Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non Thị Trấn Lâm Thao, Huyện Lâm Thao, Tỉnh Phú Thọ dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế, xã hội và giáo dục huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Vị trí địa lý, dân số, lao động của huyện Lâm Thao
Lâm Thao là huyện nông thôn đồng bằng thuộc tỉnh Phú Thọ, huyện Lâm Thao được tái lập (từ huyện Phong Châu) theo Nghị định 59/1999/NĐ-CP ngày 24/7/1999 của Chính Phủ.
Huyện Lâm Thao có tọa độ địa lý trong khoảng 21015’ – 21024’ độ vĩ Bắc và 105014’ – 105021’ độ kinh Đông, có diện tích tự nhiên 12.534 ha. Vị trí địa lý tiếp giáp như sau: Phía Đông giáp thành phố Việt Trì. Phía Tây giáp thị xã Phú Thọ và huyện Tam Nông. Phía Nam giáp huyện Tam Nông và huyện Ba Vì (Hà Nội). Phía Bắc giáp huyện Phù Ninh và thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.
Huyện Lâm Thao có 12 đơn vị hành chính gồm 10 xã và 02 thị trấn (Thị trấn Lâm Thao và Thị trấn Hùng Sơn), trong đó có 3 xã, thị trấn là miền núi (Thị trấn Hùng Sơn, xã Tiên Kiên, xã Xuân Lũng) và 09 xã, thị trấn là đồng bằng (Cao Xá, Sơn Vi, Vĩnh Lại, Bản Nguyên, Phùng Nguyên, Tứ Xã, Thị trấn Lâm Thao, Thạch Sơn, Xuân Huy). Trung tâm huyện là Thị trấn Lâm Thao cách thành phố Việt Trì 12 km về phía Tây. Trên địa bàn huyện Lâm Thao có 5 tuyến giao thông đó là: Tỉnh lộ 320, 324, 324B, 324C, 325B có tổng chiều dài 52,5 km và 5 tuyến huyện lộ dài 18,50km, tuyến đường thủy trên sông Hồng chảy dọc phía Tây trên địa bàn huyện dài 28 km từ xã Xuân Huy đến xã Cao Xá. Các tuyến giao thông chính trong huyện là: Quốc lộ 32C với chiều dài 14 km nối thông giữa Quốc lộ 2 với Quốc lộ 32A.
Ngoài ra, huyện Lâm Thao có vị trí địa lý địa hình tương đối bằng phẳng, hệ thống giao thông khá thuận lợi. Lâm Thao là cửa ngõ giữa miền núi và vùng đồng bằng, đồng thời Lâm Thao còn là cửa ngõ quan trọng giữa thành phố Việt Trì với các tỉnh phía Bắc. Chính vì vây, Lâm Thao có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, phát triển GD&ĐT, khoa học công nghệ. Thuận lợi giao lưu văn hoá, tiêu thụ hàng hóa giữa các địa phương trong và ngoài huyện. Đặc biệt, huyện Lâm Thao đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phân bố đất đai cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ đô thị và hấp dẫn các dự án đầu tư của các doanh nghiệp, tạo cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong toàn huyện.
Huyện Lâm Thao có truyền thống văn hóa lâu đời gắn liền với văn hóa Đông Sơn, Đồng Đậu, Gò Mun tại xã Tứ Xã và xã Sơn Vi ngày nay. Người Lâm Thao có truyền thống hiếu học và cần cù lao động. Lâm Thao có diện tích tự nhiên 12.534 ha và 123.058 nhân khẩu, gồm 12 đơn vị hành chính. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của huyện đạt 70% tăng 18% so với năm 2017; số lao động được đào tạo nghề đạt 7.600 lao động, trung bình tạo việc làm mới cho 2.300 lao động/năm; xuất khẩu lao động đạt trên 1.500 người. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công chức từ huyện đến cơ sở từng bước nâng lên với trên 13% có trình độ sau đại học; gần 98% cán bộ công chức cấp xã đạt chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, huyện Lâm Thao gắn đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với phát triển kinh tế – xã hội, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ lệ lao động trong các ngành CN-TTCN – xây dựng. Đến nay, tỷ lệ lao động các ngành CN-TTCN đạt 42%, dịch vụ 28%, giảm tỷ lệ lao động các ngành nông – lâm nghiệp còn 30%.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế – xã hội huyện Lâm Thao
- Tình hình phát triển kinh tế
Giai đoạn 2015 – 2020, sản xuất CN-TTCN là lĩnh vực chủ đạo với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,62%; chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần được đẩy mạnh với hoạt động khuyến công và phát triển ngành khu vực nông thôn.
Năm 2019, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song dưới sự điều hành sâu sát, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân, tình hình kinh tế – xã hội huyện tiếp tục phát triển ổn định; 17/17 chỉ tiêu thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra; giá trị tăng thêm trên địa bàn đạt 2665 tỷ, đạt 100,2% so với kế hoạch; giá trị tăng thêm bình quân đầu người đạt 41 triệu đồng, tăng 5,2 triệu đồng so với năm 2016.
Huyện đã rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động các cụm công nghiệp, làng nghề, lấy đó làm cơ sở để điều chỉnh bổ sung đất đai, phát triển ngành hàng và sản phẩm mũi nhọn. Từ đó nâng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường. Đối với làng nghề thủ công mỹ nghệ Sơn Vi, cụm CN-TTCN Hợp Hải – Kinh Kệ, Lâm Thao. Tập trung thu hút nguồn lực xây dựng hạ tầng, đồng thời tạo điều kiện để phát triển các doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở sản xuất CN-TTCN. Giá trị sản xuất ngành CN-TTCN và xây dựng tăng bình quân 21,8%; cơ cấu ngành chiếm tỷ trọng cao, đạt gần 56%. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Đến nay,cụm công nghiệp, làng nghề huyện đã thu hút được 21 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 245 tỷ đồng, tăng 16 dự án so với năm 2010. Trong đó, cụm công nghiệp Hợp Hải – Kinh Kệ đã thu hút mới 6 dự án với tổng vốn đăng ký 247 tỷ đồng; khu làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Sơn Vi thu hút mới 6 dự án với tổng vốn gần 25 tỷ đồng.
Huyện đã ban hành Nghị quyết “Phát triển sản xuất nông nghiệp cận đô thị, tăng giá trị và hiệu quả trên đơn vị diện tích, giai đoạn 2011-2015”; tiến hành dồn đổi ruộng đất đồng thời hình thành các vùng sản xuất tập trung và đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi như cánh đồng mẫu lớn ở Vĩnh Lại, Cao Xá; sản xuất rau an toàn ở Tứ Xã; nuôi trồng thuỷ sản tại cụm xã Vĩnh Lại, Cao Xá, Tứ Xã. Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển gắn với công nghiệp chế biến đã tăng hiệu quả sử dụng đất. Đến nay, bình quân giá trị trên đơn vị diện tích đạt 110 triệu đồng/ha; tăng trên 46 triệu đồng so với năm 2010.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của huyện Lâm Thao trong những năm gần đây bình quân đạt 6,2%. Tổng vốn đầu tư xã hội đạt gần 9.600 tỉ đồng; Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 167 tỉ đồng, tăng bình quân 9%/năm. Tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 1,45%.
- Tình hình văn hóa xã hội
Lâm Thao là huyện nông thôn mới đầu tiên ở khu vực miền núi phía Bắc. 12/12 xã, Thị trấn được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội tiếp tục được quan tâm, phát triển, đời sống văn hóa tinh thần những năm qua không ngừng được nâng lên. Hiện nay, 49/49 trường mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở đều đạt chuẩn Quốc gia, trong đó có 19 trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2.
Tỷ lệ dân số tham gia BHYT 88%; tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1,45%. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được tăng cường; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, cơ sở Đảng tiếp tục được nâng lên. Công tác xây dựng đảng được thống nhất, chỉ đạo chặt chẽ đến từng cơ sở nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm, 100% xã, thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế giai đoạn 2011-2020, tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt trên 90%. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được duy trì, tỷ lệ khu dân cư, gia đình văn hoá tăng hàng năm; hầu hết các khu dân cư đều xây dựng được các đội văn nghệ, câu lạc bộ thể thao với hơn 57% dân số luyện tập TDTT thường xuyên.
2.1.3. Khái quát giáo dục mầm non huyện Lâm Thao Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.1.3.1. Quy mô mạng lưới trường lớp mầm non
Huyện Lâm Thao có 18 trường MN công lập và 01 trường MN dân lập thuộc Công ty Suppe Lân và hóa chất Lâm Thao. Tổng số trẻ MN là 6103. Trong đó 19/19 trường đều là trường MN hạng 1; 19/19 trường đều là trường MN đạt Chuẩn Quốc gia, trong đó có 10 trường đạt Chuẩn Quốc gia mức độ 2. Theo báo cáo tổng kết năm học 2018-2019. Tỷ lệ trẻ nhà trẻ ra lớp đạt 25,6%. Tỷ lệ trẻ mẫu giáo ra lớp đạt 98,6%. Lâm Thao là huyện đứng đầu tỉnh Phú Thọ về xây dựng các trường MN đạt Chuẩn quốc gia. Quy mô trường, lớp MN tiếp tục được mở rộng đã đáp ứng được nhu cầu cho trẻ đến trường của phụ huynh học sinh trên địa bàn và xu thế phát triển của xã hội.
Số lượng trẻ MN huyện Lâm Thao có sự biến động trong các năm học, tỉ lệ trẻ ra lớp năm học sau luôn cao hơn năm học trước. Sự biến động về số lượng đó một phần là do tốc độ phát triển của dân số tự nhiên. Mặt khác, quy mô trường, lớp và cơ sở vật chất các nhà trường của huyện Lâm Thao phát triển, 100% các trường đều đạt Chuẩn Quốc gia giúp phụ huynh yên tâm cho con đến trường.
