Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử – giải pháp, đề xuất dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử
Như trên đã phân tích, việc nghiên cứu xây dựng và thực thi pháp luật về năng lượng nguyên tử ở các nước trên thế giới đang ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử ở từng quốc gia cụ thể. Theo những nghiên cứu của IAEA được đúc kết trong Sách hướng dẫn xây dựng luật hạt nhân thì tất cả các nước chưa có điện hạt nhân, các nước phát triển điện hạt nhân và các cường quốc có vũ khí hạt nhân dẫn đều có điểm chung trong xây dựng luật là phải phù hợp với hiến pháp và hệ thống chính trị, pháp luật của mỗi quốc gia, có xem xét đến các điều ước quốc tế.
Một số quốc gia chọn phương pháp xây dựng một luật NLNT toàn diện như Hàn Quốc, Luật Hàn quốc được hoàn thiện bằng một bộ các quy định điều chỉnh tất cả các hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, tuy nhiên những vấn đề không hẳn là trọng tâm liên quan đến an toàn hạt nhân như trách nhiệm pháp lý hạt nhân…vẫn có thể được quy định tại những luật khác.
Một số quốc gia khác chọn phương pháp xây dựng những luật riêng rẽ cho các hoạt động khác nhau và cũng cần các quy định bổ sung như Nhật.
Tóm lại, các nước tự lựa chọn biện pháp xây dựng luật năng lượng nguyên tử phù hợp cho mình và tuỳ theo những bất cập thể hiện sau quá trình thực thi luật và những phát triển mới trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử mà tiến hành sửa đổi bổ sung các quy định cần thiết hoặc xây dựng một luật mới. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Tất cả những nghiên cứu trên cho thấy Luật Năng lượng nguyên tử của Việt Nam phải đúc rút được những kinh nghiệm xây dựng luật từ các nước để tránh phải sửa đổi quá nhiều và dễ dàng trong thực thi, đó là xây dựng một Luật toàn diện vừa thúc đẩy phát triển, vừa đảm bảo an toàn và bao trùm cả các quy định cần thiết về ứng phó sự cố, tai nạn bức xạ hạt nhân, tránh nhiệm đền bù thiệt hại hạt nhân và tuân thủ nghĩa vụ quốc tế.
Sách hướng dẫn xây dựng luật hạt nhân và Luật mẫu của IAEA đã đúc rút kinh nghiệm từ lịch sử phát triển của hệ thống luật pháp điều chỉnh các hoạt động hạt nhân trên toàn thế giới trong hơn nửa thế kỷ vừa qua. Điều đó phản ánh quá trình lâu dài bền bỉ của IAEA trong việc phát triển một sự đồng thuận về cách xử lý các vấn đề kỹ thuật và các vấn đề quản lý theo khuôn khổ luật pháp bao trùm các hoạt động liên quan đến hạt nhân sao cho tốt nhất. Nội dung được trình bày ở hai tài liệu này bao trùm những yếu tố cơ bản cho người soạn thảo hoặc quan chức của cơ quan lập pháp trong việc xây dựng và áp dụng luật NLNT. Các nhà làm luật Năng lượng nguyên tử Việt Nam cần sử dụng tài liệu hướng dẫn của IAEA làm cơ sở định hướng cho công tác soạn thảo. Tuy nhiên vì IAEA chỉ chú trọng về mặt an toàn và an ninh như đã nêu trên nên mỗi nước cũng như Việt Nam cần xây dựng cho riêng mình những quy định thúc đẩy phát triển lĩnh vực NLNT nhằm đạt hiệu quả cao, phục vụ lợi ích và sự phát triển của Quốc gia.
Việt Nam, trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình như đã nêu trên, thì quá trình xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử của Việt Nam được soạn thảo theo tinh thần quán triệt các quan điểm cơ bản sau:
- Thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình.
- Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử đóng góp hiệu quả trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Coi phát triển điện hạt nhân là một giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, phát triển bền vững và tăng cường tiềm lực khoa học – công nghệ – công nghiệp của đất nước.
