Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
TÓM TẮT
- Tiêu đề
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Tóm tắt
Nhằm xây dựng mô hình nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, tác giả đã tổng kết và kế thừa các nghiên cứu trước đó như nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh & Nguyễn Thị Cành (2015), Nguyễn Thành Đạt (2019), Lâm Chí Dũng & Võ Hoàng Diễm Trinh, (2020), Nguyễn Thành Đạt & Nguyễn Thị Mỹ Duyên (2021), Batten & Vo (2019), Farkasdi và c.s. (2021). Trong nghiên cứu này, tác giả thu thập dữ liệu bảng của 24 NHTM trong giai đoạn 2005 – 2021. Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Eviews 10 với các mô hình hồi quy theo Pooled OLS, FEM, và REM.
Theo kết quả nghiên cứu, mô hình Pooled OLS phù hợp với phân tích ROA trong nghiên cứu này. Tác động của các yếu tố đến ROA đều có ý nghĩa thống kê. Trong đó, có sáu yếu tố ảnh hưởng tích cực đến ROA, đó là CAP, INF, LIQ, SIZE và GDP, và hai yếu tố là COST và LLR có ảnh hưởng tiêu cựu. Trong hồi quy mô hình cố định với biến phụ thuộc ROE, kết quả thỏa mãn các điều kiện kiểm định. Kết quả phân tích cho thấy D (GDP) có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến ROE và LLR. ROE bị ảnh hưởng tiêu cực và có ý nghĩa thống kê bởi yếu tố này. Theo kết quả của nghiên cứu, các NHTM do nhà nước sở hữu nắm cổ phần chi phối (trên 50% – theo Quốc Hội, 2020) sẽ có lợi thế về quy mô, dẫn đến hiệu quả hoạt động tốt hơn.
Dựa trên đặc điểm của từng yếu tố tác động và hướng tác động, tác giả cũng đề xuất các hàm ý chính sách đối với việc nâng cao lợi nhuận của các NHTM Việt Nam, cũng như đối với NHNN và Chính phủ Việt Nam.
- Từ khóa Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Khả năng sinh lời, ROA, ROE, NHTM.
ABSTRACT
- Title
Factors affecting the business performance of Vietnam Joint Stock Commercial Banks.
- Abstract
In order to build a research model on “factors affecting the profitability of the Vietnamese commercial banking system”, the author summarized and inherited previous studies such as Ho Thi Hong Minh & Nguyen. Thi Canh (2015), Nguyen Thanh Dat (2019), Lam Chi Dung & Vo Hoang Diem Trinh (2020), Nguyen Thanh Dat & Nguyen Thi My Duyen (2021), Batten & Vo (2019), Farkasdi và c.s ( 2021). In this study, the author collected panel data from 24 commercial banks during the period 2005–2021. The data was analyzed using Eviews 10 software with Pooled OLS, FEM, and REM regression models.
According to the research findings, the Pooled OLS model is appropriate for ROA analysis in this study. The impact of these factors on ROA is Giá trị thống kêally significant. Six factors have a positive influence on ROA, namely CAP, INF, LIQ, SIZE, GDP, and two factors, COST and LLR, have a negative influence. In the regression of the FEM model with the Biến phụ thuộc ROE, the results satisfy the test conditions. The results of the analysis show that D (GDP) has a positive and Giá trị thống kêally significant impact on ROE and LLR. ROE is negatively and Giá trị thống kêally significantly affected by this factor. According to the results of the study, public commercial banks with majority ownership (more than 50%, according to the National Assembly, 2020) will enjoy scale advantages, leading to better operational efficiency.
Based on the characteristics of each influencing factor and the direction of impact, the author also proposes policy implications for improving the profitability of Vietnamese commercial banks, as well as for the State Bank of Vietnam and the Government of Vietnam.
- Keywords: Profitability, ROA, ROE, commercial banks.
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Là huyết mạch của nền kinh tế, tất cả các nền kinh tế trên thế giới phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính. Chính các ngân hàng là cầu nối cho việc luân chuyển vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế, từ những người thừa đến những người có nhu cầu. Thông qua sức khỏe của các ngân hàng cũng là thước đo sức mạnh của nền kinh tế. Sức khỏe của các ngân hàng thường được đo lường bằng khả năng sinh lời (KNSL).
Cho nên, để đánh giá vấn đề hiệu quả của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào thì và lợi nhuận vẫn luôn là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá. Lợi nhuận các ngân hàng được coi là thước đo hiệu quả, do đó, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng được cho là cần thiết. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Là thành viên của các tổ chức quốc tế (WTO, Cộng đồng kinh tế ASEAN) và là nước ký kết nhiều hiệp định thương mại quốc tế, Việt Nam đã từng bước hội nhập kinh tế toàn cầu. Với sự mở rộng của nền kinh tế, chúng ta cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn, và các ngân hàng của chúng ta cũng đang trải qua một thời kỳ tương tự. Ngày càng có nhiều tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế tham gia vào thị trường tài chính, sẽ cung cấp các nguồn vốn tiềm năng, công nghệ hiện đại, sản phẩm tài chính đa dạng, trình độ quản lý chuyên nghiệp và với mạng lưới liên kết tài chính toàn cầu.
Cạnh tranh trên trường quốc tế đòi hỏi các ngân hàng phải hiểu nhau và hiểu chính bản thân, phát huy lợi thế, khắc phục nhược điểm của mình. Như vậy, các ngân hàng mới có thể đưa ra các định hướng phát triển phù hợp, đáp ứng được các quy định của nhà nước và các cổ đông vẫn, có thể được hưởng lợi từ tăng trưởng và lợi nhuận.