Từ năm 2014 trở về trước, huyện Lâm Thao mới có 17 trường MN đạt Chuẩn Quốc gia, còn 02 trường non chưa đạt Chuẩn Quốc gia. Đến năm 2015, UBND huyện Lâm Thao đã đầu tư xây dựng và cải tạo để 19/19 trường đều đạt
Chuẩn Quốc gia theo quy định. Từ năm 2015 đến năm 2020, số trường MN đạt Chuẩn Quốc gia mức độ 2 đã tăng lên đáng kể, đã có 10/19=52,6% trường MN đạt Chuẩn Quốc gia mức độ 2 làm thay đổi hẳn cơ sở vật chất, diện mạo trường lớp và chất lượng giáo dục.
Cơ sở vật chất các trường MN đều được đầu tư theo hướng hiện đại, chuẩn Quốc gia đáp ứng tốt nhu cầu cho con đến trường của phụ huynh học sinh. 19/19 trường MN trong huyện đều được xây dựng kiên cố từ năm 2015, có đủ các phòng học và phòng chức năng theo quy định của trường MN đạt Chuẩn Quốc gia. Tuy nhiên, một số trường còn có điểm lẻ cách xa khu trường chính từ 1 đến 3 km như: Tiên Kiên, Sơn Vi, Cao Xá nên công tác quản lý và phân bổ cơ sở vật chất nhà trường còn gặp khó khăn. Trường MN Thạch Sơn và trường MN Bản Nguyên còn 01 phòng học bán kiên cố.
2.1.3.2. Đội ngũ CBQL và giáo viên mầm non huyện Lâm Thao
Tổng số CBQL, GV, NV: 712 người, trong đó CBQL 55 người, GV 512 người. (GV được biên chế Nhà nước 286 người; GV hợp đồng 226 người); Nhân viên 146 người. Giáo viên mẫu giáo là 423 người/201 lớp đạt 2,1 GV/lớp; GV nhà trẻ là 88 người/35 nhóm đạt 2,5 GV/nhóm trẻ. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Về trình độ đào tạo: Có 55/55 CBQL có trình độ đào tạo trên chuẩn, trong đó trình độ Đại học 53/55 đạt 96,4%. 100% GVMN có trình độ đào tạo đạt chuẩn theo quy định, trong đó trình độ trên chuẩn là 475/512 đạt 92,8%.
Với cơ sở vật chất và quy mô trường, lớp như hiện tại đáp ứng rất tốt công tác giáo dục trong các nhà trường. Tuy nhiên, hiện nay huyện Lâm Thao đang có số lượng giáo viên hợp đồng nhiều chiếm 44,1% (226/512), mức lương được chi trả theo mức lương cơ bản x 1,86. Do đó, GV hợp đồng mức lương thấp khó đảm bảo nhu cầu cuộc sống, có thể sẽ nghỉ việc tại các nhà trường. Mặt khác, số GV được biên chế Nhà nước hàng năm đến tuổi nghỉ hưu sẽ nghỉ. Như vậy, huyện Lâm Thao đang có nguy cơ thiếu GVMN trong tương lai.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ, trong những năm gần đây, huyện Lâm Thao luôn Chú trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho CBQL, GVMN trong các nhà trường. Đi sâu về bồi dưỡng về đổi mới các hoạt động GD như: đổi mới các hoạt động GD theo nội dung chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”; đổi mới tổ chức các hoạt động GD theo quan điểm GD “Lấy trẻ làm trung tâm”; đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng thực hiện chương GDMN. Phòng GD&ĐT huyện luôn khuyên khích các nhà trường thực hiện tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên.
Các CBQL được cử đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, được tham gia các lớp bồi dưỡng thực hiện chuyên đề nhằm nâng cao hơn nữa nghiệp vụ quản lý trường học.
2.1.3.3. Đẩy mạnh đổi mới hoạt động giáo dục; nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục mầm non
Huyện Lâm Thao có 100% các nhà trường đều thực hiện chương trình GDMN theo quy định của Bộ GD&ĐT. 100% các lớp mẫu giáo 5 tuổi thực hiện nghiêm túc Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi của Bộ GD&ĐT. Phòng GD&ĐT chỉ đạo, hướng dẫn các trường phát triển Chương trình giáo dục nhà trường phù hợp với văn hóa, điều kiện địa phương, nhà trường, khả năng và nhu cầu của trẻ. Đẩy mạnh thực hiện phương châm giáo dục “chơi mà học, học bằng chơi”.
Tiếp tục thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016 – 2020 tại 100% nhóm, lớp trong các trường MN.
Các nhà trường đều thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 2325/CT-BGDĐT ngày 28/6/2013 của Bộ GD&ĐT về việc chấn chỉnh tình trạng dạy học trước chương trình lớp 1. Tuyệt đối không tổ chức hướng dẫn trẻ tập tô, viết chữ.
Các nhà trường đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ. Các nhà trường đều có hòm thư điện tử, có thể tổ chức họp giao ban trực tuyến khi cần.
2.2. Sơ lược về trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.2.1. Quy mô trường lớp mầm non
Trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ được thành lập năm 1983, với 37 năm xây dựng và phát triển. Năm 2015, trường được công nhận đạt Chuẩn Quốc gia mức độ 2, đạt kiểm định chất lượng GD cấp độ 3. Trường MN Thị Trấn Lâm Thao là trường hạng 1, thuộc vùng nông thôn đồng bằng. Theo báo cáo năm học 2019-2020, trường có diện tích đất là 4.984m2, với tổng số trẻ là 375 cháu, bình quân đạt 13,3m2/trẻ. Tổng số nhóm lớp là: 14, trong đó: 5 tuổi 108 cháu/04 lớp; 4 tuổi 119 cháu/04 lớp; 3 tuổi 98 cháu/04 lớp; nhóm trẻ 50 cháu/02 nhóm.
Hàng năm, Trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao duy trì tốt số nhóm, lớp; phân chia trẻ theo đúng độ tuổi, làn tuổi. Phòng GD&ĐT Lâm Thao và UBND Thị trấn Lâm Thao luôn chỉ đạo nhà trường phân luồng tuyển sinh trẻ trong độ tuổi đến trường và chỉ đạo nhà trường xây dựng kế hoạch năm học phù hợp. Do đó, nhà trường không có số nhóm, lớp vượt quá quy định cũng không có nhóm, lớp nào có số lượng trẻ vượt quá quy định.
Với quy mô trường, lớp như trên nhà trường có số nhóm, lớp, số lượng trẻ/nhóm, lớp phù hợp theo Điều Lệ trường Mầm non, đây là một điều kiện thuận lợi để nhà trường nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, thực hiện tốt công tác Phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi và nâng cao chất lượng Trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2.
2.2.2. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên của trường, giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 tuổi
2.2.2.1. Về số lượng Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Tổng số CB, GV, NV: 41 người, trong đó CBQL 03 người, GV 30 người, nhân viên 09 người. (Biên chế Nhà 03 CBQL, 22 GV, 01 nhân viên kế toán; GV hợp đồng 08 người, nhân viên hợp đồng 08 người); Giáo viên mẫu giáo là 25 người/12 lớp đạt 2,08 GV/lớp; GV nhà trẻ là 05 người/2 nhóm đạt 2,5 GV/nhóm trẻ. Về trình độ đào tạo: Có 3/3 CBQL có trình độ đào tạo Đại học. 100% GVMN có trình độ đào tạo đạt chuẩn theo quy định, trong đó trình độ trên chuẩn là 27/30 đạt 90%.
Với quan điểm: đội ngũ CB, GV, NV quyết định rất lớn đến chất lượng GD. Vì vậy, nhà trường luôn duy trì tốt số lượng đội ngũ. Hàng năm, nhà trường tập chung bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ kịp thời và khuyến khích CB, GV, NV tham gia bồi dưỡng thường xuyên, tích cực tự học, tự bồi dưỡng để đáp ứng tốt sự đòi hỏi về chất lượng đội ngũ trong tình hình mới.
Từ bảng số liệu các bảng thống kê trên cho thấy: Trường MN Thị Trấn Lâm Thao hàng năm duy trì tốt số lượng CBQL và GV tỉ lệ biến động do GV nghỉ hưu ít, trường không có GV phải luân chuyển công tác, đây cũng là một thuận lợi để nhà trường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho CB, GV, NV.
Số lượng trẻ, số nhóm, lớp hàng năm của trường biến động không nhiều. Chỉ có trẻ mẫu giáo 5 tuổi năm 2018 là 152 cháu tăng so với năm trước 49 cháu nên số lớp từ 3 lớp tăng thành 5 lớp. Lý do tăng: là do tăng dân số tự nhiên của trẻ sinh năm 2013. Tổng số nhóm, lớp hàng năm vẫn giữ nguyên, số lượng trẻ toàn trường trong 3 năm học chỉ giao động trong khoảng 15 đến 28 trẻ. Do đó, tỉ lệ định mức trẻ/giáo viên từ 13,8 đến 14,8 là mức khá phù hợp với một trường MN tại địa bàn Thị trấn.
