Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thị trường khách du lịch Israel và thực trạng hoạt động thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam 

2.1.1. Khái quát về đất nước Israel và thị trường khách du lịch Israel

Hình 2.1: Bản đồ Israel

Israel là một quốc gia nằm tại khu vực Trung Đông được thành lập sau nhiều xung đột tranh chấp với quốc gia A-rập láng giềng  ngày 15 tháng 5 năm 1948.

Vị trí địa lý: Israel có tổng diện tích 20.770 km2, đứng thứ 154 trên thế giới. Israel có chiều dài đường biên giới là 1.017 km. Biên giới Israel tiếp giáp biên giới với Ai-cập, Jordan,  Lebanon, Syrie, dải Gaza và bờ Tây và biển Địa Trung Hải.

Khí hậu: Israel là quốc gia có khí hậu nóng khô chủ yếu ở khu vực phía đông và nam sa mạc.

Địa hình: Địa hình đồng bằng xen kẽ và sa mạc. Nơi sâu nhất là Biển Chết với độ sâu 408 m và nơi cao nhất là đỉnh Har Meron với độ cao 1.208 m. Israel là nước chỉ có 16% đất đai có thể canh tác được, còn lại là sa mạc và các khu vực khô cằn khác.

Dân số Israel theo thống kê tổng điều tra năm 2014 là 7.821.850 người trong đó nam là 3.953.000 người và nữ là 4.031.100 người. Dân số Israel xếp thứ 99 trên thế giới. Số dân trên chưa kể khoảng 340.000 người sống tại bờ Tây sông Jordan (nơi đang diễn ra tranh chấp với Palestine), 19.000 người sống tại cao nguyên Golan và 197.000 sống tại Đông Jerusalem.

Theo thống kê dân số năm 2014, độ tuổi người Israel nhỏ hơn 14 tuổi chiếm 27.1%, từ 15 đến 24 tuổi chiếm 15.7%, từ 25 đến 54 tuổi chiếm 37.8%, từ 55 đến 64 tuổi chiếm 10.7%, trên 65 tuổi chiếm 10.5%. Độ tuổi trung bình là 29.9 tuổi, đối với phụ nữ là 30.9 còn nam giới là 29.2. Tốc độ tăng trưởng dân số là 1.46%, đứng thứ 101 trên thế giới. Dân số Israel được cho là đang già đi từ năm 2009.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

Hình 2.2: Biểu đồ cơ cấu tuổi dân số Israel

Israel có 3 thành phố lớn là Tel Aviv – Yafo với 3.19 triệu dân, Haifa là 1.027 triệu và Jerrusalem là 768.000 dân. Tỷ lệ người dân biết chữ (từ 15 tuổi trở lên) là 97.1 %. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi 15-24 là 12.1% đứng thứ 98 trên thế giới, trong đó nam là 11.6% và nữ chiếm 12.7%.

Ngày Quốc khánh 14/5 theo lịch Do thái và có thể rơi vào tháng 4 hoặc tháng 5 dương lịch.

Quốc kỳ của Israel là có ngôi sao sáu cánh màu xanh đặt chính giữa nền trắng và hai dải băng màu xanh đặc phía nửa trên và nửa dưới của lá cờ. Ngôi sao sáu cánh được gọi là Magen David (ngôi sao David).

Thủ đô của Israel là Jerusalem trong khi đó Tel Aviv là nơi mà hầu hết các nước có quan hệ ngoại giao với Israel đặt trụ sở Đại sứ quán. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Hình 2.3: Cơ cấu dân số Israel theo tôn giáo

Nhu cầu đi du lịch: Bộ Công nghiệp Israel tiến hành điều tra xã hội về thói quen đi du lịch của người Israel vào năm 2002. Cuộc điều tra cho kết quả rằng 82% dân số Israel đi du lịch ít nhất một lần trong một năm trong đó 56% số người được hỏi đi du lịch trong nước. 44% số người Do thái Israel đi du lịch ít nhất hai lần trong năm. 20% đi ba lần trong một năm. Trong khi đó có khoảng 22% số người  được hỏi muốn đi du lịch hai lần trong nước. Điều này thể hiện rõ xu thế đi du lịch nước ngoài thường thiên về những người giàu có. Chỉ có 4% số người được hỏi muốn đi du lịch trong nước ba lần một năm.

Trong những người không muốn đi du lịch trong cuộc khảo sát xã hội đó thì có 37% nêu nguyên nhân là do các khó khăn kinh tế mang lại. 21% người có lý do lo lắng về an ninh an toàn khi đi du lịch, 11% có lý do công việc gia đình và có 12% số người được hỏi cho rằng đơn giản họ chỉ muốn nghỉ ngơi ở nhà. Từ sau năm 2002 Bộ Công nghiệp Israel chưa tiến hành thêm một cuộc khảo sát nào. Tuy nhiên các kết luận dựa trên kết quả điều tra năm 2002 khá ổn định. Thêm nữa mặc dù nền kinh tế Israel trong những năm qua có những bước tiến vượt bậc nhưng khoảng cách giàu nghèo trong nước vẫn rất lớn, Từ đó các nhóm dân số có thu nhập thấp không thể đi du lịch vẫn giữ nguyên mức độ tỷ lệ ổn định.

Giới tính: Tỷ lệ nam nữ trong cuộc điều tra trên không có sự khác nhau nhiều. Israel là một đất nước hiện đại và có sự bình đẳng về giới cả trong lĩnh vực chính trị lẫn quân sự và cảnh sát. Có sự khác biệt nhỏ là do tỷ lệ nam nữ trong tổng số dân nghiêng về phía nữ giới, và như vậy số người được hỏi đã hoặc sẽ đi du lịch chiếm tỷ lệ 52% là nữ.

Tuổi tác: Tỷ lệ phân chia tuổi tác trong nhóm người đi du lịch, không đi du lịch khá ổn định. Hầu hết những người đi du lịch nằm trong độ tuổi từ 35 đến 64. Hầu hết những người ở độ tuổi này đều có sự ổn định nhất định về tài chính và đều muốn vượt thoát ra ngoài cuộc sống thông thường hàng ngày để thưởng thức cuộc sống khác biệt tại những nơi nghỉ ngơi du lịch. Trước tuổi 21 (thời điểm tất cả mọi người hoàn thành nghĩa vụ quân sự ) thì người Israel bị phụ thuộc vào cha mẹ và gia đình về vấn đề kinh tế và tài chính. Những người ở độ tuổi 25 đến 34 có xu hướng đi du lịch nhiểu hơn nhưng vẫn ít hơn người ở độ tuổi 35 đến 64 bởi vì hầu hết thanh niên Israel sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự sẽ vào học tại các trường đại học và cao đẳng hoặc đi làm việc để bắt đầu ổn định cuộc sống cho đến khi có tiềm lực kinh tế vững chắc mới tính chuyện đi du lịch.

Đặc điểm đoàn khách: Trước đây các nhóm dân số hình thành đi du lịch hoặc không đi du lịch thường chủ yếu xoay quanh các yếu tố nguyên nhân kinh tế, tức là do sự khác nhau về mức thu nhập. Tuy nhiên gần đây có một vài nhóm khách du lịch tiềm năng mới xuất hiện do các yếu tố khác. khách du lịch Israel giờ đây có thêm các nhóm có cùng sở thích hoặc cùng một mục tiêu xã hội nào đó, cùng với nó là sự gia tăng các nhóm khách di chuyển từ nơi này tới nơi khác, từ trường đại học này tới trường đại học khác (trong Israel hoặc ra ngoài phạm vi quốc gia) và  sự gặp gỡ của các nhóm xã hội khác. Các nhóm du khách tiềm năng dễ nhận thấy nhất đó là các câu lạc bộ người hâm mộ các môn thể thảo, người chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe, các nhóm đồng nghiệp hoặc những người có cùng giới tính (trong đó phải kể đến một bộ phận không nhỏ các nhóm người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ). Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Độ dài chuyến đi: Qua kết quả của cuộc khảo sát năm 2002 và cũng qua các đánh giá từ các công trình nghiên cứu gần đây, các kỳ nghỉ có thời gian khoảng từ 4-7 ngày phát triển mạnh hơn cả. Điều này có nguyên nhân là do khoảng thời gian này phù hợp với các chuyến du lịch trọn gói phổ biến tới các nước gần như Hy Lạp hoặc Thổ Nhĩ Kỳ hoặc tới Eliat – một thành phố du lịch nổi tiếng trong nước – có khoảng cách khá xa tới Tel Aviv. Một nguyên nhân nữa giải thích cho độ dài phổ biến của kỳ nghỉ du lịch của người Israel là do sự phổ biến của phong cách nghỉ những kỳ nghỉ ngắn ngày (city break) tại châu Âu – nơi mà Israel chịu ảnh hưởng khá lớn (Israel có lúc được coi là thành phố châu Âu). Tuy vậy các chuyến du lịch dài hơn 7 ngày rất phổ biến vì các chương trình du lịch với độ dài ngày như vậy thường là những chương trình du lịch điển hình do các hãng lữ hành bán ra thị trường. Gần đây, các chương trình du lịch ngắn ngày mà người dân Israel thường hay mua tăng lên do nạn khủng bố và suy thoái kinh tế cũng như sự chậm hồi phục của nền kinh tế. Người dân thường chọn kỳ nghỉ ngắn ngày hơn và rẻ hơn.