Mỗi thời kỳ khác nhau, các ngân hàng xác định chiến lược trong hoạt động của mình nhằm đánh giá và tìm kiếm các yếu tố làm cho hoạt động của mình hiệu quả hơn. Các nhà nghiên cứu và kinh tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng như: Tan & Floros (2012), Sufian & Habibullah (2009), Yip và c.s. (2010), Syafri (2012), Dawood, (2014), Saeed (2014), Menicucci & Paolucci (2016), Batten & Vo (2019), Farkasdi và c.s. (2021), Trần Việt Dũng (2014), Nguyễn Minh Sáng và c.s. (2014), Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015), Hồ Thị Hồng Minh & Nguyễn Thị Cành (2015), Nguyễn Thị Mỹ Linh & Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015), Nguyễn Thị Hồng Vinh (2016), Nguyễn Thành Đạt (2019), Nguyễn Thành Đạt & Nguyễn Thị Mỹ Duyên (2021) v.v. Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL (KNSL) của ngân hàng thương mại (NHTM), hầu hết các nghiên cứu này đều sử dụng phương pháp định lượng. Bên cạnh việc xem xét các yếu tố bên trong như đặc điểm và quy mô giao dịch, các nghiên cứu này cũng tính đến các yếu tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát.
Tuy nhiên, theo tác giả, các nghiên cứu này mới chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các ngân hàng nói chung và chỉ có ý nghĩa đối với một số quốc gia có đặc điểm kinh tế nhất định. Các nghiên cứu được thực hiện tại các quốc gia có đặc điểm kinh tế khác nhau có thể cho kết quả khác nhau. Các nghiên cứu về KNSL tại các quốc gia đang phát triển (tại Anh, Dức, Trung Quốc..) cho kết quả là yếu tố vĩ mô có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lời, trong khi một số nghiên cứu tại các nước đang phát triển (như Parkistan, Việt Nam..) thì lại cho cho thấy bằng chứng không có sự tác động của các biến vĩ mô đến khả năng sinh lời của các ngân hàng. Ngoài ra, rất ít các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động ngân hàng gắn với loại hình sở hữu vốn đến KNSL của các NHTM khác nhau như thế nào trong trường hợp có sự góp vốn của nhà nước.
Vì vậy, để có thể đánh giá một cách thực tế và phù hợp hơn về các yếu tố ảnh hưởng cũng như mức độ ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM Việt Nam, và để có một góc nhìn mới hơn trong giai đoạn 2005 – 2021 về các các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL ra sao trong các NHTM Việt Nam, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đây, tác giả quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Xác định được các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến KNSL của các NHTM Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất là xác định và định lượng các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM.
Thứ hai là đề xuất một số hàm ý chính sách đối với các nhà quản trị các NHTM, các cơ quan quản lý nhà nước để cải thiện được KNSL.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu.
Từ các mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu để trả lời các câu hỏi sau đây:
Thứ nhất là các yếu tố nào ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM và mức độ tác động của từng yếu tố đến KNSL của NHTM là như thế nào?
Thứ hai là các hàm ý chính sách nào được đề xuất nhằm cải thiện được KNSL của các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM Việt Nam. Luận văn nghiên cứu về KNSL của các NHTM Việt Nam, không nghiên cứu về tính hệ thống của KNSL này.
Phạm vi không gian: Dữ liệu từ 24 NHTM Việt Nam được sử dụng để phân tích và đánh giá. Lý do chọn 24 NHTM trong nghiên cứu này đại diện cho hơn 95% tổng tài sản của các ngân hàng ở Việt Nam, nên mô hình này đạt được sự tin cậy cần thiết. Các NHTM này được phân chia thành các nhóm theo tiêu chí có vốn nhà nước tham gia vào NHTM, cụ thể nhóm thứ nhất là nhóm không có cổ phần vốn nhà nước, nhóm thứ hai là các ngân hàng có vốn góp nhà nước dưới 50% và nhóm thứ ba có vốn nhà nước chi phối hơn 50%, và tìm hiểu thêm có sự khác biệt nào về KNSL từ ba nhóm ngân hàng này hay không.
Thời gian nghiên cứu: Số liệu thu thập dựa trên Báo cáo tài chính trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2021 của 24 NHTM Việt Nam. Đây là khoảng thời gian đủ dài để có được số quan sát cần thiết để thực hiện nghiên cứu .
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận định lượng để xác định các biến ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM. Sử dụng các mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM và REM, tác giả đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam. Sử dụng kiểm định Hausman và kiểm định F, tác giả sẽ xác định mô hình nào sẽ sử dụng (Pooled OLS, FEM hoặc REM). Sau khi chọn mô hình tối ưu, cần phải kiểm tra nó về phương sai sai số thay đổi, vấn đề đa cộng tuyến và tự tương quan. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp quy nạp, phân tích và để rút ra kết luận và hàm ý chính sách. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo tài chính của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2021. Giá trị tài sản của các ngân hàng này đại diện cho một phần lớn tổng tài sản của các ngân hàng Việt Nam và do đó có tính đại diện cao cho nghiên cứu tổng thể (Phụ lục).
1.6 Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu này có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Việc tác giả đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM Việt Nam để cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa các nhân tố vi mô (nhân tố bên trong hoạt động kinh doanh) và lợi nhuận của các NHTM Việt Nam. Tuy vấn đề nghiên cứu không mới, nhưng tác giả hy vọng sẽ đóng góp một cái nhìn toàn diện và cập nhật hơn trong giai đoạn (2005 – 2021) vào hệ thống nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM Việt Nam.
