Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng năng suất và thúc đẩy tăng trưởng năng suất nhân tố tổng hợp các ngành của TP. Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ CỦA HẢI PHÒNG

2.1.1. Quá trình phát triển các ngành kinh tế của Hải Phòng

Hải Phòng là một trung tâm kinh tế của miền bắc nói riêng và của cả Việt Nam nói chung. Dưới thời Pháp thuộc, Hải Phòng là thành phố cấp 1, ngang hàng với Sài Gòn và Hà Nội. Những năm cuối thế kỷ 19, người Pháp đã có những đề xuất xây dựng Hải Phòng thành “thủ đô kinh tế” của Đông Dương. Ngày nay, Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam, từ năm 2005 đến nay luôn đứng trong top 5 các tỉnh thành phố đóng góp ngân sách nhiều nhất cả nước, cụ thể là luôn đứng ở vị trí thứ 3 sau Thành phố Hồ Chí Minh,Hà Nội . Năm 2009, thu ngân sách nhà nước của địa phương đạt 34.000 tỷ đồng. Năm 2006 đóng góp khoảng 9.752 tỷ đồng và năm 2007 là 12.000 tỷ đồng. Năm 2011, thu ngân sách trên địa bàn thành phố đạt 47.725 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2010. Năm 2022 thu ngân sách đạt 62.640 tỷ đồng. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, thành phố Hải Phòng xếp ở vị trí thứ 45/63 tỉnh thành.[1]

Hải Phòng là trung tâm phát luồng hàng xuất nhập khẩu lớn nhất miền Bắc. Đến nay, Hải Phòng đã có quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá với trên 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc tế Hải Phòng là trung tâm hội chợ lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Hải Phòng đang phấn đấu để trở thành một trong những trung tâm thương mại lớn nhất của cả nước. Tổng sản phẩm trong nước (GRDP) năm 2022 của thành phố đạt kết quả cao, tăng 11% so với cùng kỳ, gấp 1,7% bình quân chung cả nước. Cơ cấu các ngành dịch vụ – công nghiệp, xây dựng – nông, lâm, thủy sản tương ứng 50,52% – 42,80% – 6,68%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 17,02% so với cùng kỳ trong đó có một số ngành có tốc độ tăng trưởng cao như: sản xuất thiết bị truyền thông, sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng, may trang phục, sản xuất xà phòng, chất tẩy rửa. Kim ngạch xuất khẩu đạt 5,16 tỷ USD, tăng 19,57% so với cùng kỳ. Sản lượng hàng hóa thông qua các cảng đạt 80,01 triệu tấn, tăng 17,2% so với cùng kỳ.Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện đạt 56.125,5 tỷ đồng, tăng 14,91% so với cùng kỳ. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Hải Phòng có nhiều điều kiện thuận lợi để hình thành các cảng biển lớn, có tiềm năng để phát triển du lịch biển, thủy sản, dầu khí và các lĩnh vực kinh tế biển khác. Thực hiện các nghị quyết của Ðảng về phát triển kinh tế biển, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ra Nghị quyết số 27-NQ/T.U về Chương trình hành động cụ thể phát triển kinh tế biển. Trong đó, xác định năm vấn đề cơ bản của thành phố là: Phát triển hệ thống cảng, dịch vụ cảng và vận tải biển; phát triển công nghiệp biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển; kinh tế thủy sản; du lịch biển; khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.

Thực hiện Nghị quyết 03/NQ-T.Ư ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt, trong những năm qua, kinh tế biển Hải Phòng đã đạt được những kết quả ban đầu. Trong 10 năm trở lại đây, kinh tế vùng ven biển đã đóng góp khoảng 30% vào GDP toàn thành phố. GDP vùng biển Hải Phòng chiếm hơn 30% GDP dải ven biển cả nước và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của vùng ven biển cả nước. Cảng Hải Phòng được xếp vào nhóm các cảng quan trọng nhất trong các cảng biển của khu vực Ðông – Nam Á, từng bước khẳng định vị thế là một thương cảng lớn có công nghệ xếp dỡ hiện đại hàng đầu khu vực. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của khu vực phía bắc, khối lượng hàng hóa thông qua cảng 10 năm qua đã tăng gần năm lần (từ 7,65 triệu tấn vào năm 2000 lên 35,2 triệu tấn năm 2010). Thu hải quan, trong đó chủ yếu từ thuế xuất, nhập khẩu qua cảng Hải Phòng tăng gần 10 lần (từ 3.672 tỷ đồng năm 2000 lên 32.619 tỷ đồng năm 2010). Ngành công nghiệp đóng, sửa chữa tàu thủy, phương tiện nổi đã có bước phát triển mạnh, đưa xuống nước thành công nhiều tàu có trọng tải lớn, như tàu hàng 56.200 DWT, tàu dầu 13.500 DWT, tàu công-ten-nơ 1.700 TEU và kho nổi chứa dầu 150 nghìn DWT. Ðội tàu biển của Hải Phòng hiện có khoảng 500 tàu biển với tổng trọng tải gần 1,4 triệu DWT, chiếm gần 50% về số phương tiện và hơn 40% về khối lượng hàng hóa vận tải của cả nước. Hoạt động du lịch biển với hai khu vực nổi tiếng là Cát Bà và Ðồ Sơn ngày càng hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước. Doanh thu du lịch biển chiếm hơn 42% doanh thu của toàn ngành du lịch. Sản lượng thủy sản năm 2010 ước đạt gần 91.000 tấn, giá trị sản xuất thủy sản năm 2010 ước đạt hơn 1.000 tỷ đồng. Khu Kinh tế ven biển Ðình Vũ – Cát Hải cùng với cảng nước sâu quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện được tập trung xây dựng, trong tương lai là một trong những trung tâm kinh tế, giao thương quốc tế hiện đại. Cùng với đó, là các khu đô thị, kinh tế ven biển khác như Nam Ðình Vũ, Ðồ Sơn, Thủy Nguyên… đã được xây dựng, tạo sức bật mới cho thành phố cảng. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã đề ra và phát huy vai trò là một trọng điểm phát triển kinh tế biển của cả nước, Hải Phòng chủ trương hướng ra biển, làm giàu từ biển với mục tiêu xây dựng vùng biển và ven biển Hải Phòng thành Trung tâm kinh tế biển của Vịnh Bắc Bộ và cả nước, thật sự là một động lực quan trọng cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển với tốc độ nhanh.