- Bảo đảm an toàn tuyệt đối cho con người, môi trường và an ninh xã hội trong ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
- Kế thừa các quy định hiện hành về năng lượng nguyên tử đã được thực tiễn kiểm nghiệm; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước và vận dụng phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.
Trên tinh thần đó, ngày 03 tháng 6 năm 2008 Quốc hội đã thông qua Luật Năng lượng nguyên tử. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Luật Năng lượng nguyên tử gồm XI chương, 93 điều. Bao gồm:
Chương I. Những quy định chung (gồm 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12); Chương II. Các biện pháp đẩy mạnh phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử (gồm 6 điều, từ Điều 13 đến Điều 18); Chương III. An toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân (gồm 16 điều, từ Điều 18 đến Điều 33); Chương IV. Cơ sở bức xạ (gồm 3 điều từ Điều 34 đến Điều 36); Chương V. Cơ sở hạt nhân (gồm 21 điều, từ Điều 37 đến Điều 57); Chương VI. Thăm dò, khai thác, chế biến quặng phóng xạ (gồm 2 điều, từ Điều 58 đến Điều 59); Chương VII. Vận chuyển và nhập khẩu, xuất khẩu vật liệu phóng xạ, thiết bị hạt nhân (gồm 8 điều, từ Điều 60 đến Điều 67); Chương VIII. Dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử (gồm 4 điều, từ Điều 68 đến Điều 71); Chương IX. Khai báo và cấp giấy phép (gồm 10 điều, từ Điều 72 đến Điều 81); Chương X. ứng phó sự cố, bồi thường thiệt hại bức xạ, hạt nhân (gồm 10 điều, từ Điều 82 đến Điều 91); Chương XI.
Điều khoản thi hành (gồm 02 điều, từ Điều 92 đến Điều 93).
Với việc ban hành Luật Năng lượng nguyên tử, chúng ta đã tạo cơ sở pháp lý cao và vững chắc cho việc đổi mới toàn diện tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động năng lượng nguyên tử nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế -xã hội.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.2. Những thành tựu và bất cập pháp luật Việt Nam về năng lượng nguyên tử Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
3.2.1. Những thành tựu cơ bản và nổi bật
Sau gần 02 năm thực hiện Luật Năng lượng nguyên tử (01/01/2009), trong điều kiện còn nhiều khó khăn cả về cơ sở vật chất và lực lượng cán bộ, nhưng được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của của Đảng, Chính phủ và Quốc Hội, Luật Năng lượng nguyên tử đã từng bước đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả đáng kể. Cụ thể là:
Hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử tuy chưa đầy đủ nhưng các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã phần nào tạo hành lang pháp lý cho hoạt động năng lượng nguyên tử trong cả nước nhằm thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ và kỹ thuật an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân phục vụ lợi ích kinh tế, xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật đã từng bước đi vào đời sống, góp phần bảo vệ con người, môi trường khỏi các nguy cơ bức xạ, hạt nhân, đồng thời là công cụ, căn cứ pháp lý để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử góp phần bảo đảm trật tự xã hội.
- Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân đã từng bước được kiện toàn và đi vào hoạt động một cách có quy củ từ trung ương đến địa phương. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước được quy định ngày một rõ ràng, tính độc lập của cơ quan pháp quy ngày được nâng cao.
- Đã thực hiện tổng kiểm tra nguồn phóng xạ và chất thải phóng xạ trong phạm vi cả nước. Trên cơ sở đó đưa các nguồn phóng xạ từ chỗ chưa được quản lý, kiểm soát vào trạng thái được quản lý bằng việc xây dựng hệ thống đăng lý và cấp phép cho cơ sở bức xạ và các hoạt động khác có liên quan đến sử dụng bức xạ.
- Thanh tra chuyên ngành về an toàn về kiểm soát bức xạ và hạt nhân đã được thành lập, trên cơ sở đó đưa công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật sẽ được thực hiện định kỳ thường xuyên.
