Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Từ Thực Tiễn Tỉnh Cao Bằng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1, Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là chủ trương đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cho luật pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ được các quyền của công dân là điều kiện cần thiết để Nhà nước quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật một cách hiệu quả. Do đó, luật pháp chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động của Nhà nước và trong đời sống xã hội và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm tính công khai, minh bạch, thống nhất, đồng bộ là nhiệm vụ hết sức quan trọng được đặt ra đối với Đảng và các cơ quan nhà nước. Một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật của Nhà nước được thể chế hóa và bảo vệ quyền của công dân và quyền của con người. Điều này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc của hệ thống luật pháp thuộc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hiến pháp năm 2013 cũng đề ra nguyên tắc Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật [26]. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân [1] là mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra trong giai đoạn 2005-2010 định hướng đến năm 2020 trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị, nhưng giá trị của định hướng trên vẫn luôn phải được giữ vững con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của ta. Để quản lý Nhà nước bằng pháp luật, yêu cầu đầu tiên có tính tiên quyết là các văn bản Quy phạm pháp luật được xây dựng phải có chất lượng cao. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống các cơ quan Chính quyền địa phương có một vai trò rất quan trọng. Trên nhiều phương diện, các cấp Chính quyền địa phương có mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Để thực hiện quản lý nhà nước ở địa phương, chính quyền phải ban hành thể chế, hệ thống văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ theo phân cấp, hay nói cách khác hoạt động ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhằm xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Do đó nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp Chính quyền địa phương.

Thực tế công tác kiểm tra, xử lý văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh Cao Bằng trong thời gian qua cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác văn bản, đã phát hiện nhiều văn bản Quy phạm pháp luật do Chính quyền địa phương ban hành trái luật. Đối với văn bản Quy phạm pháp luật cấp tỉnh, theo kết luận kiểm tra của Bộ Tư pháp kiểm tra 114 văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng ban hành từ ngày 01/01/2017 đến 31/3/2019 phát hiện 01 văn bản của Hội đồng nhân dân và 08 văn bản của Uỷ ban nhân dân ban hành có nội dung không phù hợp với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên [6, tr.4]; đối với văn bản cấp huyện từ năm 2005 đến năm 2019 qua kiểm tra theo thẩm quyền đối với 698 văn bản Quy phạm pháp luật phát hiện 31 văn bản có nội dung trái pháp luật [37, tr.5]; đối với cấp xã từ năm 2005 đến năm 2019 qua kiểm tra theo thẩm quyền đối với 2.518 văn bản Quy phạm pháp luật phát hiện văn bản không phù hợp với quy định của pháp luật (326 văn bản Quy phạm pháp luật, 68 văn bản không phải là văn bản Quy phạm pháp luật nhưng có chứa Quy phạm pháp luật) [37, tr.5] . Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Một văn bản Quy phạm pháp luật ra đời cần qua khâu xây dựng và khâu ban hành, tuy khâu ban hành là khâu quyết định giá trị pháp lý của một văn bản Quy phạm pháp luật, nhưng có thể nói rằng khâu xây dựng mới là khâu làm nên chất lượng của văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành. Xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật chiếm đa số thời gian hình thành một văn bản Quy phạm pháp luật với những trình tự, thủ tục chặt chẽ nhằm đánh giá toàn diện các Quy phạm pháp luật có tác động như thế nào nếu được thực thi, từ đó là cơ sở hoàn thiện dự thảo văn bản có chất lượng để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định ban hành và tiếp đó là việc thực thi văn bản Quy phạm pháp luật đạt được hiệu quả trong đời sống xã hội. Do vậy để nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương cần thiết và quan trọng nhất là nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

Từ những lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài: “Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng”, với mong muốn kết quả của Luận văn sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng và Chính quyền địa phương trên cả nước nói chung.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1. Tình hình chung Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Vấn đề văn bản Quy phạm pháp luật, văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương nói chung và vấn đề liên quan tới xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và đã có nhiều công trình khoa học đăng tải, công bố từ trung ương đến địa phương, trong đó có một số bài viết, công trình nghiên cứu tiêu biểu như:

Các nghiên cứu về văn bản Quy phạm pháp luật, văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương:

Trần Thanh Vân (2014) Văn bản Quy phạm pháp luật – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo, có hệ thống cả về góc độ lý luận cũng như thực tiễn của văn bản Quy phạm pháp luật, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của nước ta.

Nguyễn Thị Ngọc Mai (2019) Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng việc thực hiện pháp luật về thẩm quyền, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương ở nước ta và xác định các yêu cầu đối với văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương cũng như hậu quả của việc không tuân thủ các yêu cầu đối với văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương. Từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

Nguyễn Thị Thúy Hằng, Phạm Thái Quý, “Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” – Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Nghiên cứu đánh giá thực tiễn công tác ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, tập trung vào những bất cập như vấn đề: xác định quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong ban hành nghị quyết; xác định văn bản Quy phạm pháp luật và vấn đề Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng ban hành văn bản quy định, đó là những trao đổi của tác giả nhằm triển khai thi hành Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015 đạt hiệu quả. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Các nghiên cứu về vấn đề liên quan tới xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương:

Nguyễn Thị Thanh Tâm (2014) Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh qua thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn nghiên cứu về thẩm định dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Về lý luận, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản nhất của hoạt động thẩm định dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Về thực trạng, luận văn đã phân tích những kết quả và tồn tại hạn chế đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong hoạt động thẩm định dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân cấp tỉnh qua thực tiễn thành phố Hà Nội. Trên cơ sỏ thực trạng, đề tài đã đưa ra các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Nguyễn Thị Ngọc Mai (2019), “Hoàn thiện pháp luật về quy trình lập đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4. Nghiên cứu trình bày thực trạng và phân tích những hạn chế bất cập trong quy trình lập đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo quy định của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hoạt động này của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Đoàn Thị Tố Uyên (2011), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan tư pháp địa phương thực hiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 5.

2.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau và đã có nhiều đóng góp về lý luận và thực tiễn về xây dựng và ban hành văn bản Quy phạm pháp luật, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành. Tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu về tổng thể văn bản Quy phạm pháp luật, xây dựng và ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương hoặc một khâu trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương như lập đề nghị xây dựng, thẩm định dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật… Để nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống, toàn diện về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, tác giả chọn đề tài xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng và mong muốn rằng những kết quả của nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật từ đó năng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp Chính quyền địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở lý luận về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương và thực trạng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Khái quát tình hình nghiên cứu những nội dung có liên quan đến văn bản Quy phạm pháp luật nói chung và xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương nói riêng.

  • Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.
  • Phân tích làm rõ thực trạng về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng, rút ra những mặt tích cực đạt được, cũng như những mặt hạn chế và nguyên nhân hạn chế từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục.
  • Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương và thực tiễn tại tỉnh Cao Bằng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu lý luận chung về văn bản Quy phạm pháp luật, xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, các quy định của pháp luật về khái niệm, thẩm quyền, trình tự xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương và thực tiễn tại tỉnh Cao Bằng.

  • Về thời gian: Từ năm 2016 đến hết năm 2019, trong đó có đối chiếu với số liệu của giai đoạn trước.
  • Về không gian: Thực tiễn xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

5.1. Cơ sở lý luận

Luận Văn được tiếp cận trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa và các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn bản Quy phạm pháp luật, về tổ chức và chức năng hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật. Nội dung của Luận văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân trong quá trình công tác trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về công tác văn bản Quy phạm pháp luật, với sự tham khảo các văn bản pháp luật, tài liệu của các tác giả trong nước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

  • Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:

Thu thập thông tin sơ cấp: Khảo sát đánh giá công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Dữ liệu thứ cấp: Là các tài liệu được công bố rộng rãi, bao gồm: các văn bản Quy phạm pháp luật, các công trình luận án tiến sĩ, công trình luận văn thạc sĩ, giáo trình, bài báo, tạp chí chuyên ngành, đề tài nghiên cứu khoa học, sách tham khảo, các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng, các bản báo cáo, thống kê về công tác xây dựng, kiểm tra, pháp chế.

  • Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh: Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Tổng hợp số liệu thống kê của cả nước, của tỉnh Cao Bằng, của Sở Tư pháp tỉnh Cao Bằng; phân tích các báo cáo liên quan đến đề tài nghiên cứu. Được sử dụng để so sánh các số liệu xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh với số liệu của cả nước, so sánh số liệu của tỉnh qua các năm.

  • Phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin:

Từ những dữ liệu thu được từ thực tiễn, trong quá trình nghiên cứu lí luận khoa học, tiến hành tổng hợp, đối chiếu, phân tích các thông tin để đưa ra được những nhận định.

  • Phương pháp khảo sát:

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và để phù hợp với công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, tác giả tiến hành gửi phiếu khảo sát các đối tượng trong phạm vi không gian, thời gian cụ thể như sau:

Số lượng phiếu khảo sát

  • Phiếu khảo sát phát ra: 40 phiếu.
  • Phiếu khảo sát thu về: 36 phiếu. – Đối tượng khảo sát
  • Sở Tư pháp: 08 phiếu cho công chức đã và đang thực hiện công tác xây dựng, kiểm tra văn bản Quy phạm pháp luật.
  • 05 Phiếu gửi Phòng Tư pháp thành phố Cao Bằng.
  • Các huyện còn lại mỗi Phòng Tư pháp 03 phiếu.
  • Thời gian thực hiện: Quý II năm 2020

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Đề tài của Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương. Với những kết quả mà luận văn đạt được sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, cũng như góp phần vào việc làm phong phú lý luận về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật nói chung, văn bản Quy phạm pháp luật do Chính quyền địa phương nói riêng ban hành. Luận văn là một tài liệu tham khảo về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương cho những người học, người nghiên cứu, cán bộ thực hiện công tác soạn thảo, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương và các nhà hoạch định chính sách.

7. Kết cấu của luận văn Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, được bố cục như sau:

Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia làm 3 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.
  • Chương 2: Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng.
  • Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của văn bản quy phạm pháp luật

Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật

Văn bản Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí, mục đích của Nhà nước đối với một quan hệ xã hội nhất định, thể hiện chính sách nhà nước đối với vấn đề đó, quan hệ xã hội đó. Chính vì vậy, văn bản Quy phạm pháp luật khi ban hành cần thể hiện rõ nét các nội dung của quan hệ xã hội mà nó cần điều chỉnh và chính xách cần xử lý của Nhà nước. Có thể khẳng định, Văn bản Quy phạm pháp luật chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình quản lý của bất cứ nhà nước nào trên thế giới. Tuy nhiên, hiểu thế nào là văn bản Quy phạm pháp luật, khi nào thì ban hành văn bản Quy phạm pháp luật và nhiều vấn đề khác có liên quan đang là vấn đề được nhiều nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn tranh luận.

Có thể nói rằng, vấn đề xác định văn bản Quy phạm pháp luật là vấn đề quan trọng, việc xác định thế nào là Quy phạm pháp luật của người, đơn vị đề xuất xây dựng mang tính quyết định tới tính hợp pháp của văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành, bởi xác định được yếu tố Quy phạm pháp luật trong văn bản dự định xây dựng để từ đó xác định đúng thẩm quyền ban hành, tuân thủ theo trình tự, thủ tục quy định. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Trên thế giới, pháp luật một số quốc gia cũng có quy định về khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật như Azebaizan, Lào, Kyrgikistan, Gruzia và Bulgaria… theo kinh nghiệp của các nước này có 03 tiêu chí để xác định văn bản Quy phạm pháp luật, cụ thể là: (1) Văn bản Quy phạm pháp luật có chứa quy tắc chung; (2) Văn bản Quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thông qua; (3) có hiệu lực bắt buộc chung.

Để làm rõ khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật, một số nước bổ sung tiêu chí để phân biệt giữa văn bản Quy phạm pháp luật với các văn bản hành chính thông thường như: Quy phạm pháp luật là những mệnh lệnh bắt buộc mang tính tạm thời hoặc thường xuyên và được áp dụng nhiều lần (Kyrgikistan); Quy phạm pháp luật được áp dụng cho một số lượng không xác định và không hạn chế các đối tượng (Bulgaria); Văn bản Quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc địa phương soạn thảo, thông qua, công bố (Lào); Văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành nhằm xác lập, thay đổi hoặc hủy bỏ các Quy phạm pháp luật theo quy định của luật về ban hành văn bản (Azebaizan, Kyrgikistan).