Theo đó, đến năm 2020, Hải Phòng phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân gấp 1,2-1,3 lần mức tăng trưởng của toàn dải ven biển Vịnh Bắc Bộ và 1,4-1,6 lần vùng ven biển của cả nước; đưa tỷ trọng GDP của vùng ven biển Hải Phòng chiếm khoảng 35-40% tổng GDP của thành phố… Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh hoạt động dịch vụ lên 73%, công nghiệp 19% và nông nghiệp 8% vào năm 2020. Hình thành một số ngành sản phẩm mũi nhọn, tạo tích lũy lớn và động lực phát triển các ngành khác trong cả vùng phía bắc và cả nước.

Từ nay đến năm 2020, kinh tế hàng hải của Hải Phòng tập trung phát triển nhanh, toàn diện hệ thống đội tàu, dịch vụ cảng và dịch vụ hàng hải, đồng bộ với hệ thống cảng và công nghiệp đóng, sửa chữa tàu thủy theo hướng hiện đại trên cơ sở huy động sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo tiền đề vươn ra đại dương. Cùng với đó, thành phố nhanh chóng phát triển hệ thống cảng tiến ra biển, xây dựng với quy mô lớn, hiện đại có chức năng trung chuyển quốc tế với cảng Ðình Vũ, Chùa Vẽ, mở luồng mới qua kênh Hà Nam, Lạch Huyện… Các doanh nghiệp đóng và sửa chữa tàu thủy đang nỗ lực vượt qua thách thức, khó khăn, thực hiện tái cấu trúc để từng bước ổn định và phát triển. Thành phố tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và tiếp tục khẳng định Hải Phòng là một trung tâm cơ khí tàu thuyền lớn nhất của cả nước, có vị trí ngày càng lớn, vươn ra khu vực và thế giới. Hướng phát triển cơ bản là nhằm vào đóng những tàu có trọng tải lớn và các loại tàu chuyên dùng đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Ðể khai thác lợi thế vùng ven biển, bên cạnh việc đầu tư chiều sâu và mở rộng quy mô các ngành kinh tế biển truyền thống, thành phố chủ trương xây dựng hành lang đô thị công nghiệp ven biển, tập trung mở rộng không gian thành phố về phía Ðồ Sơn, khu vực tây – bắc thành phố, Minh Ðức (Thủy Nguyên) và Kiến An. Xây dựng một số khu đô thị mới ở bắc Sông Cấm. Cùng với đó, thành phố chú trọng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về biển thông qua việc hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý biển; phối hợp trong công tác quản lý biển với các tỉnh, thành phố khác thuộc vùng Vịnh Bắc Bộ. Cùng với Hải Phòng, Trung ương và các bộ, ngành, cần hỗ trợ tích cực thành phố trong việc nâng cấp, cải tạo hệ thống hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng cảng biển và giao thông để tạo thuận lợi cho phát triển, kết nối, liên kết các vùng kinh tế biển trong chiến lược phát triển chung của quốc gia.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Trị Kinh Doanh

2.1.2. Phân tích sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế Hải Phòng Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế của nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng lãnh thổ. Qua 26 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế Hải Phòng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Tốc độ tăng GDP luôn cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực.Một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng chỉ đứng sau 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, kinh tế Hải Phòng phát triển chưa thực sự vững chắc, tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm chậm tốc độ tăng trưởng, vừa chứa đựng yếu tố bấp bênh, không bền vững. Điều đó được phản ánh qua tính toán và phân tích của nhóm nghiên cứu về sự đóng góp của TFP vào GDP thành phố thời kỳ 2019-2023.