- Vấn đề kiểm soát an toàn bức xạ, hạt nhân và bảo đảm chiếu xạ y tế đã được quan tâm hơn.
- Nhận thức của các đối tượng, liên quan như chủ cơ sở, người phụ trách an toàn bức xạ, hạt nhân, nhân viên bức xạ, v.v… về trách nhiệm bảo đảm an toàn bức xạ, hạt nhân đã được nâng cao đáng kể.
3.2.2. Tồn tại và bất cập Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Những thành tựu đã nêu trên là to lớn và rất quan trọng, song quá trình thực thi Luật Năng lượng nguyên tử và các văn bản hướng dẫn thi hành vân còn bộc lộ một số hạn chế dẫn đến việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử gặp nhiều khó khăn.
Pháp luật về năng lượng nguyên tử còn nhiều điều, khoản chưa phù hợp với thực tiễn và việc triển khai thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế còn nhiều bất cập. Cụ thể là:
Chưa bao quát đầy đủ các vấn đề về an toàn và kiểm soát bức xạ, hạt nhân như: an toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân, an ninh nguồn phóng xạ, quản lý nguồn vô chủ, thanh sát hạt nhân. Việc thanh lý các nguồn phóng xạ, các thiết bị bức xạ, quản lý chất thải phóng xạ , kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp , kiểm soát chiếu xạ y tế và kiểm soát chiếu xạ đối với dân chúng chưa được quy định rõ. Với những khoảng trống pháp luật đó, việc quản lý an toàn và kiểm soát bức xạ, hạt nhân gặp nhiều khó khăn. Thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn phức tạp nên cũng gây ra một số bất cập trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn.
Một số quy định liên quan đến điều kiện cấp giấy phép chưa phù hợp: Việc cấp giấy phép được áp dụng như nhau cho các nguồn bức xạ không phân biệt mức độ nguy hiểm gây khó khăn cho các cơ sở bức xạ có nguồn phóng xạ với mức độ nguy hiểm thấp và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Chưa có văn bản chính thức nào quy định chi tiết và đầy đủ cho việc cấp giấy phép đối với các hoạt động liên quan đến lò phản ứng hạt nhân.
Việc quy định giải quyết sự cố bức xạ, hạt nhân chưa được phân cấp rõ ràng tương ứng với phạm vi ảnh hưởng của sự cố bức xạ, hạt nhân. Chưa có cơ chế phối hợp các kịch bản liên quan tới ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân ở cấp quốc gia, cấp vùng và cấp cơ sở chưa được quy định cụ thể. Do vậy, khi xảy ra sự cố sẽ gặp nhiều lúng túng trong điều hành.
Ngoài ra, Luật Năng lượng nguyên tử có hiệu lực thi hành mới được gần 02 năm nên các quy định cần được ban hành để phù hợp với thực tiễn, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này cần nghiên cứu, bổ sung những vấn đề còn thiếu và khắc phục những điểm yếu của Luật Năng lượng nguyên tử để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống và xu thế phát triển kinh tế – xã hội, nhu cầu hội nhập quốc tế của đất nước. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
3.3. Kiến nghị, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam và tham gia điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử
3.3.1. Kiến nghị, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về năng lượng nguyên tử
Việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình ở Việt Nam đã được tiến hành trong hàng chục năm qua và đã có nhiều đóng góp phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của năng lượng nguyên tử cho nền kinh tế quốc dân và phục vụ đời sống của nhân dân vẫn còn quá ít ỏi do vậy để tăng cường sự phát triển của năng lượng nguyên tử thì chính sách về năng lượng nguyên tử của Nhà nước cần phải được thể hiện rõ ràng bằng luật pháp.