Việt Nam, khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật lần đầu tiên được quy định tại Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung 2002), sau đó dược hoàn chỉnh hơn theo quy định của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2008 và đặc biệt là Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015.

Theo Điều 2 Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật 2015) khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật được đưa ra như sau: “Văn bản Quy phạm pháp luật là văn bản có chứa Quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa Quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản Quy phạm pháp luật.” [28]. Có thể nói khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật ở Luật 2015 đã cơ bản và rõ ràng hơn so với các luật trước đó.

Đặc điểm, bản chất của văn bản quy phạm pháp luật

Theo khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật được quy định tại Luật 2015 đã nêu ở trên, có thể nói một văn bản Quy phạm pháp luật được cấu thành từ 2 yếu tố: Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Yếu tố thứ nhất: Phải là văn bản có chứa Quy phạm pháp luật – có thể nói đây là yếu tố bản chất, bởi xuất phát từ tính chất của nội dung văn bản phải chứa Quy phạm pháp luật.

Trong quan hệ giữa các Quy phạm pháp luật và văn bản Quy phạm pháp luật thì các Quy phạm pháp luật là nội dung còn văn bản Quy phạm pháp luật là hình thức. Từ đó khẳng định văn bản Quy phạm pháp luật luôn luôn chứa đựng các Quy phạm pháp luật. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của văn bản Quy phạm pháp luật.

Khoản 1 Điều 3 Luật 2015 quy định: “1. Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.” [28]

So với các luật trước đó việc Luật 2015 đưa khái niệm Quy phạm pháp luật vào luật như một bước tiến trong thể chế về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật. Tính Quy phạm pháp luật đã được gọi tên từ các đặc tính của quy định trong văn bản Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành và đảm bảo thực hiện theo luật định.

Xác định tính Quy phạm pháp luật bao gồm:

Xác định tính là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần của các Quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ thể nằm trong điều kiện, hoàn cảnh mà Quy phạm pháp luật quy định. Quy phạm pháp luật được đặt ra không phải cho những chủ thể cụ thể mà cho các chủ thể không xác định. Đây là điểm khác biệt với văn bản áp dụng pháp luật, bởi vì nội dung văn bản áp dụng pháp luật bao giờ cũng chứa đựng quy tắc xử sự riêng đối với cá nhân, tổ chức cụ thể được xác định. Vì vậy văn bản Quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên thực tế còn văn bản áp dụng pháp luật chỉ có hiệu lực duy nhất một lần. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Tính áp dụng trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định: tùy thuộc vào thẩm quyền của chủ thể ban hành, cũng như nội dung của mỗi văn bản. Thông thường văn bản Quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước, còn văn bản Quy phạm pháp luật do địa phương ban hành thì có hiệu lực trên phạm vi đơn vị hành chính địa phương đó.

Do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định và được Nhà nước bảo đảm thực hiện:

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Từ khái niệm này ta thấy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Các quy tắc xử sự chính là những khuôn mẫu, chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh.

Văn bản Quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức, hành chính, kinh tế. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức cố tình không thực hiện hoặc thực hiện sai các quy định của văn bản Quy phạm pháp luật.

Yếu tố thứ hai: Được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật

Nếu coi yếu tố đầu tiên là yếu tố bản chất thì đây là yếu tố bắt buộc để hợp pháp hóa các yếu tố Quy phạm pháp luật, từ các Quy phạm pháp luật để xây dựng hình thành văn bản Quy phạm pháp luật thì văn bản có chứa các Quy phạm pháp luật phải được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức và trình tự thủ tục luật định. Thẩm quyền, hình thức, trình tự thủ tục ban hành văn bản Quy phạm pháp luật tùy thuộc vào pháp luật quốc gia quy định, nhưng bao giờ cũng được quy định rõ ràng, chặt chẽ, bởi xuất phát từ vị trí, vai trò của văn bản Quy phạm pháp luật trong đời sống xã hội – văn bản Quy phạm pháp luật là công cụ quản lý nhà nước chủ yếu và hiệu quả nhất, đặc biệt là đối với nhà nước pháp quyền, quản lý và điều hành đất nước bằng pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. Luật 2015 cũng quy định rõ văn bản có chứa Quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật thì không phải là văn bản Quy phạm pháp luật.

Về bản chất, văn bản Quy phạm pháp luật mang bản chất của pháp luật nói chung và bản chất của nhà nước đã ban hành ra nó. Theo đó, văn bản Quy phạm pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện, chứa đựng ý chí của Nhà nước của Nhân dân Việt Nam, thể hiện quyền lực của Nhân dân, Nhân dân thông qua Nhà nước để thể hiện ý chí của mình trong pháp luật nói chung và văn bản Quy phạm pháp luật nói riêng. Bảo vệ lợi ích cho người lao động, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và bảo đảm các quyền tự do dân chủ thực sự cho Nhân dân như quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh… đáp ứng những lợi ích cơ bản của người lao động, mang lại tự do thực sự cho cả cộng đồng và mỗi người dân.

1.1.2. Khái niệm chính quyền địa phương Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Chính quyền địa phương là một tổ chức hành chính có tư cách pháp nhân được hiến pháp và pháp luật công nhận sự tồn tại vì mục đích quản lý một khu vực nằm trong một quốc gia. Chính quyền địa phương có trách nhiệm cung ứng hàng hóa công cộng (nhiệm vụ chi) cho nhân dân trong địa phương mình và có quyền thu thuế địa phương (nguồn thu) [56].

Việt Nam theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 thì các đơn vị hành chính của nước ta được phân định ba cấp đơn vị hành chính phổ biến là cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và một cấp không phổ biến là đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định: “CQĐP được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định” [26]. Khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 được sửa đổi năm 2019 quy định “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt” [29]. Qua đó có thể hiểu Chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức tại các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, khác với trước đây cấp Chính quyền địa phương được tổ chức gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương đã cho phép việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là không bắt buộc, tạo sự linh hoạt để tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Hiện nay các cấp Chính quyền địa phương trên cả nước hầu hết vẫn gồm có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, chỉ riêng thành phố Hà Nội và thành phố Đà Nẵng đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân tại một số quận, thị xã, phường thuộc địa bàn.

Hiến pháp 2013 đã sử dụng cụm từ “chính quyền địa phương” thay cho cụm từ “HĐND, Uỷ ban nhân dân” trong bản Hiến pháp trước đó, mặc dù đây không phải lần đầu tiên Hiến pháp nước ta sử dụng cụm từ này (thuật ngữ “chính quyền địa phương” đã được sử dụng từ bản Hiến pháp đầu tiên 1946 của nước ta), nhưng việc Hiến pháp năm 2013 sử dụng thuật ngữ “chính quyền địa phương” và tiếp đó được cụ thể bằng Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có thể coi như một bước phát triển, luật đã không cứng nhắc quy định áp dụng thống nhất một loại mô hình Chính quyền địa phương phải bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như đã nói ở trên, còn đưa địa vị của Chính quyền địa phương độc lập hơn với chính quyền trung ương, đẩy mạnh phân cấp giữa Trung ương và địa phương và giữa các cấp Chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức và hoạt động của Chính quyền địa phương các cấp.

1.1.3. Khái niệm xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Trước đây việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được điều chỉnh bởi 2 luật khác nhau (Luật 2004 và Luật 2008), bởi thế khái niệm văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương được quy định cụ thể tại Luật 2004. Khác với trước đó hiện nay việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp đều được quy định chung tại Luật 2015. Theo đó từ hai khái niệm về văn bản Quy phạm pháp luật và Chính quyền địa phương nêu trên có thể rút ra văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương là văn bản do Chính quyền địa phương ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội địa phương.

Văn bản quy phạm pháp của Chính quyền địa phương phải có các dấu hiệu đặc trưng của văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp Chính quyền địa phương. Theo định nghĩa trên, văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, về nguyên tắc, hoàn toàn là một văn bản Quy phạm pháp luật theo định nghĩa của Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật, văn bản Quy phạm pháp luật do địa phương ban hành cũng phải nằm trong tổng thể hệ thống pháp luật quốc gia và phải có đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng sau: Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Là văn bản do Chính quyền địa phương ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật 2015 quy định.

Có quy tắc xử sự chung.

Có hiệu lực trong phạm vi địa phương.

Được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương có những đặc điểm chung của văn bản Quy phạm pháp luật theo quy định của Luật 2015, chỉ khác về chủ thể có thẩm quyền ban hành là Chính quyền địa phương các cấp và phạm vi áp dụng văn bản là tại địa phương.

Theo pháp luật về văn bản Quy phạm pháp luật hiện nay mặc dù thuật ngữ xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật được nhắc đến rất nhiều nhưng thuật ngữ này không được giải thích. Tuy nhiên theo trình tự thủ tục ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trong Luật 2015 thì văn bản Quy phạm pháp luật được ra đời qua 2 khâu là khâu xây dựng và ban hành. Theo đó có thể hiểu xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật là quá trình đề xuất xây dựng, soạn thảo và hoàn thiện dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật theo trình thủ tục luật định để trình cơ quan, người có thẩm quyền ban hành.

Vậy xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương được hiểu là quá trình đề xuất xây dựng, chuẩn bị dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương theo trình tự, thủ tục do luật định.

1.2. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

1.2.1. Thẩm quyền về hình thức

Thẩm quyền về hình thức là việc cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ được ban hành văn bản theo đúng hình thức (tên gọi) văn bản Quy phạm pháp luật đã được quy định cho cơ quan, người có thẩm quyền đó. Thẩm quyền về hình thức được Luật 2015 quy định như sau:

Tại Khoản 9, 10, 12, 13, 14, 15 Điều 4 quy định:

  1. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).
  2. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
  3. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).
  4. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
  5. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
  6. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.”

Và Điều 29 quy định: “Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành quyết định theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan.

Theo đó Hội đồng nhân dân có thẩm quyền ban hành văn bản Quy phạm pháp luật với hình thức nghị quyết và Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền ban hành văn bản Quy phạm pháp luật với hình thức quyết định.

1.2.2. Thẩm quyền nội dung

Thẩm quyền nội dung về ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương được quy định từ Điều 27 đến 30 Luật 2015 trong đó: Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định: (1) Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; (2) Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; (3) Biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; (4) Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

UBND cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định: (1) Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; (3) Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.

Đối với Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Luật 2015 chỉ quy định dẫn chiếu Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo quy định của Luật 2015 và các luật khác có liên quan. Bởi theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội quyết định thành lập, được áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt về kinh tế – xã hội, có Chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát triển của đơn vị đó (Điều 74) và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập (khoản 2 Điều 75) [27]. Bởi vậy không thể quy định khung thẩm quyền nội dung cho Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt như Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khác.

Thẩm quyền nội dung của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và xã bị hạn chế bằng việc Luật 2015 không quy định những nội dung nào thì Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã được ban hành văn bản Quy phạm pháp luật mà quy định Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở 2 cấp này chỉ được ban hành văn bản Quy phạm pháp luật để quy định những vấn đề được luật giao. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Thực hiện chủ trương tinh gọn hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật, so với Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2008 (Luật 2008) và Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004 (Luật 2004), Luật 2015 đã bỏ hình thức văn bản Quy phạm pháp luật là chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp, đồng thời giới hạn nội dung, quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn về nội dung ban hành các hình thức văn bản Quy phạm pháp luật nói chung và văn bản của cấp Chính quyền địa phương nói riêng, cụ thể: Cấm quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Uỷ ban nhân dân, văn bản Quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật [29]; văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã chỉ được ban hành để quy định những vấn đề được luật giao.

1.3. Trình tự, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Trình tự thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật là cách thức tiến hành các hoạt động được thực hiện kế tiếp nhau theo quy định chặt chẽ của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Trình tự, thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, nó bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý của văn bản Quy phạm pháp luật khi được ban hành và nâng cao hiệu quả của văn bản Quy phạm pháp luật khi thực hiện. Theo Luật 2015, quy trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Uỷ ban nhân dân thực hiện gồm các bước sau:

  • Đề nghị xây dựng (đối với cấp tỉnh).
  • Chuẩn bị dự thảo gồm: soạn thảo; lấy ý kiến; thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật.

Ngoài ra trong một số trường hợp đặc biệt Luật 2015 quy định nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn.