Thời điểm đi du lịch: Các ngày lễ của người Israel có liên quan chặt chẽ tới lịch của người Do thái được sử dụng chính thức tại Israel. Các ngày lễ đó rơi vào những ngày khác nhau theo từng năm dương lịch. Người Do thái có rất nhiều ngày lễ trong một năm nhưng có một số ngày lễ có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành du lịch và sự đi lại nói chung của cư dân Israel. Các ngày lễ đó bao gồm lễ Hanukah vào tháng Mười hai / Một lịch Gregory; lễ Passover rơi vào tháng  Ba/Bốn và lễ Shavout vào tháng Năm/Sáu. Mùa lễ tháng Chín/Mười có ý nghĩa rất quan trọng bao gồm lễ mừng Giao thừa của người Do thái (Rosh Hashanah), Yom Kippur và lễ Sukkoth. Vào những dịp lễ này thì số lượng người Israel đi du lịch tăng mạnh đặc biệt vào mùa tháng Chín, tháng Mười.

Điểm đến ưa thích: Điểm đến du lịch quốc tế ưa thích của khách Israel luôn là Mỹ với khoảng 1,14 triệu lượt khách năm 2005 chiếm 28% tổng số lượt khách du lịch Israel đi du lịch quốc tế năm 2005. Nguyên nhân chủ yếu là do mặc dù Mỹ là quốc gia có quy định rất nghiêm ngặt về thủ tục nhập cảnh nhưng có rất nhiều điểm du lịch có sức hấp dẫn lớn với người Israel, người dân Mỹ thường tỏ ra thân thiện và thông cảm với các công dân Israel cũng như nền văn hóa Israel. Có những nguyên nhân khác như hiện nay có nhiều người Israel có người thân và họ hàng hoặc các đoàn hội cùng tôn giáo, nghề nghiệp tại Mỹ. Quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội giữa Mỹ và Israel cũng có những đặc thù gắn bó riêng.

Tại châu Âu, do đặc thù khoảng cách từ Israel đến châu Âu gần hơn tới Mỹ, nên có một số điểm đến được người Israel rất ưa chuộng bao gồm Pháp, Anh, Đức, Ý, Hà Lan và Tây Ban Nha. Nhìn danh sách cách điểm đến tại châu Âu, có thể nhận thấy, thị hiếu của thị trường khách Israel nằm ở mức cao, với các điểm đến là các nước phát triển, có trình độ phát triển du lịch ở đẳng cấp cao trên thế giới – tương ứng là các dịch vụ vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng, thuận tiện luôn ở vị trí  hàng đầu thế giới.

Người Israel cũng đi du lịch sang các nước lân cận trong khu vực Địa Trung Hải như Thổ Nhĩ Kỳ, Síp và Hy Lạp. Năm 2005 có 359.000 người Israel tới các nước đó. Các điểm đến đó có các khu nghỉ dưỡng gần Israel, giá cả hợp lý, bên cạnh đó cũng có những khu nghỉ dưỡng biển đẳng cấp cao, sang trọng.

Giới trẻ Israel thường hay đi du lịch dài ngày sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, trước khi vào đại học hoặc trước khi đi làm. Hai khu vực mà nhóm khách này hay đến nhất đó là châu Á – Thái Bình Dương gồm các nước Thái Lan, Ấn Độ, và các nước Nam Mỹ như Ác-hen-ti-na, Brazil, Peru và Bolivia. Nhóm khách này chủ yếu là khách du lịch tự do, chi tiêu du lịch không nhiều và thường đi các tuyến du lịch mạo hiểm hoặc trekking. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Số lượt khách đến Thái Lan cũng tăng rất nhanh. Thái Lan là điểm đến được giới trẻ rất ưa thích. Thái Lan có nguồn tài nguyên du lịch hoang sơ, có thể phát triển nhiều chương trình du lịch khám phá và trekking cũng như nghỉ dưỡng tại những bãi biển đẹp. Rất nhiều người trẻ tuổi đi một vòng quanh các nước láng giềng của Thái Lan trong đó có Căm-pu-chia và Việt Nam.

Một điểm đến khác được khách Israel ưa chuộng chính là một số nước Đông Âu như Ba Lan và Rumani. Nhiều người Israel có thân nhân hoặc gốc gác tại Ba Lan. Nhiều trường học ở Israel tổ chức các chuyến đi tham quan các trại giam người Do thái của phát xít Đức tại các nước đó. Hơn nữa, gần đây ngành du lịch của các nước đó phát triển rất mạnh mẽ. Các nước Đông Âu cũng nổi tiếng với những thành phố có kiến trúc kinh điển, phong cảnh đặc trưng châu Âu và ít mang tính thương mại hơn các nước Tây Âu.

Hình thức đi du lịch: Trong vòng 10 năm trở lại đây lượng khách du lịch Israel đến các quốc gia khác ngày càng tăng lên do tình hình kinh tế khả quan. Các chuyến đi của người Israel chủ yếu là tới các nước châu Âu như Pháp, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ và Áo. Hầu hết các khách du lịch Israel đi tới các nước đó đều đi theo chương trình trọn gói với các công ty lữ hành. Các gói du lịch thường ngắn ngày hoặc các chương trình dành riêng cho người trượt tuyết.

Đặc điểm chi tiêu: Người Israel có mức chi tiêu khi đi du lịch ở một số nơi khá cao, đó là những nơi nổi tiếng đắt đỏ, trong đó có những thành phố nổi tiếng với các chuyến shopping và tham quan ngắn ngày như New York, Luân Đôn và Paris. Một số thành phố khác mà người Israel chi tiêu nhiều đó là các thành phố liên quan đến sòng bạc vì luật pháp Israel cấm công dân đánh bạc trong lãnh thổ Israel. Sự phát triển có tính cách mạng của thẻ tín dụng tại Israel đã có tác động rất lớn tới người Israel từ đầu những năm 1990. Người Israel nói chung có thái độ dè dặt đối với thẻ tín dụng và các nghiệp vụ ngân hàng cho đến giữa những năm 1990. Mười năm trở lại đây, người sử dụng thẻ tín dụng nhiều lên đáng kể đặc biệt là trong những thương vụ mua bán du lịch với số lượng lớn như mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn hoặc thuê xe ô tô – những dịch vụ mà khách du lịch thường phải trả trước thời điểm sử dụng vài tháng. Sự thâm nhập của thẻ tín dụng vào các nghiệp vụ bán lẻ trong ngành du lịch diễn ra chậm hơn so với việc mua vé xem kịch, đặt ăn uống. Tuy nhiên việc thanh toán bằng thẻ tín dụng đối với việc ăn uống, mua sắm quần áo hay quà lưu niệm cũng đang tăng lên trông thấy. Người Israel cũng sử dụng tiền mặt trong khi đi du lịch, tuy nhiên chủ yếu là dùng trong các dịch vụ nghỉ ngơi thuần túy. Sự gia tăng số người sử dụng thẻ tín dụng ở Israel một phần là do nhu cầu của du khách đối với việc sử dụng cây rút tiền và việc nhiều cửa hàng cửa hiệu chấp nhận thanh toán qua thẻ tín dụng. Việc sử dụng thẻ tín dụng trở nên phổ biến hơn khiến việc sử dụng séc du lịch trở nên ít thông dụng hơn.

Bảng 2.1: Bảng phương thức thanh toán du lịch của khách Israel

Phương tiện giao thông: Phương tiện giao thông chủ yếu mà người Israel sử dụng cho chuyến du lịch chính là đường hàng không. Năm 2013 tổng số lượt khách Israel đi ra nước ngoài bằng đường hàng không là 4.275.500 lượt chiếm 89% trong tổng số lượt khách đi du lịch nước ngoài, tăng 10% so với năm 2012. Nguyên nhân là do trước đó hãng hàng không Israir mở chuyến bay mới tới Mỹ và sau đó lại đóng ngừng bay khiến cho một số khách du lịch người A-rập không  có xu hướng đi máy bay và lúc này chỉ có các du khách Israel giàu có mới có thể sử dụng máy bay cho các chuyến du lịch dài tới các điểm đến xa khác. Các chuyến du lịch bằng đường bộ của khách quốc tịch Israel chủ yếu do người gốc Israel thực hiện trong khi đó khách Israel gốc Do thái ít khi đi tới các nước trong khu vực Trung Đông trừ Thổ Nhĩ Kỳ. Như vậy xu hướng chung của khách Israel là thường xuyên sử dụng đường hàng không cho các chuyến đi vì trên các chuyến bay thường có ít khách A-rập.

Khách du lịch Israel cũng đang có xu hướng thích các chuyến du lịch tàu biển mặc dù số người này chưa nhiều. Số lượt khách đi du lịch tàu biển cao cấp không bao gồm trong số liệu khách du lịch bằng đường biển dưới đây vì khách du lịch Israel đi bằng đường biển chủ yếu là đến Hy Lạp bằng phà hoặc tới một số nước trong khu vực Địa Trung Hải khác. Phương tiện chuyên chở bằng phà tuy rẻ nhưng lại tiêu tốn nhiều thời gian. Chính vì vậy số lượng khách đi bằng đường biển qua cảng Asdod giảm mạnh năm 2013 so với năm 2012 và 2011. Số lượng khách đi bằng đường biển từ đây chỉ bằng 30% so với năm trước. Tuy nhiên cảng Haifa vẫn giữ lưu lượng khách du lịch quả ngả tàu biển ra nước ngoài khác cao mặc dù so với năm 2012, năm 2013 đã giảm 7% số lượt khách. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Hình  2.4: Số lượt khách Israel ra nước ngoài theo phương tiện vận chuyển 

Mục đích du lịch: Mục đích chính của các chuyến đi của khách du lịch Israel là nghỉ ngơi. Năm 2013 khách du lịch thuần túy nghĩ dưỡng chiếm 76% tổng số khách du lịch ra nước ngoài. Tuy vậy số lượt khách đi thăm thân kết hợp cũng tăng nhẹ từ 10% đến 12 %. Điều này cho thấy khách Israel cũng đang có xu hướng chọn những chuyến đi chi phí hợp lý để thăm bạn bè người thân thay vì đi những chuyến đi dài ngày đắt đỏ. Các chuyến đi làm việc cũng tăng mạnh do sự phát triển về mặt kinh tế của Israel cũng như quan hệ của Israel, thế giới Do thái với thế giới ngày càng có những bước tiến mới. Năm 2013 du lịch kết hợp thương mại tăng trưởng tới 14% so với năm 2012 do những năm trước kinh tế suy thoái, sau thời kỳ suy thoái kinh tế hồi phục và thúc đẩy nhiều mối quan hệ giao thương giữa Israel và các nước khác.