Việc thể hiện chính sách về năng lượng nguyên tử trong luật pháp cũng khẳng định Việt Nam là đất nước yêu chuộng hòa bình và chỉ sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Chiến lược phát triển năng lượng nguyên tử Việt Nam nêu rõ:
Ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình và phát triển kinh tế – xã hội là quan điểm và chính sách nhất quán của Việt Nam.
Về ứng dụng năng lượng bức xạ: đẩy mạnh, mở rộng và nâng cao hiệu quả ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH. Đây là lĩnh vực có phạm vi ứng dụng rất rộng và có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển KH &CN cũng như kinh tế – xã hội. Do đó cần phải thúc đẩy công tác nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trên cơ sở huy động mọi nguồn lực của xã hội. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Về phát triển Điện hạt nhân: nhập các công nghệ hiện đại đã được thương mại hoá trên thế giới đối với việc xây dựng những nhà máy điện hạt nhân đầu tiên để đảm bảo yêu cầu về an toàn và kinh tế, đồng thời tập trung nghiên cứu lợi thế của các công nghệ điện hạt nhân thế hệ mới để chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Cần huy động mọi nguồn lực trong nước và thông qua hợp tác quốc tế để phát triển ĐHN. Nhà máy ĐHN đầu tiên sẽ được xây dựng theo phương thức hợp đồng chìa khoá trao tay.
Ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho con người và môi trường và trên cơ sở đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ tri thức, công nghệ và đầu tư.
Để bảo đảm an toàn trong mọi hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển NLNT phải xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hoàn thiện luật pháp về an toàn bức xạ, hạt nhân, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng và phát triển văn hoá an toàn. Thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh, an toàn cho các lò phản ứng, nhà máy ĐHN và các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng NLNT.
Năng lượng nguyên tử, đặc biệt ĐHN không chỉ là một lĩnh vực công nghệ cao mà còn là lĩnh vực rất nhạy cảm về chính trị quốc tế. Do đó, hợp tác quốc tế phải tạo được sự tin cậy của cộng đồng quốc tế về chính sách phát triển NLNT của Việt Nam và là một trong những điều kiện bảo đảm sự thành công trong chuyển giao tri thức, công nghệ và đầu tư. Trong hợp tác quốc tế về ĐHN, hướng vào các đối tác có nhiều kinh nghiệm, có công nghệ tiên tiến nhất.
- Xây dựng và phát triển năng lượng nguyên tử trên cả hai lĩnh vực điện hạt nhân và ứng dụng kỹ thuật hạt nhân.
Về điện hạt nhân, chúng ta chủ trương phát triển điện hạt nhân dựa trên các công nghệ đã được thương mại hoá trên thế giới, đồng thời tập trung nghiên cứu các công nghệ mới an toàn cao hơn, kinh tế hơn, ít chất thải hơn và thích ứng với nước ta để chuẩn bị cho các bước phát triển tiếp theo.
Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ được xây dựng dưới dạng hợp đồng chìa khoá trao tay. Để phát triển điện hạt nhân, các ngành công nghiệp có liên quan như chế tạo máy, cơ khí, luyện kim, lắp máy, xây dựng, giao thông, điện, điện tử,… phải được tăng cường đầu tư phát triển. Với mục tiêu tự lực về công nghệ điện hạt nhân, các ngành công nghiệp có liên quan này phải có chiến lược phát triển thích hợp. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân, chúng ta chủ trương đẩy mạnh, mở rộng và nâng cao chất lượng các nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật hạt nhân phục vụ cho các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm trong các ngành kinh tế, tạo điều kiện tốt hơn cho công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đây là lĩnh vực có phạm vi ứng dụng rất rộng và có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển khoa học, kỹ thuật, kinh tế – xã hội, do đó cần phải thúc đẩy công tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
- An toàn là ưu tiên hàng đầu trong nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử.
Để đảm bảo an toàn trong mọi hoạt động nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử, phải phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hoàn thiện luật pháp về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng và phát triển văn hoá an toàn.
- Phát triển nguồn nhân lực phải luôn được quan tâm và đi trước một bước.
