. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Nếu mỗi giáo viên bộ môn biết khai thác triệt để các tri thức giúp học viên hiểu rõ các ứng dụng khoa học của tri thức vào sản xuất và đời sống, sẽ làm cho nội dung môn học gắn liền với thực tiễn, từ đó khơi dậy hứng thú để học viên hăng hái học tập, định hướng thế hệ trẻ vào những lĩnh vực sản xuất mà xã hội đang cần. Ở hình thức này, trung tâm được đánh giá ở mức độ yếu (tỉ lệ đánh giá yếu và chưa tổ chức trên 58%). Để gắn kiến thức vào thực tiễn đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững đồng thời tích cực nghiên cứu bồi dưỡng để có thêm kinh nghiệm thực tiễn môn học phong phú.
Trong các hình thức GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm, hình thức tư vấn hướng nghiệp và tổ chức GDLĐ thực hiện đạt khá, nhưng hình thức tổ chức tham quan các trường ĐH, CĐ, TC và tổ chức tiếp cận nghề nghiệp cán bộ xã còn yếu.
2.3.2. Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
2.3.2.1. Thực trạng quản lý công tác tuyên truyền về ý nghĩa giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Thế giới nghề nghiệp rất phong phú, đa dạng. Khi còn trẻ tuổi, một cá nhân muốn tồn tại và phát triển thì sớm muộn cũng phải tiếp xúc và hiểu biết về nghề nghiệp, nhưng nghề nghiệp thì hay có những bí mật của sự thành công. Muốn học viên chọn nghề có chủ định thì phải giúp học viên biết rõ về nghề. Để khảo sát thực trạng về sự hiểu biết của học sinh về công việc cán bộ xã, tác giả xin ý kiến của 70 cán bộ, giáo viên và 150 học viên, kết quả như sau:
Bảng 2.9. Sự hiểu biết của học viên về lĩnh vực cán bộ xã
Qua bảng thống kê ta thấy mức độ hiểu biết của học viên về công việc cán bộ xã chỉ ở mức độ vừa phải, chưa thật hiểu rõ, nhất là tính chất lao động và cơ hội phát triển của nghề. Ta cũng thấy sự đánh giá của cán bộ, giáo viên và học viên cũng khác nhau ở nội dung 3, 4, 5, tuy rằng sự khác nhau không nhiều những cũng chứng tỏ giáo viên chưa thực sự hiểu rõ học viên, học viên hiểu biết về cán bộ, công chức xã chưa đầy đủ. Điều này làm cho người quản lý phải chú ý đến thái độ của giáo viên đối với GDHN, phải làm cho giáo viên tâm huyết, sát sao hơn đối với học viên, giúp các em hiểu rõ về nghề nghiệp hơn để các em bước đầu đúng đắn trong việc chọn nghề của mình phù hợp với bản thân và nhu cầu xã hội.
Để khảo sát thực trạng quan niệm của HV và CMHV về nghề nghiệp, tác giả tiến hành xin ý kiến của 120 học viên và 120 cha mẹ học viên, số phiếu thu về: 120 phiếu học viên, 109 phiếu cha mẹ học viên, cụ thể như sau:
Bảng 2.10. Quan niệm của học viên và cha mẹ học viên về nghề nghiệp
Qua số liệu khảo sát, thống kê ta thấy đa số CMHV và bản thân học viên đều có suy nghĩ theo quan niệm truyền thống: “Một nghề thì sống, đống nghề thì chết”. Kiểu quan niệm truyền thống nay không còn phù hợp nữa. Trong giai đoạn của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng, chúng ta cần nhìn nhận lại vấn đề việc làm cho phù hợp, thay vì có một ngành nghề ổn định, cứng nhắc theo nghĩa cổ điển thì người lao động phải có sự đa năng, linh hoạt để có nhiều cơ hội nghề nghiệp, thích ứng nhanh với sự biến đổi của vị trí công việc. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Tâm lý chung của giới trẻ là thích học tập và hành nghề sau THPT ở một nơi xa quê, nhưng đa phần khi cuộc sống khó khăn, bươn trải thì quê hương và gia đình lại chính là hậu phương, chỗ dựa để tiếp tục mưu sinh. Khẳng định nghề nghiệp bản thân, ổn định việc làm trên mảnh đất quê hương mình là điều cần được khuyến khích trong phong trào xây dựng nông thôn mới.