Sự gia tăng đáng kể các chuyến du lịch ra nước ngoài của du khách Israel đã thúc đẩy các doanh nghiệp tổ chức du lịch thương mại. Cùng với xu thế chung của thế giới đó là các hãng hàng không ngày càng đưa ra nhiều chương trình hội viên cho hàng khách, nhiều hãng hàng không nước ngoài đã chào mời các chương trình khuyến khích hội viên trung thành bay với hãng hàng không và có nhiều ưu đãi kèm theo. Các chương trình hội viên đó thương có những ưu đãi phổ biến như được sắp xếp chỗ ngồi chờ đặc biệt tại sân bay, điều kiện máy bay đẳng cấp và được tích lũy điểm qua các chuyến bay. Các chương trình này thường tập trung vào khách thương gia vì nhóm khách này có khả năng chi trả cao và hay đi lại bằng máy bay.

Đối với mục đích du lịch nghỉ ngơi, các số liệu cho thấy càng ngày người Israel càng đi du lịch theo các nhóm chứ không còn đi theo từng gia đình như trước kia nữa. Các nhóm đó có thể là câu lạc bộ người hâm mộ một môn thể thao nào đó tham dự một sự kiện thể thao như Thế vận hội, World Cup hoặc vòng chung kết của các cúp châu Âu. Những người có nhu cầu chữa bệnh thì đi theo nhóm những người có cùng mục đích chữa loại bệnh nào đó hoặc đến một nơi nghỉ dưỡng và chữa bệnh đặc biệt ở một nước khác. Những người ưa mạo hiểm thì tận hưởng những kỳ nghỉ theo nhóm như cùng sử dụng xe jeep quân sự, cùng sở thích leo núi, đạp xe đạp tại những địa danh nổi tiếng thế giới.

Xu hướng của thị trường khách du lịch israel: Số lượng khách du lịch Israel đi nước ngoài khá ổn định và có những bước tăng vững chắc. Sự thực đã cho thấy, người Israel đã thể hiện rằng họ muốn đi du lịch hơn là những vấn đề từ trước đến nay thế giới vẫn thành kiến về họ như chính trị, quân sự. Dự báo số lượng khách du lịch Israel ra nước ngoài sẽ tăng khoảng 12% cho đến năm 2020.

Chi tiêu du lịch của người Israel tại nước ngoài cũng được dự báo tăng 17%, đạt 20 tỷ NIS (tương đương khoảng 7 tỷ đô la Mỹ) vào năm 2020. Sự tăng trường thu nhập có thể tiêu dùng được cho các hộ gia đình dự báo rằng chi tiêu trung bình cho mỗi chuyến đi du lịch của người Israel sẽ tăng tương ứng. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Ngày 30 tháng 3 năm 2011, Mỹ và Israel đã chính thức tuyên bố thỏa thuận Open Skies đi vào hiệu lực. Đây là thỏa thuận giữa các quốc gia với Mỹ về các hợp tác hàng không dân dụng. Điều này đem lại lợi ích cho các bên tham gia và đặc biệt nó mở ra các cơ hội liên kết cho các hãng hàng không trên thế giới, tạo điều kiện cho hành khách đi tất cả những địa điểm trên thế giới thông qua cùng một hệ thống. Mặc dù thỏa thuận này là thỏa thuận song phương giữa Mỹ và các quốc gia nhưng trong các điều khoản của nó lại ràng buộc nhiều điều kiện khi có bên thứ ba tham dự. Hơn nữa, Mỹ là một trung tâm, là điểm đến hàng đầu của du khách khắp nơi trên thế giới và cũng là nguồn khách lớn hàng đầu thế giới, chính vì vậy sự kết nối của các hãng hàng không xuất phát từ thỏa thuận này rất có ý nghĩa. khách du lịch Israel có thể dễ dàng chuyển từ những điểm đến truyền thống sang những điểm đến mới lạ hơn mà không phải cân nhắc các phương tiện vận chuyển (về độ an toàn cũng như về thuận tiện).

Sự bùng nổ của internet và các dich vụ viễn thông di động đã có tác động không nhỏ đến quyết định đi du lịch của người Israel. Từ những năm 1990, Israel đã phát triển internet băng thông rộng và đến năm 2008, Israel là một trong số ít nước có cơ sở hạ tầng băng thông rộng, đưa internet đến 95% dân số. Năm 2007 thị trường internet băng thông rộng của Israel đứng thứ 7 trên thế giới. Một cơ sở hạ tầng internet sử dụng cáp quang đưa internet tốc độ cao 1 Gbit/s đang được xây dựng và sẽ sớm đưa vào sử dụng. Những thông tin về sự phát triển của internet tại Israel trên đây sẽ cho thấy sự phát triển kéo theo của ngành thương mại điện tử trong đó có ngành du lịch. khách du lịch Israel có thể tra cứu thông tin, đặt chỗ, đặt tour từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Họ có thể dễ dàng so sánh, cân nhắc khi quyết định điểm đến. Các vấn đề liên quan đến du lịch như thanh toán qua mạng cũng sẽ được thúc đẩy, tạo nên tiện ích cho du khách. Các đại lý lữ hành trong nước và tại các điểm đến sẽ thúc đẩy tiếp thị thông qua internet, vừa tiết kiệm chi phí, vừa cập nhật thông tin với hình ảnh, âm thanh sống động, vừa dễ dàng tiếp cận đến khách hàng tiềm năng.

Du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh đang ngày càng trở thành xu hướng phổ biến của du lịch thế giới. Điều này là hệ quả tất yếu của xã hội phát triển, khi con người dành cả thời gian còn sức lao động và đến khi nghỉ ngơi, nhu cầu sức khỏe được đặt lên hàng đầu. Không thỏa mãn với những phương pháp và địa điểm nghỉ ngơi chữa bệnh trong nước, con người muốn đi tới các vùng đất xa xôi để thư giãn, học và thực hành phương pháp chữa bệnh nhằm duy trì sức khỏe và kéo dài tuổi thọ. Israel là nước có lịch sử phát triển thần kỳ, đi lên từ nền nông nghiệp và công nghiệp lạc hậu, tuy nhiên đến thời điểm này, Israel đã là một nước công nghiệp với những thành tựu vượt bậc. Thế hệ xây dựng đất nước Israel trong độ tuổi từ 50 đến 70 có nhu cầu nghỉ ngơi, chữa bệnh rất lớn. Ngoài các biện pháp y học tiên tiến, họ cũng có nhu cầu thư giãn, hồi phục sức khỏe bằng các biện pháp truyền thống như Yoga, Thiền… hay trải nghiệm nghỉ dưỡng tại những cánh rừng nhiệt đới xanh cạnh những bờ biển cát trắng  – điều mà ở Israel không có.

Ngày nay, sự xuất hiện ngày càng nhiều các hãng hàng không giá rẻ, trong đó việc thuê trọn gói máy bay cho các chuyến du lịch cho cả nhóm là việc đơn giản hơn trước kia rất nhiều. Thứ nhất, chi phí thuê không quá đắt đỏ, thứ hai, các hội đoàn và nhóm gia đình ngày càng có quyết định đi du lịch cùng thời điểm nên việc thuê máy bay riêng là giải pháp tối ưu nếu số lượng người cho phép. Người Israel có nhiều liên hệ với các nhóm gốc Do thái khắp nơi trên thế giới, nhất là giới chủ các nhà máy, ngân hàng gốc Do thái. Nhu cầu thuê máy bay riêng giá rẻ khiến cho việc đi lại của khách du lịch Israel nhộn nhịp và đa dạng hơn. Việc thuê riêng máy bay trở nên linh hoạt hơn trước còn bởi vì kích cỡ vận chuyển của máy bay cho thuê hiện nay đang dạng hơn trước, từ những chiếc phản lực cá nhân 2 người bay cho đến những chiếc Boeing chứa hàng trăm hành khách. Hiện nay theo thống kê sơ bộ tại Israel có một số hãng hàng không chuyên cho thuê máy bay riêng, đó là: Aerofly And Orange Aviation, Arkia Israeli Airlines,  Aviation Bridge, C.A.L. Cargo Airlines, Chief Air, Lahak Aviation, Moon Air Aviation. Đây là điều rất ấn tượng đối với một quốc gia có dân số chưa vượt quá 10 triệu dân.