2.2.2.2. Chất lượng đội ngũ
Từ năm 2011 đến năm 2020, nhà trường có gần 26 CB, GV, NV được biên chế Nhà nước, đây cũng là động lực, là điều kiện để đội ngũ đi học nâng cao trình độ và chuyên môn nghiệp vụ. Độ tuổi của đội ngũ GV nhà trường trẻ, do đó tỉ lệ GV nghỉ hưu hàng năm ít. Từ năm 2011 đến nay mới có 03 GV nghỉ hưu. Do GV có độ tuổi trẻ nên có nhiều ưu thế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và tự học, tự bồi dưỡng; GV nắm bắt những thay đổi những điểm mới của ngành nhanh và có nhiều sáng tạo trong công việc. 100% CBQL, GV có trình độ tin học cơ bản, 10/30 GV được bồi dưỡng tin học nâng cao.
Trường có nhiều GV dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Tỉ lệ GV dạy giỏi cấp trường hàng năm đạt trên 85%. Chất lượng đội ngũ tốt cũng là một thế mạnh để nhà trường quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên, trong công việc thì sự kiên trì, nhẫn lại và kinh nghiệm chăm sóc trẻ của một số GV trẻ không bằng những GV đã làm việc lâu năm.Qua bảng số liệu trên cho thấy: CBQL và GV có trình độ trên chuẩn đào tạo cao (GV trình độ trên chuẩn là 90%), không có GV chưa đạt chuẩn. Với trình độ đào tạo như trên, nhà trường có thế mạnh khi đội ngũ CBQL và GV có trình độ đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới của GD&ĐT. Với việc áp dụng quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm trường sẽ có nhiều thuận lợi để triển khai thực hiện.
2.3. Tổ chức nghiên cứu thực trạng Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.3.1. Mục đích khảo sát thực trạng
Nhằm đánh giá một cách trung thực, khách quan thực trạng hoạt động giáo dục và quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao.
2.3.2. Nội dung khảo sát
Nhận thức của CBQL, GV và PHHS về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm.
Thực trạng và mức độ thực hiện các hoạt động GD, hình thức tổ chức GD, phương pháp GD và môi trường GD trẻ. Từ đó, đánh giá thực trạng chất lượng GD trẻ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động GD trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
2.3.3. Hình thức khảo sát
Khảo sát, quan sát, phỏng vấn trực tiếp; khảo sát bằng phiếu hỏi, trực tiếp đến lớp có đối tượng khảo sát. Tác giả xây dựng 01 mẫu phiếu khảo sát dành cho đối tượng là CBQL, xây dựng 01 mẫu phiếu khảo sát dành cho đối tượng là GVMN và 01 mẫu phiếu khảo sát dành cho PHHS. Sau đó, thu thấp các phiếu hỏi và xử lý kết quả.
2.3.4. Đối tượng khảo sát; Mẫu khảo sát
Để có cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GD của trường MN Thị Trấn Lâm Thao, tác giả đã khảo sát, lấy ý kiến của 6 CBQL (6/6 CBQL đạt 100%) 60 GV (60/61 GV đạt 98,4%) và 56 phụ huynh (mỗi trường 28 phụ huynh/14 nhóm, lớp) của 2 trường MN huyện Lâm Thao, thỉnh Phú Thọ:
Trường MN Sơn Vy 2 và trường MN Thị Trấn Lâm Thao. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.4. Thực trạng hoạt động GD ở trường MN Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm
2.4.1. Nhận thức của CBQL, giáo viên và cha mẹ học sinh về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục trong trường mầm non
Giáo dục MN có tầm quan trọng là đặt nền móng đầu tiên cho việc giáo dục lâu dài, nhằm hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mong ước và hi vọng của mỗi gia đình và toàn xã hội về thế hệ tương lai của đất nước đều trông chờ vào sự phát triển hằng ngày ngay từ lứa tuổi MN.
Để đánh giá về nhận thức của CBQL, GV và PHHS về hoạt động GD đối với sự phát triển của các cá nhân. Chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi đối với 122 đối tượng gồm: 6 CBQL, 60 GV và 56 PHHS đang có con theo học tại 2 trường, kết quả thu được như sau:
Nhận xét: Kết quả khảo sát (tại biểu đồ 2.5) cho thấy đối tượng được khảo sát phần lớn có nhận thức đúng vai trò của GDMN đối với sự phát triển của trẻ (89/122 chiếm 73%). Bên cạnh đó, vẫn còn một số đối tượng tham gia khảo sát chưa nhận thức đúng vai trò của GDMN (23/122 chiếm 19%), còn lại là (10/122 chiếm 8%) không có ý kiến gì.
Thực trạng trên cho thấy đội ngũ CBQL, GVMN và PHHS có hạn chế nhất định về nhận thức khi đánh giá về vai trò, vị trí của hoạt động GDMN đối với sự phát triển của cá nhân trẻ. Đặc biệt là trong số những người có hạn chế về nhận thức thì có cả CBQL và GVMN là những người đang trực tiếp quản lý và tổ chức các hoạt động GD cho trẻ hàng ngày. Điều đó đã dẫn tới việc quản lý và tổ chức các hoạt động GD trong nhà trường có những hạn chế trong quá trình thực hiện và dẫn tới kết quả GD chưa cao như mong muốn.
Khảo sát các ý kiến đánh giá của đối tượng tham gia thực hiện chương trình GDMN, phát triển chương trình GDMN hiện nay thì phần lớn các đối tượng được khảo sát đều đã đánh giá đúng về đặc điểm chương trình GDMN của Bộ GD&ĐT mà hiện nay đang được thực hiện tại các nhà trường (Chương trình GDMN được ban hành theo Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT và được sửa đổi, bổ sung một số nội dung theo Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT):
Có 82,8% trong số các đối tượng tham gia khảo sát đã hiểu được rằng: Chương trình GDMN hiện nay có những nội dung phong phú, phù hợp với độ tuổi trẻ MN và là một chương trình mang tính mở.
Có 80% ý kiến hiểu rõ nhà trường và GV có thể phát triển chương trình cho phù hợp với văn hóa, điều kiện của địa phương, nhà trường và khả năng, nhu cầu của trẻ. Có 72% các đối tượng tham gia khảo sát cho rằng tổ chức thực hiện chương trình GDMN theo hướng tích hợp thông qua các hoạt động đa dạng, thích hợp với trẻ.
Có 71,3% ý kiến cho rằng chương trình GDMN phát hiện và tạo điều kiện phát triển năng khiếu của trẻ. Có 89,3% ý kiến đồng ý nhà trường, gia đình và cộng đồng cùng phối hợp chặt chẽ để chăm sóc GD trẻ tốt nhất.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số CBQL, GV và PHHS có nhận thức, hiểu biết chưa sâu về Chương trình GDMN và quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm, thể hiện trong bảng sau: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Qua kết quả từ bảng 2.7 cho thấy: Có đến 22,1% CBQL, GV và PHHS cho rằng:“Tổ chức thực hiện theo hướng tích hợp thông qua các hoạt động đa dạng, thích hợp với trẻ” là không đúng; có 21,3% không đồng ý Chương trình GDMN “Phát hiện và tạo điều kiện phát triển năng khiếu của trẻ”; có 14,6% không đồng ý “Nhà trường và GV có thể phát triển chương trình GDMN”; có 9,8% không đồng ý chương trình GDMN “Thể hiện mục tiêu, cụ thể hóa về nội dung, phương pháp GDMN, yêu cầu về đánh giá sự phát triển của trẻ”; và 8,2% không đồng ý chương trình GDMN “Nhà trường, gia đình và cộng đồng cùng phối hợp chặt chẽ để chăm sóc GD trẻ tốt nhất”.
Thực tế có tình trạng như trên là do một số CBQL, GV và PHHS chưa được tiếp cận, chưa được tham gia, chưa được bồi dưỡng, chia sẻ kinh nghiệm đầy đủ về chương trình GDMN hiện nay. Đặc biệt là nhiều PHHS không biết chương trình GDMN hiện nay các trường MN đang thực hiện là chương trình được Bộ GD&ĐT ban hành mới nhất năm 2016, chứ không phải chương trình cải cách và chương trình đổi mới hình thức ngày xưa như thời cha mẹ của trẻ khi còn nhỏ được học. Có PHHS đi làm công nhân, đi công tác hoặc làm ăn xa chưa thực sự quan tâm đến chương trình học của con và chỉ nghĩ con đến trường MN để các cô giáo trông nom thôi chứ chưa phải là đi học để phát triển toàn diện các lĩnh vực. Một số CBQL, GV cũng không được tham gia nhiều và việc phát triển chương trình GDMN, do tại một số trường việc phát triển chương trình GDMN giao trực tiếp cho Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của trường và các GV cốt cán của trường xây dựng, sau đó GV các lớp trong độ tuổi cùng vận dụng. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội cũng chưa thật sự được chú trọng nên một số PHHS được tham gia phối hợp hay không cũng không quan tâm.
Tuy rằng nhận thức của một số CBQL, GV và PHHS chưa đúng chỉ từ 8,2 đến 22,1% nhưng nếu để tình trạng này kéo dài thì chất lượng GD trong nhà trường sẽ bị ảnh hưởng không tốt. Với xu thế phát triển như ngày nay, nếu mỗi người CBQL và GV không đổi mới tư duy, chậm thay đổi thì không đáp ứng được nhu cầu của xã hội; không biết xã hội hóa GD, không phối hợp chặt chẽ với PHHS và cộng đồng thì nhà trường sẽ không thể phát triển toàn diện, điều đó cũng có nghĩa là: trẻ không được GD trong một môi trường tốt nhất, không được cả cha mẹ, xã hội và cô giáo cùng quan tâm, chăm sóc.