Việc triển khai thành công chương trình phát triển năng lượng nguyên tử nói chung và điện hạt nhân nói riêng đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ hạt nhân đủ về số lượng và có chất lượng chuyên môn cao. Vì vậy cần phải sớm quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu của chương trình nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử.
Phải xây dựng các cơ sở đào tạo, chương trình đào tạo và đội ngũ cán bộ đào tạo về khoa học và công nghệ hạt nhân đạt tiêu chuẩn quốc tế trong các trường đại học. Cần tăng cường phối hợp giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở nghiên cứu và sử dụng năng lượng nguyên tử.
Xây dựng cơ sở nghiên cứu hiện đại về khoa học và công nghệ hạt nhân.
Xây dựng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam thành cơ sở nghiên cứu triển khai hiện đại về khoa học và công nghệ hạt nhân, được trang bị các thiết bị tiên tiến như lò phản ứng nghiên cứu, máy gia tốc đa mục tiêu và các thiết bị nghiên cứu chuyên dụng khác. Cùng với các cơ sở nghiên cứu khác, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam sẽ góp phần tiếp thu và làm chủ công nghệ nhập, phát triển và sáng tạo công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Đẩy mạnh và tăng cường công tác quản lý Nhà nước về năng lượng nguyên tử và An toàn bức xạ và An toàn hạt nhân.
Quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và An toàn bức xạ và An toàn hạt nhân bao gồm hoạch định chính sách, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử, quản lý an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ và phóng xạ môi trường.
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về năng lượng nguyên tử, cần phải tăng cường năng lực cho Cục Kiểm soát và An toàn bức xạ, hạt nhân và cho hoạt động quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử.
- Từng bước tự chủ về nhiên liệu hạt nhân Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Khảo sát và thăm dò nguồn tài nguyên urani và thori trong nước để có thể đánh giá được trữ lượng, chất lượng và khả năng khai thác. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch sử dụng urani phục vụ cho chương trình phát triển điện hạt nhân. Xây dựng lộ trình nội địa hoá công nghệ sản xuất nhiên liệu.
Xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia về quản lý và xử lý chất thải phóng xạ Cơ sở hạ tầng quốc gia đầy đủ về quản lý chất thải phóng xạ bao gồm: các văn bản pháp quy; các tổ chức thực hiện công tác quản lý chất thải phóng xạ; các cơ quan có thẩm quyền độc lập về cấp phép, ra quy định pháp lý và kiểm soát; các chính sách tài chính liên quan.
Cần quy hoạch sớm các cơ sở chôn cất chất thải phóng xạ quốc gia.
- Chú trọng nghiên cứu cơ bản về năng lượng nguyên tử
Nghiên cứu cơ bản là cơ sở để phát triển công nghệ và xây dựng tiềm lực cho chương trình phát triển năng lượng nguyên tử. Các nghiên cứu cơ bản phục vụ cho mục tiêu phát triển công nghệ, nội địa hoá công nghệ ứng dụng năng lượng nguyên tử sẽ được triển khai chủ yếu trong Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam có sự phối hợp với các cơ sở liên quan khác. Các nghiên cứu cơ bản phục vụ cho phát triển tiềm lực sẽ được thực hiện trong các trường đại học. Trên cơ sở đó sẽ định hướng đầu tư và cơ chế phối hợp giữa các viện và các trường đại học để thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu cơ bản về năng lượng nguyên tử.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Hợp tác quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử ở nước ta. Đây vừa là một nguồn lực, vừa tạo cơ sở pháp lý để phát triển vững chắc ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Định hướng trong các quan hệ quốc tế là: coi trọng hợp tác toàn diện với IAEA, hợp tác với các cường quốc hạt nhân, củng cố các quan hệ hợp tác truyền thống, tăng cường và đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực.
Trên cơ sở đó, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử trong giai đoạn tới. Cụ thể là:
Đến năm 2014: hoàn thành cơ bản hệ thống pháp luật về ứng dụng năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân; xây dựng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và an toàn về sử dụng bức xạ; từng bước kiện toàn về tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực chuyên môn của các cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, hạt nhân.