Các yếu tố cầu du lịch của thị trường khách Israel: Số lượng khách du lịch Israel đi ra nước ngoài năm 2014 đạt 5,180 triệu người, 6 tháng đầu năm 2015 con số này là 2,385 triệu lượt khách. 6 tháng đầu năm 2015 có tốc độ tăng trưởng 2.8 % so với cùng kỳ năm 2014. Riêng số lượt khách đi du lịch bằng đường hàng không năm 2014 đạt 4,731 triệu lượt, 6 tháng đầu năm 2015 đạt 2,2 triệu lượt khách tăng 7.5% so với cùng kỳ năm 2014. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Số liệu năm 2011 cho thấy có 2,4 triệu người Israel đi ra nước ngoài du lịch trong đó có 1,6 triệu người (chiếm 67%) đi nước ngoài một lần và hơn 800.000 người ra nước ngoài từ 2 lần trở đi. 88% số lượt đi du lịch nước ngoài được thực hiện qua đường hàng không, 10% bằng đường bộ và chỉ có 2 % bằng đường biển. Vào tháng 7 và tháng 8 hàng năm số lượt khách du lịch Israel ra nước ngoài đông nhất chiếm 27% tổng số lượt khách du lịch nước ngoài.

Số lượt khách du lịch ra nước ngoài rất ấn tượng so với toàn bộ dân số chỉ có hơn 8 triệu người. Nó cho thấy rằng nhiều người Israel có khả năng và nhu cầu đi du lịch nước ngoài và mỗi người có thể đi du lịch nước ngoài nhiều lần. Mức độ tăng trưởng hàng năm rất cao thể hiện cầu du lịch quốc tế của người dân Israel tăng mạnh.

Hình 2.5: Biểu đồ số lượng khách Israel đi du lịch nước ngoài giai đoạn 1990 – 2011

Trong hai năm 2013 và 2014, chi tiêu cho các chuyến bay của người Israel ra nước ngoài luôn đạt tốc độ tăng trên 10% và lần lượt đạt giá trị là 122 và 1,3 tỷ đô la Mỹ (số liệu làm tròn). Riêng 3 tháng đầu năm 2015, chi tiêu của khách du lịch Israel cho các hãng hàng không nước ngoài là 219 triệu đô-la Mỹ tăng 17.1 % so với cùng kỳ năm trước. Chi tiêu của khách du lịch Israel tại nước ngoài (không bao gồm chi phí cho các chuyến bay quốc tế) từ năm 2009 luôn vượt con số 3 tỷ đô la Mỹ, riêng năm 2014 con số này đạt 4,2 tỷ đô la Mỹ. 3 tháng đầu năm 2015, tổng chi tiêu của khách  du lịch  Israel ở nước ngoài là 808 triệu đô la Mỹ, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2014. Tốc độ tăng chi tiêu của khách du lịch Israel luôn dương và có những đột biến như 3 tháng đầu năm 2015 (16,4%), quý II-2014 tăng 21,9% và quý IV-2014 tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2013. Năm 2012 tổng chi tiêu của khách du lịch giảm do những căng thẳng quân sự trong khu vực có tác động tiêu cực đến lượt khách đi du lịch nước ngoài. Quý I-2014 và quý III-2014 có suy giảm chút ít, do ảnh hưởng rõ nét của tính mùa vụ du lịch cũng như nhu cầu chi tiêu dồn vào Quý II và Quý IV. Tuy nhiên tỷ lệ giảm này không đáng kể.

Hình 2.6: Chi tiêu của khách du lịch Israel cho các chuyến du lịch nước ngoài

Lưu ý

  • Chi tiêu của người Israel đi du lịch nước ngoài không bao gồm chi tiêu cho các chuyến bay quốc tế
  • Thu nhập của các hãng hàng không Israel trên các chuyến bay quốc tế bao gồm các tuyến hàng không quốc tế giữa các sân bay ở nước ngoài Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Theo số liệu khảo sát của hãng Euromonitor International năm 2005, chi tiêu du lịch của người Israel tại nước ngoài chủ yếu là cho phòng khách sạn, khoảng 3 tỷ shekel (tương đương 1 tỷ đô la Mỹ) trong khi chi tiêu cho giải trí gần bằng con số đó, chi tiêu cho ăn uống khoảng 1 tỷ shekel. Hầu hết người Israel không chỉ sử dụng phòng khách sạn đơn thuần mà họ thường có sở thích thưởng thức các món ăn đặc sản địa phương mỗi nơi họ đi du lịch. Chi tiêu cho mua sắm năm 2005 đạt 2 tỷ shekel. Mặc dù con số này tăng nhưng cũng cho thấy nhiều người Israel có suy nghĩ rằng tại nước họ các đồ lưu niệm, thủ công cũng có sẵn nên họ ít mua ở nước ngoài mang về dẫn đến tổng chi tiêu cho mua sắm không quá cao.

GDP của Israel năm 2013 đạt mức 274.5 tỷ đô la Mỹ dựa theo sức mua và xếp thứ 49 trên thế giới. GDP bình quân đầu người đạt mức 34.900 đô la Mỹ năm 2013 và đứng thứ 40 trên thế giới  (CIA World factbook, 2015).

Theo bảng thống kê thu nhập theo từng hộ gia đình, chúng ta sẽ thấy rõ hơn mức thu nhập của các gia đình Israel năm 2012 để thấy các yếu tố cầu du lịch của thị trường khách này có tiềm năng như thế nào.

Như vậy, thu nhập của các hộ gia đình Israel bình quân hàng tháng là 16.577 NIS (khoảng 5.000 đô la Mỹ) và hàng tháng người Israel sử dụng 466NIS cho việc chi tiêu du lịch nước ngoài (tương đương với khoảng 150 đô la Mỹ).

Hình 2.7: Thu nhập trung bình và chi tiêu trung bình của người dân Israel cho du lịch nước ngoài hàng tháng – năm 2012

Đầu những năm 1990, nhà nước Israel có yêu cầu cả nước nghiêm chỉnh tuân theo lịch Do thái, quy định ngày chuẩn bị cho ngày lễ Shabath hàng tuần là một ngày bất kỳ trong một tuần. Cuối những năm 1990, cả nước Israel lấy ngày thứ sáu hàng tuần là ngày nghỉ để chuẩn bị cho ngày lễ Shabath (rơi vào ngày thứ Bảy hàng tuần). Gần 20 năm qua, cả nước Israel chính thức được nghỉ 2 ngày cuối tuần (thứ sáu và thứ  bảy). Điều này đã tạo điều kiện cho người dân Israel có thêm thời gian nghỉ ngơi giải trí và đi du lịch.

Lịch của người Do thái khác hoàn toàn với lịch mà hầu hết chúng ta đang sử dụng. Tuy nhiên sự khác biệt này chỉ có tác động đối với nền kinh tế Israel qua các kỳ nghỉ và ngày lễ trọng của họ – vốn được quy định theo lịch Do thái.

Như vậy sẽ có rất nhiều ngày lễ và kỳ nghỉ rơi vào các ngày cuối tuần hàng năm, và điều này có tác động đối với kinh tế xã hội Israel.

Người lao động Israel được nghỉ 14 ngày một năm trong vòng bốn năm đầu làm việc. Năm thứ năm họ được nghỉ 16 ngày và năm thứ sáu được nghỉ 18 ngày. Năm thứ bảy được nghỉ tổng cộng 21 ngày và sau đó cứ thêm một năm thì được nghỉ thêm một ngày cho đến tối đa là 28 ngày. Các cơ quan công quyền hoặc thuộc quyền quản lý nhà nước thì tuân thủ theo quy định này còn các cơ quan tư nhân thì không hoàn toàn như vậy. Các công ty của nước ngoài thì tuân theo quy định này của chính phủ Israel còn các công ty Mỹ tại Israel hoặc có thuê người Israel thì có xu hướng cho phép nghỉ ít ngày hơn một chút so với quy định.

2.1.2. Đặc điểm khách du lịch Israel đến Việt Nam Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

2.1.2.1. Khái quát về tình hình khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Trong giai đoạn năm năm vừa qua, khách du lịch Israel đến Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng nhanh  mặc dù số lượng chưa nhiều. Từ những năm 2012, sau khi chính phủ hai nước Việt Nam và Israel thiết lập quan hệ ngoại giao sâu rộng và có nhiều hiệp định hợp tác thương mại, khoa học kỹ thuật được ký kết, lượng khách Israel đến Việt Nam đã tăng đều đặn. Đồng thời với đó là các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam trên các kênh truyền thông quốc tế, hoạt động quảng cáo sản phẩm của các doanh nghiệp du lịch và các hoạt động của các tập đoàn khách sạn lớn trên thế giới có kinh doanh tại Việt Nam nên xuất hiện một lượng du khách Israel đi du lịch Việt Nam theo các kênh internet và thông qua hệ thống đặt phòng  quốc tế.

Hình 2.8: Số lượt khách đến Việt Nam giai đoạn 2010 – 2013

Số liệu từ Cục Quản lý Xuất nhập cảnh Bộ Công An cho thấy năm 2010 chỉ có khoảng 9.118 lượt khách du lịch từ Israel đến Việt Nam thì năm 2011 đã có 10.266 lượt khách và năm 2012 có 11.104 lượt khách, năm 2013 có 12226 lượt khách. Tỷ lệ tăng trưởng đều từ 3.3% cho đến năm 2013 tỷ lệ cao nhất đạt 10.8%.

So sánh với các thị trường khách du lịch từ khu vực Trung Đông khác thì Israel luôn có lượng khách lớn nhất.

Bảng 2.2 Bảng thống kê lượng khách du lịch Trung Đông đến Việt Nam

Tuy lượng khách Israel đến Việt Nam cao nhất trong các nước Trung Đông đến Việt Nam nhưng so với điểm đến Thái Lan, lượng khách Israel đến Việt Nam còn quá khiêm tốn, chỉ bằng khoảng 8% lượng khách đến Thái Lan.