Bảng 2.1. GDP phân theo ngành kinh tế của Hải Phòng

Hình 2.1: GDP phân theo các ngành kinh tế của Hải Phòng giai đoạn 2019 – 2023

Hình 2.2: Tỷ trọng GDP phân theo ngành kinh tế của Hải Phòng

Trong đó:

  • AG_GDP: Tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong GDP
  • SE_GDP: Tỷ trọng giá trị công nghiệp trong GDP
  • IN_GDP: Tỷ trọng giá trị dịch vụ trong GDP Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP trong những năm gần đây, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành nông nghiệp đã giảm nhanh, tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng nhanh, tỷ trọng dịch vụ chưa có biến động nhiều. Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 2 ngành Công nghiệp và Dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế. Điều này chứng tỏ xu thế tiến bộ, phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và Hải Phòng nói riêng nhằm góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và củng cố tiềm lực kinh tế của Hải Phòng.Tuy nhiên thời gian qua, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong GDP của thành phố còn thấp. Thêm vào đó, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Việc đầu tư ồ ạt vào một số lĩnh vực ít đem lại giá trị gia tăng cho xã hội mà chỉ mang tính chất phân phối lại giá trị như bất động sản, chứng khoán… đã gặp nhiều rủi ro, làm cho kinh tế phát triển không bền vững, càng thêm lệ thuộc nhiều vào vốn đầu tư. Đây là những khó khăn và trở ngại khi thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Quá trình chuyển dần tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, về thực chất là quá trình làm cho tỷ phần của TFP trong GDP ngày càng cao. Muốn vậy, phải áp dụng giải pháp nâng cao chất lượng các nhân tố cấu thành nên TFP, đặc biệt là nâng cao mức đóng góp của nhân tố khoa học và công nghệ. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo ra khâu đột phá trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của thành phố hiện nay.

Bảng 2.2.Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế của Hải Phòng

Hình 2.3.Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế của Hải Phòng

Trong đó: Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

  • LAG_L(%) là lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp,
  • LIN_L(%) là lực lượng lao động trong ngành công nghiệp,
  • LSE_L(%) là lực lượng lao động trong ngành dịch vụ.

Hình 2.4: Tỷ trọng lao động phân theo các ngành kinh tế của Hải Phòng

Theo hình 2.3 Lực lượng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng theo thời gian, từ 2019 – 2023, và dự đoán tiếp tục tăng ở các giai đoạn tiếp theo. Lực lượng lao động trong ngành công nghiệp chiếm mức ổn định khoảng 39%-44% và tăng đều đặn theo từng năm. Lực lượng lao động trong ngành dịch vụ chiếm khoảng 30% đến 42% trong giai đoạn 2019 – 2023, và có xu hướng tăng nhẹ theo thời gian.Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm. Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng có sự chuyển dịch ngày càng tích cực. Sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành Nông nghiệp đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn, mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ, trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần túy giảm dần. Đối với công nghiệp, cơ cấu ngành và cơ cấu sản phẩm đang có sự thay đổi để phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường để đáp ứng cuộc cách mạng 4.0. Ngành Công nghiệp cơ khí và điện tử tăng tỷ trọng, trong khi công nghiệp khai thác có chiều hướng giảm. Trong khoảng giai đoạn 2019 – 2023, kết quả ước lượng chỉ ra rằng Hải Phòng đã đạt được tăng trưởng đáng kể.

Nhìn một cách tổng quan, tốc độ tăng trưởng cao trong nền kinh tế là do đóng góp của 2 ngành công nghiệp và dịch vụ. Ngành nông nghiệp giảm từ 10% trong năm 2022 xuống 20% trong năm 2023. Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng đang đối mặt với hiệu quả thấp của các doanh nghiệp nhà nước, chỉ số năng năng cạnh tranh quốc gia giảm, đầu tư trực tiếp nước ngoài sụt giảm, cơ sở hạ tầng yếu kém, lao động thiếu kỹ năng còn nhiều, và hiệu quả kỹ thuật cũng như giá trị TFP đối với các ngành và cả nền kinh tế còn thấp.

Bảng 2.3. Cơ cấu nguồn vốn phân theo ngành kinh tế của Hải Phòng

Hình 2.5. Cơ cấu nguồn vốn phân theo ngành kinh tế của Hải Phòng

Trong đó:

  • KAG_K(%) là sự gia tăng lượng vốn trong ngành nông nghiệp.
  • KIN_K(%)là sự gia tăng lượng vốn trong ngành công nghiệp.
  • KSE_K(%)là sự gia tăng lượng vốn trong ngành dịch vụ.

Hình 2.6: Tỷ trọng cơ cấu nguồn vốn phân theo các ngành kinh tế của Hải Phòng

Qua bảng số liệu 2.3 cho biết sự thay đổi trong cấu trúc nguồn vốn giữa 3 ngành kinh tế trong nền kinh tế của Hải Phòng giai đoạn 2019 – 2023. Lượng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng thay đổi ngược chiều với lượng vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp.

2.2. THỰC TRẠNG NĂNG SUẤT VÀ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG NĂNG SUẤT NHÂN TỐ TỔNG HỢP CÁC NGÀNH CỦA TP. HẢI PHÒNG Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

2.2.1. Thực trạng TFP đóng góp vào nền kinh tế của Hải Phòng

Hiệu quả hoạt động kinh tế được đánh giá qua xem xét việc sử dụng các yếu tố đầu vào là vốn và lao động. Nhờ tác động tổng hợp của các yếu tố được phối hợp trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất mà tạo ra giá trị gia tăng mới cao hơn. Như vậy, trong phần giá trị gia tăng tạo ra, ngoài phần đóng góp của nhân tố đầu vào là vốn và lao động (những nhân tố có thể lượng hoá), người ta còn thấy một phần giá trị mới do bộ phận vô hình tạo ra. Bộ phận này được thể hiện qua năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP – Total Factor Productivity).