2.4.2. Các hoạt động giáo dục của giáo viên Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Để tìm hiểu thực trạng tổ chức hoạt động GD trẻ mầm non của GV tôi đã đưa ra 10 nội dung trong phiếu điều tra và thực hiện khảo sát đối với 02 đối tượng là CBQL và GV ở 02 trường MN của huyện Lâm Thao. Kết quả cụ thể như sau:
Với kết quả qua bảng trên cho thấy: CBQL và GV tại 02 trường MN tại huyện Lâm Thao thực hiện công tác tổ chức hoạt động GD trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi của GV có sự thống nhất. Các hoạt động được tổ chức đầy đủ theo đúng quy định về chế độ sinh hoạt của trẻ hàng ngày và các hoạt động GD trong năm học. Tuy nhiên nội dung 9 và 10 cần được các nhà trường quan tâm và tổ chức thực hiện đầy đủ và phù hợp theo điều kiện thực tế.
2.4.3. Các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi của giáo viên
Theo số liệu thống kê các hình thức tổ chức hoạt động GD từ bảng 2.9 cho thấy: CBQL và GV đều đánh giá về hình thức tổ chức các hoạt động GD rất phong phú, đa dạng; có cả tổ chức trong lớp, ngoài trời; có cả tổ chức ở các phòng chức năng, ở sân chơi, vườn trường và cả trong và ngoài khuôn viên vv.
Tuy nhiên, theo ý kiến đánh giá, việc tổ chức hoạt động GD chưa được thực hiện đồng đều, chỉ tập trung vào một số hình thức như hoạt động trong lớp (hoạt động học, hoạt động góc vv), GV ít chú ý đến hình thức cho trẻ trải nghiệm, thực hành ngoài trời hoặc giao lưu ngoại khóa, dã ngoại thăm quan ngoài khuôn viên. Cụ thể:
- Giáo viên “Tổ chức hoạt động có chủ định của GV và theo ý thích của trẻ trong phòng học” được đánh giá loại tốt là 71,2%, loại khá là 28,8%.
- Giáo viên đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động khác nhau để thu hút trẻ nhưng GV lại chưa trú trọng đến tổ chức hoạt động cho cá nhân trẻ. Vì thế “Tổ chức hoạt động độc lập theo cá nhân trẻ” được đánh giá mức độ thực hiện còn thấp; mức tốt mới đạt 16,7%, mức trung bình đạt 62,1%. “Tổ chức thăm quan, dã ngoại, trải nghiệm ngoài khuôn viên trường” cũng chưa được quan tâm, mức tốt mới đạt 13,6%, mức khá đạt 16,7%, mức trung bình là 69,7%.
Qua thực tế đã khẳng định: còn một số hình thức tổ chức hoạt động GD của GV chưa thực sự phù hợp, chưa có sức lan tỏa, phối kết hợp; chưa có sự đan sen phối hợp giữa kiến thức trẻ tiếp thu qua sự truyền đạt của cô (lý thuyết, sách vở) với thực tiễn cuộc sống bằng chính khóa và ngoại khóa, tham quan, trải nghiệm và các hoạt động thể chất – nghệ thuật vv. Do vậy, trẻ chưa tham gia tích cực vào các hoạt động do cô tổ chức; các hình thức tổ chức của cô chưa thật sự hấp dẫn và thu hút trẻ, chưa lấy trẻ làm trung tâm. Vì thế, trẻ chưa được khuyến khích và tạo nhiều cơ hội để hoạt động và phát triển.
2.4.4. Các phương pháp giáo dục trẻ của giáo viên Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Phương pháp GD có vai trò vô cùng quan trọng trong tổ chức các hoạt động GD trẻ MN. Phương pháp GD còn là công cụ dùng để tổ chức hoạt động GD, tạo ra những hứng thú, nhận thức của trẻ và được quyết định bởi mục đích và nội dung giáo dục.
Với bảng 2.10 cho thấy: CBQL, GV tại 2 trường MN huyện Lâm Thao luôn trú trọng áp dung các phương pháp GD nhằm đạt hiệu quả GD cao nhất. Tuy vậy, vẫn còn một số phương pháp GV áp dụng vào thực tế chưa tốt như: “Phương pháp làm các thí nghiệm đơn giản” có tới 69,7% GV ít khi cho trẻ làm thí nghiệm để giúp trẻ tự mình phát hiện ra các thuộc tính của sự vật, hiện tượng, các thuộc tính bên trong mà không thể nhận thức bằng cảm giác được. Với “phương pháp nêu gương – đánh giá (khen, chê đúng lúc, đúng chỗ)”có 31,8% GV ít khi dùng biện pháp nêu gương để khuyến khích và ủng hộ trẻ hoạt động nhằm tạo cho trẻ niềm vui, niềm tin, cổ vũ sự cố gắng của trẻ trong quá trình hoạt động. Vẫn còn 34,8% GV chưa thực hiện tốt “phương pháp nêu tình huống có vấn đề” để giúp trẻ tư duy và phát triển nhận thức. Còn 19% GV dùng “phương pháp giáo dục bằng tình cảm khích lệ khuyến khích, động viên, biểu dương và ủng hộ trẻ, cổ vũ sự cố gắng của trẻ” chưa tốt.
Phương pháp nêu gương – đánh giá; phương pháp giáo dục bằng tình cảm khích lệ khuyến khích, động viên, biểu dương và ủng hộ trẻ, cổ vũ sự cố gắng của trẻ là những phương pháp quan trọng trong GD trẻ MN. Nếu sử dụng phương pháp này không phù hợp sẽ không động viên, khuyến khích trẻ phát triển tốt mà còn có thể khiến trẻ có những suy nghĩ sai lệch hoặc làm tổn thương trẻ về mặt tâm lý.
Qua trò chuyện và khảo sát với CBQL, GV tôi nhận thấy rằng: Các trường MN huyện Lâm Thao đều thường xuyên sử dụng các phương pháp GD trẻ. Trong đó phương pháp dùng lời (đàm thoại, trò chuyện, giới thiệu); phương pháp dạy học trực quan – minh họa; phương pháp luyện tập – thực hành được đánh giá là sử dụng tốt và phù hợp với đặc điểm phát triển tâm lý, sinh lý của trẻ mẫu giáo. Các phương pháp còn lại cũng được đánh giá khá tốt. Tuy vây, vẫn còn một số phương pháp được đánh giá chưa cao. Do đó, chưa phát huy được hết khả năng, sự sáng tạo, tính tích cực, chưa phát huy được hết phương pháp lấy trẻ làm trung tâm để đạt kết quả GD cao nhất. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.4.5. Môi trường giáo dục trẻ trong trường MN
Để hoạt động GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm đạt hiệu quả cao rất cần một môi trường GD đầy đủ và an toàn. Môi trường giáo dục trẻ trong trường MN bao gồm cả môi trường vật chất và môi trường xã hội; môi trường bên trong và môi trường bên ngoài lớp học để hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu, kích thích hứng thú chơi của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ chơi mà học, học bằng chơi. Môi trường giáo dục trẻ tại một số trường MN huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ được CBQL và GV đánh giá như sau:
Từ bảng 2.11 có thể nhận thấy: cơ sở vật chất tại 02 trường MN huyện Lâm Thao khá tốt, phù hợp với thực tế trường MN đạt chuẩn quốc gia. Các trường đều có đủ khối phòng phục vụ học tập, phòng sinh hoạt chung và các phòng chức năng. Đã xây dựng các góc chơi trong lớp và các khu vực vui chơi ngoài trời. GV đã biết tạo bầu không khí vui vẻ, tích cực, kích thích hứng thú hoạt động của trẻ. Tuy nhiên, tại một số trường diện tích sân chơi còn thiếu, sân chơi chật hẹp, việc quy hoạch, thiết kế tạo các góc/các khu vực hoạt động ngoài trời cho trẻ còn chưa phù hợp, chưa sạch đẹp và chưa tạo được nhiều cơ hội cho trẻ phát triển. Do vậy, CBQL và GV cho ý kiến đồng ý mức tốt là 25,8%, mức khá là 45,4, trung bình là 28,8%. Trường MN Sơn Vy 2 còn có điểm trường lẻ, Đồ dùng, đồ chơi và các nguyên vật liệu cho trẻ hoạt động không được đa dạng, phong phú như điểm trường chính nên phần nào chưa hấp dẫn trẻ, chưa kích thích được sự phát triển của trẻ, mức trung bình được đánh giá chiếm 33,3%. Bên cạnh đó, một bộ phận GV bố trí các góc hoạt động cho trẻ còn chưa thuận tiện, hợp lý, chưa đáp ứng tốt nhu cầu hứng thú hoạt động vui chơi của trẻ. Nội dung này mức trung bình là 31,8%. Việc chuẩn bị và tổ chức sử dụng môi trường GD hợp lý, tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện cũng được CBQL và GV đánh giá mức khá là 6,4%, mức trung bình còn cao là 31,8%.
Như vậy, môi trường GD ở một số trường MN tại huyện Lâm Thao, tỉnh Điều này dễ dàng nhận thấy là đội ngũ GV chưa áp dụng tốt quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm trong xây dựng môi trường GD. Nếu các trường MN khắc phục được những hạn chế đó thì việc tổ chức hoạt động GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm sẽ trở nên dễ dàng và chất lượng GD sẽ ngày càng cao. Trẻ sẽ được chuẩn bị tâm thế tốt nhất để bước vào trường Tiểu học.