Qua điều tra có 15/21 giáo viên (chiếm tỉ lệ 71,43%); 99/109 cha mẹ học viên (chiếm tỉ lệ 90,83%) cho rằng GDHN cho học viên chính là mong đợi của kết quả giáo dục, là mong muốn của gia đình và của chính học viên. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên cho rằng GDHN cho học viên là không khả thi. Chứng tỏ vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa hiểu rõ về nhiệm vụ GDHN. Đây là vấn đề mà nhà quản lý cần trao đổi, quán triệt, chỉ đạo để nâng cao hiệu quả giáo dục hướng nghiệp ở trung tâm.
2.3.2.2. Thực trạng xây dựng kế hoạch thực hiện nội dung, chương trình giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Trong quản lý trường học thì quản lý nội dung, chương trình GDHN là một trong những mục tiêu cơ bản của hoạt động quản lý. Giám đốc trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy đã cố gắng bám sát nội dung này bằng việc: Lập kế hoạch chỉ đạo, tổ chức, phân công trách nhiệm cho từng thành viên. Tuy nhiên, công tác quản lý này còn nhiều hạn chế như: thời lượng cho GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã còn ít, chương trình GDHN chưa thực hiện nghiêm túc, việc kiểm tra đánh giá thực hiện chương trình GDHN gần như bỏ ngỏ dẫn đến hiệu quả GDHN chưa cao.
Qua khảo sát có những nội dung GDHN của trung tâm đạt được mức khá như: cung cấp thông tin về thế giới nghề nghiệp, tổ chức tốt giáo dục hướng nghiệp qua lao động. Theo điều tra có 88/109 chiếm tỉ lệ 80,73% CMHV đều thống nhất ý kiến tùy theo hoàn cảnh kinh tế gia đình và khả năng bản thân mà các em có thể thi vào trường ĐH, CĐ hay học một nghề nào đó để mưu sinh rồi sau đó có điều kiện sẽ học tiếp. Căn cứ kết quả phân luồng thì hàng năm số học viên đỗ tốt nghiệp là 93,6%, số đăng ký cụm thi đại học khoảng 20%. Qua đó ta thấy học viên đã lường trước được khả năng của mình, nhưng số không đỗ tốt nghiệp và trượt đại học thì lúng túng không biết làm gì? Số đỗ tốt nghiệp muốn đi học tiếp nhưng đa số không biết nên học trường nào? Học ngành gì? Các em không tự tạo ra việc làm cho mình hoặc không tin vào khả năng bản thân.
Để khảo sát đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tác giả tiến hành xin ý kiến của 21 giáo viên và 160 học viên. Kết quả thể hiện ở bảng 2.11 dưới đây:
Bảng 2.11. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Kết quả cho ta thấy việc tổ chức hướng nghiệp còn đơn điệu, giáo viên chủ yếu là “đọc” học viên “nghe – chép bài” rất thụ động và cũng chỉ dừng lại mức độ cung cấp thông tin chủ yếu dựa vào sách hướng dẫn cho cả 3 khối lớp, trong khi nguồn thông tin đặc biệt là thông tin thị trường lao động đang thay đổi từng giờ. Hạn chế của hoạt động trên là chưa phát huy được vai trò các lực lượng tham gia hướng nghiệp, học viên còn mơ hồ về các lĩnh vực của cán bộ xã. Phương pháp tổ chức hướng nghiệp trên chỉ mang nặng hình thức. Việc thực hiện nội dung, chương trình GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã trung tâm chưa xứng tầm với vai trò, nhiệm vụ và chưa đáp ứng được kỳ vọng của địa phương.