Theo nhận định của một số chuyên gia du lịch thì Việt Nam cũng dần trở thành một điểm đến được biết tới của khách du lịch Israel,nhất là từ khi quan hệ hợp tác trong du lịch giữa hai nước được đẩy mạnh, phía Việt Nam cũng đã có nhiều đoàn khách thăm Israel và Việt Nam cũng phối hợp với Bộ ngoại giao Israel mở một số hội thảo về khai thác nguồn khách Israel đến Việt Nam. Từ năm 2004 đến nay, trừ năm 2009 chịu tác động của khủng khoảng kinh tế, số lượng khách du lịch Israel đến Việt Nam tăng liên tục.

Tốc độ tăng cao nhất đạt được năm 2011 (12.6 %), do tình hình kinh tế Israel có nhiều khả quan. Các hãng hàng không như Thai Airways, Air France liên tục có những chương trình khuyến mại từ Hà Nội, Tp HCM đi Bangkok – điểm trung chuyển quan trọng của du khách Israel bay từ Tel Aviv đến Việt Nam. Thêm nữa Hongkok cũng là một trạm trung chuyển quan trọng từ Việt Nam sang Israel và Cathay Pacific có một số ưu đãi dành cho chuyến này trong năm 2011 nên lượng khách Israel đến Việt Nam tăng hơn so với năm 2010. Quan trọng nhất là trong năm này, Việt Nam và Israel ký một số hiệp định quan trọng như Hiệp định vận tải biển, Hiệp định hợp tác giữa phòng thương mại Công nghiệp Việt Nam và Israel, Nghị định thư hợp tác tài chính, Hiệp định hợp tác quốc phòng. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Theo dự báo, lượng khách du lịch Israel đến Việt Nam có thể đạt gần 15.000 lượt khách năm 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,6 %/năm giai đoạn 20122015.

Đáng chú ý, nếu lấy số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam về số lượt khách du lịch Israel đến Việt Nam so với số lượng khách du lịch Israel đến các nước khác trong khu vực Đông Nam Á thì Việt Nam nằm trong nhóm 10 điểm đến yêu thích nhất của khách du lịch Israel, xếp trên Sinh-ga-po, Ma-lai-xi-a và Indonesia, chỉ sau có Thái Lan. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác biệt này là do các nước Malaysia, Singapore, Indonesia là các nước Hồi Giáo, do mối quan hệ không bình thường giữa Israel và thế giới Hồi Giáo nên lượng khách Israel đến các nước này rất ít, hầu như không có. Tuy nhiên cũng theo các tài liệu nghiên cứu khảo sát trong ngành du lịch thì khách du lịch Israel đến Thái Lan chủ yếu là giới trẻ, tìm đến Thái Lan hưởng thụ các dịch vụ du lịch phù hợp với giới trẻ tự đi du lịch, chi phí thấp, mới lạ. Đây là điểm mà Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để cân nhắc lựa chọn khai thác những phân khúc khác của thị trường khách du lịch Israel nhằm tránh cạnh tranh trực diện với điểm đến Thái Lan và tạo nên sự khác biệt. Nâng cao chất lượng nguồn khách Israel nhằm khai thác thế mạnh về chi tiêu du lịch của thị trường này.

Số lượng khách du lịch Israel đến Việt Nam đạt mức cao nhất vào tháng 3 (tháng Tết, mùa xuân, mùa lễ hội ở Việt Nam) và tháng 12 (tháng mùa hè, nghỉ cuối năm đồng thời cũng là mùa cao điểm đi du lịch nước ngoài của người Israel).

Chi tiêu bình quân của khách du lịch Israel đến Việt Nam bằng đường hàng không đạt 1.460 đô la Mỹ/lượt khách, hơn cả mức bình quân chung chi tiêu của khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam là 27%  hơn cả mức chi tiêu bình quân của khách du lịch Mỹ ở mức 1.432 đô la Mỹ. Mức chi tiêu của khách du lịch Israel đến Việt Nam là khá cao, chỉ sau một số nước Bắc Âu là những nước có điều kiện kinh tế xã hội và phúc lợi hàng đầu trên thế giới. Mức chi tiêu của du khách Israel còn vượt xa so với chi tiêu của du khách Nhật Bản tại Việt Nam. Mức chi tiêu bình quân trong ngày của KDL Israel đạt 73 đô la Mỹ, con số này là khá thấp so với hầu hết các thị trường khác, nguyên nhân là do các chi tiêu dành cho mua sắm hàng hóa và đồ lưu niệm ít. Về cơ cấu chi tiêu, khách du lịch Israel cùng với khách từ những nước có vị trí địa lý xa Việt Nam thường có thời gian lưu trú dài nên chi tiêu của một lượt khách cao hơn; nhưng cũng chính vì ở dài ngày nên mức chi tiêu ổn định bởi các nhu cầu sinh hoạt ít phát sinh, vì vậy mức chi tiêu của một ngày sẽ ít hơn so với khách đi ngắn ngày.

Pháp, Đức và Mỹ là những người có tỷ lệ chi tiêu cho thuê phòng thấp hơn Israel (Israel là 28% trên tổng chi tiêu còn Pháp, Mỹ, Đức khoảng 25% đến 26%). Tuy nhiên, người Israel cùng với người Mỹ có tỷ lệ chi tiêu dành cho hoạt động vui chơi giải trí ít nhất (khoảng 10 %). Trong khi đo chi tiêu cho hoạt động tham quan danh lam thắng cảnh, viện bảo tàng chiếm tỷ lệ khá cao tương đương với các thị trường Mỹ, Nhật, thấp hơn một số nước có truyền thống đi du lịch như Áo, Đức, Anh, Australia. Ngoài ra, người Israel cùng với người Mỹ có tỷ lệ chi tiêu cho các hoạt động khác nhiều hơn đáng kể so với các nước khác (trên 10 % trong khi các nước khác như Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức chỉ mức dưới 5 %).

2.1.2.2. Đặc điểm nhân khẩu thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Theo kết quả điều tra của tác giả thì độ tuổi đi du lịch của khách Israel đến Việt Nam dưới 21 tuổi chiếm số đông nhất (27%), tiếp là đến độ tuổi 35 đến 67 và trên 67 (lần lượt là 21% và 20%). Tỷ lệ khách du lịch nam giới quốc tịch Israel chiếm 51%. Số liệu này không có thông tin về những người lưỡng giới hay đồng tính – một cơ cấu dân số khá phổ biến tại các nước phương Tây nói chung và Israel nói riêng. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Hình 2.9: Biểu đồ cơ cấu tuổi khách du lịch Israel đến Việt Nam

Hình 2.10: Biểu đồ cơ cấu nghề nghiệp của khách du lịch Israel đến Việt Nam

Trong số người được hỏi của cuộc khảo sát trong phạm vi đề tài, có 39% số người được hỏi ở độ tuổi về hưu và trẻ em. Điều này chứng tỏ số người có điều kiện về mặt tài chính và thời gian thường là những người hết độ tuổi lao động, đang hưởng lương hưu và phúc lợi nhà nước. Đi kèm đó là một số lượng trẻ em vì người Israel thường có xu hướng đi du lịch theo gia đình, đưa con nhỏ theo. Số quan chức chính phủ đến Việt Nam có thể thuộc những chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật và kinh tế hoặc ngoại giao của Israel với Việt Nam.

2.1.2.3. Đặc điểm tiêu dùng của thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam

Kênh tìm kiếm thông tin du lịch Việt Nam của du khách Israel: Theo kết quả điều tra các doanh  nghiệp của Tổng cục Du lịch Việt Nam phục vụ cho đề án thu hút thị trường khách du lịch Trung Đông thì khách du lịch Trung Đông nói chung và Israel nói riêng có khoảng 70% là sử dụng website của các doanh nghiệp để tìm kiếm thông tin cho chuyến đi của mình. Theo kết quả của khảo sát phục vụ đề tài, trong số 350 phiếu nhận được có 127 phiếu trả lời rằng họ dùng internet để làm phương tiện tìm hiểu thông tin cho chuyến du lịch, nhóm này chiếm 36%. Điều này cho thấy khách du lịch Israel sử dụng internet khá nhiều và các doanh nghiệp Việt Nam cần có kế hoạch lập, sử dụng các trang web làm cổng thông tin du lịch Việt Nam nhằm thu hút khách hiệu quả hơn. Có 27% số người được hỏi là tìm kiếm thông tin qua tham khảo thông tin từ các công ty lữ hành. Nhóm này rất có thể là nhóm khách tiềm năng của các công ty lữ hành của Israel và Việt Nam. 16% số người được hỏi xin tư vấn của người quen đã đi thăm Việt Nam. Chỉ có 6% trả lời là lấy thông tin du lịch Việt Nam từ các hội chợ. Mặc dù đây là kênh thông tin quan trọng nhưng nguyên nhân tỷ lệ dùng kênh này thấp là do Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến các hội chợ du lịch trên thế giới nói chung và tại Israel và vùng Trung đông nói riêng.

Hình 2.11: Kết quả khảo sát các nguồn thông tin khách du lịch Israel tham khảo cho chuyến đi tại Việt Nam

Hình thức đi du lịch: Cũng qua kết quả khảo sát điều tra thì đa số khách du lịch Israel đi du lịch tự do sang Việt Nam chiếm 44% (156 người được hỏi chọn). Có 25 % khách mua tour qua công ty lữ hành Israel và 22% mua qua công ty Việt Nam. Điều này cho thấy cơ hội của các công ty lữ hành Việt Nam trong việc cạnh tranh với các công ty lữ hành quốc tế và Israel trong việc thu hút nguồn khách này, nhất là trong giai đoạn internet và các công cụ thanh toán quốc tế trở nên quen thuộc như hiện nay.