2.4.6. Thực trạng chất lượng giáo dục trẻ
Các trường MN trong huyện Lâm Thao, tỉnh phú Thọ đang thực hiện Chương trình GDMN được ban hành theo Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT và được sửa đổi, bổ sung một số nội dung theo Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT. Kết quả thăm dò về thực trạng chất lượng GD trẻ MG 5-6 tuổi thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.12 được CBQL và GVMN đánh giá: Các trường MN trong huyện Lâm Thao đều thực hiện chương trình GD theo quy định của Bộ GD&ĐT. Qua bảng trên, ta thấy: Kết quả ở các lĩnh vực phát triển theo mục tiêu của chương trình đều đạt cao, 100% các cháu đều đạt theo mục tiêu, không có trẻ không đạt. Trẻ đều phát triển khá tốt về cả 5 lĩnh vực phát triển. Mức tốt đều đạt từ 37,7 đến 73%; Mức khá đạt từ 26,2 đến 44,3%; Phát triển thể chất là lĩnh vực mà trẻ phát triển tốt nhất. Điều này cũng có thể nhìn dưới góc độ khách quan: các trường MN huyện Lâm Thao 100% đều là trường đạt chuẩn quốc gia nên đồ dùng thiết bị, đặc biệt là đồ chơi ngoài trời rất phong phú, đa dạng đáp ứng tốt nhu cầu vui chơi phát triển vận động của trẻ. Bên cạnh đó, Thị trấn Lâm Thao và xã Sơn Vy đều là những địa phương kinh tế xã hội phát triển. Do đó, trẻ MN rất được quan tâm về chế độ ăn uống hàng ngày cả ở trường và ở gia đình. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Tuy nhiên, ở 4 lĩnh vực còn lại (nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã hội) thì trẻ được đánh giá ở mức khá và trung bình nhiều hơn. Đối với phát triển ngôn ngữ trung bình còn 22,1%; Phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội khá là 26,2%, trung bình là 23,8%. Phát triển thẩm mỹ mức khá là 27%, trung bình 7,4%. Điều này chứng tỏ hoạt động GD ở trường mầm non theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm vẫn còn những hạn chế nhất định. Một số hoạt động GV tổ chức còn mang tính hình thức, GV chưa chuẩn bị chu đáo từ môi trường GD đến nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động. Việc đánh giá trẻ ở cuối mỗi độ tuổi trong mỗi lĩnh vực vẫn còn GV thực hiện mang tính hình thức, chưa đánh giá trẻ sát thực theo quy định.
2.4.7. Phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội
Chất lượng GD trong các nhà trường muốn tốt thì công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội phải luôn được quan tâm. Đặc biệt trong tổ chức hoạt động GD lấy trẻ làm trung tâm, GV phối hợp, tuyên truyền tốt với PHHS thì chất lượng GD mới nhanh được cải thiện.
Qua bảng thực trạng trên cho thấy: CBQL, GV đã áp dụng nhiều biện pháp, nhiều nội dung phối hợp với PHHS và cộng đồng để chăm sóc GD trẻ. Nhưng một số nội dung thực hiện phối hợp hiệu quả còn chưa cao. Qua trao đổi và dùng phiếu hỏi thì CBQL và GV cho biết là nhà trường chưa tổ chức tập huấn cho GV về cách giao tiếp, kỹ năng phối hợp với PHHS và cộng đồng.Vì cho rằng GV giao tiếp trao đổi với phụ huynh hàng ngày qua giờ đón trẻ và trả trẻ rồi. Bên cạnh đó, CBQL và GV chưa thông tin đầy đủ, kịp thời để cha mẹ hiểu về quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Do đó, còn 35,2% loại trung bình.
Các nhà trường cũng chưa thu hút tốt PHHS vào các hoạt động trong trường MN nên mức trung bình chiếm 36,9%. Điều này cũng chỉ ra việc GV phối hợp với PHHS và cộng đồng để xây dựng môi trường GD trẻ vẫn còn những hạn chế nhất định.
Thông tin về sự phát triển của trẻ cho cha mẹ trẻ giáo viên thực hiện chưa tốt chiếm 24,6%. Hướng dẫn cha mẹ trẻ GD trẻ kỹ năng/thói quen vệ sinh tại gia đình và nơi công cộng loại trung bình chiếm 27%. Nội dung “Nhà trường, PHHS và cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động hỗ trợ cho trẻ chuẩn bị vào lớp 1” cũng còn chưa tốt, tỉ lệ đạt mức khá rất cao chiếm 49,2%, tỉ lệ mức trung bình chiếm 10,6%.
Như vậy, để thực hiện tốt công tác GD trẻ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm các nhà trường trong huyện Lâm thao cần phải trú trọng đến công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội nhiều hơn nữa. Công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cần được tăng cường về các nội dung như: giao tiếp của GV với PHHS; công tác tuyên truyền, phối kết hợp của GV với PHHS và cộng đồng xã hội vv. Bên cạnh đó, việc thông tin, tuyên truyền để cha mẹ trẻ hiểu về phương pháp GD lấy trẻ làm trung tâm được đặt lên hàng đầu. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.5. Thực trạng quản lý hoạt động GD trẻ MG 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường MN Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Để đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ được khách quan, tôi đã tiến hành xây dựng hệ thống câu hỏi và phiếu trưng cầu ý kiến của 03 CBQL và 30 GV tại trường MN Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
2.5.1. Thực trạng tổ chức xây dựng kế hoạch giáo dục theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Tổ chức xây dựng kế hoạch giáo dục theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là một công việc quan trọng của người GV. Vì toàn bộ hoạt động GD trẻ đều được cụ thể hóa trong kế hoạch GD. Đồng thời chất lượng GD trẻ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng kế hoạch GD. Tôi tổ chức khảo sát thực tế quá trình xây dựng kế hoạch của GV, kết quả cho thấy: GV các lớp MG 5 tuổi đã tổ chức lập kế hoạch giáo dục trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm có đủ 4 loại kế hoạch (Kế hoạch GD năm học; kế hoạch GD chủ đề; kế hoạch giáo dục tuần – Chủ đề nhánh; kế hoạch giáo dục ngày). Kế hoạch xây dựng theo đúng chương trình GDMN, theo độ tuổi và dựa trên Chuẩn phát triển của trẻ. Tuy nhiên, các loại kế hoạch mà GV xây dựng còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Qua bảng trên ta thấy: Nội dung kế hoạch GD đã xác định được mục tiêu, nội dung, phương pháp, đồ dùng, đồ chơi, học liệu, thời gian, địa điểm phù hợp với lợi ích, nhu cầu, khả năng của trẻ. Tuy nhiên, nội dung kế hoạch thể hiện sự linh hoạt mức khá chiếm 57,8%, mức trung bình chiếm 21,2%. Nội dung “Trẻ được hỗ trợ để phát triển tất cả các lĩnh vực” mức khá chiếm 45,5%, mức trung bình chiếm 21,2%. Nội dung “Trẻ được học thông qua chơi bằng nhiều cách khác nhau” và “Trẻ được hoạt động tích cực bằng nhiều hoạt động khác nhau” mức khá chiếm 39,4%, mức trung bình chiếm 24,2%.
Do đó, có thể khẳng định rằng: Kế hoạch GD trẻ MG theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thiếu sự linh hoạt, mềm dẻo, chưa dễ dàng điều chỉnh để thích ứng với hoàn cảnh thay đổi đột xuất và đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Chưa chỉ rõ các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá dưới nhiều hình thức đa dạng để đảm bảo sự phát triển và nhu cầu, hứng thú của mọi trẻ nên chất lượng GD trẻ MG 5-6 tuổi chưa cao như mong muốn. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.5.2. Thực trạng về tập huấn cho giáo viên các hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Tập huấn cho GV các hình thức tổ chức, phương pháp GD lấy trẻ làm trung tâm là rất cần thiết. Có tập huấn GV mới nắm và thực hiện tốt công tác tổ chức hoạt động GD trẻ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Thực trạng về công tác tập huấn cho giáo viên thể hiện trong bảng sau:
Với số liệu qua bảng trên chỉ ra rằng: nhà trường đã tổ chức tập huấn cho CBQL và GV về dục quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm và cả Bộ tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm giáo dục quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Tuy nhiên, nội dung bồi dưỡng nhằm giúp GV hiểu được về giáo dục quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm mức độ đáp ứng chưa tốt, mức tốt mới đạt 39,4%, khá chiếm 45,5%, trung bình là 15,2%. Về “Áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong lập kế hoạch GD” và “Xây dựng và sử dụng môi trường GD” mức trung bình đều cao chiếm 21,2%, khá từ 45,5% đến 48,5%. Đặc biệt công tác bồi dưỡng cho GV về “Phối hợp với cha mẹ trẻ trong chăm sóc, GD trẻ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1” mức tốt chỉ đạt 15,2%, còn lại mức khá chiếm 36,3%, mức trung bình chiếm 48,5%.
Như vây, qua phân tích ta thấy: công tác tổ chức tập huấn cho CBQL và GV về dục quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm của trường MN Thị trấn Lâm Thao chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều CBQL và GV chưa nắm vững về quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm và cả Bộ tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm giáo dục quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm trong trường MN. Muốn tổ chức thực hiện tốt hoạt động GD trẻ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm thì nhà trường cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng và tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ CBQL và GV tốt hơn nữa.
2.5.3. Thực trạng chỉ đạo phối hợp với cha mẹ học sinh trong các hoạt động giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Trẻ MN còn rất nhỏ, các cháu rất cần bàn tay chăm sóc của cha mẹ và cô giáo. GV muốn tổ chức hoạt động GD đạt hiệu quả thì điều đầu tiên là phải hiểu về trẻ để biết nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ. Để làm được điều đó không thể thiếu sự phối hợp của PHHS. Trong việc giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm cũng vậy, công tác chỉ đạo GV phối hợp với cha mẹ học sinh trong các hoạt động giáo dục là không thể thiếu được.