1.3.1. Trình tự, thủ tục xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Lập đề nghị xây dựng nghị quyết Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Lập đề nghị xây dựng là giai đoạn chỉ áp dụng đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh mà không áp dụng đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã.

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được chia thành hai nhóm: (1) Nhóm những nghị quyết quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định; quy định chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo thi hành Hiến pháp, luật, văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương tại khoản 1, 2, 3 Điều 27 Luật 2015; (2) Nhóm những nghị quyết quy định những biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của địa phương theo quy định tại khoản 4 Điều 27 Luật 2015 được sửa đổi tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2020 (Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020).

Đối với nhóm (1), cơ quan đề nghị xây dựng nghị quyết không phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách mà có trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ đề nghị xây dựng nghị quyết theo trình tự, thủ tục đơn giản hơn rất nhiều để trình Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định. Đối với nhóm nghị quyết thứ (2), cơ quan, tổ chức đề nghị bắt buộc phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách. Luật 2015 quy định khi đề nghị xây dựng nghị quyết ở nhóm này cơ quan đề nghị xây dựng nghị quyết phải tiến hành xây dựng nội dung của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết; đánh giá tác động của chính sách trong nghị quyết sau khi được Hội đồng nhân dân thông qua và thực hiện quy trình chặt chẽ, có thể nói còn hơn cả quy trình xây dựng dự thảo nghị quyết bao gồm tổ chức lấy ý kiến, thẩm định, thông qua đề nghị xây dựng nghị quyết.

Chuẩn bị dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Soạn thảo nghị quyết

Đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã thì cơ quan có thẩm quyền trình dự thảo là Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh Luật 2015 quy định cơ quan có thẩm quyền trình dự thảo là Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh và các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh. Tuy nhiên qua thực tiễn cho thấy hầu hết các dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình và việc soạn thảo thường được giao cho cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân. Còn nếu dự thảo do các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh trình thì các chủ thể này có thể tự tổ chức việc soạn thảo nghị quyết.

Lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo nghị quyết

Nếu như việc lấy ý về dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã không mang tính bắt buộc trong mọi trường hợp thì việc lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là hoạt động bắt buộc phải thực hiện.

Thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Thẩm định dự thảo nghị quyết là một công đoạn bắt buộc thực hiện khi xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp dự thảo nghị quyết do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình, còn đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã thì luật không quy định. Sở Tư pháp là cơ quan thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do Uỷ ban nhân dân trình và Phòng Tư pháp thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện.

Thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân trước khi trình Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua phải được thẩm tra. Hoạt động thẩm tra được thực hiện đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân ở cả ba cấp: tỉnh – huyện – xã và do Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra .

1.3.2. Trình tự, thủ tục xây dựng quyết định của Ủy ban nhân dân Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Đề nghị xây dựng quyết định của Uỷ ban nhân dân

Theo quy định của Luật 2015, bước đề nghị xây dựng quyết định của Uỷ ban nhân dân chỉ quy định đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm đề nghị xây dựng quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Chuẩn bị dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân

Giai đoạn này bao gồm các công việc: soạn thảo dự thảo quyết định; lấy ý kiến góp ý và thẩm định dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân.

Soạn thảo quyết định

Việc soạn thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, đối với cấp huyện Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và trực tiếp chỉ đạo cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân soạn thảo và dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức, chỉ đạo việc soạn thảo.

Lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo quyết định

Việc lấy ý kiến về dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là bắt buộc, tuy nhiên đối với việc tổ chức ý kiến đối với dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quyết định căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Thẩm định dự thảo quyết định

Giống như đối với quy định về thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp, việc thẩm định dự thảo quyết định là một công đoạn bắt buộc thực hiện khi xây dựng quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, còn đối với dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp xã thì luật không quy định. Sở Tư pháp là cơ quan thẩm định dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Tư pháp thẩm định dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

1.3.3. Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Quy trình xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn là công cụ pháp lý hữu hiệu trong quản lý, điều hành đất nước và là quy trình không thể thiếu trong xây dựng và ban hành văn bản Quy phạm pháp luật ở cả trung ương và địa phương. Nguyên lý chung là rút ngắn thời gian xây dựng văn bản và thời điểm có hiệu lực của văn bản để giải quyết các vấn đề khẩn cấp, cấp bách của quốc gia hoặc để thực hiện ngay cam kết quốc tế.

Luật 2015 chỉ quy định thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết và Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định theo trình tự, thủ tục rút gọn. Việc xây dựng và ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn không được áp dụng đối với văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã, do theo quy định của Điều 30 của Luật năm 2015, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã chỉ được ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trong trường hợp được luật giao. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Luật 2015 quy định ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn được mở rộng và xác định cụ thể các trường hợp hơn so với Luật năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật 2015 năm 2020 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 9 (sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) một lần nữa quy định mở rộng hơn các trường hợp được phép xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo trình tự thủ tục rút gọn. Cụ thể Điều được sửa đổi, bổ sung quy định các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn gồm: (1) Trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; trường hợp đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn; (2) Trường hợp cần ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản Quy phạm pháp luật để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; (3) Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản Quy phạm pháp luật mới được ban hành; trường hợp cần ban hành ngay văn bản Quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (4) Trường hợp cần bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội;

(5) Trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản Quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn [29].

1.4. Các yếu tố trong xây dựng ảnh hưởng đến chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Văn bản Quy phạm pháp luật có chất lượng cao thì nội dung các quy định phù hợp với điều kiện khách quan của đời sống xã hội, sẽ có khả năng rất lớn tác động tích cực vào các quan hệ xã hội; ngược lại, nếu có chất lượng thấp thì văn bản Quy phạm pháp luật sẽ khó có khả năng đi vào đời sống xã hội, không được áp dụng triệt để và sẽ bị thay thế bởi những văn bản khác. Hay nói cách khác, văn bản Quy phạm pháp luật có chất lượng cao thì sẽ có tính khả thi cao. Chất lượng văn bản có mối quan hệ mật thiết với tính khả thi của văn bản. Có thể hiểu chất lượng của văn bản Quy phạm pháp luật là cái tạo nên giá trị của văn bản Quy phạm pháp luật trong đời sống xã hội, thể hiện trình độ pháp luật, trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật pháp lý.

Chất lượng của văn bản Quy phạm pháp luật biểu hiện tập trung ở trong sự phù hợp của nội dung văn bản với đường lối của Đảng và với pháp luật hiện hành; sự phản ánh nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động; sự phù hợp với các điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Để đánh giá chất lượng của văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương cần phải có các yếu tố đánh giá, dựa vào các quy định về nội dung thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật và giám sát, kiểm tra văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương thường các yếu tố đánh giá chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương gồm:

  • Sự phù hợp của của văn bản với chính sách, chủ trương của Đảng, Hiến pháp và quy định văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên.
  • Tính thống nhất với các văn bản khác của cùng cơ quan ban hành.
  • Tính khả thi của văn bản.
  • Sự hoàn thiện về trình độ kỹ thuật soạn thảo văn bản.

Qua thực tiễn cho thấy các yếu tố trong quá trình xây dựng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, cụ thể các yếu tố sau đây:

  • Chất lượng nguồn nhân lực tham gia xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của CQĐP.

Giống như trong nhiều công việc khác, nguồn nhân lực được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra. Trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật thì chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố được đưa lên hàng đầu vì chất lượng của văn bản Quy phạm pháp luật – cái tạo nên giá trị của văn bản Quy phạm pháp luật trong đời sống xã hội, thể hiện trình độ pháp luật, trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật pháp lý… của người soạn thảo. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

  • Việc tuân thủ trình tự, thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

Mỗi trình tự, thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật được mỗi quốc gia đặt ra đều có mục đích nhất định, để tựu trung lại có một quy trình nhằm xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật có chất lượng, hiệu quả tác động tích cực đến đời sống xã hội, hạn chế tối đa nhất có thể những hậu quả không mong muốn có thể xảy ra nhờ sự chuẩn bị, tính toán kỹ càng trong quá trình xây dựng, góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiệu lực, hiệu quả.

  • Chủ trương đường lối của Đảng, quy định của cơ quan nhà nước cấp trên.

Trên thực tế, các văn bản pháp luật của địa phương nhiều khi chỉ là các văn bản có nội dung hướng dẫn lại các quy định của trung ương [17, tr.88, tr.89], rất ít văn bản địa phương ban hành đặc thù của địa phương. Do đó có thể nói chính sách của Đảng, quy định của cơ quan nhà nước ở trung ương ảnh hưởng lớn, nhiều khi mang tính quyết định đến nội dung văn bản của Chính quyền địa phương. Quy định của các cơ quan nhà nước ở trung ương thống nhất, có chính sách tốt, hợp lòng dân, có tính khả thi cao, dựa vào đó sẽ là nền tảng tốt để Chính quyền địa phương xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật có chất lượng.

Nguồn kinh phí cho công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương. Mọi hoạt động chỉ có thể có được kết quả tốt khi được đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động được diễn ra. Trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, để nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy phạm dự kiến ban hành rất cần có những người có trình độ năng lực cao đóng vai trò “kiến trúc sư” xây dựng và không thể thiếu những ý kiến chất lượng, khách quan, đa chiều đóng góp hoàn thiện dự án, dự thảo văn bản. Những hoạt động “chất xám cao” nói trên rất cần được đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện, để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cần có kinh phí cho chính sách thu hút, thù lao xứng đáng cho nhiều bên tham gia quá trình xây dựng.

Tiểu kết chương 1 Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương có vai trò quan trọng đối với quản lý nhà nước và xã hội ở địa phương, là phương tiện để cụ thể hóa và thực thi các quy định của các cơ quan nhà nước ở trung ương và là công cụ để Chính quyền địa phương bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Pháp luật hiện hành đã quy định khá rõ về nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành cũng trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương và pháp luật về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật có xu hướng hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu thực tế. Để thực hiện tốt công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, trước hết cần nhận thức đúng vị trí, vai trò của Chính quyền địa phương trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước nói chung cũng như vị trí, vai trò của mỗi cơ quan Chính quyền địa phương ở mỗi cấp, nắm rõ tác dụng của công cụ pháp luật trong quản lý nhà nước của Chính quyền địa phương, đồng thời nắm rõ cơ sở lý luận cơ bản về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, bởi đây là nền móng cho việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN TỈNH CAO BẰNG

2.1. Cơ sở pháp lý và những yếu tố ảnh hưởng tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh Cao Bằng

2.1.1. Các yếu tố kinh tế-xã hội ảnh hưởng tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh Cao Bằng

Vị trí địa lý Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Cao Bằng là một tỉnh biên giới ở cực Bắc của đất nước, nằm trong vùng Miền núi và Trung du Bắc bộ; Tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Cao Bằng là: 6.724,62 km2, chiếm 2,12% diện tích cả nước, được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 22021’21” đến 23007’12” vĩ độ Bắc và từ 105016’15” đến 106050’25” kinh độ Đông.

  • Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Quảng Tây của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với đường biên giới dài trên 333 km;
  • Phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Lạng Sơn;
  • Phía Tây giáp tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.

Tỉnh lị là thành phố Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286 km theo đường Quốc lộ 3. Cao Bằng là một tỉnh có vị trí địa lý cách xa các trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc và cả nước. Trước thời điểm tháng 3 năm 2020 tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện (12 huyện và 01 thành phố) với 199 xã phường thị trấn trong đó có 46 xã, thị trấn biên giới) [57]. Thực hiện việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã tỉnh Cao Bằng theo Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14 ngày 10/1/2020 và Nghị quyết số 897/NQ-UBTVQH14 ngày 11/02/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng, sau ngày 01/3/2020 tỉnh Cao Bằng có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 9 huyện và 01 thành phố; 161 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 139 xã, 8 phường và 14 thị trấn [39]. Với điều kiện tự nhiên chủ yếu là đồi núi, giao thông không thuận tiện (tỉnh chỉ có duy nhất giao thông đường bộ và bị ảnh hưởng bởi địa hình chia cắt).

Đặc điểm khí hậu, thời tiết

Do nằm sát chí tuyến Bắc trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu nên khí hậu của tỉnh Cao Bằng mang tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm có 2 mùa rõ rệt: mùa nóng mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh mưa ít từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng từ 19,80C đến 21,60C, mùa hè có nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng từ 250C đến 280C, mùa đông có nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng từ 140C đến 180C.

Đặc điểm kinh tế – xã hội Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây đã có những bước tăng trưởng khá nhưng chưa thật sự bền vững; là địa phương chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nhưng hiệu quả sản xuất nông nghiệp còn thấp; ngành công nghiệp phát triển chậm; tiềm năng về thương mại, du lịch, kinh tế cửa khẩu chưa được khai thác, phát huy hết lợi thế (năm 2019: tổng thu ngân sách đạt 2.208 tỷ đồng, tổng chi ngân sách là 9.206,632 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người năm 2018: 1.856.000 đồng) [11, tr.13]. Tỉnh có có 08/13 huyện nghèo theo Quyết định số 275/QĐ-TTg ngày 07/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các huyện nghèo và huyện thoát nghèo giai đoạn 2018-2020; trong đó có 116/199 xã đặc biệt khó khăn, 98 xóm đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 [36]. Vì là tỉnh điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn do đó khi xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật cần tập trung xây dựng những thể chế khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, tạo những cơ chế tăng nguồn thu cho ngân sách tỉnh, và khi ban hành những chính sách xã hội mặc dù rất được khuyến khích nhưng cần đặc biệt chú ý đến nguồn lực tài chính thực hiện để tránh tình trạng văn bản ban hành ra không khả thi.

Tính đến tháng 4 năm 2019, dân số Cao Bằng trên 530.341 người. Đặc điểm đặc trưng là dân số trẻ, tốc độ tăng tự nhiên khá nhanh. Cơ cấu dân số có thể được thể hiện qua một số chỉ số sau đây: tỷ lệ nam – nữ là 50,09% và 49,91%; số dân thành thị gần 23% dân số, số dân nông thôn hơn 77% dân số toàn tỉnh. Dân cư phân bố không đều. Mật độ dân số đông nhất ở thành phố Cao Bằng (630 người/km2). Ở các huyện phía Đông, nơi có điều kiện giao thông thuận lợi, mật độ dân số cũng tương đối cao so với mức trung bình của tỉnh (xấp xỉ 100 người /km2). Các huyện địa hình ít thuận lợi cho cư trú, giao thông khó khăn, mật độ dân cư thưa thớt (xấp xỉ 50 người/km2). Dân cư nông thôn chiếm đa số, đời sống còn khó khăn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.

Dân số tỉnh Cao Bằng với đa số là người dân tộc thiểu số (chiếm khoảng trên 95%) với nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm đa số (khoảng gần 41% dân số cả tỉnh); tiếp theo có người Nùng (31,7%), Dao (10,1%), Mông (10,1%), Kinh (5,6%), Sán Chay (1,4 %), Lô Lô (0,5%)… Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Ngoài ra còn một số dân tộc có số dân hơn 50 người như Mường, Thái, Hoa, Sán Dìu.

Văn hóa – xã hội có mặt còn hạn chế, chất lượng giáo dục còn thấp, chưa đồng đều, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo chỉ chiếm 20,3% [11, tr.11]; công tác xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội đã được chú trọng nhưng tỷ lệ giảm nghèo chưa bền vững; điều kiện về y tế chưa đáp ứng nhu cầu, môi trường nước và sinh thái có nguy cơ bị ảnh hưởng lớn… Với tình hình văn hóa xã hội nói trên, đặc biệt là trình độ dân trí không đồng đều giữa thành thị và vùng sâu vùng xa, đòi hỏi văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với đối tượng áp dụng, ngoài phù hợp với văn bản trung ương còn phải phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân các dân tộc tại địa phương, khuyến khích những chính sách an sinh xã hội, chính sách phát triển nguồn lực con người như nâng cao chất lượng giáo dục.

Trong phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 của tỉnh đã nêu ra: “Tiếp tục thực hiện nội dung, mục tiêu cải cách hành chính theo Nghị quyết 30c/NQ-CP và các văn bản liên quan đến cải cách hành chính của Bộ, ngành Trung ương. Trong đó tập trung thực hiện một số nội dung, mục tiêu chính, cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương và bảo đảm bám sát mục tiêu của giai đoạn II – Chương trình tổng thể cải cách hành chính. Đối với công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế thì nâng cao công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, chú trọng khâu tổ chức lấy ý kiến của các ngành liên quan, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ, cụ thể và khả thi của văn bản là công việc trọng tâm”.

Do vậy, vấn đề đặt ra trong công tác quản lý là cần phải tạo ra cơ chế, tạo ra sự thay đổi và phát triển bằng việc thiết lập môi trường lành mạnh trong phát triển kinh tế và quản lý xã hội. Cần có thể chế tốt trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, thông qua việc sử dụng pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

Khái quát về công chức làm công tác pháp luật, pháp chế tại tỉnh Cao Bằng

Ở cấp tỉnh, thực hiện Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật, các cơ quan có liên quan trong xây dựng pháp luật như Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh, Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh đều bố trí cán bộ làm công tác pháp luật; riêng Sở Tư pháp đã bố trí 06 công chức (thuộc Phòng Nghiệp vụ làm công tác xây dựng, kiểm ra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản Quy phạm pháp luật và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Đối với các cơ quan chuyên môn khác thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, do Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị bố trí, sắp xếp theo vị trí việc làm để tham mưu thực hiện công tác xây dựng, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản Quy phạm pháp luật theo quy định. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Bảng 2.1. Thống kê công chức làm công tác pháp luật, pháp chế tại tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016 – 2020

Ở cấp huyện, hiện nay, tổng số cán bộ, công chức của 10 phòng Tư pháp là 36 biên chế; tổng số công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã là 309 biên chế/161 xã, phường, thị trấn.

Tuy nhiên về trình độ chuyên ngành luật chưa cao, tỷ lệ trình độ trung cấp pháp lý chiến tỷ lệ cao chiếm 34%, không có tiến sĩ, tỷ lệ thạc sĩ chỉ chiếm 1,2%.

Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế- xã hội đến công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh Cao Bằng

Thuận lợi: Có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền tỉnh trong công tác xây dựng và ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật luôn xác định các lĩnh vực, nội dung trọng tâm, cần tập trung ưu tiên xây dựng. Các văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, cụ thể, tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng thực hiện.

  • Khó khăn:

Cao Bằng là tỉnh miền núi, biên giới, giao thông đi lại khó khăn, đời sống kinh tế-văn hoá của nhân dân ở khu vực miền núi, biên giới còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí của cán bộ và nhân dân ở địa phương còn hạn chế. So với mặt bằng chung của cả nước thì sự phát triển về kinh tế của tỉnh, trình độ dân trí của người dân trong tỉnh thấp hơn, nên đôi khi xây dựng văn bản của địa phương gặp khó khăn trong cân bằng giữa việc quy định phù hợp với văn bản cấp trên (được xây dựng căn cứ vào mặt bằng chung cho cả nước) và việc phù hợp với thực tế địa phương.

Nguồn ngân sách địa phương còn hạn hẹp, do đó, kinh phí cho công tác xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Sự nhận thức, quan tâm của lãnh đạo một số sở, ngành, địa phương chưa đầy đủ, chưa chú trọng. Trình độ, năng lực chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ của một số công chức trong công tác xây dựng pháp luật còn nhiều hạn chế, không đồng đều giữa các cấp, không đồng đều giữa công chức của phường, xã, thị trấn thuộc đô thị với các xã nông thôn đặc biệt là các xã vùng sâu vùng xa.

2.1.2. Cơ sở pháp lý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Hiện nay việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương thực hiện theo quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm:

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;

Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

Để việc thực hiện trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật được thực hiện theo Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Theo đó, thực hiện Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành các văn bản Quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa, quy định chi tiết, tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện tại địa phương, cụ thể gồm:

Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND ngày 26/11/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng;

Quyết định 02/2017/QĐ-UBND ngày 23/01/2017 của Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng;

Công văn số 150/STP-XDKTVB ngày 02/3/2017 của Sở Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số 02/2017/QĐ-UBND. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Để đảm bảo kinh phí cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản Quy phạm pháp luật, Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng ban hành Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 12/7/2018 Quy định định mức phân bổ kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản Quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Việc tỉnh Cao Bằng ban hành các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa, quy định chi tiết nêu trên tạo cơ sở pháp lý cho công tác văn bản Quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền, giúp việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh dần đi vào nề nếp, đáp ứng các yêu cầu quản lý của địa phương và thực tiễn cuộc sống.

Tuy nhiên xét về nội dung, trước đây nội dung Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND chủ yếu quy định lại các quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp đã được quy định tại Luật 2004 và Luật 2008. Hiện nay nội dung của Quyết định 02/2017/QĐ-UBND cũng là quy định lại trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp đã được quy định tại Luật 2015. Tiếp đó do yêu cầu các cơ quan, công chức thực hiện công tác xây dựng văn bản cần có một một văn bản cụ thể hướng dẫn chi tiết trình tự xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật để thực hiện đúng Luật 2015, Sở Tư pháp ban hành thêm hướng dẫn thực hiện Quyết định Quyết định 02/2017/QĐ-UBND. Việc văn bản Quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định lại các nội dung đã được Luật quy định là không đúng với khoản 2 Điều 8 Luật 2015: văn bản Quy phạm pháp luật không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản Quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên việc ban hành là cần thiết để giúp người thực hiện không phải “giở đi giở lại các điều của Luật, chọn lọc lấy quy định về trình tự, thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của một cơ quan ban hành mà mình quan tâm”, điều này cho thấy rõ nhất về tính thiếu chủ động của công chức thực hiện công tác xây dựng pháp luật trong nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình.

2.2. Kết quả trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016-2019

Nhìn chung công tác xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật được quan tâm chỉ đạo thực hiện trên cơ sở gắn với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp Chính quyền địa phương tại Cao Bằng ngày càng được quan tâm và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều. Văn bản quy phạm do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong tỉnh Cao Bằng ban hành trong thời gian qua chất lượng ngày càng được nâng cao.

Những văn bản Quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền của tỉnh Cao Bằng ban hành góp phần tạo nên một hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật khá ổn định, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những văn bản này, cùng với các quy định của pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở Trung ương ban hành đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp được quan tâm chú trọng, đi vào nề nếp, trong đó nội dung các văn bản Quy phạm pháp luật tập trung vào việc: hoàn thiện thể chế về phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; phân công, phân cấp cho cơ sở; cải cách thủ tục hành chính; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội [37, tr.3, tr.4].

Đánh giá một cách toàn diện, văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại Cao Bằng trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu sau:

Một là: Công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật luôn được tỉnh chú trọng, quan tâm, chỉ đạo, nhờ đó các văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã được ban hành kịp thời để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, các Luật, văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu chính trị của địa phương.

Bên cạnh việc ban hành những văn bản Quy phạm pháp luật cụ thể hóa văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành những văn bản Quy phạm pháp luật quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước của tỉnh. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Bảng 2.2. Thống kê tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng

Nguồn Tỉnh ủy tỉnh Cao Bằng [37, PL1] Số lượng văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành tương đối đồng đều giữa các năm, đang có xu hướng giảm nhẹ qua các năm, số lượng văn bản ở cấp huyện cấp xã đã giảm hẳn so với giai đoạn thực hiện Luật 2004 do thực hiện quy định của Luật 2015 (HĐND, Uỷ ban nhân dân cấp huyện cấp xã chỉ ban hành văn bản Quy phạm pháp luật khi được luật giao), việc này đã hạn chế được tình trạng sao chép lại văn bản cấp trên của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. Điều này chứng tỏ bên cạnh nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật, coi văn bản Quy phạm pháp luật là công cụ quan trọng không thể thiếu trong quản lý, điều hành xã hội, các ngành, các cấp của tỉnh Cao Bằng đã nhận thức đúng với tinh thần mới về hạn chế xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương theo Luật 2015.

Hai là: Việc tuân thủ trình tự, thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật cấp tỉnh được đảm bảo, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành

Hoạt động ban hành văn bản Quy phạm pháp luật luôn được các lãnh đạo tỉnh quan tâm, ngày càng chú trọng hơn, việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, UNBD tỉnh được thực hiện quy củ và đi vào nề nếp. Trình tự, thủ tục xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh đa số được giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh chủ trì soạn thảo, tiến hành đúng các bước theo quy định của Luật. Việc dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật được thực hiện trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo; nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo. Việc lấy ý kiến vào dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật cũng được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện một cách nghiêm túc, đúng pháp luật. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với văn bản Quy phạm pháp luật khác do chủ thể cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với tình hình thực tế của địa phương ngày càng giảm và được chú ý khắc phục.

Qua kết quả của công tác kiểm tra theo thẩm quyền cho thấy số lượng văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật của các cấp Chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh có xu hướng ngày càng giảm, từ năm 2016 đến 2019 không có trường hợp văn bản Quy phạm pháp luật cấp tỉnh nào được ban hành có sai phạm về trình tự thủ tục ban hành.

Ba là: Lập đề nghị xây dựng nghị quyết bắt buộc yêu cầu đánh giá về nguồn lực thực hiện và lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách trong một số trường hợp với quy trình chặt chẽ, đã phát huy tác dụng góp phần hạn chế tình trạng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành thiếu khả thi, không thể thực hiện trong thực tế do thiếu nguồn lực.

Luật 2015 đã thay đổi cơ bản quy trình đề nghị xây dựng văn bản QPPP, đó là không quy định bắt buộc xây dựng kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật hàng năm mà quy định yêu cầu đối với đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật để tăng tính chủ động của cơ quan tham mưu, tăng tính kịp thời trong đề nghị xây dựng. Nếu như trước đây thực hiện Luật 2004, công tác xây dựng và ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của chính quyền tỉnh được thực hiện theo kế hoạch hàng năm đề ra. Kế hoạch được xây dựng dựa trên cơ sở để đảm bảo thực hiện luật, pháp lệnh, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và chương trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, yêu cầu quản lý ở địa phương và từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương. Qua đó, quy trình đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Luật 2004 được thực hiện ở địa phương giúp việc quản lý ban hành văn bản Quy phạm pháp luật bằng kế hoạch, giúp đảm bảo tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm cho hoạt động này phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương; đồng thời khắc phục được tình trạng tùy tiện trong việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trước đó từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản Quy phạm pháp luật. Tuy nhiên chưa “can thiệp” được đến tính khả thi của văn bản được đề nghị xây dựng. Luật 2015 đã khắc phục hạn chế trên. Trong xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh – thường quy định về chính sách, biện pháp để giải quyết các vấn đề tại địa phương, Luật 2015 quy định đề nghị xây dựng nghị quyết bắt buộc yêu cầu đánh giá về nguồn lực thực hiện và lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách trong trường hợp xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 27 Luật 2015 với quy trình chặt chẽ.

Chính quyền cấp tỉnh của Cao Bằng đã thực hiện nghiêm túc quy định trên giúp hạn chế tình trạng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành thiếu khả thi, không thể thực hiện trong thực tế do thiếu nguồn lực thực hiện như trước đây. Khi mới thực hiện quy trình mới không tránh khỏi những lúng túng, e ngại nhưng sau một thời gian thực hiện quy trình này đã được thực hiện đi vào nề nếp và phát huy tác dụng. Quy trình đánh giá tác động chính sách cũng giúp cho người soạn thảo có một khung định hướng cơ bản để tính toán, xem xét toàn diện hơn dự kiến những chính sách sẽ đặt ra từ đó ban hành được những chính sách có tính khả thi, có hiệu quả trong thực tiễn. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Bốn là: Lấy ý kiến được cơ quan chủ trì soạn thảo chú trọng

Việc tổ chức lấy ý kiến dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện đúng quy định, các dự thảo đều được đăng tải công khai trên mục “lấy ý kiến dự thảo văn bản” của Cổng thông tin điện tử của tỉnh (https://www.caobang/) để lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm. Việc tổ chức lấy ý kiến dự thảo văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện tuy không bắt buộc nhưng luôn được thường xuyên tổ chức, qua kết quả khảo sát có 50% người được hỏi cho rằng dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của cấp huyện thường xuyên tổ chức lấy ý kiến và 50% người được hỏi cho rằng dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của cấp huyện ít được tổ chức lấy ý kiến. Tổ chức lấy ý kiến góp ý dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật được chú trọng, thực hiện đúng quy định đã góp phần nâng cao chất lượng văn bản được ban hành.

Năm là: Hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp và thẩm tra của các Ban Hội đồng nhân dân ngày càng được quan tâm

Công tác thẩm định văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã được các cấp, các ngành chú trọng hơn và từng bước đi vào nề nếp, tạo bước đột phá trong xây dựng pháp luật ở tỉnh. Việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh đã tuân thủ nghiêm quy định của Luật năm 2015 trong việc gửi thẩm định dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật, theo đó, 100% nghị quyết của Hội đồng nhân dân do Uỷ ban nhân dân trình và quyết định của Uỷ ban nhân dân được ban hành đều được Sở Tư pháp thẩm định. Nội dung thẩm định đã bám sát quy định của Luật năm 2015.

Chất lượng thẩm định văn bản của Sở Tư pháp ngày càng được nâng cao; nội dung thẩm định xác đáng, có lập luận vững chắc, làm cơ sở để cơ quan chủ trì lập đề nghị, soạn thảo văn bản nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý. Từ năm 2016 đến năm 2019, Sở Tư pháp đã tiếp nhận và thẩm định 03 đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và 275 dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật, gồm 99 nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, 175 quyết định và 01 chỉ thị của Uỷ ban nhân dân tỉnh [37, tr.4]. Các văn bản qua thẩm định cơ bản đảm bảo đúng thẩm quyền ban hành, nội dung các văn bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, có tác động thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương. Từ năm 2016 đến hết năm 2019, trong số những văn bản đã thẩm định, Sở Tư pháp đã đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh không ban hành 02 dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật và đều được Uỷ ban nhân dân tỉnh chấp nhận. So với giai đoạn trước, giai đoạn 2016-2019 Hội đồng thẩm định được thành lập nhiều hơn để thẩm định những dự thảo văn bản phức tạp hoặc dự thảo do Sở Tư pháp soạn thảo để có thể huy động được nhiều nguồn nhân lực có chất lượng vào khâu thẩm định, đảm bảo tính khách quan, đa chiều trong thẩm định.

Công tác thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân được các Ban của Hội đồng nhân dân thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Luật 2015. Chất lượng báo cáo thẩm tra ngày càng được nâng cao, kết quả thẩm tra của các Ban thuộc Hội đồng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Báo cáo thẩm tra của các Ban đã cung cấp một cách tương đối có hệ thống các thông tin về những vấn đề cơ bản như: yêu cầu, căn cứ ban hành nghị quyết, sự phù hợp của nghị quyết với các văn bản pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tế của địa phương, những ý kiến còn khác nhau, tạo cơ sở cho đại biểu Hội đồng nhân dân xem xét, đánh giá toàn diện về dự thảo nghị quyết.

Những chuyển biến tích cực và hiệu quả đạt được trong công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng thời gian qua có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan. Các văn bản do địa phương ban hành cùng với hệ thống các văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương đã trở thành công cụ đắc lực, hữu hiệu cho sự nghiệp xây dựng, phát triển tỉnh Cao Bằng đang tiếp tục con đường đổi mới, phát triển.

2.3. Những hạn chế trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016-2019 Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Trong thời gian vừa qua, công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp Chính quyền địa phương tỉnh Cao Bằng đã đạt được nhiều kết quả. Các văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành đã bao quát một phạm vi rộng lớn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, trong đó nội dung các văn bản Quy phạm pháp luật tập trung vào việc: hoàn thiện thể chế về phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; phân công, phân cấp cho cơ sở; cải cách thủ tục hành chính; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội. Quy trình xây dựng đã đi vào nề nếp, được thực hiện đúng luật và dân chủ hơn. Chất lượng các văn bản được nâng cao góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh Cao Bằng vẫn còn một số hạn chế sau:

Một là: Nội dung của văn bản Quy phạm pháp luật vẫn còn phổ biến tình trạng quy định lại các quy định tại các văn bản Quy phạm pháp luật của trung ương

Nhiều ý kiến cho rằng văn bản Quy phạm pháp luật của địa phương có nội dung chủ yếu là sao chép lại các quy định tại các văn bản Quy phạm pháp luật của trung ương [17,tr.107]. Trên thực tế tỉnh Cao Bằng cũng vậy, phải nói là đa số các văn bản pháp luật của địa phương có nội dung hướng dẫn lại các quy định của trung ương. Mặc dù Luật 2015 quy định văn bản Quy phạm pháp luật không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản Quy phạm pháp luật khác (Khoản 2 Điều 8), tuy nhiên tại tỉnh Cao Bằng việc văn bản Quy phạm pháp luật cụ thể hóa – hướng dẫn văn bản của cấp trên được thực hiện theo hướng:

Thứ nhất, chọn lọc những quy phạm trong văn bản của trung ương phù hợp điều chỉnh vấn đề địa phương để làm cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề kinh tế xã hội của địa phương. Kết quả của hình thức này là toàn bộ nội dung của văn bản địa phương sao chép lại các quy định tại các văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương. Những văn bản này thường ra đời trong trường hợp khi một lĩnh vực đã được cơ quan nhà nước ở trung ương quy định khá đầy đủ tuy nhiên lại nằm rải rác ở nhiều văn bản, làm phát sinh nhu cầu của người thực hiện chỉ cần 1 văn bản tổng thể điều chỉnh vấn đề của địa phương cần giải quyết.

Thứ hai, quy định chi tiết nội dung được giao trong văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng trong văn bản chứa cả nội dung đã được quy định tại văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, mục đích của người soạn thảo trong trường hợp này thường muốn quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến nội dung được giao quy định chi tiết để khi thực hiện không cần sử dụng tới nhiều văn bản. Kết quả của hình thức này là văn bản chứa nội dung được giao quy định chi tiết và nội dung sao chép lại. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Quy định của Luật 2015 chỉ cho phép Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp xã ban hành văn bản Quy phạm pháp luật khi được luật giao đã hạn chế được tình trạng quy định lại nội dung của văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên ở 02 cấp này, nhưng tình trạng này vẫn phổ biến ở cấp tỉnh, dường như pháp luật lại cho phép địa phương cụ thể hóa – hướng dẫn văn bản của cấp trên một cách “vô giới hạn”, miễn là không trái với văn bản cấp trên [17,tr.107], đã làm cho việc làm thừa khi quy định lại nội dung của văn bản cấp trên trở thành thiếu nếu như không thực hiện. Ở cấp tỉnh, văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành đa số quy định lại những nội dung đã được quy định ở văn bản cơ quan nhà nước ở cấp trên như vậy làm nặng nề thêm hệ thống các văn bản pháp quy ở nước ta – vốn dĩ đã đồ sộ, rườm rà [17,tr.109].

Hai là: Việc thực hiện lập đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đôi khi còn hình thức

Việc thực hiện đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh đã được thực hiện đầy đủ và đi vào nề nếp, tuy nhiên việc thực hiện đôi khi còn hình thức. Việc đề nghị đôi khi chậm làm ảnh hưởng tới tính kịp thời trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật.

Việc thực hiện một số bước trong trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh còn nhiều hạn chế. Theo quy định của Luật 2015, trước khi soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 27 cần phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách. Trong quá trình thực hiện quy định này cho thấy phạm các loại văn bản Quy phạm pháp luật cần phải lập đề nghị theo quy trình chính sách quy định tại Luật năm 2015 là quá rộng. Nhiều văn bản là nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chỉ quy định về biện pháp tổ chức thi hành văn bản của cấp trên, không quy định chính sách mới nhưng vẫn phải lập đề nghị xây dựng văn bản theo quy trình chính sách, làm hạn chế khả năng phản ứng của Chính quyền địa phương đối với những vấn đề cấp bách của xã hội. Điều đáng nói, quy định này có thể đã “đẩy” cơ quan soạn thảo vào tình trạng đối phó vì phải thực hiện quy định. Bởi, trong giai đoạn dự thảo đề nghị xây dựng chính sách nên việc đánh giá tác động của các chính sách dự kiến ban hành nhiều khi còn sơ sài, nhất là chưa làm nổi bật được những chi phí mà xã hội phải thực hiện so với lợi ích quản lý mà Nhà nước thu về của mỗi phương án chính sách. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Trong giai đoạn 2016-2019 Uỷ ban nhân dân tỉnh có đề nghị xây dựng 03 nghị quyết có chính sách đặc thù của địa phương là: (1) nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ phát triển nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, (2) nghị quyết quy định một số chính sách thu hút, đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao đến công tác tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và (3) nghị quyết ban hành chính sách hỗ trợ đối với người hoạt động ở cấp xã và xóm, tổ dân phố dôi dư do sắp xếp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2019-2020. Tuy nhiên chất lượng đánh giá các chính trong 3 đề nghị không đồng đều, một trong 3 đề nghị không đánh giá được hiệu quả của chính sách, nên qua xem xét đề nghị Thường trực Hội đồng nhân dân không nhất trí cho xây dựng.

Ba là: Trong công tác soạn thảo dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật

Việc soạn thảo đã có những chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Một số cơ quan đơn vị còn lúng túng trong việc phân biệt văn bản Quy phạm pháp luật và văn bản hành chính thông thường [48, tr.19], một số cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo văn bản chưa đầu tư thỏa đáng về thời gian để nghiên cứu, soạn thảo nên chất lượng dự thảo văn bản chưa cao, việc soạn thảo vẫn mắc phải những lỗi cơ bản như lỗi về căn cứ pháp lý, lỗi về nội dung.

Cơ quan soạn thảo đôi khi chưa chủ động, tuân thủ đúng quy định về thời gian xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật như: gửi văn bản góp ý với thời gian ghi trong văn bản gấp (có khi cơ quan được lấy ý kiến chỉ có 1, 2 ngày nghiên cứu), hồ sơ thẩm định quá gấp, thậm chí sát ngày Uỷ ban nhân dân họp cơ quan chủ trì soạn thảo mới gửi hồ sơ thẩm định với số lượng lớn gây quá tải cho cơ quan chủ trì thẩm định. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Bốn là: Về góp ý đối với dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật

Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình cũng như còn hạn chế về năng lực tham gia xây dựng pháp luật, giám sát, phản biện xã hội. Chất lượng ý kiến đóng góp chưa cao, vẫn tồn tại tình trạng cơ quan, tổ chức được xin ý kiến nhưng không có ý kiến góp ý hoặc có văn bản trả lời nhưng nhất trí hoàn toàn với nội dung được xin ý kiến. Ý kiến góp ý thường gửi đến cơ quan soạn thảo muộn so với yêu cầu. Hầu hết các đề nghị, dự thảo đăng tải trên Cổng thông tin điện tử tỉnh đều không nhận được ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Sự tham gia phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức đoàn thể và của nhân dân đối với công tác xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật còn hạn chế, chưa thu hút được sự tham gia của đông đảo nhân dân.

Chưa có phương thức riêng khi lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp, cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến đối với toàn bộ dự án, dự thảo văn bản theo 1 hình thức chung cho mọi đối tượng được xin ý kiến.

Mặc dù Luật năm 2015 quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì lấy ý kiến trong việc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý và đăng tải công khai nội dung tiếp thu giải trình nhưng các cơ quan hầu hết chỉ tiếp thu, giải trình trong hồ sơ trình, hồ sơ gửi thẩm định, thẩm tra mà không đăng tải công khai nội dung này để cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý biết.

Năm là: Về công tác thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật

Chất lượng thẩm định tuy được nâng cao nhưng chất lượng các báo cáo thẩm định chưa đồng đều, một số báo cáo thẩm định chất lượng chưa cao, hầu hết mới tập trung đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, chưa chú trọng đánh giá về mức độ thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng trong đề nghị, dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật, tính hợp lý, tính khả thi và nguồn lực bảo đảm thi hành văn bản sau khi được ban hành, sự cần thiết, tính hợp lý và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính (TTHC) và việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới. Nội dung của một số báo cáo thẩm định còn sơ sài, xuôi chiều, chưa thực sự mang tính phản biện đối với đề nghị xây dựng và dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật.

Tiến độ thực hiện thẩm định nhiều khi chậm, ảnh hưởng đến việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản của cơ quan chủ trì soạn thảo. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Ở cấp huyện vai trò của cơ quan tư pháp trong việc thẩm định văn bản Quy phạm pháp luật là rất mờ nhạt, vẫn còn tình trạng một số văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành mà không qua giai đoạn thẩm định, các văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp này thường được giao cho cơ quan chuyên môn hoặc một chuyên viên soạn thảo và Chủ tịch ký ban hành chứ không qua thẩm định của cơ quan Tư pháp.

Chất lượng thẩm tra chưa đồng đều, thời gian dành cho mỗi phiên họp ngắn nên chưa đủ để thảo luận sâu các vấn đề lớn và xem xét kỹ các điều, khoản cụ thể trong dự án, dự thảo văn bản. Một số báo cáo thẩm tra có tính phản biện chưa cao, chưa toàn diện, thường chỉ tập trung vào sự cần thiết ban hành, các nội dung chính, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và sự phù hợp của chính sách trong đề nghị, dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng.

2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng

Xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân của những tồn tại trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng, đánh giá được những yếu tố ảnh hưởng tới công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật là việc vô cùng quan trọng, để từ đó làm căn cứ đưa ra những giải pháp đồng bộ và hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật. Qua thực tiễn nghiên cứu có thể xác định các nguyên nhân của những hạn chế trong xây dụng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng như sau:

2.4.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương – căn cứ ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương còn có những hạn chế, bất cập Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Pháp luật là cái có sau thực tiễn xã hội, pháp luật được nhà nước đặt ra để quản lý xã hội. Trong khi đất nước chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề mới phức tạp, khó dự báo được. Việc quản lý kinh tế xã hội trong điều kiện hiện đại thì lại luôn đặt ra yêu cầu phải tuân theo những quy định của pháp luật. Chính điều đó là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm luật “nay làm mai sửa”, việc văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương thường xuyên thay đổi làm cho văn bản của Chính quyền địa phương cũng thiếu ổn định.

Tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết diễn ra ở hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo và chưa có giải pháp khắc phục triệt để. Năm 2016 có 21 văn bản (15 nghị định, 06 thông tư) quy định chi tiết 04 luật đã ở tình trạng chậm ban hành. Năm 2017 có 47 văn bản (31 nghị định, 04 quyết định, 06 thông tư, 06 thông tư liên tịch) quy định chi tiết 10 luật ở tình trạng chậm ban hành. 6 tháng đầu năm 2018 số văn bản nợ ban hành là 11 văn bản (04 nghị định, 01 quyết định, 04 thông tư, 02 thông tư liên tịch) quy định chi tiết 09 luật [4, tr.28]. Việc ban hành một số văn bản của Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn thi hành luật, nghị định, thông tư chưa kịp thời gây khó khăn cho quá trình xây dựng, cụ thể hóa của các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Thể chế trong một số lĩnh vực chưa thống nhất, đồng bộ, còn mâu thuẫn, chồng chéo[37, tr.12], gây khó khăn, tạo ra tranh cãi, khó thống nhất trong quá trình xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương.

2.4.2. Một số quy định về trình tự, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương chưa phù hợp

Trong đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Luật 2015 và Nghị định 34 quy định đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong mọi trường hợp là chưa hợp lý, cụ thể trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, vì trường hợp này vấn đề xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đã được cơ quan cấp trên giao xuống.

Luật 2015 yêu cầu chặt chẽ và tương đối phức tạp về trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách gồm: xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn lập đề nghị, lấy ý kiến về đề nghị, thẩm định đề nghị… do vậy đòi hỏi cơ quan lập đề nghị phải dành nhiều thời gian để thực hiện. Tuy nhiên, đối với việc ban hành một số loại nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thì việc áp dụng quy trình lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách là chưa hợp lý, nhiều khi không bảo đảm tính kịp thời trong xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Vấn đề này đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật năm 2020 khắc phục khi thay vì quy định các loại nghị quyết tại các khoản 2, 3, 4 Điều 27 của Luật phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách như trước đây, hiện nay Luật chỉ quy định nghị quyết tại khoản 4 Điều 27 (nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương) mới phải tiến hành lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách. Hy vọng rằng khi Luật sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định này sẽ khắc phục hạn chế về thời gian trong lập đề nghị xây dựng nghị quyết như hiện nay.

Các nội dung về báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong Nghị định số 34/2016/NĐ-CP mang tính nguyên tắc, quy định chung, chưa cụ thể nên khi thực hiện gặp nhiều lúng túng như: xác định phương pháp đánh giá tác động chính sách; phương pháp, công cụ thu thập số liệu, thông tin phục vụ đánh giá tác động; so sánh giữa chi phí, lợi ích, đặc biệt so sánh tác động tích cực, tác động tiêu cực khi không thể định lượng được… Do chưa cụ thể nên chất lượng đánh giá tác động chính sách phụ thuộc nhiều vào năng lực người thực hiện.

Trong lấy ý kiến dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Luật năm 2015 bước đầu quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì lấy kiến và cơ quan, tổ chức tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật (Điều 7 của Luật) nhưng chưa quy định cơ chế giám sát việc tổ chức lấy ý kiến, tham gia góp ý kiến và trách nhiệm giải trình, phản hồi của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quy trình này.

Trong thẩm định dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật

Đối với quy định nội dung thẩm định dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Luật năm 2015 không quy định việc thẩm định sự cần thiết ban hành, sự phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và mức độ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng là chưa phù hợp, thực tế này đã được nhìn nhận và được Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 khắc phục. Thời hạn thẩm định chưa được tính theo ngày làm việc là chưa hợp lý.

2.4.3. Nguồn lực trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực trong công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh chưa đồng đều, đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật còn thiếu, trình độ năng lực của một số cán bộ làm công tác pháp luật còn hạn chế. Thực hiện Luật 2015 việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật chủ yếu thực hiện ở cấp tỉnh nhưng qua số liệu thống kê (Bảng 2.1) số lượng công chức làm công tác pháp luật, pháp chế ở cấp tỉnh có chiều hướng giảm, trình độ sau đại học ít và tăng chậm (không có tiến sĩ, trình độ thạc sĩ là 5 người năm 2019 chiếm 1,16%). Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Đánh giá tác động đối với từng chính sách trong văn bản Quy phạm pháp luật là một công tác khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có phải có trình độ chuyên môn và kỹ năng, đồng thời, quan trọng hơn là phải đánh giá khách quan thì việc đánh giá tác động chính sách mới thể hiện được đúng ý nghĩa và tầm quan trọng trong quá trình xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật. Do đó chất lượng đánh giá tác động chính sách phụ thuộc rất lớn và năng lực người lập đề nghị, nếu người lập đề nghị có trình độ chuyên môn sâu, trách nhiệm cao thì kết quả đánh giá rất có ích trong việc hoạch định chính sách, giúp văn bản sau khi được ban hành có tính khả thi cao, tạo hiệu quả tốt khi thực thi. Trường hợp người lập đề nghị thiếu trình độ chuyên môn hay thiếu trách nhiệm thì tính hình thức trong đánh giá tác động chính sách là điều khó tránh khỏi.

Lãnh đạo một số sở, ngành, lãnh đạo một số huyện, xã chưa thực sự quan tâm, tập trung chỉ đạo công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính trong xây dựng pháp luật có lúc còn chưa nghiêm.

Đa số các sở, ngành không có phòng pháp chế hoặc không có cán bộ chuyên trách làm công tác văn bản nên việc xây dựng văn bản chủ yếu giao cho phòng chuyên môn thực hiện. Đối với đội ngũ công chức của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, mặc dù hầu hết có trình độ từ đại học trở lên; tuy nhiên chủ yếu là các chuyên ngành khác, không phải chuyên ngành luật. Số lượng được đào tạo chuyên ngành luật chỉ khoảng 15% ở các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh [4, tr.5]. Trong khi đó, Luật năm 2015 đặt ra yêu cầu cao hơn về việc bảo đảm trình tự, thủ tục và chất lượng soạn thảo văn bản. Hơn nữa, còn có thực trạng là người được phân công thực hiện công tác pháp chế chưa thực hiện hết trách nhiệm hoặc có tâm lý buông xuôi.

Bảng 2.3. Thống kê tổ chức, người làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng năm 2019

Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thẩm định của một số cán bộ, công chức làm công tác thẩm định của cơ quan tư pháp chưa đầy đủ dẫn đến chưa đầu tư thời gian, công sức thỏa đáng cho công tác này. Bên cạnh đó, tâm lý nể nang, ngại động chạm trong thẩm định vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định và làm giảm vai trò của các cơ quan tư pháp trong quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật.

Chưa thực sự chú trọng đến việc huy động, thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý tham gia các cuộc họp thẩm định.

Đa số thành viên các Ban của Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm nhiệm nên ít có điều kiện nghiên cứu, nhất là tổ chức khảo sát thực tế để lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo Nghị quyết nên chất lượng thẩm tra đôi khi còn hạn chế. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Chưa thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng, chưa có chương trình phát triển nguồn nhân lực trong công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, chính sách đối với người làm công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật chưa khuyến kích được họ trao dồi và phát triển.

Kinh phí cho xây dựng

Việc đảm bản kinh phí cho công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, cụ thể bằng việc ban hành Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28 tháng 12 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật, căn cứ vào đó Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng đã ban hành Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 12/7/2018 Quy định định mức phân bổ kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản Quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Nhưng do ngân sách địa phương còn hạn hẹp nên việc bố trí kinh phí cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thực sự được đảm bảo [37, tr.12], chưa thực hiện đồng bộ với tất cả các cơ quan, chủ yếu chỉ phân bổ cho những cơ quan có nhiệm vụ thường xuyên về xây dựng pháp luật như cơ quan tư pháp, các ban của Hội đồng nhân dân.

Kinh phí, nguồn lực cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của địa phương còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ làm công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật [37, tr.11].

Tiểu kết chương 2 Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Qua thực trạng công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng cho thấy, với sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, sự vào cuộc của các cấp chính quyền, công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả nhất định. Sau hơn 03 năm thi hành Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015 với nhiều quy định mới, giờ đây công tác xây dựng, ban hành văn bản đã đi vào nề nếp. Nhiều văn bản Quy phạm pháp luật đã được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp tại địa phương. Các bộ, ngành, địa phương đã nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của pháp luật, tập trung hơn nguồn lực và thời gian chuẩn bị, nhờ đó chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật đã được nâng lên, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định. Do đó các cơ quan cần tăng cường trách nhiệm của mình và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật để khắc phục những hạn chế, từ đó nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành, giúp cho việc sử dụng pháp luật là công cụ hữu hiệu trong quản lý nhà nước, thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương phát triển.

CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

Thực tế chỉ ra rằng, những năm vừa qua công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng đã có nhiều cố gắng nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật với mục đích tạo hành lang, khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành của địa phương, góp phần vào việc xây dựng, phát triển kinh tế xã –xã hội theo định hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của các cơ quan nhà nước ở Cao Bằng, bảo đảm thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân và tăng cường pháp chế… Tuy nhiên, công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng còn có những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến chất lượng văn bản được ban hành.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay với những phát triển, biến đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế – xã hội, những thách thức trong hoạt động xây dựng pháp luật đòi hỏi cần phát huy hơn nữa những thành quả đã đạt được, đồng thời ngày càng đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành. Do vậy, việc nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng nói riêng và của các cấp Chính quyền địa phương nói chung là một vấn đề cần được quan tâm, thực hiện một cách nghiêm túc để làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Việc nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền cần có yêu cầu, mục tiêu cụ thể để lấy đó làm định hướng trong quá trình hoàn thiện xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật.

Xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương phải thể chế hóa đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng, phù hợp với văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và phù hợp với thực tế của địa phương, bảo đảm phục vụ các chính sách, phát huy nội lực, phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, dân chủ và công bằng xã hội. Xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương phải kịp thời, vững chắc và toàn diện trên cơ sở bảo đảm tính khả thi, tính hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Luôn gắn công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền được xây dựng phải có sự đổi mới căn bản, với định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của địa phương, mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Quá trình xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương bảo đảm đúng thẩm quyền, tuân thủ chặt chẽ quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, đảm bảo tính công khai, minh bạch.

Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Chính quyền địa phương trong việc ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định biện pháp có tính đặc thù của tỉnh, trong khi pháp luật quốc gia không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn cần phải giải quyết ở địa phương.

Để nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương, qua nghiên cứu thực tiễn công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng, Tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:

3.1. Xây dựng hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương là căn cứ chủ yếu để Chính quyền địa phương các cấp ban hành văn bản của mình, chính vì thế văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương luôn ảnh hưởng và đôi khi còn mang tính quyết định đến việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương. Do đó việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương rất cần thiết. Để hoàn thiện văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương là xương sống của hệ thống pháp luật cần:

Thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tiếp theo đảm bảo đồng bộ, thống nhất, gắn với Chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo từng lộ trình, giai đoạn cụ thể, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương cần phải đồng bộ, thống nhất, xây dựng Luật theo hướng quy định cụ thể, trực tiếp các vấn đề, không quy định chung chung, tránh tình trạng Luật “khung”, khó áp dụng thực hiện.

Nâng cao chất lượng, đáp ứng tính kịp thời trong việc xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật ở trung ương và có giải pháp dứt điểm tình trạng nợ đọng văn bản của các cơ quan trung ương.

3.2. Hoàn thiện quy định về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp quản lý và phát triển của địa phương. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

3.2.1. Về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Không quy định thực hiện bước đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong trường hợp quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước

Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015 được ban hành với nhiều điểm mới, đặc biệt về quy trình xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đã quy định tách bạch khâu đề nghị xây dựng và khâu soạn thảo, điều này giúp chủ thể ban hành kiểm soát tốt hơn chất lượng cũng như số lượng văn bản do mình ban hành. Tuy nhiên việc xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật xuất phát từ 2 hướng: hướng thứ nhất là giao từ trên xuống – do cơ quan có thẩm quyền ban hành giao cho một hoặc một số cơ quan soạn thảo; hướng thứ hai đề xuất từ dưới lên – do cơ quan có thẩm quyền đề nghị đề xuất với cơ quan có thẩm quyền ban hành. Việc đề nghị xây dựng chỉ phù hợp với hướng thứ hai khi sự cần thiết ban hành văn bản Quy phạm pháp luật được các cơ quan cấp dưới nhìn nhận thấy và đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành để cho phép xây dựng.

Tuy nhiên khoản 1 Điều 111 Luật 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2020 quy định: “UBND cấp tỉnh, các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp căn cứ văn bản Quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, tự mình hoặc theo đề xuất của cơ quan, tổ chức, đại biểu Hội đồng nhân dân, có trách nhiệm đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” [29] và khoản 1 Điều 127 Luật 2015 quy định: “Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm đề nghị xây dựng quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh” [28], theo đó thì tất cả các loại nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh đều phải thực hiện đề nghị xây dựng. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Trong khi đó theo quy định về lập danh mục văn bản quy định chi tiết tại mục 1 Chương V Luật 2015 được quy định chi tiết tại Điều 28 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ có quy định Bộ Tư pháp sẽ gửi thông báo bằng văn bản cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (điểm c khoản 2 Điều 28) sau đó Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định danh mục nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định danh mục quyết định của Uỷ ban nhân dân quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (Khoản 3 Điều 28) [8].

Nói cách khác trong trường hợp này, chủ trương xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đã được giao từ trên xuống vì đã có quyết định của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh giao xây dựng văn Quy phạm pháp luật, trong văn bản giao quy định chi tiết cũng đã nêu rõ tên văn bản, cơ quan ban hành văn bản, căn cứ ban hành, nội dung chính của văn bản, dự kiến thời gian ban hành.

Bởi vậy trong trường hợp này vẫn bắt buộc thực hiện quy trình đề nghị xây nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Uỷ ban nhân dân từ dưới đề xuất lên theo Điều 111 và Điều 127 là thực sự bước thừa, làm mất thêm thời gian xây dựng văn bản, đôi khi ảnh hưởng tới tính kịp thời của việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Do đó Luật cần sửa đổi, bổ sung, quy định rõ việc đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật cấp tỉnh tại Điều 111 và Điều 127 của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật không áp dụng đối với trường hợp quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

Hoàn thiện quy trình xây dựng chính sách theo hướng quy định cụ thể hơn trình tự, thủ tục trong xây dựng chính sách

Việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục trong xây dựng chính sách sẽ là căn cứ để người thực hiện có cơ sở xác định phương pháp đánh giá tác động chính sách; phương pháp, công cụ thu thập số liệu, thông tin phục vụ đánh giá tác động; so sánh giữa chi phí, lợi ích, đặc biệt so sánh tác động tích cực, tác động tiêu cực khi không thể định lượng được.

3.2.2. Về soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Luật 2015 mới chỉ quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, chưa quy định cơ quan, cá nhân nào có quyền trình ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Hiện nay vấn đề này được quy định tại Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực. Trong thực tế còn tồn tại một số cơ quan không phải là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có chức năng quản lý nhà nước như Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Ban Quản lý khu kinh tế tỉnh được giao soạn thảo và trình ban hành văn bản Quy phạm pháp luật.

Thể chế về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương cần phải hướng tới xây dựng quy định thành lập Tổ soạn thảo đối với những văn bản Quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trong những trường hợp cần thiết, để nâng cao chất lượng soạn thảo văn bản.

3.2.3. Về công tác lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

Pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể về cơ chế trong việc lấy ý kiến của các cá nhân, tổ chức có liên quan và của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản,cần xác định cụ thể hình thức và nội dung lấy ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến.

Cần có cơ chế giám sát việc tổ chức lấy ý kiến, tham gia góp ý kiến và trách nhiệm giải trình, phản hồi của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quy trình này.

Cần quy định bắt buộc dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được gửi lấy ý kiến của bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan để đảm bảo và nâng cao chất lượng của văn bản Quy phạm pháp luật cấp tỉnh. Bởi bộ, cơ quan ngang bộ đó là cơ quan nắm chắc về hệ thống các văn bản Quy phạm pháp luật cũng như các chủ trương chỉ đạo của trung ương về lĩnh vực mình quản lý, qua thực tiễn cho thấy đa số các văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành đều do cho các bộ, cơ quan ngang bộ soạn thảo. Mặt khác các bộ, cơ quan ngang bộ có chức năng kiểm tra văn bản Quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách (Điều 166 Luật 2015 [28]). Do đó bên cạnh việc kiểm tra văn bản đã ban hành, bộ, cơ quan ngang bộ cần tập trung việc kiểm soát nội dung văn bản Quy phạm pháp luật do cấp tỉnh trước khi ban hành để giảm thiểu tối đa hậu quả của việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật của Chính quyền địa phương.

3.2.4. Về công tác thấm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Cần quy định thời gian thẩm định được tính thống nhất theo ngày làm việc thay vì luật hiện hành quy định thời hạn 10 ngày nói chung, để đảm bảo người thực hiện công tác thẩm định có đủ thời gian thực hiện, vì trong năm nước ta có những kỳ nghỉ lễ, tết kéo dài 5, 7 có khi còn là 9 ngày.

Về giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định, cần có quy định bắt buộc cơ quan soạn thảo bắt buộc tiếp thu những ý kiến liên quan đến tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật.

3.3. Cần có quy định cụ thể việc xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật không tuân thủ quy định dẫn tới ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng

Xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật có ý nghĩa lớn đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Việc xử lý phải được thực hiện tùy theo tính chất và mức độ vi phạm của văn bản trái pháp luật, hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và tính chất, mức độ lỗi mà cơ quan, người xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự và phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo thực tế thì mới nâng cao được ý thức, trách nhiệm của người soạn thảo, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật.

Ở lĩnh vực ban hành văn bản Quy phạm pháp luật, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước Nhân dân trong việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật là việc xem xét, truy cứu trách nhiệm đối với người, cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật [35]. Việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật của các cơ quan hành pháp thường gây ảnh hưởng nặng nề tới tình hình kinh tế, xã hội, phương hại lớn đến quyền và lợi ích của người dân, vì phạm vi, tính chất văn bản Quy phạm pháp luật có đối tượng áp dụng và tầm ảnh hưởng lên nhiều chủ thể. Nhưng thực tiễn công tác kiểm tra văn bản Quy phạm pháp luật thời gian qua cho thấy, đã có nhiều trường hợp văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhưng chưa có trường hợp nào người, cơ quan ban hành văn bản bị xử lý trách nhiệm, cũng chưa có trường hợp nào được bồi thường thiệt hại từ việc ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật gây ra. Việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật hiện nay được quy định tại Điều 108, 115 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Nhưng tại sao đến nay trên thực tế hầu như vẫn chưa có trường hợp nào bị xử lý ? Là bởi vì, chưa có bất kỳ một quy định nào cụ thể hơn các quy định trên để hướng dẫn thực hiện các quy định này. Về mặt tính chất, định lượng, trình tự, thủ tục… là chưa chi tiết, chưa đầy đủ, vì thế, không thể thực hiện được các quy định này trên thực tiễn, mặc dù, điều đó là rất cần thiết và có ý nghĩa đối với công tác xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Bởi vậy rất cần có quy định cụ thể việc xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật không tuân thủ quy định dẫn tới ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng. Trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn xử lý kỷ luật cán bộ, công chức trong việc xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật, cần nghiên cứu, bổ sung loại tội phạm liên quan đến vấn đề này để có cơ sở xem xét, xử lý hình sự. Đồng thời cần phải nghiên cứu, quy định trách nhiệm bồi thường đối với hành vi xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức và cá nhân.

3.4. Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Trong nghiên cứu luận án tiến sĩ Nguyễn Thị Hạnh về hoàn thiện pháp luật về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay năm 2017 chỉ ra rằng: “quy định hiện hành chưa trao cho mỗi cấp Chính quyền địa phương một phạm vi thẩm quyền quản lý riêng nên mỗi cấp cũng không có thẩm quyền riêng về ban hành văn bản Quy phạm pháp luật (không có lĩnh vực điều chỉnh riêng). Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quy định nội dung của nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã là tương đối rộng và cũng tương đối giống nhau,… và đây có thể coi là nguyên nhân chính dẫn đến của sự trùng lắp, sao chép giữa các quy định. Thực tế là quyền ban hành văn bản Quy phạm pháp luật không có thì thiếu mà có thì thừa. Nếu như có thẩm quyền quản lý riêng, thì cấp chính quyền, dù là cấp cơ sở cũng phải có văn bản để thể hiện tính chủ động của địa phương, để luôn có thể bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của địa phương” [17, tr.108, tr.109], theo tác giả nhận định trên có phần đúng như chưa toàn diện, bởi quy định hiện hành chưa quy định đầy đủ, rõ nét cơ chế để Chính quyền địa phương ban hành văn bản Quy phạm pháp luật theo thẩm quyền riêng, nhưng đã có quy định cho phép Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương (Khoản 4 Điều 27 Luật 2015) và với quy trình lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách rất chặt chẽ là bắt buộc, quy trình này cũng là công cụ để địa phương đánh giá tác động, hiệu quả của các chính sách, biện pháp sẽ thực hiện, đương nhiên những biện pháp, chính sách này là mới đối với phạm vi quốc gia, chưa được trung ương tính đến trong xây dựng các văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương, và sự thiếu này không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn cần phải giải quyết ở địa phương. Vậy nguyên nhân dẫn đến tình trạng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương chủ yếu là trùng lắp, sao chép giữa các quy định của Chính quyền địa phương thiếu những quy định riêng, đặc thù, hợp pháp để bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của địa phương còn là do tính thiếu chủ động của Chính quyền địa phương. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Tác giả cũng thấy Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật hiện hành hạn chế quyền ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp xã là hợp lý, bởi đất nước ta với 331.212 km² được chia thành 707 đơn vị hành chính cấp huyện và 10.614 đơn vị hành chính cấp xã [58] thì quy mô huyện và xã là quá nhỏ để việc xây dựng cơ chế đặc thù là là không cần thiết. Thẩm quyền ban hành văn bản được phép quy định đặc thù chỉ nên giao cho cấp tỉnh. Pháp luật cần cụ thể hơn nữa cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp tỉnh trong xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, đồng thời cần có quy định cụ thể hơn nội dung về báo cáo đánh giá tác động của chính sách bởi hiện nay Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã quy định nhưng mang tính nguyên tắc, quy định chung nên các địa phương gặp nhiều lúng túng trong thực hiện như: xác định phương pháp đánh giá tác động chính sách; phương pháp, công cụ thu thập số liệu, thông tin phục vụ đánh giá tác động; so sánh giữa chi phí, lợi ích, đặc biệt so sánh tác động tích cực, tác động tiêu cực khi không thể định lượng được… để giúp Chính quyền địa phương sử dụng hiệu quả hơn công cụ pháp luật trong quản lý và phát triển địa phương.

3.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Lựa chọn người có năng lực trong công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương: người soạn thảo; công chức làm công tác thẩm định văn bản Quy phạm pháp luật. Tăng số và chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách để đáp ứng và nâng cao chất lượng thẩm tra văn bản Quy phạm pháp luật.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP về tổ chức pháp chế theo hướng quy định cụ thể cơ cấu tổ chức, biên chế của tổ chức pháp chế và tiêu chuẩn cán bộ pháp chế tại các cơ quan, đơn vị bao gồm cả cấp huyện…

Củng cố kiện toàn đội ngũ pháp chế và cơ quan tư pháp các cấp. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức thực hiện công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Có chính sách ưu tiên, đãi ngộ, khuyến khích đối với cán bộ làm công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, xây dựng, quy định chế độ đặc thù, đãi ngộ để thu hút, khuyến khích đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật làm việc tại vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về kỹ năng nghiệp vụ công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, công tác phân tích chính sách và các lớp bồi dưỡng, tập huấn khác có liên quan về công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật

Để hạn chế tới mức thấp nhất những văn bản Quy phạm pháp luật ban hành trái pháp luật, những văn bản thiếu tính khả thi thì công tác kiểm tra, xử lý là rất cần thiết. Qua kiểm tra, xử lý sẽ phát hiện, khắc phục được những hạn chế, vi phạm trong quá trình xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật từ đó chỉ ra cho người, cơ quan xây dựng, ban hành văn bản thấy được khuyết điểm, yếu kém của mình trong công tác này, góp phần dần hoàn thiện, nâng cao hơn công tác xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Khác với trước đây việc kiểm tra theo địa bàn được thực hiện định kỳ hàng năm, thì quy định hiện hành chỉ cho phép thực hiện kiểm tra theo địa bàn được thực hiện khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, ảnh hưởng lớn đến kinh tế – xã hội, nếu thấy cần thiết thì cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản quyết định thành lập Đoàn kiểm tra văn bản theo địa bàn tại cơ quan ban hành văn bản [8]. Quy định này nhằm hạn chế việc kiểm tra diễn ra quá nhiều, gây áp lực không cần thiết cho cơ quan bị kiểm tra, tuy nhiên việc hạn chế rất nhiều cuộc kiểm tra dẫn tới thiếu kịp thời khắc phục những vi phạm trong xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật cũng như đôn đốc, hướng dẫn chuyên môn của cấp trên đối với cấp dưới trong công tác này. Do nguồn ngân sách của tỉnh Cao Bằng hạn hẹp nên việc bố trí kinh phí cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đã ảnh hưởng lớn tới công tác kiểm tra [47, tr.2].

Do đó để nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật nói chung và xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương nói riêng cần tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản Quy phạm pháp luật theo hướng đề cao vai trò tự kiểm tra của cơ quan ban hành văn bản, kiện toàn và tăng thẩm quyền của cơ quan kiểm tra độc lập. Thực hiện đồng thời, đồng bộ việc tự kiểm tra, kiểm tra theo thẩm quyền, chú trọng đúng mức, kết hợp với cơ chế tiếp nhận và xử lý ý kiến của cá nhân, tổ chức đối với văn bản bất hợp lí để tạo nên cơ chế phát hiện, xử lí văn bản quy phạm đồng bộ, hiệu quả.

3.7. Đảm bảo nguồn lực vật chất cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Cần bảo đảm nguồn kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật theo quy định tại Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28 tháng 12 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật và Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 12/7/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng Quy định định mức phân bổ kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản Quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng cho các cơ quan thực hiện xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật.

Địa phương cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất , bố trí đầy đủ trang thiết bị làm việc và các điều kiện đảm bảo khác cho công tác xây dựng văn bản, huy động các nguồn lực hợp pháp khác như nguồn xã hội hóa, nguồn tài trợ của các dự án hợp tác quốc tế để xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của địa phương.

Tiểu kết chương 3 Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Qua nghiên cứu thực tiễn xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật tỉnh Cao Bằng, tác giả đưa ra một số giải pháp nêu trên có thể là chưa toàn diện, không thể phù hợp với tất cả các địa phương trên cả nước. Nhưng đây là những gợi mở những giải pháp trước mắt (Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản Quy phạm pháp luật; Đảm bảo nguồn lực vật chất cho công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật) và những giải phá lâu dài (Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật; Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Chính quyền địa phương trong xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật; Các giải pháp hoàn thiện thể chế) đối với Chính quyền địa phương các cấp trong công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật, đặc biệt nhiều giải pháp đã nêu sẽ phù hợp cho Chính quyền địa phương ở các tỉnh có điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn như Cao Bằng để nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của mình.

Để nâng cao chất lượng xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương cần thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp, trong đó cần quan tâm, chú trọng thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật – bởi đây là giải pháp căn cơ trong nâng cao chất lượng văn bản Quy phạm pháp luật.

KẾT LUẬN Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương vừa là phương tiện để quản lý, vừa là sản phẩm của quá trình hoạt động quản lý. Thông qua các văn bản Quy phạm pháp luật, Chính quyền địa phương tác động đến các cá nhân, tổ chức ở địa phương, định hướng hoạt động của họ vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội. Vì vậy, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật là hình thức hoạt động mang tính pháp lý – hình thức hoạt động cơ bản của Chính quyền địa phương.

Văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh Cao Bằng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp tỉnh quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội tại địa phương, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đưa pháp luật đến với người dân của một tỉnh còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí không đồng đều, thấp so với mặt bằng chung cả nước. Các văn bản Quy phạm pháp luật được ban hành đã bao quát một phạm vi rộng lớn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, trong đó nội dung các văn bản Quy phạm pháp luật tập trung vào việc: hoàn thiện thể chế về phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; phân công, phân cấp cho cơ sở; cải cách thủ tục hành chính; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội. Điều này đã đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh kịp thời những quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội theo đặc thù của tỉnh, góp phần thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

Đạt được những kết quả kể trên là nhờ công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đã được lãnh đạo tỉnh quan tâm chú trọng: thể chế về xây dựng, ban hành văn Quy phạm pháp luật đã được ban hành đầy đủ, ngoài ra tỉnh đã có những hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc kịp thời làm cơ sở để công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh đi vào nề nếp, quy trình đề nghị xây dựng, soạn thảo, góp ý, thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật được thực hiện tương đối nghiêm túc và ngày càng được nâng cao về chất lượng. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng còn có những hạn chế nhất định như: nội dung văn bản Quy phạm pháp luật của các cấp vẫn còn phổ biến tình trạng quy định lại các quy định tại các văn bản Quy phạm pháp luật của trung ương; việc thực hiện lập đề nghị xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật đôi khi còn hình thức; chất lượng soạn thảo, góp ý, thẩm định dự thảo văn bản còn chưa đồng đều, tình trạng còn chậm về thời gian thực hiện là tương đối phổ biến. Nguyên nhân của những hạn chế có cả nguyên nhân khách quan (văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương chưa hoàn thiện và còn một số bất cập; thể chế về xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương còn có những nội dung chưa phù hợp) và nguyên nhân chủ quan (lãnh đạo một số sở, ngành, lãnh đạo một số huyện, xã chưa thực sự quan tâm, tập trung chỉ đạo công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật; nguồn nhân lực trong công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của tỉnh chưa đồng đều, đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật còn thiếu, trình độ năng lực của một số cán bộ làm công tác pháp luật còn hạn chế; việc bố trí kinh phí cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thực sự được đảm bảo).

Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn hoạt động xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật của Chính quyền địa phương từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng, Luận văn đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này. Hy vọng rằng những giải pháp Luận văn đưa ra sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý tại địa phương, để các giải pháp được thực hiện trong thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản Quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng và Chính quyền địa phương nói chung đặc biệt là đối với những địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn. Giúp Chính quyền địa phương trước hết sử dụng tốt công cụ pháp luật trong quản lý nhà nước tại địa phương mình và hơn nữa là sử dụng công cụ pháp luật một cách hiệu quả tạo ra những chính sách, biện pháp đặc thù, phù hợp với địa phương để tạo đà cho những bước đột phá đưa địa phương phát triển. Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Pháp luật về kiểm soát nước thải tại Đà Nẵng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993