1.7 Kết cấu luận văn
Bài nghiên cứu bao gồm 5 Chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Giới thiệu đề tài
- Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
- Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
2.1 Ngân hàng thương mại và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại
2.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong các ngành công nghiệp ra đời sớm nhất vào thế kỷ 17, hoạt động độc lập và thuộc sở hữu tư nhân và đặc biệt đều phát hành loại tiền riêng cho ngân hàng mình và thực hiện các nghiệp vụ giống nhau là cho vay, thanh toán, vvv…. Đến đầu thế kỷ 19 nhà nước bắt đầu can thiệp vào hoạt động ngân hàng. Tại các nước khác nhau thì định nghĩa về NHTM cũng khác nhau, tuy nhiên thường được dựa vào tính chất và mục đích hoạt động để đưa ra các định nghĩa về ngân hàng.
Tại Pháp theo luật ngân hàng năm 1941 thì NHTM là một doanh nghiệp hoặc tổ chức nhận tiền từ công chúng, dưới hình thức tiền gửi và sử dụng tiền đó cho các hoạt động tài chính, cấp vốn và tín dụng của chính mình. Tại Ấn Độ, theo Đạo luật Ngân hàng năm 1950, được bổ sung năm 1959, quy định: Các khoản tiền gửi được ngân hàng nhận để cho vay, tài trợ và đầu tư. Đạo luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930, nó bao gồm nhận tiền gửi, kinh doanh vàng và bạc, bất động sản, cơ sở tín dụng, hối phiếu, chuyển tiền và bảo hiểm. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Ở Việt Nam, ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập ngày 6 tháng 5 năm 1951, với các nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho bạc nhà nước, sử dụng các chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Nghị định 59/2009/NĐ – CP ngày 16 tháng 7 năm 2009 định nghĩa NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH 10): “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng trực tiếp giao dịch với các Công ty, Xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm… cho vay và các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên”. Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010, NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh khác theo quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tóm lại NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, làm công tác tín dụng và các nghiệp vụ huy động vốn, cung cấp phương tiện thanh toán, thực hiện cung cấp các nghiệp vụ chiết khấu, dịch vụ tài chính khác với mục tiêu tồn tại, lợi nhuận và phát triển HĐKD của mình cả trong và ngoài nước.
2.1.2 Khái niệm về khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại
Theo Rose (1999) định nghĩa KNSL của ngân hàng là phần thu nhập ròng sau thuế hoặc lợi nhuận ròng của ngân hàng. Cân bằng tài chính được duy trì bằng hiệu quả tiền tệ. Và hiệu quả tiền tệ được đo lường bằng KNSL. Việc đánh giá KNSL phải dựa trên một khoảng thời gian tham chiếu. Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng số 7/2010 (2017), NHTM là ngân hàng được phép thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng vì lợi nhuận.
Theo ECB (2011) thì khả năng sinh lời chính là yếu tố quan trọng, là tấm đệm để ngân hàng đối phó với các rủi ro bất thường hay các khoản lỗ trong các trường hợp cấp bách. Chính khả năng sinh lời giúp ngân hàng bổ sung vào nguồn vốn tự có một số vốn đáng kể với chi phí sử dụng vốn là thấp. Với khả năng sinh lời của ngân hàng cao sẽ giúp ngân hàng có nguồn lực chủ động trong việc đầu tư trang thiết bị hiện đại cũng như cải thiện cơ sở vật chất, tăng các dịch vụ phục vụ cho khách hàng cũng như đem lại lợi nhuận từ những dịch vụ này. Cho nên, chính khả năng sinh lời cao sẽ giúp các nhà đầu tư an tâm đầu tư, vì nếu có xảy ra rủi ro thì ngân hàng vẫn có thể bù đắp các khoản tổn thất này.
Theo Aburime (2008) thì KNSL của NHTM chính là thước đo phản ảnh HQHĐ của các ngân hàng trong kinh doanh. Ở góc độ vĩ mô thì việc các ngân hàng có lợi nhuận hoạt động cao sẽ đồng thời giúp các ngân hàng vượt qua các bất ổn và rủi ro trong quá trình hoạt động, chính điều này đã tạo ra sự ổn định của toàn nền kinh tế. Ở góc độ vi mô thì khi các ngân hàng có lợi nhuận tốt sẽ là tạo ra một nguồn vốn tự có từ lợi nhuận giữ lại cũng là nguồn vốn an toàn với chi phí rẻ nhất.
Theo (Rose, 1999) đưa ra khái niệm về KNSL của ngân hàng chính là trong quá trình hoạt động, KNSL là sự chênh lệch giữa lãi suất tiền vay và lãi suất tiền gửi, và các hoạt động đầu tư khác trừ đi các khoản chi phí phát sinh
Từ những khái niệm trên, ta có thể gọi lợi nhuận là thước đo cho sự thành công trong hoạt động của tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng.
2.1.3 Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
2.1.3.1 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA)
Do không bị ảnh hưởng bởi đòn bẩy tài chính nên ROA được coi là thước đo định lượng tốt nhất đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng (Rose, 1999). Thước đo này cho biết mỗi đô la tài sản được sử dụng trong hoạt động kinh doanh tạo ra bao nhiêu lợi nhuận, vì vậy nó có thể được sử dụng để so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Theo Rivard & Thomas (1997), lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản là chỉ tiêu tốt nhất đánh giá KNSL của ngân hàng. Với quy mô tài sản như nhau, ngân hàng nào có tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) cao thể hiện chính sách đầu tư và kinh doanh hiệu quả (Nguyễn Thành Đạt & Nguyễn Thị Mỹ Duyên (2021), Batten & Vo (2019), Farkasdi và c.s. (2021). Theo nghiên cứu của Davydenko (2010), ROA cũng có một số hạn chế, bao gồm việc loại bỏ các yếu tố ngoại bảng đóng góp vào lợi nhuận.