Qua bảng thực trạng trên cho thấy: Nhà trường đã chỉ đạo GV phối hợp với cha mẹ học sinh trong các hoạt động GD lấy trẻ làm trung tâm. Các biện pháp đã tiến hành khá tốt, bám sát vào Bộ tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Tỉ lệ mức độ đánh giá khá và tốt đạt trên 90%. Song bên cạnh đó, GV “thông tin cho cha mẹ trẻ hiểu về phương pháp GD lấy trẻ làm trung tâm”vẫn còn hạn chế:mức tốt mới đạt 33,3%, còn lại mức khá chiếm 45,5%, mức trung bình chiếm 21,2%. Như vậy, ta nhận thấy nhà trường cần chỉ đạo CBQL và GV phối hợp với cha mẹ trẻ tốt hơn nữa, trú trọng thông tin cho cha mẹ trẻ hiểu về phương pháp GD lấy trẻ làm trung tâm. Tạo nhiều cơ hội để phụ huynh tham gia vào các hoạt động của nhà trường, tham gia hỗ trợ trẻ để trẻ thành công hơn so với chính bản thân trẻ.
2.5.4. Thực trạng đổi mới các đánh giá kết quả quá hoạt động giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm
Việc đánh giá sự phát triển của trẻ trong trường MN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch GD nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chương trình GDMN.
Từ bảng trên cho thấy: Trường MN Thị Trấn Lâm Thao đã tổ chức đánh giá trẻ theo quy trình 5 bước mức tốt và khá tương đối cao từ 45,5 đến 48,5%. Tổ chức đánh giá trẻ đảm bảo về yêu cầu trong đánh giá trẻ mức tốt chiếm 48,5%, còn lại mức khá chiếm 39,4%, mức trung bình chiếm 21,2%. Qua trao đổi với CBQL và GV tác giả thấy các ý kiến nhận định: sở dĩ mức trung bình chiếm 12,1% là do một số GV chưa chủ động phối hợp nhiều phương pháp và hình thức đánh giá trẻ.
Bên cạnh đó, việc đánh giá trẻ theo giai đoạn được thực hiện tốt hơn việc đánh giá trẻ hàng ngày. Đánh giá trẻ theo giai đoạn mức tốt chiếm 63,7%, mức khá chiếm 30,3%, mức trung bình chiếm 6%. Đánh giá trẻ hàng ngày mức tốt chỉ chiếm 33,3%, mức khá chiếm 45,5%, mức trung bình chiếm 21,2%.Lý do mà CBQL và GV đưa ra là: Đánh giá cuối giai đoạn dựa vào mục tiêu GD chủ đề và kết quả mong đợi cuối độ tuổi để xác định mức độ đạt được của trẻ ở các lĩnh vực phát triển. Nó sẽ là một quá trình dài hơn về thời gian để GV có điều kiện tổng hợp, đánh giá nên đánh giá cuối giai đoạn thực hiện tốt hơn.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy đánh giá trẻ hàng ngày là rất quan trọng bởi nó giúp GV kịp thời điều chỉnh kế hoạch hoạt động chăm sóc GD trẻ hàng ngày. Giúp GV dễ dàng trao đổi với cha mẹ trẻ về tình trạng sức khỏe; trạng thái cảm xúc, thái độ hành vi; kiến thức, kỹ năng của trẻ trong ngày. GV xác định được nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ; mức độ tiến bộ về sự phát triển của từng trẻ để GV có thể lựa chọn những tác động chăm sóc, GD thích hợp phù hợp với khả năng, nhu cầu, hứng thú của trẻ.
Như vậy, để làm tốt hơn công tác đổi mới đánh giá trẻ, trước hết nhà trường cần nâng cao nhận thức cho GV về đánh giá trẻ hàng ngày. Không coi nhẹ bất kỳ một hình thức hay một phương pháp đánh giá nào thì chất lượng GD mới được đánh giá công tâm và khách quan nhất. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.5.5. Thực trạng về tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ hoạt động giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm
Cơ sở vật chất kĩ thuật luôn là một yếu tố quyết định rất lớn đến chất lượng GD trường MN. Với thế mạnh là trường MN đã đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, nhà trường có nhiều cơ hội để tổ chức hoạt động GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.
Qua bảng thực trang trên ta nhận thấy: Nhà trường đảm bảo tốt cơ sở vật chất để tổ chức các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng và GD trẻ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Nội dung 1; 2; 7; 8; 9 nhà trường đáp ứng tốt, không có ý kiến đánh giá mức trung bình. Riêng nội dung 8 và 9 được đánh giá mức tốt 100%. Như vậy, tiềm năng tốt cơ sở vật chất hiện có của nhà trường là rất lớn.
Tuy nhiên, nhà trường chưa quan tâm xây dựng khu vườn trải nghiệm để tạo cơ hội cho trẻ học, tập, khám phá như: vườn rau, vườn hoa, vườn cỏ tự nhiên, vườn cổ tích. Đồng thời chỉ đạo GV tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương để trẻ khám phá/trải nghiệm còn hạn chế thể hiện qua bảng: mức tốt chỉ chiếm chiếm 33,3%, mức khá chiếm 45,5%, mức trung bình chiếm 21,2%. Do đó, để áp dụng quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm, Trường MN Thị trấn Lâm Thao cần đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật đa dạng, phong phú kích thích sự phát triển của trẻ. Cần thiết kế các khu vực vui chơi, trải nghiệm, khám phá ngoài trời phù hợp với khuôn viên và diện tích hiện có, cũng như tạo nhiều cơ hội cho trẻ hoạt động cá nhân và hoạt động theo nhóm nhỏ. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.6. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Để đánh giá đúng thực trạng các yếu tố ảnh hưởng quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường MN Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ được khách quan, tôi đã tiến hành xây dựng hệ thống câu hỏi và phiếu trưng cầu ý kiến của 03 CBQL và 30 GV tại trường MN Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
2.6.1. Thực trạng về trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi của trường MN Thị Trấn Lâm Thao
Tại trường MN Thị Trấn Lâm Thao trẻ được đi học đúng độ tuổi, đúng làn tuổi. Số lượng trẻ/lớp hàng năm đảm bảo theo quy định. Trẻ ngoan ngoãn, thích đi học, thích được tham gia vào mọi hoạt động của lớp, của trường.
Số liệu thực trạng từ bảng 2.19 cho thấy vị trí của trẻ trong GD lấy trẻ làm trung tâm. Trẻ MG 5-6 tuổi luôn được GV tôn trọng và đáp ứng lợi ích. GV mở rộng việc học của trẻ bằng nhiều cách khác nhau, tăng cường chơi bằng học, học mà chơi, tương tác giữa trẻ với trẻ, trẻ với người lớn.
Tuy vậy, tại nội dung 1 vẫn còn 15,2% trẻ được đánh giá mức trung bình; nội dung 4 vẫn còn 18,2% trẻ được đánh giá mức trung bình nội dung 2 và 3 mức trung bình cao hơn (21,2%). Riêng nội dung 5 mức trung bình chỉ còn 6%. Như vậy, ta có thể đưa ra nhận định: GV chưa chú trọng phương pháp trải nghiệm, khám phá, bắt trước, thử nghiệm, thực hành sáng tạo. Một số GV chưa tạo nhiều điều kiện cho trẻ được khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức.
Để GV khắc phục được những hạn chế nêu trên nhà trường cần tập huấn cho GV hình thức tổ chức hoạt động GD theo vị trí không gian: Tổ chức hoạt động trong phòng lớp; tổ chức hoạt động ngoài trời. Tập huấn cho GV hình thức tổ chức hoạt động GD theo số lượng trẻ: Đa dạng hình thứ hoạt động và có xen kẽ hợp lý giữa cá nhân, nhóm nhỏ, nhóm lớn, cả lớp để tạo cơ hội cho trẻ tích cực hoạt động. Tập huấn giáo viên các phương pháp tìm hiểu trẻ trước khi bắt đầu các hoạt động giáo dục.
2.6.2. Thực trạng về giáo viên dạy lớp MG 5-6 tuổi
Giáo viên là một trong các yếu tố ảnh hưởng quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Từ năm 2011 đến nay GV dạy lớp MG 5 tuổi 100% đều được biên chế Nhà nước. Để thực hiện tốt công tác Phổ cập GD trẻ em 5 tuổi thì đội ngũ GV dạy trẻ 5 tuổi cũng ngày càng được tuyển chọn để đảm bảo về số lượng, nâng cao về chất lượng. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Đối với trường MN Thị trấn Lâm Thao, đội ngũ GV dạy lớp MG 5-6 tuổi ngày càng được trẻ hóa về độ tuổi, sức khỏe tốt, được đào tạo bài bản từ các trường Đại học. 100% GV đều có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đáp ứng tốt đổi mới GD trong giai đoạn hiện nay. Tuy vậy, việc tổ chức hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm GV còn có những hạn chế nhất định.
Số liệu trên cho thấy: Số lượng, trình độ đào tạo và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của GV là rất tốt mức tốt và khá đã đạt 100%. Nhưng việc áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm thì đã thể hiện một số hạn chế như: “Nhận thức về quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm” mức khá chiếm 39,4%, trung bình chiếm 15,2%. Trong “Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm” mức trung bình chiếm 12,1%. “Đổi mới tổ chức các hoạt động chăm sóc GD trẻ theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm” và “Xây dựng kế hoạch giáo dục theo nguyên tắc lấy trẻ làm trung tâm” mức trung bình đều còn khá cao là 18,2%.
Sở dĩ thực trạng như vậy do một số nguyên nhân như: Nhà trường hàng năm bồi dưỡng cho GV chưa tập chung vào bồi dưỡng cho GV về quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm nên nhận thức của một bộ phận GV còn chưa tốt. GV chưa được rút kinh nghiệm kịp thời trong việc lập kế hoạch và đánh giá trẻ hàng ngày. Công tác chỉ đạo GV phối hợp với cha mẹ trẻ và cộng đồng còn chưa sát sao, chưa thực sự hiệu quả.