Ban hành các văn bản pháp quy và kỹ thuật cần thiết phục vụ cho công việc cấp phép hoạt động của các lò phản ứng nghiên cứu. Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về lựa chọn địa điểm, thiết kế, chế tạo, xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, đánh giá tác động môi trường của nhà máy điện hạt nhân.
Đến năm 2020: Hoàn thiện đầy đủ, đồng bộ hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt nhân phù hợp với Chương trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân; kiện toàn về cơ sở vật chất, năng lực chuyên môn và đội ngũ cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.
Tóm lại, Chương trình năng lượng hạt nhân được phát triển, tổ máy đầu tiên của nhà máy điện hạt nhân được khởi công xây dựng năm 2014 và đi vào hoạt động năm 2020. Có thể thấy rằng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện thời về năng lượng nguyên tử là yêu cầu bức xúc hiện nay. Toàn bộ hệ thống luật pháp từ khung pháp luật đến thiết chế pháp luật đã được xây dựng hoàn thiện nhằm điều chỉnh các nội dung cơ bản của một chu trình nhiên liệu hạt nhân từ khai khoáng, tuyển và xử lý quặng, vận hành nhà máy điện hạt nhân đến quản lý chất thải. Đặc biệt khi xét tới thực tiễn quy trình thủ tục xây dựng văn bản pháp luật hiện nay tại Việt Nam. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển ngành, một số nội dung pháp luật có thể đi sau như các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới chế tạo nhiên liệu, tái chế và xử lý, chôn cất nhiên liệu cháy.
3.3.2 Kiến nghị, đề xuất tham gia điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Trong những năm qua, cùng với Chính sách Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một chính sách ngoại giao đúng đắn, ngày càng nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đảng và Nhà nước quan tâm và đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển ngành NLHN, đặc biệt là nghiên cứu phát triển ĐHN ở Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập, Việt Nam có nhiều khả năng hơn để tiếp cận đựoc những thành tựu KH&CN hạt nhân thế giới; có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực (nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý…) để thực hiện thành công chiến lược phát triển NLHN, đặc biệt là phát triển ĐHN.
Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong việc ứng dụng năng lượng hạt nhân là vì mục đích hoà bình và phát triển kinh tế – xã hội. Ngày 3/1/2006, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định số 01/2006/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020, trong đó đặt ra kế hoạch đến năm 2020 nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ được đưa vào vận hành.
Ngày 23/7/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 14/2007/QĐ-TTg, phê duyệt Kế hoạch tổng thể thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020. Một trong các nhiệm vụ đề ra đó là Xây dựng kế hoạch tham gia các điều ước quốc tế có liên quan nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý quốc tế cho phát triển điện hạt nhân của Việt Nam.
Ngoài một số điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử nêu trên, thì hiện nay, Việt Nam cần nghiên cứu để tham gia một số điều ước quốc tế khác về năng lượng nguyên tử. Chẳng hạn:
Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân (Convention on the Physical Protection of Nuclear Materials). C«ng -íc nà y được thông qua ngày 26 tháng 10 năm 1979 tại Viên, có hiệu lực từ ngày 8 tháng 2 năm 1987. Tới 3/2007 Công ước được 128 nước ký kết . Công ước nhấn mạnh tới yếu tố bảo đảm an ninh, chống khủng bố, đột nhập, lấy cắp tại cơ sở hạt nhân cũng như trong quá trình vận chuyển. Từ đầu những năm 90, các cơ quan hữu quan của Việt nam đã xem xét việc tham gia Công ước, tuy nhiên đến nay Việt nam vẫn chưa tham gia. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Công ước tập trung chủ yếu vào các vật liệu hạt nhân được vận chuyển trong thương mại quốc tế, nhưng cũng chứa các quy định về các biện pháp đảm bảo an ninh thực thể hạt nhân trong nước.
Có thể tóm tắt các quy định của Công ước như sau:
- Quốc gia thành viên phải đảm bảo cơ chế bảo vệ thực thể hiệu quả và áp dụng các mức bảo vệ cụ thể đối với việc vận chuyển quốc tế các vật liệu hạt nhân. (trên lãnh thổ nước mình)
- Quốc gia thành viên thực hiện hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm, bảo vệ và trao trả các vật liệu hạt nhân bị đánh cắp.
- Quốc gia phải quy định việc áp dụng một số hình phạt đối với các hành vi phạm tội (như đánh cắp vật liệu hạt nhân và đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vật liệu hạt nhân để gây hại cho cộng đồng); truy tố hoặc dẫn độ những người bị kết tội là phạm vào các hành động đó.
Quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết phù hợp với pháp luật quốc gia nhằm đảm bảo tính bí mật của mọi thông tin mà quốc gia đó nhận được nếu các thông tin đó được coi là thông tin mật theo quy định của Công ước
Tuy nhiên, thực tế là hiện nay Việt Nam chỉ có lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt với công suất danh định 500 kW là cơ sở hạt nhân đáng kể, và từ năm 1990 lò Đà Lạt đã được đặt dưới sự thanh sát của IAEA. Các hoạt động đảm bảo an ninh cho vật liệu hạt nhân và lò được thực hiện theo các quy định nội bộ. Cho tới nay, Việt Nam mới nhập khẩu vật liệu hạt nhân cho lò Đà Lạt một lần vào năm 1982. Gần đây, Việt Nam đã thực hiện việc chuyển đổi nhiên liệu hạt nhân cho lò Đà Lạt từ dạng urani có độ giàu cao (HEU) sang độ giàu thấp (LEU). Theo các hợp đồng, việc vận chuyển, xuất khẩu HEU và nhập khẩu LEU giữa các bên phải tuân theo quy định của Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân. Như vậy, mặc dù Việt Nam chưa tham gia Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân, nhưng thực tế Việt Nam đã có những áp dụng cụ thể.
Công ước về trách nhiệm dân sự trong trường hợp tổn thất hạt nhân (Vienna Convention on Civil Liabilitiy for Nuclear Damage). Thường gọi là Công ước Viên, mở ký từ 21/5/1963 và có hiệu lực từ 12/11/1977. Công ước hiện được 14 nước tham gia ký kết và 35 nước thành viên chấp thuận.
Công ước về sự đền bù bổ sung trong trường hợp tổn thất hạt nhân (Convention on Supplementary Compensation for Nuclear Damage). Công ước được mở ký ngày 29/9/1997, có 13 nước tham gia.
Công ước chung về Bảo đảm An toàn đối với Nhiên liệu thải và Quản lý Chất thải Phóng xạ (Joint Convention on the Safety of Spent fuel Management and on the Safety of Radioactive Waste Management). Công ước ước được mở ký 9/1997 trong phiên họp Đại Hội Đồng IAEA thường niên thứ 41 tại Viên, có hiệu lực từ 18/6/2001. Hiện có 42 nước đã ký trong đó 29 nước đã phê chuẩn.
Công ước quốc tế về trừng trị các hành vi khủng bố hạt nhân (Convention for the Suppression of Acts of Nuclear Terrorism). Công ước được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng đồng thuận ngày 13/4/2005 và được mở ký ngày 14/9/2005 tại NewYork. Đến nay đã có 13 nước phê chuẩn. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Để tăng cường hợp tác quốc tế cho dự án nhà máy điện hạt nhân, cần phải nghiên cứu tham gia các điều ước quốc tế đó phù hợp. Tuy nhiên, khi xem xét tham gia một điều ước quốc tế nào đó, cần phải cân nhắc các yếu tố:
- Bảo vệ chủ quyền quốc gia, uy tín quốc gia và bí mật nhà nước;
- Tranh thủ sự sự hợp tác, giúp đỡ và viện trợ quốc tế;
- Điều kiện chính trị, kinh tế – xã hội; điều kiện về tổ chức, nhân lực, kỹ thuật, tài chính để thực hiện những nghĩa vụ, yêu cầu và những ràng buộc sau khi tham gia điều ước quốc tế.