TFP cho biết mức độ đóng góp các nhân tố vô hình như khoa học công nghệ, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động, trình độ tổ chức quản lý sản xuất, sức cạnh tranh của sản phẩm… tác động đến mức tăng trưởng GDP.

Trên phương diện tính toán, TFP chỉ phần trăm tăng GDP sau khi trừ đi phần đóng góp của tăng số lượng lao động và vốn. Xét ở góc độ các yếu tố đầu vào, một nền kinh tế đạt được tăng trưởng dựa chủ yếu vào 3 nhân tố chính: Vốn (K), Lao động (L) và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Với cách tiếp cận này, hàm sản xuất có dạng: Y= F (K, L, TFP)

Trong đó Y là thu nhập của nền kinh tế (GDP) Hàm sản xuất tổng quát được áp dụng để tính toán các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Từ các kết quả được tính toán ở trên, dựa vào số liệu đã phân tích, các kết quả tính toán TFP sẽ được trình bày theo cấp độ quốc gia và 3 ngành kinh tế chủ yếu. TFP phản ánh mức đóng góp của các nhân tố vô hình như trình độ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động, cơ cấu nền kinh tế, đầu tư vào chất lượng, các kỹ năng quản lý,… Các kết quả TFP cho cả nền kinh tế của Hải Phòng được tính toán dựa vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự đóng góp của từng nhân tố vào tốc độ tăng trưởng theo nguồn số liệu của Cục thống kê thành phố Hải Phòng cho kết quả ở bảng số liệu bảng 2.4

Bảng 2.4: Đóng góp của TFP tăng trưởng kinh tế thành phố Hải Phòng

Qua bảng số liệu 2.4 ta thấy trong 3 yếu tố vốn, lao động và TFP đóng góp vào mức tăng GDP, nhân tố đóng góp làm tăng GDP chủ yếu do tác động tăng vốn (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP là 56% đến 58%).

Yếu tố lao động đóng góp thấp nhất vẫn có xu hướng giảm từ 19% đến 17% giai đoạn 2019 – 2023. Đóng góp của TFP vào GDP của thành phố đã có xu hướng tăng lên từ 23% đến 26% nhưng mới đạt mức trung bình (TFP các nước đang phát triển từ 25 – 30%). Thời gian qua, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong GDP của thành phố còn thấp. Thêm vào đó, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Việc đầu tư ồ ạt vào một số lĩnh vực ít đem lại giá trị gia tăng cho xã hội mà chỉ mang tính chất phân phối lại giá trị như bất động sản, chứng khoán… đã gặp nhiều rủi ro, làm cho kinh tế phát triển không bền vững, càng thêm lệ thuộc nhiều vào vốn đầu tư. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Đây là những khó khăn và trở ngại khi thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Quá trình chuyển dần tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, về thực chất là quá trình làm cho tỷ phần của TFP trong GDP ngày càng cao.

Muốn vậy, phải áp dụng giải pháp nâng cao chất lượng các nhân tố cấu thành nên TFP, đặc biệt là nâng cao mức đóng góp của nhân tố khoa học và công nghệ. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo ra khâu đột phá trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của thành phố hiện nay.Những con số trên đang phản ánh kết quả những bước đi linh hoạt, trong việc tái cấu trúc của ngành thương mại thành phố. Đặc biệt, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tiếp tục khẳng định vị thế trong việc chiếm lĩnh và kiểm soát thị trường nội địa.Nhất là trong thời gian gần đây, nhiều mô hình trung tâm thương mại hiện đại được xây dựng, đã đưa vào khai thác hiệu quả.

Nhưng điều quan trọng nhất, việc thu hút mọi nguồn lực đầu tư đã tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, trả lại sự vận động tất yếu của quy luật kinh tế thị trường, phát huy được tư duy sáng tạo của yếu tố tư nhân trong phát triển kinh tế. Từ đó góp phần hiệu quả vào việc tái cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, nâng tỷ trọng yếu tố tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của chính sách kinh tế, chứng tỏ hướng đi đúng trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của thành phố.

2.2.2. Thực trạng TFP của các ngành kinh tế tại Hải Phòng Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Nghiên cứu “Đánh giá tăng trưởng theo năng suất của ba ngành kinh tế ở Việt Nam dựa trên mô hình KLEMS giai đoạn 1986 – 2011”. Nghiên cứu này chủ yếu dựa trên hướng dẫn của Báo cáo Hoạch toán tăng trưởng và hiệu suất của EU KLEMS số 1, 2007 nhằm tìm kiếm bằng chứng vừa để chứng minh mối liên hệ giữa việc tăng năng suất kinh tế với sự thay đổi công nghệ và hiệu quả kỹ thuật với những yếu tố đầu vào và vừa để xác định đóng góp của các khu vực kinh tế với tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu đi sâu vào mô tả và phân tích số liệu nhằm xác định sự thay đổi về tăng năng suất, công nghệ và sự đóng góp của các yếu tố đầu vào, sự thay đổi kỹ thuật cũng như các khu vực kinh tế trong nền kinh tế đối với tăng trưởng kinh tế, giai đoạn 1986 – 2011.