Hình 2.12: Biểu đồ khảo sát kênh mua tour của khách du lịch Israel đến Việt Nam

Độ dài của chuyến du lịch tại Việt Nam của khách Israel: khách du lịch Israel đến Việt Nam nhìn chung đều thực hiện những chuyến đi khá dài ngày, rất ít khách thăm Việt Nam chỉ có 3-4 ngày. Nguyên nhân là do khoảng cách địa lý từ Israel đến Việt Nam rất xa, hơn nữa các điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam lại nằm trải dài từ Bắc tới Nam. Trong số người được hỏi trong cuộc khảo sát phục vụ đề tài thì có đến 144 người trả lời đi du lịch Việt Nam trong hơn 1 tuần chiếm 40%  và 125 người đi trong vòng 1 tuần chiếm 35% tổng số người được hỏi. Số còn lại đi 3 ngày đến 5 ngày rất ít, chủ yếu họ đi làm việc hoặc kết hợp các chuyến du lịch tới các nước khác như Thái Lan, Căm-pu-chia. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Hình 2.13: Biểu đồ số lượng ngày khách du lịch Israel thăm Việt Nam

Đặc điểm và cơ cấu chi tiêu của khách du lịch Israel đến Việt Nam: Chi tiêu bình quân ngoài tour của một khách Israel đi du lịch Việt Nam theo tour được thể hiện rõ trong kết quả khảo sát của Tổng cục thống kê năm 2013. Theo đó khách Israel chi dùng cho các hoạt động vui chơi giải trí lớn hơn các khoản còn lại, chiếm 34%, lên đến 269 USD. Tiếp theo là dành cho ăn uống ngoài chương trình du lịch chiếm 23% trong tổng cơ cấu, đạt 182USD / người.  Chi tiêu cho các dịch vụ y tế hầu như không có gì: 2 USD / người. Điều này có thể là do các dịch vụ y tế dành cho khách du lịch không sẵn có, tiền thuốc và dụng cụ sơ cứu y tế được khách mua từ nước ngoài là chủ yếu. Ngoài các chương trình du lịch thì khách có xu hướng mua thêm dịch vụ phòng nghỉ với 40USD / người.

Hình 2.14: Chi tiêu ngoài tour bình quân một khách du lịch Israel đối với khách đi theo tour

Hình 2.15: Biểu đồ cơ cấu chi tiêu ngoài tour bình quân một khách du lịch Israel đối với khách đi theo tour

Đối với khách tự sắp xếp chuyến đi, tất yếu các chi phí cho buồng phòng chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu chi tiêu chiếm 53% tổng chi tiêu, đạt 417 USD / người. Ăn uống và tham quan là các khoản chi tiêu lớn tiếp theo sau buồng phòng, lần lượt chiếm 48% và 35 %. Chi tiêu cho việc mua sắm hàng hóa chỉ có 12% trong cơ cấu vì khách tự sắp xếp chuyến đi nên khả năng mua sắm ít đi. Chi tiêu cho y tế cao hơn chút ít, chiếm 1% trong tổng cơ cấu, đạt 9USD / người vì khách tự sắp xếp chuyến đi nên các chi phí cho thuốc men, sơ cứu tại các cơ sở khám chữa bệnh ở Việt Nam của khách Israel cao hơn. Chi phí khác của khách tự sắp xếp chuyến đi  đạt 140 USD / người chiếm 18% trong cơ cấu chi tiêu, con số này cao hơn rất nhiều so với cơ cấu và mức chi tiêu của khách du lịch Israel đi theo tour. Các chi phí này có thể bao gồm chi phí bảo hiểm, chi phí xuất nhập cảnh và các khoản không định danh được.

Hình 2.16: Chi tiêu bình quân một khách du lịch Israel đối với khách tự sắp xếp chuyến đi

Hình 2.17: Biểu đồ cơ cấu chi tiêu ngoài tour bình quân một khách du lịch Israel đối với khách tự sắp xếp chuyến đi

Chi tiêu bình quân ngày của khách du lịch Israel tự sắp xếp chuyến đi tại Việt Nam khá thấp, chi phí cho buồng phòng chỉ 21 USD. Có thể nhận định đây là mức giá phòng dành cho tầm khách sạn 3 sao. Tương tự với mức ăn uống 18USD / ngày / người tương đương với khoảng 400.000 VNĐ cho 2 bữa là mức ăn tại một số nhà hàng cỡ trung bình hoặc set menu tại các khách sạn, không có sự thưởng thức các món ăn đặc sản tại các vùng miền. Chi phí cho y tế, giải trí hầu như không có vì mục đích của nhóm khách tự sắp xếp chuyến đi là thăm thú các nơi. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Hình 2.18: Chi tiêu bình quân ngày của khách du lịch Israel đối với khách tự sắp xếp chuyến đi

Hình 2.19: Biểu đồ cơ cấu chi tiêu bình quân ngày của khách du lịch Israel đối với khách tự sắp xếp chuyến đi.

Trong khi đó đối với khách du lịch đi theo tour, chi phí cho các hoạt động vui chơi của khách chiếm đa số: 34% trong tổng số chi tiêu và 19USD / ngày. Nhóm khách này cũng chi 13USD / ngày cho việc ăn uống, đây là khoản ăn uống ngoài tour, thường thiên về xu hướng thưởng thức ẩm thực tại các điểm đến của Việt Nam.

Hình 2.20: Chi tiêu bình quân ngày của khách du lịch Israel đối với khách tự đi theo tour.

Hình 2.21: Biểu đồ cơ cấu chi tiêu bình quân ngày của khách du lịch Israel đối với khách đi theo tour

Khách du lịch Israel khi đến Việt Nam thường ít có nhu cầu mua sắm. Nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý của người Israel không đánh giá cao hàng hóa các nước so với hàng hóa và đồ lưu niệm sản xuất tại nước họ. Nếu thực sự có nhu cầu tiêu dùng, họ sẽ mua sắm hàng hóa từ các nước phát triển. Một nguyên nhân khác là do khoảng cách từ Việt Nam đến Israel khá xa, không có đường bay thẳng, cước phí gửi hàng rất lớn so với các nước khác nên lựa chọn tốt nhất là giảm mua hàng hóa đến mức thấp nhất. Nhu cầu của người Israel là đi du lịch để tìm hiểu, thăm thú và trải nghiệm nên yếu tố mua sắm, tiêu dùng thường không được đặt lên hàng đầu.

Tuy vậy việc tiêu dùng dịch vụ của khách du lịch Israel khá thoải mái. Họ sẵn sàng chi tiền để dùng thêm các dịch vụ để trải nghiệm trong chuyến du lịch như dịch vụ spa, thuê xe, học nấu ăn, thuê thuyền du lịch trên sông, xem văn nghệ truyền thống, trải nghiệm tour sinh thái… tuy các dịch vụ này thường có trong chương trình, nhưng nếu các hãng lữ hàng giới thiệu kèm, thì du khách Israel thường có xu hướng mua và sử dụng dịch vụ.

Một số đánh giá về điểm đến Việt Nam của khách du lịch Israel ; khách du lịch Israel đến Viêt Nam du lịch thường có sở thích rất đa dạng. khách du lịch Israel sang Việt Nam có một bộ phận không nhỏ có trình độ và kiến thức cao, có đời sống cao vì vậy như cầu của họ thường là chú trọng đến một số tài nguyên du lịch nhân văn liên quan đến lịch sử và tôn giáo như đình chùa, đền đài nhất là phố cổ Hà Nội, Hoàng thành Huế và đô thị cổ Hội An, khu Chợ Lớn (Tp Hồ Chí Minh). Khách đi du lịch đến các địa điểm này thường muốn được trải nghiệm không gian văn hóa tại chỗ và cũng để so sách đời sống văn hóa các vùng miền và tôn giáo khác nhau đối với nền văn hóa của họ. Chính vì thế mà người Israel luôn muốn được chứng kiến, trải nghiệm và hơn mọi thứ, họ muốn rút ra điều gì đó, để học hỏi hoặc để lấy kinh nghiệm phục vụ cuộc sống.

Hình 2.22: Biểu đồ các loại hình điểm đến ưa thích của du khách Israel

Một sở thích rất quan trọng của du khách Israel liên quan đến các điểm đến đó là các nơi nghỉ dưỡng có địa hình cao mát mẻ như Sapa, Mộc Châu, Bắc Hà. Số lượng người được hỏi trả lời thích thăm quan và trải nghiệm đời sống đồng bào các dân tộc ít người là chiếm 20% trong tổng số người được hỏi. Đặc biệt Sapa là địa điểm du khách Israel cực kỳ thích thú vì điều kiện tự nhiên ở đây rất độc đáo, nhiệt độ trung bình thấp, thỉnh thoảng có sương mù bao phủ, các dãy nhà và phố phường được xây men theo các thung lũng và triền đồi. Bên cạnh đó là cơ hội được chứng kiến và trải nghiệm cuộc sống của các dân tộc ít người Tây Bắc Việt Nam. Đây là một đặc sản có sức hấp dẫn lớn đối với du khách Israel. Không chỉ riêng Sapa mà còn có Bắc Hà là những nơi không thể bỏ qua trong các chuyến đi du lịch Việt Nam của khách du lịch quốc tịch Israel nói riêng và khách Do thái nói chung. Sự sặc sỡ đa sắc màu của các dân tộc Hmong, người Dao, người Giáy khiến du khách mê mẩn. Hơn nữa các buổi chợ phiên độc đáo ở Sapa, chợ phiên gia súc ở Cán Cấu, chợ Cốc Ly, chợ Bắc Hà là những sự kiện lôi cuốn khách, đặc biệt một số hãng lữ hàng Israel còn có khảo sát và cho rằng nhiều du khách Israel thích thú với các chợ vùng cao khu vực Lào Cai vì ở đây còn tồn tại hình thức mua bán nguyên thủy trao đổi ngang giá, không sử dụng tiền mặt.