Nghị định thư chung liên quan tới việc áp dụng Công ước Viên và Công ước Pari. Thường gọi là Nghị định thư Brussell, được mở ký từ 1988 và có hiệu lực từ 27/4/1992 tức là 3 tháng sau khi được chấp thuận bởi tối thiểu 5 quốc gia thành viên Công ước Viên và 5 quốc gia thành viên Công ước Pari.
Có 22 nước tham gia ký và 25 thành viên tham dự
KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Việc thực hiện Đề tài „Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình” đã hoàn thành các mục tiêu đề ra. Luận văn đã bao quát, thể hiện được toàn bộ những nội dung nghiên cứu của đề tài, đó là các vấn đề chính liên quan đến pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình. Bao gồm các vấn đề về:
- Tổng quan pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình.
- Các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình.
Pháp luật quốc tế về năng lượng nguyên tử bao gồm: Sách hướng dẫn của IAEA và cẩm nang về xây dựng luật năng lượng nguyên tử cũng như các tiêu chuẩn về năng lượng nguyên tử của IAEA và các điều ước quốc tế được chia thành các điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử mà Việt Nam tham gia và các điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử mà Việt Nam chưa tham gia.
Pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử. Luận văn chia thành 02 nhóm là nhóm nước chưa phát triển điện hạt nhân và nhóm nước phát triển điện hạt nhân như các nước Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, v.v… là các nước có những quy định hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Kiến nghị, đề xuất và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình, vận dụng với tình hình áp dụng thực tiễn và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam đã được các nhà làm luật và chính sách năng lượng nguyên tử của Việt Nam vận dụng tương đối linh hoạt, các chính sách đề xuất trong đề tài này được dựa trên thực tiễn, cũng như các nghiên cứu chính sách liên quan của pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử.
nước ta hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử vẫn còn đang ở thời kỳ đầu, chưa được hoàn thiện để tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển của công nghiệp điện hạt nhân. Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương nghiên cứu phát triển điện hạt nhân từ Nghị quyết Đại hội VIII. Đến tháng 1/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020, khẳng định quyết tâm phát triển điện hạt nhân.
Kinh nghiệm pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử sẽ góp phần đáp ứng được yêu cầu của đảng và nhà nước ta hướng tới phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình. Hướng dẫn và quy định cụ thể việc thực hiện các điều khoản về nhà máy điện hạt nhân trong Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008,
Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian, kinh nghiệm và đặc biệt là thiếu nguồn tài liệu tham khảo nên còn có nội dung phân tích chưa được sâu. Mặc dù vậy, kết quả đề tài của luận văn có thể là nguồn tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình. Cần có những nghiên cứu sâu rộng hơn về các nội dung đã nêu trong đề án trên cơ sở thực tiễn và các tài liệu thu thập thêm và thông tin cập nhật. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật năng lượng nguyên tử.
Tóm lại, sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình là chính sách nhất quán của Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình thế giới hiện nay đòi hỏi chúng ta phải có một chiến lược hợp tác quốc tế thích hợp, linh hoạt, đáp ứng được những xu hướng diễn biến phức tạp về chính trị, ngoại giao trên thế giới trong những năm sắp tới.
Việt Nam đang có một vị trí thân thiện và ảnh hưởng nhất định đối với một số nước. Nếu chúng ta biết tận dụng thời cơ, khẳng định chính sách của Việt Nam phát triển và sử dụng NLHN vì mục đích hoà bình, nâng cao hiệu quả của các hoạt động hợp tác, chúng ta sẽ càng ngày càng tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế./.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Pháp luật quốc tế về năng lượng nguyên tử vì Hoà Bình

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com