Nguyễn Đức Chính (Học viện Chính trị Quốc gia khu vực 1) cho rằng, các nghiên cứu về mô hình tăng trưởng có thể đáp ứng được các nhu cầu phân tích tiềm năng đầu tư vào từng ngành, lĩnh vực và thị trường cụ thể. Bên cạnh đó, cần phải đầu tư tìm hiểu sâu hơn các nghiên cứu về cơ cấu kinh tế để xác định ngành hay nhóm ngành chủ lực. Kinh nghiệm cho thấy, khi triển khai dự án cần phải chứng minh được tính thiết thực và hiệu quả của dự án, cũng như phát triển năng lực nghiên cứu.

Trong 3 nhóm ngành kinh tế, nhóm ngành nông nghiệp có mức đóng góp TFP vào tăng trưởng GDP của ngành với tỷ phần cao nhất, sau đó là nhóm ngành dịch vụ và nhóm ngành công nghiệp – xây dựng. Các số liệu được tính toán dựa vào tỉ lệ đóng của TFP vào tăng trưởng các ngành kinh tế theo nguồn số liệu của Cục thống kê Hải Phòng.

TFP_AG (%) = TFP_AG/GDP_AG; TFP_SE(%) = TFP_SE/ GDP_SE; TFP_IN(%) = TFP_IN/ GDP_SE

Bảng 2.5: Đóng góp của TFP vào tăng trưởng của các ngành kinh tế tại HP

Hình 2.7: Đóng góp của TFP vào tăng trưởng của các ngành kinh tế tại HP

  • Nhóm ngành nông- lâm-thuỷ sản Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

TFP nhóm ngành nông- lâm- thuỷ sản đóng góp vào tăng trưởng GDP của ngành đạt mức cao nhất. Năm 2019 là 55,74%, đến 2023 là 71,76%. Các đơn vị thuộc nhóm ngành nông – lâm- thuỷ sản bao gồm 17 doanh nghiệp sản xuất trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; 117 hợp tác xã chủ yếu làm dịch vụ phục vụ cho các hoạt động trong nông thôn, nông nghiệp và thủy sản; 398 đơn vị phát triển mô hình kinh tế trang trại có quy mô và trình độ sản xuất khá hơn, số còn lại là kinh tế gia trại và kinh tế hộ.

Sau nhiều năm thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý và cơ cấu sản xuất, trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế để lựa chọn phương án đầu tư, những năm qua, lĩnh vực này đã tăng cường ứng dụng tiến bộ KHKT để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Nghiên cứu đưa nhiều giống cây có giá trị kinh tế phù hợp với đồng đất Hải Phòng như dưa hấu, dưa lê, dưa chuột, hành tỏi xuất khẩu và các giống rau cao cấp, rau sạch… mở rộng các vùng trồng hoa quý, cây cảnh đáp ứng nhu cầu thị trường và xuất khẩu. Từng bước đổi mới quy trình công nghệ chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp như nuôi lợn siêu nạc, gia cầm siêu thịt, siêu trứng. Ngành thủy sản đã chủ động ứng dụng phương pháp nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp, phát triển các loại đặc sản có giá trị kinh tế cao. Được sự hỗ trợ của thành phố, người dân mạnh dạn đầu tư vốn, ứng dụng khoa học kỹ thuật đưa diện tích nuôi thâm canh đạt gần 500 ha, nuôi bán thâm canh 2450 ha, tăng vụ nuôi tôm bán thâm canh và nuôi công nghiệp, duy trì nuôi trên diện tích nước lợ, mở rộng diện tích nuôi nước mặn ven biển; nuôi lồng, bè với nhiều giống đặc sản quý được chọn lọc như tôm sú, cá song, cá trình, các loại nhuyễn thể như tu hài, ngao, sò… để tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, tạo sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Điều này chứng tỏ đầu tư khoa học& công nghệ vào nông nghiệp mang lại hiệu quả rõ rệt và đây cũng là lĩnh vực thích ứng nhanh với sù thay đổi nhu cầu của thị trường .

  • Nhóm ngành công nghiệp – xây dựng

TFP của nhóm ngành công nghiệp – xây dựng thấp nhất trong 3 ngành kinh tế của Hải Phòng, tuy nhiên có xu hướng tang lên theo từng năm. Năm 2019 đạt 10,56% đến 2023 đạt 28,45%. Với tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2019– 2023 là 15,56%, nhưng đóng góp của TFP vào tăng trưởng của ngành còn thấp. Trong công nghiệp, bước đầu đã có sự chú ý phát triển một số ngành công nghiệp sạch, đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại, nâng dần tỷ trọng những ngành có hàm lượng công nghệ cao, đồng thời coi trọng phát triển các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động như dệt, may, da giầy, thủ công mỹ nghệ… Đặc biệt, lĩnh vực công nghiệp đã chú ý sử dụng nguyên liệu nội địa, coi trọng thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để thực hiện quá trình hiện đại hoá. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Trong những năm qua, cơ cấu công nghiệp đã có sự thay đổi tích cực theo hướng tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ lực có lợi thế, tiềm năng. Hiện có 9 nhóm ngành chủ lực chiếm tỷ trọng 89,4% giá trị sản xuất trên địa bàn thành phố vẫn giữ vai trò quyết định tốc độ tăng trưởng chung của ngành giai đoạn 2019 – 2023. Tỷ trọng các nhóm ngành công nghiệp thâm dụng lao động đã có xu hướng giảm dần. Các ngành sản xuất và phân phối điện; điện tử, thiết bị điện tử… có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng bình quân toàn ngành.Một số doanh nghiệp được xây dựng mới đều có trang thiết bị tiên tiến, đồng bộ với dây chuyền công nghệ khá hiện đại. Tuy nhiên, do còn quá nhiều doanh nghiệp quy mô lớn nên rất khó hiện đại hóa trang thiết bị, công nghệ vì phải thay thế toàn bộ quy trình sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý, đào tạo lại lao động nhưng tiềm lực tài chính không đủ mạnh. Do vậy, TFP còn thấp và đóng góp vào tăng trưởng GDP với tỷ phần còn khiêm tốn, chỉ đạt 28,45% vào mức tăng trưởng chung vào năm 2023. TFP trong ngành công nghiệp có xu hướng tăng và duy trì ở mức cao trong giai đoạn từ 2019 – 2023, điều này được lý giải là do tác động của việc thay đổi công nghệ trong các ngành công nghiệp đang có xu hướng gia tăng, đáp ứng được phần nào đó yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

  • Nhóm ngành dịch vụ

Với nhóm ngành dịch vụ, giai đoạn 2019-2023, tỷ phần đóng góp của TFP vào tốc độ tăng GDP của ngành là 20% đến 40% giai đoạn 2019 – 2023. Đây cũng là tốc độ tăng trưởng khá cáo, bình quân 32%. GDP của nhóm ngành này đạt mức cao nhất trong các nhóm ngành kinh tế của thành phố. Điều đó chứng tỏ việc thâm dụng quá mức vốn đầu tư và lao động của ngành dịch vụ. Trong những năm qua, khu vực dịch vụ tập trung đầu tư vào các ngành có tỷ trọng giá trị sản xuất lớn, chủ yếu là hai ngành thương mại và vận tải, kho bãi chiếm tỷ phần trên 50% giá trị sản xuất. Sau đó là đầu tư xây dựng, nâng cấp cảng biển, các kho bãi, các trung tâm thương mại; chỉnh trang, nâng cấp các khu khách sạn, nhà hàng, trung tâm du lịch để tạo giá trị tăng thêm và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao và được trang bị công nghệ hiện đại như tài chính, ngân hàng, hải quan có tỷ trọng hầu như không thay đổi và đạt tương đối thấp trong giai đoạn 2019 – 2023, chỉ chiếm 2,5-3,1% GDP của nhóm ngành dịch vụ trong khi bình quân cả nước tỷ lệ này chiếm 4,7%. Ngành du lịch của Hải Phòng trong những năm gần đây đã có nhiều phát triển điển hình là chú trọng đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng.Tuy nhiên trình độ tổ chức quản lý điều hành, marketing yếu, trình độ của đội ngũ lao động chưa đáp ứng yêu cầu, sản phẩm du lịch đặc trưng còn nghèo nàn và thiếu sự gắn kết nên chưa xây dựng được thương hiệu và tạo sức cạnh tranh. Lượng khách du lịch đến Hải Phòng có xu hướng giảm nhất là khách nước ngoài. Tỷ phần TFP trong giai đoạn 2019 – 2023 ở mức 19,40%. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Có thể khẳng định việc nâng cao sự đóng góp của TFP vào GDP có tác dụng đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế thành phố. Các nhân tố quyết định đến chất lượng tăng trưởng như đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến hợp lý hóa tổ chức sản xuất, đổi mới quản lý, nâng cao trình độ lao động, nâng cao chất lượng, mẫu mã, tính cạnh tranh của sản phẩm ngày càng được chú trọng, tạo sự phát triển bền vững. Về nhóm ngành kinh tế, ngành nông nghiệp, thủy sản có TFP cao và đóng góp tỷ phần cao nhất vào tăng trưởng GDP của ngành. Mặc dù các doanh nghiệp của khu vực kinh tế ngành nông nghiệp, thủy sản đều có quy mô sản xuất nhỏ và mức vốn đầu tư thấp nhưng rất linh hoạt trong việc đổi mới phương thức sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ và phương pháp tổ chức quản lý, nhờ đó đã làm cho tỷ phần TFP đóng góp vào GDP của ngành tương đối cao.

Sự phân tích mối tương quan giữa tốc độ tăng trưởng GDP với sự đóng góp của TFP vào GDP thành phố trong những năm qua đã cho thấy:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thành phố, giai đoạn 2019- 2021 là 6% đến 7%, giai đoạn 2022 – 2023 là 10% đến 27%. Đây là mức tăng trưởng khá cao trong điều kiện môi trường kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, gây tác động xấu đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng.

Thứ hai, tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 2019- 2023 là 0,6% đến 6,6%%;Tỷ phần đóng góp của TFP vào GDP thành phố giai đoạn 2019 – 2023 là 23% đến 26,68%. Nếu so sánh với thành phố Hồ Chí Minh, đầu tàu kinh tế của cả nước, giai đoạn 2019 – 2023 thì mức đóng góp của TFP vào GDP của Hải Phòng còn thấp.

Thứ ba, trong các nhân tố đóng góp vào GDP của thành phố, phần hữu hình là vốn và lao động vẫn chiếm tỷ trọng lớn. TFP chiếm 24% đến 26%.Mặt khác, tỷ trọng vốn cao trong GDP của thành phố cũng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp.Trong khi đó, ở các nước phát triển, đóng góp của vốn ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với đóng góp của TFP vào GDP. Như vậy, tăng trưởng GDP của thành phố trong những năm qua vẫn lệ thuộc nhiều vào sự gia tăng vốn đầu tư. Sự tăng trưởng này không bền vững. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Thứ tư, trong 3 ngành kinh tế là công nghiệp – xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ, ngành nông nghiệp có tỷ phần đóng góp của TFP vào GDP cao nhất. Nguyên do là, ngành nông nghiệp dễ đưa tiến bộ kỹ thuật công nghệ vào hơn. Tiến bộ kỹ thuật công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không tốn kém nhiều chi phí, sau nữa, hiệu quả có thể thấy được ngay sau một chu kỳ sản xuất hoặc sản xuất thử để đưa ra quyết định. Trong khi đó, lĩnh vực công nghiệp đưa tiến bộ kỹ thuật công nghệ vào sản xuất khó hơn vì suất đầu tư lớn, phải thay đổi toàn bộ thiết bị máy móc hoặc dây chuyền sản xuất, đào tạo lại lực lượng lao động. Hiệu quả chỉ có thể nhận biết được sau một thời gian khá dài và phần nhiều do thị trường quyết định, nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Trong điều kiện nguồn vốn còn khó khăn, đây là một thách thức để đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ vào sản xuất công nghiệp nói riêng, trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế thành phố nói chung.

2.3. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ GIA TĂNG NĂNG SUẤT NHÂN TỐ TỔNG HỢP Ở HẢI PHÒNG

2.3.1. Kết quả đạt được

Có thể thấy, Các ngành kinh tế của Hải Phòng thời gian qua đã có sự phát triển về gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển đặc biệt là trong nông nghiệp,Tuy có mức suy giảm nhưng tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp ổn định hơn so với các ngành kinh tế khác. Tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp ghi nhận cao vào những giai đoạn đầu đổi mới do tác động tích cực của chính sách đổi mới làm tăng diện tích đất nông nghiệp được sử dụng và năng suất cây, vật nuôi tăng nhanh. Yếu tố quan trọng thứ hai có đóng góp cho tăng trưởng nông nghiệp TFP, phản ánh chất lượng của tăng trưởng. Tăng trưởng của TFP trong những năm qua là kết quả của việc tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở tích lũy tiến bộ khoa học kĩ thuật, vốn con người. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Về Công nghiệp, nhiều sản phẩm đã đạt tiêu chuẩn quốc tế, thay thế hàng nhập ngoại, góp phần giảm kim ngạch nhập khẩu từ nước ngoài nhờ có sự đóng góp cuả TFP như: sản xuất sơn tàu biển, sơn giàn khoan, sơn công nghiệp, công trình giao thông; sản xuất kết cấu thép, vật liệu hàn (que hàn, dây hàn), nội thất, cửa chống cháy, nồi hơn, nắp hầm hàng, các thiết bị trên boong, phụ kiện đường ống, xích neo, mỏ neo, chân vịt tàu; sản xuất, lắp ráp động cơ thủy; sản xuất sợi polyeste; đúc các chi tiết máy móc, thiết bị kim loại của Nhà máy đúc Tân Long, làng nghề Mỹ Đồng…

Đối với ngành sản xuất điện – điện tử đã và đang thu hút được các Tập đoàn lớn từ Nhật Bản, Hàn Quốc đầu tư sản xuất điện thoại, tủ lạnh, máy giặt, máy in, máy photocopy… nhưng việc cung cấp thiết bị, linh kiện lắp ráp vẫn chủ yếu do các doanh nghiệp vệ tinh của Nhật Bản, Hàn Quốc cung cấp.

Về lĩnh vực phát triển công nghệ cao, Hải Phòng có mô hình sản xuất thiết bị phân ly dầu nước, vật liệu chống cháy… của Xí nghiệp tập thể Bình An; sản xuất sợi polyese phục vụ ngành may mặc; sản xuất tàu thô của Công ty đóng tàu Sông Cấm… Từng bước chú trọng thu hút các dự án CNPT tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu như: sản xuất dây dẫn điện trong xe ô tô, túi khí bảo vệ, các chi tiết bằng cao su, cụm phụ tùng, linh kiện chi tiết, hệ thống âm thanh cung cấp cho ngành sản xuất ô tô; cơ khí chính xác, vòng bi, ổ trục, hạt nhựa màu, loa cho điện thoại di động…Theo đó, khu công nghiệp Nomura hiện đang dẫn đầu về phát triển CNPT. Tương lai gần, nếu không tính khu CNPT công nghệ cao mà thành phố đang chủ trương xây dựng thì vị trí dẫn đầu ắt thuộc về khu đô thị – công nghiệp và dịch vụ Vsip Hải Phòng và các khu công nghiệp Đình Vũ, Sài Gòn – Hải Phòng (Tràng Duệ)…

Trong giai đoạn 2019 – 2023, đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế của ngành Dịch vụ đã có sự cải thiện ngoạn mục, đạt bình quân trên 20%/năm.Các dòng vốn đấu tư của các giai đoạn trước bắt đầu phát huy hiệu quả là một trong những yếu tố quan trọng giúp cải thiện đóng góp của TFP trong giai đoạn này.Nhìn chung, tăng trưởng TFP và đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế ngành Dịch vụ mặc dù còn khá khiêm tốn nhưng đang trong xu hướng cải thiện mạnh mẽ.