- Lợi nhuận sau thuế (2.1)
- ROA =
- Tài sản bình quân
2.1.3.2 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROE)
ROA của một ngân hàng cho biết sức khỏe tổng thể của nó, trong khi ROE của nó cho biết giá trị của nó đối với các cổ đông. Nói cách khác, ROE đo lường mức độ hiệu quả và hiệu quả của một ngân hàng sử dụng vốn và chất lượng quản lý vốn của ngân hàng. Hệ số ROE càng cao thì cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư.
Trong nghiên cứu của Gul và c.s. (2011b), đã chỉ ra cách các ngân hàng tạo ra lợi nhuận từ vốn đầu tư của họ. Theo Nguyễn Thị Cành (2009), ROE là thước đo hiệu quả hoạt động của ngân hàng dựa trên tỷ suất sinh lợi tài chính. Ở ngân hàng có ROE cao thì vốn được sử dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đầu tư vào ngân hàng có ROE thấp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của nhà đầu tư. Một ngân hàng có ROE cao cũng có thể có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao và dễ dàng vi phạm luật tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu của ngân hàng.
- Lợi nhuận sau thuế (2.2)
- ROE =
- Vốn chủ sở hữu bình quân
2.1.3.3 Các chỉ tiêu đo lường khác Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Trên tài sản sinh lãi bình quân, Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên được tính bằng cách lấy tổng chi phí lãi (thu nhập lãi ròng) trừ đi tổng thu nhập từ lãi. Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng, chứng khoán đầu tư, cho vay khách hàng và các tổ chức tín dụng khác xác định tổng tài sản có KNSL bình quân. Bằng cách kiểm soát các tài sản sinh lời và xác định các nguồn vốn ít tốn kém nhất, NIM đo lường sự cân bằng giữa thu nhập từ lãi và chi phí lãi vay, do đó NIM càng cao thì KNSL của ngân hàng càng cao. Tỷ lệ này cho phép ngân hàng đánh giá nguồn vốn nào có chi phí thấp nhất và giám sát các tài sản sinh lời. Các nghiên cứu của Gul và c.s. (2011b), Liu và c.s. (2013) sử dụng NIM như một biến phụ thuộc để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến KNSL của ngân hàng. Mặc dù vậy, dòng tiền không phản ánh KNSL của các ngân hàng, vì nó không bao gồm thu nhập ngoài lãi hoặc các chi phí hoạt động khác (Ben Naceur & Goaied, 2008).
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên – NNIM: Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NNIM) đo lường thu nhập ngoài lãi trừ đi chi phí ngoài lãi. Thu nhập ngoài lãi chủ yếu đến từ các chi phí liên quan đến sản phẩm và dịch vụ, trong khi chi phí ngoài lãi bao gồm tiền lương, chi phí sửa chữa và chi phí hoạt động. Nói cách khác, tỷ lệ NNIM càng cao thì ngân hàng càng có lãi.
Tỷ lệ thu nhập trên vốn sử dụng (ROCE): Dựa trên lượng vốn sử dụng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn sử dụng (ROCE) cho biết khả năng thu được lợi nhuận của ngân hàng. Chênh lệch giữa tổng tài sản và nợ ngắn hạn được là vốn sử dụng. Nói chung, ROCE càng cao thì ngân hàng càng có lợi nhuận cao (Gul và c.s., 2011).
ROA và ROE là hai chỉ số chính được các nghiên cứu trong và ngoài nước sử dụng để đánh giá KNSL của các ngân hàng. Do dễ tính toán, có ý nghĩa toàn diện và phản ánh các khía cạnh khác nhau trong việc đánh giá hoạt động và KNSL của một ngân hàng, nên trong nghiên cứu này, hai chỉ tiêu trên được sử dụng để đo lường KNSL của các ngân hàng Việt Nam.
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
2.2.1 Các yếu tố nội tại
Quy mô ngân hàng (SIZE): Quy mô ngân hàng được coi là yếu tố nội tại ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thông qua tổng tài sản hoặc tổng nguồn vốn. Thật vậy, thông qua quy mô kinh tế, các ngân hàng có thể tăng lợi nhuận của mình. Trong hầu hết các nghiên cứu trước đây, để tránh sự khác biệt lớn về quy mô tổng tài sản của các ngân hàng lớn so với các ngân hàng nhỏ, tổng tài sản được tính theo logarit Nepal làm đại lượng cho quy mô ngân hàng trong mô hình nghiên cứu để tránh hiện tượng phương sai thay đổi (Moussa, 2012).
Quy mô vốn chủ sở hữu (CAP): Số vốn tự có hay quy mô vốn chủ sở hữu đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn này, ban đầu do chủ sở hữu đóng góp và được bổ sung trong quá trình hoạt động kinh doanh. Quy mô vốn chủ sở hữu được tính bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, nhiều nghiên cứu trước đây gọi đó là cấu trúc vốn của ngân hàng. Các nghiên cứu trước của Berger (1995), Athanasoglou và c.s. (2006) hay Lee & Hsieh (2013) đều đưa ra quan điểm quy mô vốn chủ sở hữu càng cao sẽ đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn cho ngân hàng do khả năng chịu đựng rủi ro tài chính cao, giảm nhu cầu tài trợ từ bên ngoài, nhờ đó giảm được chi phí vốn đầu vào.