Bên cạnh sở thích các điểm nghỉ dưỡng mát mẻ và có cơ hội chứng kiến và trải nghiệm đối với cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam, khách du lịch Israel còn thích tham quan các phong cảnh vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, các làng nghề trồng hoa và cây cảnh,trồng rau quanh khu phố cổ Hội An, thăm các làng quê bình dị và hòa đồng cùng người dân ở đây, thích được đi thuyền thăm phong cảnh, đánh bắt cá, cấy lúa và gặt lúa…

Hình 2.23: Tiêu chí tác động đến quyết định lựa chọn Việt Nam là điểm đến của du khách Israel

Như vậy nguyên nhân chủ yếu tác động đến lựa chọn của du khách Israel đến Việt Nam là sự hấp dẫn của điểm du lịch trong đó cảnh đẹp và nền văn hóa đặc sắc của Việt Nam là những yếu tố không tách rời và có sức hút đối với thị trường khách này. Việc Việt Nam được coi là điểm đến an toàn cũng là một yếu tố quan trọng trong quyết định của du khách. Các yếu tố khách như thủ tục xuất nhập cảnh hay phương tiện đi lại có ít tác động đến quyết định của họ. Tuy các yếu tố này không phải là quan trọng trong việc đưa ra quyết định như vì lý do lượng khách Israel vào Việt Nam chưa nhiều, nếu chúng ta muốn khai  thác tốt thị trường khách này thì việc nâng cáo chất lượng của các dịch vụ xuất nhập cảnh, giao thông là yếu tố rất quan trọng.

Theo kết quả điều tra của Tổng cục thống kê Việt Nam phối hợp với Tổng cục Du lịch Việt Nam, khách du lịch Israel đánh giá về Việt Nam như sau: Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Hình 2.24: Biểu đồ biểu diễn ấn tượng về Việt Nam của khách Israel

Như vậy có 86 người đánh giá điểm hấp dẫn của Việt Nam là đời sống và văn hóa các dân tộc ít người chiếm 24%, 67 người được hỏi đánh giá Việt Nam có phong cảnh đẹp chiếm 19% trong khi đó chỉ có 2 người cho rằng shopping ở Việt Nam thực sự ấn tượng. Các chỉ tiêu khách như đồ ăn an ninh an toàn,  bãi biển, đời sống nông thôn và thái độ thân thiện của người Việt Nam được số lượng người đánh giá cao xấp xỉ ngang nhau, từ 23 đến 34 người, cùng chiếm khoảng 6-7% trong tổng số người được hỏi.

Việt Nam là điểm đến dễ tiếp cận mặc dù việc xin visa vào Việt Nam không thuận tiện so với các nước châu Á khác như Thái Lan nhưng các doanh nghiệp lữ hành cho rằng điều này không có tác động nhiều đến lựa chọn điểm đến của khách du lịch  Israel. khách du lịch Israel đến Việt Nam cần xin thị thực trước hoặc xin tờ duyệt visa tại sứ quán Việt Nam tại Tel Aviv hoặc các nước phù hợp (các nước có quan hệ ngoại giao với Israel). Thủ tục xin thị thực yêu cầu thư mời của một tổ chức ở Việt Nam và lịch trình chuyến đi. Thời gian có được thị thực là ít nhất 03 ngày làm việc. Cơ quan cấp thị thực Việt Nam tại Israel là Đại sứ quán Việt Nam tại Tel Aviv. Nhiều khách Israel phàn nàn việc xin thị thực vào Việt

Nam kém thuận tiện hơn so với Lào và Căm –pu-chia vì 2 nước này không yêu cầu thư mời mà chỉ đơn thuần xin dấu thị thực tại sân bay nhập cảnh. Chi phí dấu nhập cảnh cũng công khai và hợp lý.

Cơ sở lưu trú ở Việt Nam ở mức độ chấp nhận được nhưng có ý kiến cho rằng mức độ vệ sinh cần được cải thiện. Ngoài ra, các cơ sở lưu trú cần có thêm phòng dành cho người không hút thuốc hoặc có những sàn (floor) chuyên dành cho những người không hút thuốc, vì đối với người Israel, ở những tầng có mùi thuốc lá là điều không chấp nhận được.

Về ngôn ngữ, có du khách và doanh nghiệp gửi khách cho rằng có chút khó khăn trong giao tiếp với những nhân viên không nói được tiếng Anh tại một số điểm du lịch xa xôi tại Việt Nam. Khách Israel đôi khi cảm thấy không hài lòng khi người Việt Nam nghĩ họ là một đất nước nào đó nằm ở khu vực theo đạo Hồi, và khách Israel là những người theo đạo Hồi, có liên quan đến khủng bố, nhưng đây đơn giản chỉ là sự khác biệt về văn hóa và điều này sẽ đặt ra cho các cơ quan quản lý của Việt Nam những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển đội ngũ nhân viên, nâng cao nhận thức trong việc phục vụ khách Israel. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Về thông tin từ các cơ quan du lịch, du khách Israel cho rằng họ không có đủ thông tin, tài liệu về du lịch Việt Nam bằng tiếng Anh hoặc hoàn toàn không có các tại liệu tiếng Hebrew tại đất nước Israel. Đây cũng là vấn đề chung trong việc xúc tiến quảng bá tại các thị trường gửi khách ở cấp tương tự. Tương lai gần Tổng cục Du lịch Việt Nam sẽ thực hiện đề án khai thác khách Trung Đông thì nguồn thông tin  về du lịch Việt Nam đối với thị trường khách Israel sẽ đầy đủ hơn.

Tình trạng giao thông ở Việt Nam rất nguy hiểm, tai nạn đường bộ gây chết người khá phổ biến. Các yêu cầu về tiêu chuẩn về lái xe và bảo dưỡng phương tiện giao thông khá lỏng lẻo và không được thực hiện nghiêm. Các tiêu chuẩn về an toàn ở Việt Nam không như kỳ vọng của khách du lịch Israel, đặc biệt đối với các môn thể thao mạo hiểm như leo núi, dù lượn.

Dịch vụ y tế ở Việt Nam yếu kém và thường phải thanh toán tiền trước khi khám, ngay cả trong trường hợp phải cấp cứu. Du khách được khuyến cáo phải cẩn thận về các căn bệnh liên quan đến muỗi và các căn bệnh nhiệt đới nói chung và việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Hình 2.25: Biểu đồ đánh giá chung của khách du lịch Israel về chuyến đi Việt Nam

Tỷ lệ khách du lịch Israel đánh giá là hài lòng là 36%, đặc biệt số người đánh giá là tuyệt vời chiếm 6%. Tỷ lệ số người cho rằng chuyến đi không đạt yêu cầu, kém  chiếm 16%. Đây cũng là tỷ lệ khá cao đối với một thị trường gửi khách có số lượng khách du lịch đến Việt Nam chưa nhiều như Israel mặc dù chúng ta đều biết đây là một thị trường khó tính.

Sở thích ẩm thực Việt Nam:  Theo kết quả khảo sát của tác giả thì số lượng khách đánh giá cao món ăn của Việt Nam chỉ có 6% trong tổng số người được hỏi và trong những việc khách muốn làm ở Việt Nam nhất chỉ có 8% người được hỏi thích thưởng thức món ăn. Nguyên nhân là do các đối tượng khách đi theo tour nên ít có thời gian thưởng thức các món ăn Việt Nam đặc trưng như phở. khách du lịch Israel giống như nhiều quốc gia khác khi đến Việt Nam thường có ý muốn thưởng thức đối với những món ăn đặc trưng của người Việt Nam. Khách Israel thường không sử dụng bữa trưa trong lịch trình tour để tối đa thời gian thăm quan, ngắm cảnh và trải nghiệm đời sống tại các điểm đến mặc dù phong tục của người Israel khá coi trọng bữa trưa. Tuy nhiên vì họ có thể sử dụng bữa sáng thay thế và ăn đồ ăn nhẹ vào bữa trưa nên việc này không ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như toàn bộ lịch trình của họ kể cả tại các tour trên vùng đồi núi Việt Nam như Sapa, Bắc Hà.

KDL Israel sang Việt Nam thích các món ăn Việt Nam như món cuốn gỏi sống và cuốn chả rán. Họ ít khi đi ăn tại các quán ăn ven đường vì cho rằng không đảm bảo vệ sinh và để tiết kiệm thời gian dành cho thăm thú các điểm đến quan trọng. Một số lượng khách tuân theo nghiêm ngặt các quy tắc về thức ăn kosher hoặc ăn kiêng đơn thuần để đảm bảo vệ sinh cho nên họ ít dành thời gian thưởng thức các món ăn đặc sản vùng miền của Việt Nam trừ các bữa ăn tại khách sạn.

Khách Israel thích tham gia các lớp dạy nấu ăn tại các khách sạn hoặc nhà hàng có mở lớp để học thêm về các món ăn từng vùng miền của Việt Nam như Hà Nội, Hội An và đồng bằng sông Cửu Long. Tại Hà nội, khách thường đăng ký học nấu ăn ở các nhà hàng chuyên phục vụ dịch vụ dạy nấu ăn hoặc các khách sạn có mở thêm dịch vụ này, ở đồng bằng sông Cửu Long là các nhà vườn có tham gia nấu ăn với người dân. Nhưng tác giả đã phân tích ở phần ẩm thực Israel, một số khách du lịch Israel theo đạo Do thái thuần thành có thói quen ăn uống chặt chẽ theo quy định kosher, tuy nhiên hầu hết khách du lịch Israel đều khá thoải mái trong việc ăn uống, chỉ trừ một số loại thức ăn do kiêng kỵ hoặc không có lợi cho sức khỏe còn lại họ có thể sử dụng hầu hết các thức ăn Việt Nam.