2.3.2. Một số hạn chế Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Đối với ngành công nghiệp, TFP còn thấp và đóng góp vào tăng trưởng GDP với tỷ phần còn khiêm tốn cụ thể như với ngành Công nghiệp cơ khí, chế tạo: đa phần thiết bị sử dụng đều được đầu tư từ trước năm 2000 ở mức độ tinh xảo chủ yếu là thiết bị chuyên dụng và cơ khí hóa. Hiệu quả đóng mới các gam tàu XK chưa cao do các NM được đầu tư dàn trải, trang thiết bị SX chưa đồng bộ, mức độ tự động hóa thấp, trình độ công nghệ SX còn hạn chế, việc đóng tàu theo seri mới hình thành trong hơn 10 năm gần đây nên năng suất các nhà máy là rất thấp so với khu vực và thế giới, hao phí vật tư trong hạ liệu còn lớn.

Hiện nay, do tiềm lực tài chính hạn chế và thiếu vốn đầu tư nên nhiều cơ sở sản xuất trong nước thuộc ngành (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) còn sử dụng trang thiết bị cũ, chưa đồng bộ, mức độ tự động hóa thấp, chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm thấp, đơn điệu. Khả năng nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mới các sản phẩm cơ khí còn yếu. Các khâu công nghệ cơ bản như: đúc, rèn dập, hàn, nhiệt luyện, bảo vệ bề mặt, gia công cơ khí, cắt gọt kim loại… còn hạn chế, rất cần được đầu tư nâng cấp.

Phần lớn các doanh nghiệp trong nước còn trong tình trạng sản xuất loạt nhỏ hoặc đơn chiếc cùng với năng lực tài chính yếu nên các doanh nghiệp vẫn sử dụng hệ thống máy móc thiết bị vạn năng, công nghệ thấp….

Việc đầu tư còn mang tính chất phân tán, khép kín trong từng doanh nghiệp; thiếu sự phối kết hợp và phân công lao động giữa các doanh nghiệp trong ngành, tính chuyên môn hóa trong sản xuất thấp dẫn đến chi phí sản xuất cao, khả năng cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm còn hạn chế.

Một số ngành công nghiệp có thế mạnh của Hải Phòng như đóng tàu hầu như chưa có CNPT đi kèm, vì thế sản xuất dù đã có nhiều kết quả khả quan nhưng khả năng cạnh tranh thấp vì hầu hết các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đang phụ thuộc vào nhà cung cấp nước ngoài. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô mặc dù được hưởng nhiều chính sách ưu đãi phát triển của nhà nước, nhưng đến nay tỉ lệ nội địa hóa vẫn còn rất thấp, do thị trường quá nhỏ nên không thu hút được doanh nghiệp sản xuất phụ tùng tham gia chuỗi cung ứng.

Ngành cơ khí chế tạo cũng chưa có sự chuyển biến tích cực thậm chí đã quá tụt hậu so với sự phát triển chung của thế giới. Các công nghệ tạo phôi, nhiệt luyện hay gia công kim loại của ngành cơ khí đều quá lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, ít sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Đối với ngành giày da hầu hết các máy móc, thiết bị và các linh kiện, phụ tùng đều phải nhập khẩu.Nguyên phụ liệu trong nước chưa đủ cung cấp hoặc chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài.

Tăng trưởng nông nghiệp đang có sự suy giảm chính chủ yếu xuất phát từ sự suy giảm nguồn lực sản xuất bao gồm cả nguồn lực tự nhiên, lao động và vốn đầu tư. Đối với nguồn lực tự nhiên, nông nghiệp Việt Nam vốn xuất phát với nguồn lực tự nhiên như đất nông nghiệp, nguồn nước thấp; để phục vụ cho tăng trưởng ngành những năm qua đã bị khai thác cạn kiệt, năng suất dần tới hạn trong khi lại đang bị suy giảm nặng nề do tác động của biến đổi khí hậu, công nghiệp và đô thị hóa. trong điều kiện khó khăn về nguồn lực, mô hình nông nghiệp công nghệ cao đang tiến hành cùng với các xu hướng mới trên thế giới như nông nghiệp 4.0 sẽ là hướng phát triển chiến lược của ngành nông nghiệp khi chuyển từ thâm dụng nguồn lực tĩnh sang thâm dụng tri thức, công nghệ. Tuy nhiên việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam hiện nay cũng đang gặp phải rất nhiều rào cản như vốn và các chính sách ưu đãi kèm theo chưa hiệu quả, chất lượng nguồn nhân lực thấp, mô hình sản xuất nhỏ nặng về canh tác truyền thống và rào cản quan trọng nhất vẫn là nguồn đất dành cho sản xuất quy mô lớn.

TFP đóng góp vào ngành Dịch vụ tăng trưởng khá cao. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế giai đoạn này hầu hết đều do đóng góp của vốn. Đây là dạng tăng trưởng trong ngắn hạn và kém bền vững. Luận văn: Thực trạng thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Luận văn: Giải pháp thúc đẩy nhân tố đối với các ngành kinh tế

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993