Dư nợ cho vay (LOAN): Theo một số nghiên cứu Dawood (2014); Nguyễn Minh Sáng và c.s. (2014) thì hoạt động cho vay chiếm phần lớn lợi nhuận của các ngân hàng tại Việt Nam. Người ta ước tính rằng hoạt động cho vay đóng góp 80% tổng lợi nhuận của các ngân hàng Việt Nam. Về cơ bản, cho vay là việc tổ chức tín dụng cấp cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích cụ thể trong một thời gian nhất định. Các nghiên cứu thường đo lường tác động của dư nợ đến KNSL của ngân hàng bằng tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản, nhưng có những quan điểm trái ngược nhau về tác động của dư nợ. Theo Gul và c.s. (2011b), rất nhiều khoản vay được ngân hàng giải ngân mà không kiểm soát được rủi ro sẽ dẫn đến việc các khoản vay đó khó hoặc không thể thu hồi được. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh, hoạt động cho vay phải được đẩy mạnh và tăng lên đồng thời phải duy trì chất lượng tín dụng.
Rủi ro tín dụng (LLR – Loan Loss Reserves): Được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa trích lập dự phòng trên tổng tài sản ngân hàng. Khi tăng trưởng tín dụng không đi kèm với kiểm soát chất lượng cho vay thì rủi ro tín dụng sẽ phát sinh. Nợ quá hạn phát sinh buộc ngân hàng phải trích lập dự phòng bắt buộc theo quy định của NHTW và từ đó bào mòn lợi nhuận thu được của ngân hàng. Đó cũng là những quan điểm được Athanasoglou và c.s. (2006) hay Davydenko (2010) đưa ra trong bài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, cũng tồn tại luồng quan điểm trái chiều. Theo Heffernan & Fu (2008), rủi ro tín dụng cao cũng có thể tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng nếu tài sản có chất lượng tốt. Để đạt được mức sinh lời cao, cần chấp nhận mức độ rủi ro cao, đồng thời chất lượng tài sản thế chấp phải tốt và được đánh giá cẩn thận để hạn chế tổn thất. Trần Việt Dũng (2014) cho rằng hoạt động tín dụng của NHTM trở nên rủi ro hơn khi khách hàng chậm trả lãi và/hoặc gốc các khoản vay. Có một đặc điểm khác biệt của hoạt động ngân hàng và kinh doanh thương mại, đó là việc theo đuổi lợi nhuận trên cơ sở quản lý rủi ro. Ngân hàng luôn có sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Mục tiêu cuối cùng của các NHTM là kiếm tiền, nhưng điều này chỉ đạt được thông qua việc sẵn sàng chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn trong hoạt động, điều này sẽ dẫn đến sự phát triển thiếu bền vững, không ổn định và dễ bị tổn thương cho NHTM. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Tính thanh khoản (LIQ): Được đo lường bằng tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản của ngân hàng. Tính thanh khoản càng cao thể hiện ngân hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tức thời lớn. Điều này đem lại sự tin tưởng cho người gửi tiền khi có thể rút ngay khi có nhu cầu hoặc giải ngân ngay khi người vay phát sinh khoản thanh toán. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi không có khả năng thanh khoản tức thời cho các nhu cầu này, hoặc là mất lòng tin của khách hàng hoặc để đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của khách hàng thì ngân hàng sẽ phải huy động một nguồn tiền khác với lãi suất cao hơn, làm ảnh hưởng đến KNSL của chính ngân hàng đó. Để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng và duy trì uy tín của ngân hàng, ngân hàng nên duy trì các tài sản có tính thanh khoản cao hoặc có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt. Tính thanh khoản cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của ngân hàng, theo hầu hết các nghiên cứu trước đây. Trong một nghiên cứu, Bourke (1989) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa tính thanh khoản của ngân hàng và KNSL. Tính thanh khoản cao cho phép ngân hàng chống chọi với rủi ro tài chính tốt hơn, giảm nguy cơ phá sản. Ngoài ra, đồng thời làm giảm chi phí vay từ các nguồn tài trợ bên ngoài, do đó làm tăng lợi nhuận của ngân hàng. Ngược lại, một số quan điểm cho rằng việc nắm giữ quá nhiều tài sản có tính thanh khoản cao sẽ tác động tiêu cực đến KNSL; khi tài sản ở mức an toàn cao thì KNSL thấp. Theo Molyneux & Thornton (1992), tính thanh khoản và KNSL của các ngân hàng có tương quan nghịch.
Chi phí hoạt động ngân hàng (COST): Đối với NHTM, các chi phí liên quan đến quản lý, chẳng hạn như chi phí nhân sự, chi phí hành chính,… được coi là chi phí hoạt động cho NHTM. Chi phí hoạt động càng cao thì lợi nhuận của ngân hàng càng giảm và ngược lại. Ngân hàng có thể tăng lợi nhuận bằng cách kiểm soát hiệu quả chi phí hoạt động của mình. hàng (Saeed, 2014; Nguyễn Thành Đạt & Nguyễn Thị Mỹ Duyên , 2021; Nguyễn Thành Đạt, 2019). Bên cạnh việc tạo ra doanh thu, các ngân hàng phải kiểm soát chi phí chặt chẽ và hợp lý để đạt được hiệu quả cao (Bouzgarrou và c.s., 2018). Chi phí hoạt động của ngân hàng bao gồm các khoản thuế, phí và lệ phí, lương nhân viên, phụ cấp, phúc lợi, chi phí về tài sản, chi phí trích lập dự phòng (trừ rủi ro tín dụng và giảm giá chứng khoán) và các chi phí khác.