Qua thực trạng trên, yêu cầu đặt ra đối với trường MN Thị trấn Lâm Thao là phải bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu về nội dung quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Khuyến khích GV có nhiều đổi mới, linh hoạt, sáng tạo trong mọi nhiệm vụ.
2.6.3. Thực trạng về môi trường dạy học
Một môi trường GD tốt luôn tạo cho trẻ rất nhiều cơ hội để trẻ hoạt động và phát triển. Trường MN Thị Trấn Lâm Thao có khuôn viên rộng rãi được thiết kế xây dựng theo hình chữ U khang trang, sạch sẽ, đẹp và an toàn. Để áp dụng quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm trong tổ chức hoạt động GD cho trẻ thì môi trường GD cần được xây dựng và sử dụng một cách khoa học và hiệu quả. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Qua bảng trên cho thấy các ý kiến đánh giá đều nhất trí môi trường dạy học của nhà trường rất tốt. Môi trường vật chất mức tốt được đánh giá là 75,8%, mức khá là 24,2%, không có mức trung bình. Về môi trường xã hội mức tốt chiếm 72,7%, mức khá là 21,2%, mức trung bình 6%.Môi trường bên trong và bên ngoài lớp học mức tốt chiếm 69,7%, mức khá là 24,2%, mức trung bình 6%. Như vậy, Trường MN Thị Trấn Lâm Thao đảm bảo về môi trường để tổ chức các hoạt động GD.
Tuy nhiên, về môi trường xã hội thì trường cần quan tâm hơn về chuẩn bị, tổ chức sử dụng môi trường GD đạt hiệu quả nhất, tạo những điều kiện, cơ hội, tận dụng hoàn cảnh, tình huống thật cho trẻ hoạt động trải nghiệm, khám phá trong môi trường an toàn. Về môi trường vật chất, cần thu hút cha mẹ trẻ tham gia lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh, tham gia làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
Kết quả trên đã khẳng định:Trường MN Thị Trấn Lâm Thao luôn quan tâm đầu tư xây dựng môi trường vật chất trong lớp, môi trường vật chất ngoài lớp đáp ứng tốt nhất nhu cầu, hứng thú chơi của trẻ. Đã có nhiều biện pháp tạo điều kiện cho tất cả các trẻ có thể chơi mà học, học bằng chơi, phù hợp.Có môi trường tâm lý tốt, trẻ luôn được đảm bảo an toàn. Tạo không khí giao tiếp tích cực, kích thích hứng thú hoạt động của trẻ, trẻ được tôn trọng và đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Phụ huynh học sinh yên tâm, tin tưởng khi đưa con đến trường.
2.6.4. Thực trạng về công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội
Từ kết quả bảng 2.22 cho ta thấy: Nhà trường đã phối hợp tốt với gia đình và xã hội để chăm sóc, GD trẻ. Thu hút mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp và xây dựng môi trường GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm. Các biện pháp mà nhà trường thực hiện rất phù hợp với thực tế. Nội dung 1 đạt 100% mức tốt. Nội dung 2 mức tốt chiếm 69,7%, mức khá là 24,2%, mức trung bình 6%; Nội dung 3 mức tốt chiếm 48,5%, mức khá là 39,4%, mức trung bình 12,1%. Nội dung 4 mức tốt chiếm 75,6%, mức khá là 21,2%, mức trung bình chỉ còn 3%.
Như vây, GV và PHHS cần thường xuyên trao đổi thông tin về trẻ hơn để GV biết được nhu cầu và khả năng của trẻ. Mặt khác PHHS cũng nắm được kiến thức và các hoạt động của trẻ trong nhà trường. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần tiếp tục huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường; xây dựng môi trường GD lành mạnh, an toàn cho trẻ tốt hơn nữa.
2.6.5. Mối quan hệ giữa các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Qua đánh giá thực trạng giữa các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục trẻ giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tác giả nhận thấy các nhóm yếu tố có mối tương quan khăng khít nhau. Yếu tố này hỗ trợ và thúc đẩy cho yếu tố kia. Trong 5 yếu tố đã chỉ ra thì yếu tố “trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” là yếu tố quan trọng nhất, là trung tâm để các yếu tố khác thúc đẩy đạt được mục tiêu đề ra. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Yếu tố GV cũng sẽ quyết định trực tiếp đến chất lượng GD trẻ. Bởi GV giỏi thì trò mới giỏi, GV tích cực đổi mới, năng động, sáng tạo thì trẻ mới được tạo nhiều cơ hội để học tập, trải nghiệm và được hỗ trợ để phát triển tốt nhất.
Yếu tố môi trường dạy học ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình GD trẻ. Cho dù GV giỏi đến mấy mà trường không có một môi trường GD tốt, cơ sở vật chất không đảm bảo, tinh thần luôn bất ổn thì không thể có chất lượng GD tốt được.
Yếu tố nhà trường, gia đình và xã hội là yếu tố không thể thiếu trong quản lý hoạt động GD. Bởi nhà trường không chỉ độc lập GD trẻ mà không có sự phối kết hợp của gia đình và toàn xã hội. Đứa trẻ muốn phát triển tốt phải được sự quan tâm của cả cha mẹ, cô giáo và cộng đồng xã hội.
Tóm lại: Một nhà trường muốn phát triển tốt và thực hiện được sứ mạng và tầm nhìn thì mối quan hệ gia đình – nhà trường – xã hội luôn là mối quan hệ mật thiết nhất. Tổ chức hoạt động GD trẻ MG 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm muốn thành công thì người CBQL không được coi nhẹ bất cứ một yếu tố nào mà phải thực hiện đan sen, phối hợp các yếu tố với nhau thì chất lượng GD trẻ của nhà trường sẽ ngày càng nâng cao hơn nữa.
2.7. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
2.7.1. Mặt mạnh Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Công tác quản lý hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ đã được thực hiện đúng với các chức năng của công tác quản lý. Việc xây dựng kế hoạch GD được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Kế hoạch xây dựng theo đúng chương trình GDMN, theo độ tuổi và dựa trên Chuẩn phát triển của trẻ. Việc làm đó giúp cho hoạt động GD trẻ đều được cụ thể hóa trong kế hoạch GD.
Nhà trường đã chỉ đạo GV phối hợp với cha mẹ trẻ trong các hoạt động GD lấy trẻ làm trung tâm. Các biện pháp đã tiến hành khá tốt, bám sát vào bộ tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non.
Việc đánh giá sự phát triển của trẻ được đánh giá trên cơ sở áp dụng theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm.
Với thế mạnh là trường MN đã đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, nhà trường đảm bảo tốt cơ sở vật chất để tổ chức các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Đặc biệt là có cơ sở vật chất tốt để tổ chức tốt các hoạt động GD trẻ MG 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm.
Trẻ được đi học đúng độ tuổi, đúng làn tuổi. Số lượng trẻ/lớp hàng năm đảm bảo theo quy định. Trẻ ngoan ngoãn, thích đi học, thích được tham gia vào mọi hoạt động của lớp, của trường. Trẻ MG 5-6 tuổi luôn được GV tôn trọng và đáp ứng lợi ích. GV mở rộng việc học của trẻ bằng nhiều cách khác nhau, tăng cường chơi bằng học, học mà chơi, tương tác giữa trẻ với trẻ, trẻ với người lớn.
Đối với trường MN Thị Trấn Lâm Thao, đội ngũ GV dạy lớp MG 5-6 tuổi ngày càng được trẻ hóa về độ tuổi, sức khỏe tốt, được đào tạo bài bản từ các trường Đại học. 100% GV đều có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đáp ứng tốt đổi mới GD trong giai đoạn hiện nay.
Trường MN Thị trấn Lâm Thao có khuôn viên rộng rãi được thiết kế xây dựng theo hình chữ U khang trang, sạch sẽ, đẹp và an toàn. Nhà trường luôn quan tâm đầu tư xây dựng môi trường GD đáp ứng tốt nhất nhu cầu, hứng thú của trẻ, tạo điều kiện cho tất cả các trẻ có thể chơi mà học, học bằng chơi. Luôn đảm bảo an toàn về mặt tâm lý cho trẻ và trẻ thường xuyên được giao tiếp thân thiện. Trẻ luôn được tôn trọng và đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Phụ huynh học sinh yên tâm, tin tưởng khi đưa con đến trường.
Nhà trường đã phối hợp tốt với gia đình và xã hội để chăm sóc, GD trẻ.Xã hội hóa GD tốt, đồng thời thu hút mọi nguồn lực để phát triển nhà trường. Các biện pháp mà nhà trường thực hiện rất phù hợp với thực tế.
Như vậy, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường MN Thị Trấn Lâm Thao đã có những ưu điểm và kết quả nhất định. Hoạt động GD trẻ được lên kế hoạch đầy đủ. Môi trường cho trẻ hoạt động được chuẩn bị chu đáo cả trong và ngoài lớp. Công tác phối kết hợp với gia đình trẻ và cộng đồng xã hội luôn được quan tâm ủng hộ. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.7.2. Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt mạnh nổi bật trong công tác quản lý hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm ở trường Mầm non Thị Trấn Lâm Thao thì vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định đó là:
Nhận thức của đội ngũ CBQL và GV về các nguyên tắc tổ chức hoạt động GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm còn chưa sâu. Do đó, GV thực hiện các hình thức tổ chức và phương pháp tổ chức hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm còn hạn chế. Một số GV chưa tạo nhiều cơ hội cho trẻ được học tập, trải nghiệm, vui chơi, tìm tòi, khám phá dưới nhiều hình thức. GV chưa được rút kinh nghiệm kịp thời trong việc lập kế hoạch và đánh giá trẻ hàng ngày.
- Giáo viên chưa có các kĩ năng tổ chức hoạt động GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.
- Nhà trường chỉ đạo GV phối hợp với cha mẹ trẻ bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiên, công tác phối hợp với cha mẹ trẻ để cung cấp tốt thông tin về phương pháp GD lấy trẻ làm trung tâm, cũng như trao đổi thông tin về trẻ và phối hợp với cha mẹ trẻ chăm sóc, GD trẻ theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm đạt hiệu quả chưa cao.
- Việc xây dựng kế hoạch GD trẻ MG theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm tuy đã đủ 4 loại kế hoạch nhưng vẫn thiếu sự linh hoạt, mềm dẻo, chưa dễ dàng điều chỉnh để thích ứng với hoàn cảnh thay đổi đột xuất và đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Chưa chỉ rõ các hình thức tổ chức hoạt động GD tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá dưới nhiều hình thức đa dạng để đảm bảo sự phát triển và nhu cầu, hứng thú của mọi trẻ nên chất lượng GD trẻ MG 5-6 tuổi chưa cao như mong muốn.
- Tuy nhà trường có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, nhưng đó chỉ là các tiêu chí cứng theo quy định. Việc xây dựng môi trường GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm đòi hỏi nhà trường cần đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật đa dạng, phong phú kích thích sự phát triển của trẻ. Cần thiết kế các khu vực vui chơi, trải nghiệm, khám phá ngoài trời phù hợp với khuôn viên và diện tích hiện có. Đồng thời chỉ đạo GV tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương để trẻ khám phá và trải nghiệm; tạo nhiều cơ hội cho trẻ hoạt động cá nhân và hoạt động theo nhóm nhỏ để trẻ phát triển tốt nhất. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Trong đánh giá trẻ, một số GV chưa chủ động phối hợp nhiều phương pháp và hình thức đánh giá trẻ.GV chỉ coi trọng đánh giá trẻ theo giai đoạn mà coi nhẹ đánh giá trẻ hàng ngày. Như vậy, để làm tốt hơn công tác đổi mới đánh giá trẻ, trước hết nhà trường cần nâng cao nhận thức cho GV về đánh giá trẻ hàng ngày. Không coi nhẹ bất kỳ một hình thức hay một phương pháp đánh giá nào thì chất lượng GD mới được đánh giá công tâm và khách quan nhất.
Tóm lại: Qua đánh giá chung về thực trạng trên, yêu cầu đặt ra đối với trường MN Thị trấn Lâm Thao là phải bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu về nội dung quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Tăng cường xây dựng môi trường GD, đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật. Khuyến khích GV có nhiều đổi mới, linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng kế hoạch GD và trong đánh giá trẻ và phối kết hợp với phụ huynh học sinh.
2.7.3. Những nguyên nhân của thực trạng
2.7.3.1. Nguyên nhân dẫn đến thành công
Tập thể nhà trường luôn nhận được sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của UBND Thị trấn Lâm Thao; sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng GD&ĐT huyện Lâm Thao; sự quan tâm của Nhà nước cấp kinh phí GD hàng năm và tạo mọi điều kiện để nhà trường duy trì hoạt động.
Cán bộ quản lý và GV trường MN Thị trấn Lâm Thao có nhận thức về vai trò trách nhiệm, thái độ khi làm việc trong ngôi trường MN đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, duy trì và thực hiện tốt công tác phổ cập cho trẻ mầm non 5 tuổi; chuẩn bị tâm thế tốt nhất cho trẻ vào lớp 1.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và ngành học về “Đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục và Đào tạo” tập thể CB, GV, NV nhà trường cùng thi đua, yêu nước, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Hàng năm, nhà trường đã chỉ đạo thực hiện công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Tạo điều kiện cho CB, GV, NV cập nhật các văn bản chỉ đạo, nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị của địa phương và tình hình chung của đất nước. Bồi dưỡng đạo đức, lối sống, tác phong cho CB, GV, NV; xây dựng quy tắc văn hóa ứng xử trong cơ quan đơn vị.
Cán bộ quản lý và GV có nhận thức tốt về tầm quan trọng và sự cần thiết của quản lý tổ chức hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Có nhận thức tốt về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện hoạt động GD trẻ.
Hiệu trưởng nắm vững kỹ năng quản lý: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Trong quản lý biết phối hợp quyền uy và sự bao dung, đức trị và pháp trị để xây dựng nhà trường thành một tập thể gắn bó, đồng thuận với nhau và thích nghi với mọi biến động của xã hội. Luôn hiểu tâm tư tình cảm của nhân viên và phân công, phân nhiệm cho đội ngũ rõ ràng, để đạt hiệu quả cao trong công việc. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Hiệu trưởng vận dụng tốt công tác kiểm tra, giám sát để đốn đốc, tư vấn, điều chỉnh kịp thời trong mọi hoạt động. Đồng thời xây dựng các tiêu chí đánh giá thi đua phù hợp để đẩy mạnh phong trào.
Hiệu trưởng có năng lực tốt trong công tác phân tích, tổng hợp, dự báo; có năng lực quản lý sự thay đổi; có phong cách quản lý trong sáng, liên kết được nhiều kiểu người trong quá trình điều hành bằng sự mẫu mực của nhân cách bản thân. Do đó, đã xây dựng được tập thể nhà trường luôn đồng thuận, đoàn kết, thống nhất cao. Hiệu trưởng luôn tìm tòi, sáng tạo trong quản lý, luôn tự học, tự bồi dưỡng để có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, là chỗ dựa về cả chuyên môn, công việc và tinh thần cho đội ngũ.
Hiệu trưởng có năng lực giao tiếp, đàm phán được PHHS và cộng đồng xã hội quan tâm, tin tưởng. Biết tranh thủ sự giúp đỡ và các nguồn lực để phát triển toàn diện nhà trường.
2.7.3.2. Nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại
Công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của nhà trường hàng năm thực hiện còn chung chung, dàn trải, chưa chú trọng bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ về quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Một số CBQL và GV phối hợp với cha mẹ trẻ còn hạn chế về giao tiếp và hình thức phối hợp. Đôi khi thông tin đến cha mẹ trẻ không kịp thời.
Việc xây dựng kế hoạch GD trẻ MG theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm chưa linh hoạt, chưa sáng tạo.
Việc xây dựng môi trường GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm chưa có sự bứt phá. Công tác chuẩn bị chưa tốt, công tác sử dụng môi trường chưa khai thác hết hiệu quả.
Giáo viên tuy bằng cấp, trình độ chuyên môn cao nhưng chưa có các kĩ năng tổ chức hoạt động GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm tốt.
Một số GV chậm đổi mới công tác đánh giá trẻ. Vẫn còn hiện tượng coi nhẹ hình thức và phương pháp đánh giá trẻ; chưa linh hoạt, chưa phối hợp tốt các phương pháp để đánh giá trẻ.
Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Chất lượng GD trẻ MG 5-6 tuổi của trường MN Thị Trấn Lâm Thao huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ cần được đánh giá khách quan trên nhiều phương diện, nhiều yếu tố và chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố “trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”; Yếu tố “giáo viên”; Yếu tố “môi trường dạy học” và yếu tố “nhà trường, gia đình và xã hội”.
Chương 2 của Luận văn đã trình bày thực trạng hoạt động GD; thực trạng quản lý hoạt động GD trẻ MG 5-6 tuổi và thực trạng các yếu tố ảnh hưởng quản lý hoạt động GD trẻ giáo 5-6 tuổi theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Thông bảng thực trạng và phân tích bảng đánh giá thực trạng tác giả nhận thấy rằng: Trong những năm gần đây, GDMN huyện Lâm Thao nói chung và GDMN của trường MN Thị Trấn Lâm Thao nói riêng rất phát triển. 100% các trường MN đều đạt chuẩn quốc gia, tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 ngày càng tăng. Điều đó chứng tỏ kinh tế, xã hội, văn hóa, GD trên địa bàn huyện rất phát triển. Trường MN Thị Trấn Lâm Thao là trường thuộc thị trấn nên có rất nhiều cơ hội và tiềm lực để đưa chất lượng nhà trường ngày một đi lên.
Bên cạnh những mặt mạnh của thực trạng quản lý hoạt động GD trẻ MG 5-6 tuổi và thực trạng các yếu tố ảnh hưởng quản lý hoạt động GD trẻ giáo 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm thì Trường MN Thị Trấn Lâm Thao vẫn còn những tồn tại và hạn chế nhất định như: Nhận thức của đội ngũ CBQL và GV về những nguyên tắc tổ chức hoạt động GD theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm còn chưa sâu. Công tác chỉ đạo GV phối hợp với cha mẹ trẻ bằng nhiều biện pháp để chăm sóc GD trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đạt hiệu quả chưa cao. Việc xây dựng kế hoạch GD còn thiếu sự linh hoạt, mềm dẻo, chưa dễ dàng điều chỉnh để thích ứng với hoàn cảnh thay đổi đột xuất và đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ. Việc xây dựng môi trường GD theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm chưa đa dạng, phong phú kích thích sự phát triển của trẻ chưa tạo nhiều cơ hội cho trẻ hoạt động cá nhân và hoạt động theo nhóm nhỏ. Công tác đổi mới đánh giá trẻ còn hạn chế.
Thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải tìm ra được các biện pháp khả thi nhằm quản lý hoạt động GD trẻ MG 5-6 tuổi theo quan điểm GD lấy trẻ làm trung tâm. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com