2.3.2.3. Thực trạng về tổ chức, chỉ đạo giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tại trung tâm, tác giả nhận thấy thực trạng về tổ chức, chỉ đạo GDHN là sau khi lập kế hoạch chung của năm học, giám đốc thường giao cho giáo viên tiến hành giảng dạy GDHN, thỉng thoảng giám đốc kiểm tra thấy có mặt tham gia giảng dạy là được, không quan tâm xem giáo viên lên lớp đã chuẩn bị những gì, phương pháp dạy học ra sao. Vào tháng 3 hàng năm, GVCN phối hợp với giáo viên bộ môn và đoàn thanh niên để tổ chức “Ngày hội tư vấn hướng nghiệp” hoặc có trường nào đó đến xin tuyển sinh thì tổ chức cho lớp 12 vài buổi mà chủ yếu là giới thiệu về khoa, ngành của trường đó. Trong số các trường ĐH đến tư vấn tuyển sinh, khoảng 90% là trường tư thục, nên số ngành ít, họ không quan tâm nhiều đến hướng nghiệp mà chủ yếu là tuyển sinh “được càng nhiều thì càng tốt”.
Để tìm hiểu thực trạng tổ chức, chỉ đạo GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tác giả tiến hành thăm dò xin ý kiến của 30 cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường. Kết quả cụ thể theo bảng 2.12 như sau:
Bảng 2.12. Thăm dò ý kiến về việc tổ chức, chỉ đạo giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Qua bảng tổng hợp thăm dò ý kiến cho thấy công tác tổ chức, chỉ đạo GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm cần được tăng cường để đáp ứng nhiệm vụ quản lý.
2.3.2.4. Thực trạng về quản lý các hình thức giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Biểu hiện của công tác GDHN mà mọi người đều quan sát được là các hình thức GDHN. Như chúng ta đã biết, GDHN có nhiều hình thức khác nhau như: hướng nghiệp qua giáo dục lao động, hướng nghiệp qua dạy nghề phổ thông, hướng nghiệp qua dạy học các môn văn hóa, hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa, … Tuy nhiên, các hình thức GDHN ở trung tâm diễn ra còn đơn điệu. Một trong những hình thức GDHN có tính sinh động và thu hút sự quan tâm của học viên là hoạt động ngoại khóa hướng nghiệp thì hình thức này chưa được trung tâm phát huy rộng rãi. Đối với hình thức tích hợp, lồng ghép GDHN vào các môn văn hóa có lợi thế tranh thủ được thời gian của tiết học, gắn được kiến thức môn học với thực tiễn nghề nghiệp đời sống. Tuy nhiên năng lực giáo viên bộ môn về thực tiễn còn ít, thời lượng tiết học có hạn nên phần lớn giáo viên không tiến hành hướng nghiệp khi dạy các môn văn hóa. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Để tìm hiểu rõ hơn về công tác quản lý các hình thức GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tác giả tiến hành thăm dò xin ý kiến của cán bộ giáo viên (24), cha mẹ học viên(21) và học viên trung tâm (150). Ở nội dung này, số phiếu phát ra 195 phiếu, số phiếu thu về 190 phiếu. Kết quả tổng hợp ở bảng 2.13 dưới đây:
Bảng 2.13. Đánh giá về quản lý các hình thức giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Cách tính điểm để nhận xét: Tùy theo mỗi câu, chúng tôi cho điểm từ 1 đến 5, sau đó tính điểm trung bình (TB), điểm TB sẽ rơi vào khoảng từ 1 đến 5 Từ số liệu bảng 2.13 và căn cứ kết quả điểm trung bình chung là 2,64, ta nhận thấy quản lý các hình thức GDHN ở trung tâm ở mức độ trung bình.
2.3.2.5. Thực trạng về quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Chúng tôi đã gửi 190 phiếu hỏi cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và học viên trung tâm để khảo sát thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật cho GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã, kết quả thu về 190 phiếu, nội dung cụ thể ở bảng 2.14 như sau:
Bảng 2.14. Đánh giá về quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã
Các số liệu ở bảng 2.14 cho ta thấy việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ GDHN chỉ được đánh giá ở mức độ cận trung bình. Giáo viên làm công tác GDHN ở trung tâm chỉ là kiêm nhiệm, điều kiện cơ sở vật chất vừa thiếu vừa không đồng bộ. Muốn tăng cường CSVC thì đầu tư kinh phí là cốt lõi nhưng theo kết quả điều tra thì việc tạo nguồn kinh phí cho GDHN lại được đánh giá ở mức độ hạn chế, điểm TB chỉ có 2,17.