2.2.2 Các yếu tố vĩ mô
Lạm phát: Lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng bởi lạm phát vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ gửi và đi vay của các chủ thể kinh tế. Lạm phát gia tăng khiến các NHTM phải thắt chặt cấp phát tín dụng (Trần Việt Dũng, 2014). Tuy nhiên, ngân hàng đã tính toán và cộng thêm vào lãi suất phần lạm phát khi lạm phát được dự báo tương đối chính xác. Do đó, thu nhập luôn cao hơn chi phí trong những trường hợp như vậy. Trong trường hợp này, lợi nhuận của ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng tích cực bởi lạm phát. Ngoài ra, khi không dự báo được lạm phát, lãi suất cho vay được điều chỉnh chậm hơn so với tốc độ tăng chi phí vốn và chi phí hoạt động. Dẫn đến khi lạm phát cao, doanh thu sẽ tăng chậm hơn chi phí. Lợi nhuận của ngân hàng bị ảnh hưởng tiêu cực bởi lạm phát.
Tốc độ tăng trưởng GDP: Các chỉ tiêu về tăng trưởng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định thường được sử dụng để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế (Nguyễn Minh Sáng và c.s., 2014; Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh, 2015). Demirgüç-Kunt & Levine (2009), Gul và c.s. (2011b), Ayadi & Boujelbene (2012) cho rằng sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của một quốc gia sẽ tác động tích cực đến lợi nhuận của các ngân hàng đặt tại chính quốc gia đó. Nguyên nhân là do khi nền kinh tế phát triển, kéo theo sự gia tăng trong cung, cầu về nhu cầu vay vốn, đầu tư cũng như tiết kiệm của khách hàng. Không dừng lại ở đó, nền kinh tế phát triển tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, đảm bảo công ăn việc làm cho xã hội, từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng. Trái lại, tình hình kinh tế quốc gia không ổn định và phát triển sẽ tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, chất lượng tín dụng không đảm bảo, rủi ro và các chi phí dự phòng có liên quan gia tăng sẽ khiến lợi nhuận của ngân hàng bị suy giảm.
2.3 Các nghiên cứu trước đây về những yếu tố tác động đến KNSL của NHTM
2.3.1 Các nghiên cứu nước ngoài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Tan & Floros (2012) khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM đối với 101 ngân hàng ở Trung Quốc trong giai đoạn từ 2003 đến 2009 bằng phương pháp GMM đã cho thấy có mối tương qua dương giữa KNSL của ngân hàng và việc tiết kiệm các chi phí, sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán và lạm phát Sufian & Habibullah (2009), theo kết quả của một nghiên cứu, quy mô ngân hàng (SIZE) và rủi ro tín dụng (LLR) có tương quan thuận với khả năng sinh lời của ngân hàng. Nghiên cứu đã kiểm tra 4 ngân hàng thương mại quốc doanh và 12 ngân hàng thương mại cổ phần ở Trung Quốc để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng.
Ayadi & Boujelbene (2012), bằng cách sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS), các tác giả đã kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) của các ngân hàng ở Ma Cao từ năm 1993 đến năm 2007. Theo nghiên cứu nay, các ngân hàng có vốn hóa cao hơn sẽ có thể có được nhiều lợi thế hơn, góp phần mang lại lợi nhuận cao hơn.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tăng cường cho vay không chắc chắn sẽ cải thiện tỷ suất sinh lợi. Cụ thể, do điều kiện thị trường tín dụng cạnh tranh và việc liên tục giảm lãi suất khiến cho chênh lệch lãi suất, tức là yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận trở nên hẹp hơn. Một mức chênh lệch thấp hơn cùng với các khoản dự phòng rủi ro cho vay cao hơn dẫn đến lợi nhuận cuối cùng thấp hơn. Do đó, thay vì mở rộng quy mô cho vay, kiểm soát chất lượng của khoản vay mới là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các NHTM ở Macao. Cuối cùng, nghiên cứu cũng cho thấy rằng các ngân hàng có quy mô tài sản ở mức trung bình và nhỏ đạt được tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản cao hơn so với các ngân hàng có quy mô lớn hơn.
Một mô hình hồi quy dữ liệu bảng đã được Syafri (2012) sử dụng để kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ hoàn vốn của NHTM Indonesia trong giai đoạn 2002-2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lợi nhuận của các NHTM (ROA) bị ảnh hưởng cùng chiều bởi số dư cho vay, quy mô vốn chủ sở hữu và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, quy mô tài sản, chi phí hoạt động và tỷ lệ lạm phát tác động ngược chiều với tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) của NHTM. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy không có tác động đáng kể nào của tăng trưởng kinh tế (GDP) và thu nhập ngoài lãi đối với tỷ lệ lợi nhuận của các NHTM Indonesia.
Để xác định yếu tố nào ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời (ROA) của các ngân hàng thương mại ở Pakistan, Dawood (2014) đã nghiên cứu số liệu của 23 ngân hàng. Tác giả sử dụng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất thông thường gộp (Pooled OLS) trong nghiên cứu này. Chi phí hoạt động, tính thanh khoản, quy mô vốn tự có, tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản và quy mô ngân hàng là các biến độc lập trong nghiên cứu. Mặc dù chi phí hoạt động và tính thanh khoản ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng, nhưng vốn tự có lại có tác động tích cực.
Nghiên cứu của Saeed (2014) đã kiểm tra 73 NHTM Anh với số liệu nghiên cứu từ năm 2006 đến 2012. Kết quả nghiên cứu xác định các yếu tố nội bộ của mỗi ngân hàng và các yếu tố nội bộ của ngành, các yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Trong nghiên cứu của Menicucci & Paolucci (2016), các tác giả tìm thấy mối quan hệ giữa các yếu tố điển hình của các ngân hàng châu Âu và lợi nhuận của nó. KNSL của các ngân hàng Châu Âu chịu ảnh hưởng bới các yếu tố nội tại.