Tuy nhiên sau chương trình du lịch tại Việt Nam thì có đến 81% số khách du lịch Israel được hỏi cho rằng cần phải đưa thức ăn kosher vào các nhà hàng trong chương trình. Số còn lại thì cho rằng không có cũng không ảnh hưởng.

2.2. Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam  Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.  

2.2.1. Thực trạng hoạt động nghiên cứu thị trường Israel, xác định thị trường mục tiêu đối với thị trường khách Israel

Để tìm kiếm các thị trường mới có tiềm năng, cơ quan quản lý du lịch Việt Nam là Tổng cục Du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có một số hoạt động nghiên cứu thị trường khách du lịch Israel trong khuôn khổ Đề án khai thác thị trường khách du lịch Trung Đông. Ngày 23/12/2014, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã báo cáo đề án nghiên cứu thị trường khách du lịch Trung Đông. Theo báo cáo của Vụ Lữ hành (thuộc Tổng cục Du lịch), Trung Đông là khu vực hình thành nguồn khách lớn của du lịch thế giới. Lượng khách Trung Đông đi du lịch nước ngoài tăng gấp 4,5 lần trong giai đoạn 1990 – 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân tại khu vực này trong giai đoạn 2000 – 2010 cao nhất thế giới, đạt 9,9% (tốc độ trung bình của cả thế giới là 6,5%).

Trong những năm trở lại đây, lượng khách du lịch từ các quốc gia khu vực Trung Đông đến Việt Nam tuy có tăng theo từng năm nhưng vẫn ở mức thấp. Lượng khách Israel đến Việt Nam chỉ sau Thái Lan mặc dù số lượng chưa nhiều. Nguyên nhân một phần là do thông tin về du lịch Việt Nam vẫn chưa đến được với thị trường này; giá vé máy bay còn ở mức cao, ít nhà hàng và món ăn phục vụ nhóm khách du lịch theo đạo Do Thái, thủ tục xin visa du lịch tốn nhiều thời gian.

Cũng theo Tổng cục Du lịch, khách từ các nước Trung Đông trong đó có Israel đến Việt Nam chủ yếu theo loại hình tham quan khám phá di sản; một số điểm đến chính là Hạ Long, Sapa, Hội An, Mỹ Sơn, TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội… Việt Nam có một số điều kiện thuận lợi thu hút khách từ thị trường này: an ninh, an toàn được đảm bảo; tài nguyên du lịch phong phú, phù hợp với sở thích và nhu cầu của khách; mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam với Israel.

2.2.2. Các giải pháp đã triển khai nhằm nhằm thu hút khách du lịch Israel

2.2.2.1. Các giải pháp cơ chế, chính sách

Với mục tiêu đưa du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn của cả nước, ngành Du lịch đã và đang nỗ lực thực hiện các giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thông qua việc ban hành chính sách khuyến khích, tạo cơ chế mở rộng cửa đón du khách quốc tế đến Việt Nam, khuyến khích đầu tư du lịch, tạo môi trường pháp lý và xã hội thuận tiện cho việc tiếp đón khách du lịch và kinh doanh du lịch. Hệ quả của việc thu hút đầu tư trong lĩnh vực bất động sản du lịch của nhà nước Việt Nam, đầu năm 2015 một tỷ phú người Israel tên Igal Ahouvi đã đầu tư 300 triệu đô la vào khu nghỉ dưỡng ALMA tại bãi Dài, Cam Ranh (Khánh Hòa). Tỷ phú Igal Ahouvi cũng được Bộ ngoại giao Việt Nam bổ nhiệm làm Tổng lãnh sự danh dự của Việt Nam tại thành phố Haifa của Israel. Đây có thể là một mốc quan trọng cho việc thu hút đầu tư và tiếp theo là thu hút nguồn khách du lịch Israel vào Việt Nam. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Giữa ngành du lịch Việt Nam và phía Israel cũng đã có những tiếp xúc rất sớm nhằm đẩy mạnh phát triển trao đổi khách du lịch giữa hai nước. Năm 2000, Phó Tổng cục trưởng tổng cục Du lịch Việt Nam Phạm Từ đã gặp Ngài Walid Mansour – Đại sứ Israel tại Việt Nam để thúc đẩy tiến trình hợp tác về du lịch giữa hai nước. Trước đó vào năm 1996, Việt Nam và Israel đã ký Hiệp định hợp tác du lịch cấp Chính phủ. Nội dung chủ yếu là tăng cường trao đổi đoàn giữa hai nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hợp tác kinh doanh du lịch, trao đổi thông tin, kinh nghiệm; hợp tác trong lĩnh vực xúc tiến quảng bá, đầu tư, đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch…

Tháng 5/2009 Việt Nam chính thức mở cửa Đại sứ quan tại thủ đô Tel Aviv, tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch Israel có cơ hội xin thị thực đến Việt Nam, chấm dứt cảnh phải xin thị thực tại một quốc gia thứ ba hoặc xin duyệt visa cửa khẩu gây tốn kém thời gian và tiền bạc cho khách.

Nhằm tăng cường thu hút khách quốc tế đến Việt Nam, vừa qua Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 157/2015/TT-BTC quy định chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng lệ phí cấp hộ chiếu, thị thực, giấy tờ về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và cư trú tại Việt Nam theo hướng giảm thu. Điều này sẽ có tác động tốt tới lượng khách du lịch quốc tế nói chung và khách Israel nói riêng khi đến Việt Nam, nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam so với các điểm đến khác trong khu vực có mức phí thị thực thấp hơn, thủ tục xin thị thực đơn giản hơn như Thái Lan, Lào và Căm-pu-chia.

2.2.2.2. Giải pháp marketing

Việc thực hiện các giải pháp marketing thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam chưa nhiều. Tuy nhiên, đã có các sự kiện diễn ra theo sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Quốc gia về Du lịch như sau:

Ngày 24/7/2012, Đại sứ quán Việt Nam tại Israel phối hợp với Công ty Maman Aviation, đại diện Hãng Hàng không Việt Nam tại Israel và Công ty Thương mại và Du lịch Mekong Việt tổ chức hội thảo “Du lịch Việt Nam: Tiềm năng và Triển vọng”. Hội thảo nhằm góp phần thúc đẩy công tác xúc tiến du lịch và quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam tới người dân Israel.

Tham dự hội thảo có đại diện của gần 50 công ty du lịch và lữ hành quốc tế của Israel cùng đông đảo phóng viên địa phương tới đưa tin về hội thảo.

Theo thông tin từ Tổng cục Du lịch, trong năm 2015, Tổng cục Du lịch đã tổ chức và tham gia hàng loạt sự kiện xúc tiến du lịch ở nước ngoài nhằm tăng cường thu hút khách quốc tế, trong đó đáng chú ý là tham dự Hội chợ ITB Asia ở Singapore; Hội chợ du lịch thế giới (WTM) tại Anh; Hội chợ du lịch Thành Đô tại Trung Quốc. Thông qua việc tham dự các sự kiện này, du lịch Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp xúc với các doanh nghiệp và khách du lịch Israel, bước đầu làm tiền đề cho các hoạt động thu hút khách Israel sau này.

Song song với các hoạt động xúc tiến tuy không nhiều của các cơ quan quản lý ngành, ngoại giao cấp nhà nước, một số doanh nghiệp du lịch trong nước cũng đã nỗ lực tìm các biện pháp thu hút nguồn khách Israel đến Việt Nam dù các biện pháp chỉ mang tính đơn lẻ và yếu ớt. Các biện pháp của các công ty chủ yếu là quảng cáo sản phẩm du lịch trên hệ thống internet và các mối quan hệ sẵn có từ trước. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, tác giả đã khái quát đặc điểm của thị trường khách du lịch Israel nói chung và tập trung nghiên cứu thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam và thực trạng các hoạt động thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam thông qua kết quả điều tra của chính tác giả và các số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, của một số công ty lữ hành đón khách Israel. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu các đặc điểm nhân khẩu của thị trường khách du lịch Israel đến Việt Nam, các đặc điểm tiêu dùng trong đó tìm hiểu kỹ các vấn đề như độ dài chuyến đi, cơ cấu chi tiêu, kênh tìm kiếm thông tin du lịch phố biến, sở thích ẩm thực, sở thích điểm đến, sở thích tiêu dùng của thị trường khách Israel để từ đó có cái nhìn chính xác hơn, nắm bắt được những nét chủ đạo của thị trường khách Israel từ đó giúp cho tác giả có những đề xuất giải pháp thúc đẩy thu hút nguồn khách du lịch Israel đến Việt Nam ở chương kế tiếp.

Tác giả cũng đã tìm hiểu thực trạng các hoạt động thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam để từ đó đề xuất các giải pháp thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam. Mặc dù các giải pháp thu hút khách du lịch Israel do cơ quan quản lý Du lịch Việt Nam chưa được triển khai nhiều, nhưng đã có một số hoạt động diễn ra thể hiện sự quan tâm của Du lịch Việt Nam tới thị trường khách du lịch Israel –  một thị trường tiềm năng, góp phần nâng cao số lượng khách quốc tế tới Việt Nam, góp phẩn khai thác các thị trường phi truyền thống. Thực tế này đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam yêu cầu phải thực hiện các hoạt động thu hút khách du lịch Israel mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa nhằm tận dụng hiệu ứng tích cực do du lịch mang lại từ thị trường khách giàu tiềm năng Israel. Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp thu hút khách Israel đến Việt Nam

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Israel đến Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993