Để tìm hiểu rõ hơn thực trạng việc giáo viên và học viên tìm thấy tài liệu GDHN trong trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tác giả đã gửi phiếu hỏi đến 21 giáo viên và 120 học viên. Kết quả thu về như sau:
Giáo viên có thể tìm thấy tài liệu GDHN ở thư viện là 4/21(19,05%) ý kiến, ở góc hướng nghiệp là 3/21 (14,28%) ý kiến, trên mạng internet là 8/21 (38,10%) ý kiến, trên phương tiện thông tin đại chúng là 6/21 (28,57%) ý kiến.
Học viên có thể tìm thấy tài liệu GDHN ở thư viện là 14/120(11,67%) ý kiến, ở góc hướng nghiệp là 19/120 (15,83%) ý kiến, trên mạng internet là 52/120 (43,33%) ý kiến, trên phương tiện thông tin đại chúng là 35/120 (29,17%) ý kiến. Kết quả trên được thể hiện ở biểu đồ 2.2 dưới đây: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Biểu đồ 2.2 cho ta thấy đa số giáo viên tìm hiểu về các thông tin hướng nghiệp dựa vào hệ thống thông tin đại chúng và mạng inernet, còn học viên đa số dựa vào nguồn thông tin trên internet.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy, muốn làm tốt GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm GDTX huyện Thanh thủy không nên bỏ qua yếu tố quản lý việc tăng cường cơ sở vật chất cho GDHN bởi vì vật lực là yếu tố quan trọng để cùng với nhân lực làm nên thành công của hoạt động GDHN.
2.3.2.6. Thực trạng về quản lý huy động các nguồn lực nhằm xã hội hóa giáo dục hướng nghiệp ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh thủy, tỉnh Phú Thọ
Các lực lượng tham gia GDHN ở trung tâm vẫn chưa có sự gắn kết. Giám đốc phân công ai làm nhiệm vụ nào thì người đó triển khai, gần như chưa có sự trao đổi hai chiều để cùng thực hiện. Các lực lượng khác, đặc biệt là các tổ chức cá nhân bên ngoài trung tâm có khả năng tham gia, đóng góp cho GDHN thì chưa phối hợp triển khai hiệu quả.
Để khảo sát việc quản lý các nguồn lực tham gia và xã hội hóa GDHN tại trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tác giả xin ý kiến của 30 cán bộ, giáo viên và 120 học viên, tổng số 150 phiếu. Kết quả cụ thể ở bảng 2.15 dưới đây:
Bảng 2.15. Đánh giá về quản lý các nguồn lực tham gia vào xã hội hóa giáo dục hướng nghiệp
Vấn đề ở đây là nếu chúng ta biết huy động tối đa sự vào cuộc của các lực lượng GDHN và có một cơ chế phù hợp thì chắc chắn buổi tổ chức GDHN sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều, ví dụ: Ở chủ đề Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và địa phương của chương trình GDHN khối 12, nếu giáo viên đề xuất với Ban giám đốc mời một đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch phụ trách kinh tế của một xã(thị trấn) điển hình trong huyện đến trao đổi, nói chuyện liên quan đến nội dung phát triển kinh tế xã hội và nhân lực địa phương thì nội dung buổi dạy hướng nghiệp sẽ thêm phần phong phú và sâu sắc hơn, giúp học viên càng hiểu rõ hơn về nghề nghiệp cán bộ, công chức xã.
Theo thống kê cho thấy trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy tuy đã có sự liên hệ với các tổ chức đoàn thể xã hội để đẩy mạnh GDHN trong trung tâm, nhưng việc liên hệ nêu trên chỉ đánh giá ở mức độ TB. Muốn làm tốt GDHN trong trung tâm, rất cần đến sự ủng hộ của các lực lượng xã hội, nhất là lực lượng xung quanh cơ sở trường học. Để làm cho người dân ý thức được mục tiêu của GDHN chính là tiền đề cho việc tạo nguồn nhân lực cho đất nước, nên phải thường xuyên tuyên truyền rộng rãi cho nhân dân bằng các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này cần đến sự hỗ trợ của cán bộ đài truyền thanh thị trấn Thanh Thủy. Nhưng ở đây, việc kết hợp giữa trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy với bộ phận VH-TT của thị trấn Thanh Thủy trong việc phát thanh các chuyên đề về nghề nghiệp còn hạn chế, chỉ được đánh giá ở mức độ trung bình (điểm trung bình chỉ có 2,36 điểm). Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
2.3.2.7. Thực trạng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch và kết quả của giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Từ nhận thức đã dẫn đến thực trạng là công tác tổ chức, chỉ đạo GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã chưa được quan tâm đúng mức, nên việc kiểm tra đánh giá rất hạn chế. Giám đốc giao cho phó giám đốc phụ trách lập thời khóa biểu, lịch tư vấn hướng nghiệp sau đó Ban giám đốc thông báo cho giáo viên, học sinh và các tổ chức liên quan thực hiện. Công tác này gần như khoán trắng cho giáo viên. Quá trình kiểm tra, đánh giá sơ sài, thậm trí có thời điểm còn chiếu lệ. Để tìm hiểu nhận thức của học viên qua GDHN của trung tâm, tác giả đã sử dụng phiếu điều tra về mức độ hiểu biết của học viên về nghề nghiệp cán bộ xã. Số phiếu phát ra 150 phiếu, số phiếu thu về 150 phiếu. Kết quả tổng hợp theo bảng 2.16 sau:
Bảng 2.16. Hiểu biết của học viên về lĩnh vực cán bộ xã
Kết quả điều tra cho thấy học viên tự đánh giá mức độ hiểu biết về những phẩm chất và năng lực cho nghề nghiệp là 1,75; những điều kiện để làm ngành nghề là 1,99 điểm, trình độ đào tạo cần có để làm nghề là 2,02 điểm, tính chất lao động ngành nghề nói trên là 1,27 điểm, điều đó cho thấy mức độ hiểu biết của học viên về ngành nghề này còn thấp; điểm đánh giá mức độ hiểu biết về cơ hội phát triển của nghề là 1,41 điểm; nhu cầu xã hội đối với ngành nghề chọn lựa là 1,59 điểm, chứng tỏ học viên chưa nhận thấy nhu cầu cán bộ cấp xã có trình độ năng lực ở địa phương đang và sẽ là vấn đề cấp bách, quan trọng.
Từ những phân tích trên cho ta thấy thực trạng công tác kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch và kết quả GDHN của trung tâm còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục.
2.4. Đánh giá thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
2.4.1. Một số kết quả đạt được
Từ khi thành lập đến nay, năm nào trung tâm cũng phối hợp tổ chức các buổi tư vấn hướng nghiệp cho học viên, đặc biệt là học viên lớp 12, chuẩn bị ra trường. Từ năm học 2014-2015, trung tâm triển khai dạy học hướng nghiệp 1tiết/tháng về các nghề trong chương trình hướng nghiệp của Bộ GD&ĐT kết hợp trên 5 buổi tư vấn chọn nghề, 3 buổi ngoại khóa hướng nghiệp, chọn trường cho học viên, phần nào đã đóng góp vào việc phân luồng, tạo nguồn nhân lực cán bộ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội các xã (thị trấn) thuộc huyện nhà. Kết quả GDHN qua từng năm học đã dần chuyển biến theo hướng hiệu quả và thiết thực, thể hiện ở một số mặt sau:
- Hình thành những hiểu biết, nhận thức ban đầu về ý nghĩa và tầm quan trọng của GDHN, đặc biệt là GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã trong cán bộ quản lý, giáo viên và học viên.
- Các hoạt động ngoại khóa, giao lưu với các trường ĐH, CĐ, TC và các trung tâm giới thiệu việc làm, … tạo điều kiện cho học viên cọ xát với nghề nghiệp, nắm vững một số kiến thức và kỹ năng cũng như các yêu cầu của nghề.
- Giới thiệu cho học viên những địa chỉ đào tạo ngành nghề liên quan đến cán bộ xã để học viên lựa chọn, giúp học viên cách nhận biết về sự phù hợp giữa điều kiện bản thân, gia đình và nhu cầu việc làm trong xã hội.
2.4.2. Một số tồn tại Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
2.4.2.1. Phân công giáo viên dạy hướng nghiệp
Thực tế trung tâm không có giáo viên chuyên trách, giáo viên tổ chức, giáo viên giảng dạy các nội dung GDHN là kiêm nhiệm dẫn đến phương pháp giảng dạy thiên về kinh nghiệm và phương pháp bộ môn đào tạo, phương pháp chuyên biệt cho GDHN rất yếu. Tình trạng thầy đọc trò chép là phổ biến, hình thức tổ chức còn khô cứng, thiếu hấp dẫn đối với học viên. Qua trao đổi ý kiến với cán bộ quản lý, giáo viên dự các buổi sinh hoạt hướng nghiệp, tổng hợp ý kiến của GVCN, giáo viên bộ môn (21 ý kiến), tác giả nhận thấy:
- Đối với giáo viên chủ nhiệm (GVCN):
Chỉ có 14,29% ý kiến tự nhận thấy giáo viên tích cực nghiên cứu, tìm tư liệu để đảm bảo chất lượng giờ SHHN; có 52,38% ý kiến cho rằng giáo viên đã cố gắng nghiên cứu tài liệu để lên lớp; còn 33,33% ý kiến thừa nhận là ngại, nội dung khó hiểu, dạy theo sách hướng dẫn của giáo viên.
- kiến đánh giá về hiệu quả của giáo dục hướng nghiệp: 85,7% GVCN tự đánh giá hiệu quả GDHN đạt mức trung bình; 14,3% GVCN đánh giá hiệu quả GDHN đạt mức khá.
- kiến của GVCN về sự cần thiết: có 71,4% GVCN cho rằng GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã là rất cần thiết nhưng hiện tại công tác hướng nghiệp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tạo nguồn nhân lực cho địa phương, nội dung và hình thức tổ chức hướng nghiệp cần hấp dẫn, sinh động hơn. Theo nhận xét của GVCN và những người đã trực tiếp giảng dạy GDHN (11) thì người giảng dạy GDHN phù hợp nhất là (theo thứ tự ưu tiên)
- Giáo viên chuyên trách SHHN: 54,5%
- Giáo viên chủ nhiệm: 36,4%
- Giáo viên dạy môn Sinh học, Vật lý, Tin học, Cán bộ Đoàn TN: 9,1%
- Đối với giáo viên bộ môn (GVBM): Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
- Số giáo viên hiểu về công tác hướng nghiệp là hoạt động chính khóa có tính chất như một môn học (6/21) chiếm tỉ lệ: 28,57. Chứng tỏ nhận thức của giáo viên bộ môn về vị trí của hoạt động GDHN còn lệch lạc.
Số giáo viên nhận thức được vai trò quan trọng trong việc hướng nghiệp cho học sinh qua bộ môn của mình 4/21 đạt tỉ lệ 19,05%. Đây là tỉ lệ còn thấp, một phần do đa số giáo viên chưa nhận thức đúng về vai trò của GDHN, bên cạnh đó do giáo viên còn ngại khi phải tìm kiếm tài liệu để tích hợp GDHN vào môn học, phần khác thời lượng tiết học không cho phép giáo viên đi sâu vào các vấn đề liên hệ, mở rộng.
2.4.2.2. Công tác quản lý, kiểm tra
Xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ của cán bộ quản lý, giáo viên về ý nghĩa và tầm quan trọng của GDHN nên trong quá trình quản lý, chất lượng giờ dạy hướng nghiệp bị buông lỏng. Giáo viên lên lớp soạn bài sơ sài, mang tính chất đối phó, lãnh đạo chưa thực sự quan tâm đến các điều kiện để phục vụ tốt cho GDHN. Việc kiểm tra, đánh giá năng lực, tay nghề của giáo viên giáo dục hướng nghiệp chưa nghiêm túc. Bản thân cán bộ quản lý đôi khi còn chưa cập nhật các thông tin về nghề, ảnh hưởng đến việc quản lý, chỉ đạo giáo dục hướng nghiệp.
2.4.2.3.Thiếu thông tin về thị trường lao động
Đa số các cán bộ lãnh đạo, quản lý các trung tâm GDTX chưa chú trọng đến việc cung cấp thông tin về thị trường lao động của địa phương, đất nước, khu vực và thế giới, cũng như xu hướng phát triển kinh tế – xã hội của thế giới cho các giáo viên làm GDHN. Bên cạnh đó, giáo viên dạy hướng nghiệp còn chưa chủ động, tích cực tìm kiếm các thông tin về thị trường lao động ở địa phương, đất nước và thế giới trong bối cảnh công nghệ thông tin ngày nay đang phát triển mạnh.
2.4.2.4. Điều kiện cơ sở vật chất
Nhu cầu cơ sở vật chất thiết bị cho GDHN ngày càng đòi hỏi chất lượng, đầy đủ và hiện đại trong khi nguồn lực của trung tâm có hạn, sự suy giảm của kinh tế thế giới có ảnh hường đến Việt Nam và đương nhiên nguồn lực đầu tư cho giáo dục của chính phủ cũng khó phần tăng cường. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho GDHN ở trung tâm còn rất nhiều khó khăn, đa số các tiết học đều dạy “chay”, thuyết trình, cung cấp thông tin một chiều. Nguồn tài chính còn eo hẹp nên không hỗ trợ thêm được cho giáo viên làm GDHN. Chưa có phòng SHHN đáp ứng được yêu cầu. Thiếu rất nhiều tài liệu tham khảo phục vụ cho GDHN, chẳng hạn như: họa đồ nghề, tranh ảnh, vi deo, phim ảnh giới thiệu về các ngành nghề, bộ trắc nghiệm chẩn đoán tâm lý phục vụ cho giảng dạy, tổ chức giáo dục hướng nghiệp.
2.4.2.5. Nhận thức của cha mẹ học viên và học viên Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Học viên trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ sinh ra và lớn lên trên mảnh đất trung du miền núi, đa số các gia đình có hoàn cảnh kinh tế còn phải trang trải, khó khăn. Trình độ mặt bằng chung các em còn thấp do học viên trung tâm được tuyển vào học theo hình thức xét tuyển, sau khi không đủ điểm đỗ vào các trường THPT trên địa bàn huyện. Do đó về mặt chủ quan và khách quan dẫn đến các em chưa thực sự hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chọn nghề. Đa số các em cho rằng việc lựa chọn nghề nghiệp không quan trọng bằng việc học tốt các môn mà mình định thi. Một số em có tâm lý muốn sau này lập nghiệp ở nơi đô thành, sôi động mà không lường trước được những đòi hỏi khắt khe của mưu sinh việc làm nơi thành phố. Tư duy nhận thức của học viên còn lệch lạc cũng do ảnh hưởng lớn từ sự nhận thức chưa đầy đủ của cha mẹ học viên. Nhiều CMHV cho rằng GDHN là không cần thiết, là mất nhiều thời gian.
2.4.2.6. Phân luồng học viên
Hiện nay công tác phân luồng học viên sau khi học song bậc THPT chưa được cơ sở giáo dục quan tâm đúng mức. Học viên trung tâm trong những năm gần đây có xu hướng đi xuất khẩu lao động hoặc du học nhiều hơn (chiếm tỉ lệ khoảng 17%), nếu đi xuất khẩu lao động thì sau 3 năm hay 5 năm trở về sẽ làm việc gì cho phù hợp? Hầu như cơ sở giáo dục chỉ quan tâm đến tỉ lệ đỗ tốt nghiệp hay vào ĐH, CĐ, TC của đơn vị mình là bao nhiêu? Những em sau khi ra trường không vào học ĐH, CĐ, TC thì trung tâm cũng không nắm bắt được các em sẽ ở đâu và làm công việc gì?
Mặt bằng trình độ cán bộ cấp xã ở huyện Thanh Thủy còn thấp so với tình hình chung. Nhiều học viên sau khi tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ, TC thì ít quay trở về làm cán bộ xã ở địa phương, mặt khác một số em có trình độ khiêm tốn, năng lực chuyên môn và hoạt động xã hội hạn chế muốn làm công tác cán bộ, công chức ở cơ sở thì gặp khó khăn trong việc tuyển dụng cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người cán bộ địa phương.
2.4.2.7. Công tác xã hội hóa giáo dục hướng nghiệp
GDHN là một vấn đề khó khăn và lâu dài cần đến sự chung tay, góp sức của toàn xã hội. Cán bộ quản lý trung tâm nhận thức được rằng nếu phối hợp với các đơn vị, công ty, cơ sở sản xuất để tổ chức hoạt động hướng nghiệp thì sẽ mang lại hiệu quả cao hơn nhiều, nhưng một mặt thiếu kinh phí, mặt khác e ngại mất thời gian, trong khi khối lượng công việc của trung tâm còn nhiều mảng hoạt động cần giải quyết rứt điểm từng ngày. Do chưa chú ý công tác tuyên truyền, giáo dục về ý nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế của GDHN nên các công ty, các đơn vị, các cơ sở sản xuất cũng không nhận thức được tầm quan trọng và trách nhiệm xã hội của mình đối với giáo dục hướng nghiệp. Từ nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến công tác xã hội hóa GDHN còn yếu kém.
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
- Nguyên nhân khách quan: Cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, nhân lực phục vụ GDHN thiếu cả về số lượng và chất lượng, khối lượng công việc của trung tâm với mô hình đa nhiệm vụ cũng rất nhiều.
- Nguyên nhân chủ quan: Cán bộ quản lý trung tâm chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã. Các lực lượng xã hội chưa thực sự quan tâm đến GDHN, biện pháp quản lý, tổ chức GDHN chưa phù hợp với nội dung, yêu cầu của giáo dục hướng nghiệp.
2.5. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý GDHN ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tác giả tiến hành phát phiếu điều tra xin ý kiến của cán bộ quản lý (3), tổ trưởng chuyên môn, giáo viên (21) và học viên trung tâm (116). Tổng số 140 phiếu. Chúng tôi phân tích đánh giá kết quả trên cơ sở số phiếu thu về (140 phiếu). Cụ thể như bảng 2.17 sau:
Bảng 2.17. Kết quả điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã
Nhận xét:
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quản lý GDHN ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tuy nhiên ta có thể phân thành 3 nhóm chính: Nhóm yếu tố ảnh hưởng thuộc về chủ thể quản lý; nhóm yếu tố ảnh hưởng thuộc về đối tượng quản lý; nhóm yếu tố ảnh hưởng thuộc về môi trường quản lý. Tổng có 30 yếu tố thành phần. Qua khảo sát, tác giả nhận thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố rất lớn với điểm trung bình chung () là 2,62 (Min = 1; Max = 3).
- Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau, theo thứ bậc như sau:
- Nhóm các yếu tố ảnh hưởng thuộc về chủ thể quản lý với : 2,74
- Nhóm các yếu tố ảnh hưởng thuộc về đối tượng quản lý với : 2,59
- Nhóm các yếu tố ảnh hưởng thuộc về môi trường quản lý với : 2,52 – Việc phân tích thực trạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố là cơ sở thực tiễn để đề xuất biện pháp quản lý nâng cao chất lượng GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã. Ta có thể dùng biểu đồ để biểu thị mức độ ảnh hưởng của 3 nhóm yếu tố nêu trên như sau:
Biểu đồ 2.3. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với quản lý giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Kết luận chương 2 Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
Qua điều tra thực trạng giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã cho học viên trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ cho ta thấy việc quản lý GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ chưa được quan tâm đúng mức, điều đó thể hiện ở các mặt:
- Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã của giáo viên, học viên, cha mẹ học viên trung tâm chưa đầy đủ, thậm chí một số giáo viên chưa nhận thấy trách nhiệm của bản thân, cho rằng GDHN cho học viên là trách nhiệm của Ban giám đốc, giáo viên chủ nhiệm.
- Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho GDHN còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu triển khai hoạt động.
- Năng lực và nghiệp vụ sư phạm của giáo viên tham gia GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã còn hạn chế. Sự phối hợp hoạt động giữa các lực lượng giáo dục hướng nghiệp chưa chặt chẽ.
- Các hình thức tổ chức giáo dục hướng nghiệp theo hướng tạo nguồn cán bộ xã chưa phong phú và hấp dẫn, công tác xã hội hóa chưa thực sự hiệu quả.
Từ những thực trạng phân luồng học viên và công tác quản lý GDHN ở trung tâm GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, tác giả nhận thấy cần phải đề xuất biện pháp quản lý GDHN nhằm nâng cao hiệu quả GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã ở trung tâm theo yêu cầu đổi mới giáo dục. Các biện pháp quản lý GDHN theo hướng tạo nguồn cán bộ xã sẽ được đề cập đến ở chương 3 sau đây. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở cán bộ xã.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho cán bộ xã

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com