Một phân tích về các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng Việt Nam từ năm 2006 đến 2014 được thực hiện bởi Batten & Vo (2019). Theo kết quả nghiên cứu, lợi nhuận ngân hàng tại Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố như quy mô ngân hàng (quy mô), rủi ro tín dụng (LLR) và vốn chủ sở hữu (CAP).
Farkasdi và c.s. (2021) đã xác định các yếu tố quyết định KNSL trong các NHTM ở Đức. Với mẫu nghiên cứu là 7 ngân hàng được liệt kê trong ngân hàng DAX (Deutscher Aktienindex) trong giai đoạn 2017-2020, với một mẫu gồm 5 ngân hàng và sản xuất 20 dữ liệu quan sát. Dựa trên phân tích hồi quy, các tác giả nhận thấy rằng quy mô tài sản, mức độ an toàn vốn, tiền gửi và thu nhập ngoài lãi có tác động tích cực, đáng kể đến lợi nhuận, trong khi tiền gửi có tác động tiêu cực đáng kể.
2.3.2 Các nghiên cứu trong nước
Trên cơ sở thu thập dữ liệu hàng năm của 22 ngân hàng thương mại Việt Nam trong kỳ, Trần Việt Dũng (2014) đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua bảng phân tích dữ liệu với ước tính GMM. Tác gả sử dụng cơ sở dữ liệu Bankscope của BVH và báo cáo tài chính của các ngân hàng của giai đoạn 2006-2012 để phục vụ nghiên cứu. Theo tác giả, số liệu vĩ mô được lấy từ Ngân hàng Trung ương và Tổng cục Thống kê. Kết quả nghiên cứu, cổ phần hóa có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng, và các cổ đông nước ngoài không ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của ngân hàng.
Một nghiên cứu của Nguyễn Minh Sáng và c.s. (2014) đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ giữa thu nhập ròng và lợi nhuận trong các ngân hàng thương mại Việt Nam. Các tác giả sử dụng mô hình FEM và FEM làm phương pháp ước lượng trong nghiên cứu. Sau đó, thực hiện kiểm tra Hausman để xác định mô hình phù hợp nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy GDP có tác động ngược lại với NIM. Các yếu tố ảnh hưởng đến NIM bao gồm phát sự triển khu vực ngân hàng (BSD), tỷ lệ lạm phát (INF), tỷ lệ nắm giữ vốn chủ sở hữu (CAP), rủi ro tín dụng (CR), thanh khoản (LIQ) và chi phí hoạt động (OC).
Theo Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015), ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại nhà nước đều có lãi. Phương pháp đồ thị được sử dụng để đánh giá xu hướng sinh lời của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và phép thử t được sử dụng để kiểm tra sự khác biệt về khả năng sinh lời giữa ngân hàng quốc doanh và ngân hàng thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) có xu hướng giảm trong giai đoạn 2002-2013. Trong nghiên cứu, không có sự khác biệt về ROE giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng cổ phần. Hạn chế của nghiên cứu là chỉ xem xét sự khác biệt giữa lợi nhuận của các ngân hàng thương mại và ngân hàng quốc doanh với kiểm định t mà không phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng nhóm nên có thể hiểu rõ hơn lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Hồ Thị Hồng Minh & Nguyễn Thị Cành (2015) xem xét sự đa dạng hóa thu nhập và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng Việt Nam. Tổng số 22 báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013 được sử dụng trong nghiên cứu. Dữ liệu bảng được ước lượng bằng phương pháp ước lượng (System generalized method of moment). Các tác giả nhận thấy rằng đa dạng hóa thu nhập, tỷ lệ tài sản cho vay trên tổng số tiền, tỷ lệ tiền gửi của khách hàng và lạm phát đều ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Tỷ suất lợi nhuận và nợ xấu, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và chi phí hoạt động trên doanh thu có tác động tiêu cực. Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi tổng tài sản hay tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Theo Nguyễn Thị Mỹ Linh & Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015), thu nhập lãi cận biên của các NHTM Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Theo kết quả nghiên cứu, quy mô của các ngân hàng (SIZE), hoạt động cho vay (LAR), rủi ro tín dụng (CR) và quy mô vốn chủ sở hữu (CAP) có tác động dương đến thu nhập lãi biên giới (NIM) của ngân hàng. Thu nhập lãi biên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hiệu quả quản lý ngân hàng (CTI) và tăng trưởng GDP.
Một nghiên cứu về ảnh hưởng của vốn đến rủi ro tín dụng và lợi nhuận của NHTM Việt Nam được nghiên cứu bởi Nguyễn Thị Hồng Vinh (2016). Để kiểm tra lý thuyết giả thiết về rủi ro đạo đức và các giả thiết quản lý về mối quan hệ giữa vốn ngân hàng, lợi nhuận và rủi ro tín dụng, tác giả sử dụng phương pháp Moment tổng quát (GMM) dạng hệ thống với dữ liệu nghiên cứu từ 30 NHTM trong khoảng năm 2007 đến 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn ngân hàng có tác động rõ ràng đến lợi nhuận và rủi ro tín dụng của các NHTM, với điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Trên cơ sở khảo sát 19 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam, Nguyễn Thành Đạt (2019) đã tiến hành phân tích các ngân hàng thương mại cổ phần. Để xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố vốn ngân hàng và một số biến kiểm soát rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng, tác giả sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng và thực hiện kiểm định Hausman. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vốn ngân hàng có tác động nghịch với khả năng sinh lời và tác động thuận với rủi ro tín dụng. Lợi nhuận của ngân hàng và rủi ro tín dụng cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, GDP và lạm phát. Ngoài ra, một số giải pháp được đưa ra nhằm hạn chế tác động của vốn chủ sở hữu đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Sử dụng bộ dữ liệu của 25 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007-2017, Lâm Chí Dũng & Võ Hoàng Diễm Trinh (2020) phân tích tác động của cấu trúc đối với các KNSL. Trong nghiên cứu này, lợi nhuận của các NHTM được đo lường bởi ROA và NIM. Có ba loại quyền sở hữu trong biến cấu trúc: quyền sở hữu nhà nước, quyền sở hữu ngoài nhà nước và quyền sở hữu nước ngoài. Theo nghiên cứu, tỷ lệ sở hữu nhà nước tương quan nghịch với lợi nhuận, trong khi tỷ lệ sở hữu ngoài nhà nước có mối tương quan thuận với lợi nhuận. Không có ý nghĩa thống kê được tìm thấy trong kết quả hồi quy từ các mô hình liên quan đến quyền sở hữu nước ngoài đối với lợi nhuận của các NHTM Việt Nam.
Bằng việc nghiên cứu 30 NHTM Việt Nam, Nguyễn Thành Đạt & Nguyễn Thị Mỹ Duyên (2021) đã kiểm tra tác động của các yếu tố tỷ lệ nợ xấu đối với hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận ngân hàng bị ảnh hưởng đáng kể bởi các chỉ số rủi ro tín dụng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mối quan hệ tích cực giữa quy mô của ngân hàng và hiệu quả hoạt động của nó. Sử dụng kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số khuyến nghị để giảm tác động của rủi ro tín dụng đối với lợi nhuận của NHTM. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Bảng 2.1: Tổng hợp các nghiên cứu trước
Tác giả | Phương pháp | Tên biến | Hướng tác động tới KNSL |
Tan & Floros (2012) | GMM |
Tiết kiệm các chi phí |
+ |
Sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán | + | ||
Lạm phát | + | ||
Sufian & Habibullah (2009) |
OLS | Quy mô ngân hàng | + |
Rủi ro tín dụng | + | ||
Syafri (2012) | OLS | Số dư cho vạy | + |
Quy mô vốn chủ sở hữu | + | ||
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng | + | ||
Quy mô tài sản | – | ||
Chi phí hoạt động | – | ||
Tỷ lệ lạm phát | – | ||
Tăng trưởng kinh tế | Không | ||
Thu nhập ngoài lãi | Không | ||
Dawood (2014) Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng. | Pooled OLS | Chi phí hoạt động | – |
Tính thanh khoản, | – | ||
Quy mô vốn tự có, | + | ||
Tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản | + | ||
Quy mô ngân hàng | + | ||
Saeed (2014) | FEM | Các yếu tố nội bộ của mỗi ngân hàng | + |
Và các yếu tố nội bộ của ngành | + | ||
Các yếu tố kinh tế vĩ mô | + |
Enicucci & Paolucci (2016) | Các yếu tố nội bộ của mỗi ngân hàng | + | |
Batten & Vo (2019) | FEM và REM | Quy mô ngân hàng | + |
Rủi ro tín dụng | + | ||
Vốn chủ sở hữu | + | ||
Farkasdi và c.s. (2021) | Phân tích hồi quy OLS | Quy mô tài sản | + |
Mức độ an toàn vốn, | + | ||
Tiền gửi và thu nhập ngoài lãi trong khi | + | ||
Tiền gửi có tác động tiêu cực đáng kể | – | ||
Trần Việt Dũng (2014) | GMM | Cổ phần hóa | + |
Cổ đông nước ngoài. | Không | ||
Nguyễn Minh Sáng và c.s. (2014) | FEM và REM | GDP có tác động ngược lại với NIM. | – |
Sự triển khu vực ngân hàng | + | ||
Tỷ lệ lạm phát, | + | ||
Vốn chủ sở hữu | + | ||
Rủi ro tín dụng | + | ||
Thanh khoản | + | ||
Chi phí hoạt động. | + | ||
Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015) | Phương pháp đồ thị, kiểm định t | khác biệt về ROE giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng cổ phần | Không |
Hồ Thị Hồng Minh & Nguyễn Thị Cành (2015) | FEM và REM | Dạng hóa thu nhập, | + |
Tỷ lệ tài sản cho vay trên tổng số tiền, | + | ||
Tỷ lệ tiền gửi của khách hàng | + | ||
Lạm phát | + |
Ảnh hưởng đến KNSL của ngân hàng đều có sự khác biệt. Bởi vì các nghiên cứu này được thực hiện với phạm vi nghiên cứu khác nhau, đối tượng nghiên cứu khác nhau cũng như thời gian nghiên cứu khác nhau. Trong nghiên cứu này, với việc lựa chọn thời gian nghiên cứu dài và cập nhật (2005-2021), tác giả kỳ vọng sẽ nhận định được các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM Việt Nam một cách cập nhật nhất.
Kết luận chương 2
Cơ sở lý thuyết về KNSL, các chỉ số về về KNSL của NHTM cùng các yếu tố nội tại và vĩ mô ảnh hưởng đến về KNSL của NHTM đã được thảo luận trong Chương 2. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây ở trong và ngoài nước cũng được thảo luận trong chương này để đưa ra dự đoán về hướng tác động của mỗi yếu tố đến về KNSL của NHTM. Kết quả nghiên cứu trong chương 2 này sẽ hỗ trợ xây dựng mô hình nghiên cứu và phát triển các giả thiết nghiên cứu trong Chương 3. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: PPNC ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng […]