Mục lục
Giải pháp về Marketing xã hội trong hoạt động ngăn chặn HIV/AIDS giai đoạn từ 2025-2030
3.1. Định hướng hoạt động Marketing xã hội tại các Trung tâm Y tế dự phòng về việc ngăn chặn bệnh AIDS
Nhằm hỗ trợ các giải pháp và đẩy mạnh tiếp thị xã hội bằng các hành động cụ thể chống lây nhiễm và điều trị vi rút HIV/AIDS của Chiến lược Quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2040 (Ban hành kèm theo Quyết định số 608/QĐ- TTg ngày 25/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ) qua việc tăng cường hiệu quả hoạt động Marketing xã hội, góp phần khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3 % vào năm 2030, tăng tỷ lệ người điều trị người nhiễm vi rút HIV/AIDS được điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV bằng ARV đạt 90% trên tổng số người nhiễm HIV đủ tiêu chuẩn điều trị vào năm 2030.
Định hướng, mục tiêu cụ thể của hoạt động Marketing xã hội đến năm 2030, thì các Trung tâm y tế dự phòng cần đạt được như sau:
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền đoàn thể đối với công tác phòng chống HIV/AIDS
Tiếp tục quán triệt phổ biến và nghiêm túc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước đối với công tác phòng chống HIV/AIDS. Chú trọng quán triệt các nội dung của chỉ thị số 54-CT/TW ngày 31/11/2013 của Ban bí thư khóa IX về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AISDS trong tình hình mới và thông báo kết luận số 27-TB/TW ngày 09/05/2019 của Ban chấp hành Trung ương về một số nhiệm vụ giải pháp đẩy mạnh công tác phòng chống HIV/AIDS và giải quyết các tệ nạn xã hội đến năm 2018 định hướng đến năm 2023 và Thông báo kết luận số 140-TB/TU ngày 29/11/2020 của Ban thường vụ thành ủy, các văn bản về phòng chống HIV/AIDS.
Đổi mới phương pháp chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện công tác phòng chống HIV/AIDS phù hợp với mô hình tổ chức, đặc thù công việc và tình hình kinh tế xã hội, đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về phòng chống HIV/AIDS thuộc thẩm quyền quản lý.
Các cấp chính quyền chịu trách nhiệm toàn diện trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động phòng chống vào các chương trình kế hoạch hoạt động dài hạn và hàng năm của đơn vị địa phương.
Thường xuyên kiện toàn củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý của các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.
3.1.2. Tăng cường phối hợp liên ngành và huy động cộng đồng tham gia vào công tác phòng chống HIV/AIDS
Thường xuyên kiện toàn củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại dâm các cấp, phân công trách nhiệm cụ thể của từng thành viên, củng cố cơ chế phối hợp liên ngành và giữa các ngành với các tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể.
Lồng ghép chặt chẽ các hoạt động phòng, chống với các chương trình phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới….
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư” và triển khai phòng trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân” gắn với phòng trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, huy động toàn dân tích cực tham gia xây dựng gia đình, xã phường, tổ dân phố lành mạnh, an toàn, không có tệ nạn xã hội, xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Vận động các tổ chức tôn giáo, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các nhân và tổ chức của người nhiễm HIV tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS, đào tạo nghề, tạo việc làm, phát triển các mô hình lao động, sản xuất, kinh doanh mang tính bền vững, cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội và hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
3.1.3. Định hướng về chế độ, chính sách
Thực hiện đầy đủ các chế độ đãi ngộ, chính sách của Nhà nước đối với những người làm công tác phòng chống và các lĩnh vực liên quan tới HIV/AIDS, hỗ trợ chăm sóc người bị nhiễm HIV và nhất là trẻ em và đối tượng chính sách xã hội.
Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích huy động tham gia của các tổ chức doanh nghiệp: tổ chức đào tạo nghề, tiếp nhận và sử dụng lao động là người bị nhiễm HIV/AIDS; lập các cơ sở chăm sóc người bệnh, hỗ trợ xã hội, pháp lý cho người nhiễm HIV/AIDS, hỗ trợ vốn, tạo việc làm và phát triển sản xuất, kinh doanh các tổ chức của người nhiễm HIV/AIDS, các chính sách ưu đãi các khoản thuế đối với doanh nghiệp, tư nhân sản xuất sản phẩm phòng tránh và điều trị HIV/AIDS.
Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng,chống HIV/AIDS trong đó chú trọng phổ biến pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị nhiễm HIV/AIDS.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm khắc các hành vi, vi phạm pháp luật về phòng chống HIV/AIDS.
3.1.4. Định hướng về dự phòng lây nhiếm HIV/AIDS
Đổi mới, mở rộng và nâng cao chất lượng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS.
Đa dạng và đổi mới về nội dụng, hình thức tuyên truyền đảm bảo tính thân thiện, phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng và văn hóa của từng địa bàn, Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền giáo dục, vận động nâng cao nhận thức của người dân về tác hại, hậu quả của HIV/AIDS và các tệ nạn ma túy, mại dâm, chú trọng giáo dục truyền thông thay đổi hành vi không an toàn có nguy cơ lây nhiễm, tuyên truyền bình đẳng giới giáo dục sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản và các hoạt động văn hóa nghệ thuật, du lịch… Tập trung vào các khu vực, địa bàn trọng điểm các nhóm đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao.
Đẩy mạnh truyền thông trên hệ thống thông tin đại chúng và hệ thống truyền thông cơ sở xã phường, thị trấn, chú trọng các hình thức truyền thông trực tiếp, vận động người có uy tín trong xã hội ở cộng đồng dân cư và người nhiễm HIV tham giam tuyên truyền về phóng chống HIV/AIDS; giáo dục lối sống lành mạnh phù hợp với chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mở rộng phạm vi nâng cao chất lượng các dịch vụ, can thiệp giảm tác hại lây nhiễm HIV cho nhóm đối tượng dễ bị lây nhiễm, đang có HIV.
Đẩy mạnh mở rộng và duy trì bền vững các biện pháp can thiệp giảm tác hại HIV và các tệ nạn ma túy mại dâm như: phân phát bơm kim tiêm sạch, bao cao su, chương trình điều trị các chất gây nghiện, các mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng, đảm bảo cho các đối tượng tiếp cận thuận lợi.
Triển khai thí điểm mô hình cung cấp gói can thiệp toàn dân cho các nhóm đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV, mô hình dự phòng lây nhiễm cho nhóm đối tượng sử dụng ma túy tổng hợp và các loại ma túy mới. Lồng ghép các hoạt động can thiệp với các mô hình cai nghiện dựa vào cộng đồng và quản lý sau cai.
Mở rộng các dịch vụ tư vấn, khám và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, chú trọng triển khai, lồng ghép với các hoạt động khám sức khỏe định kỳ, chăm sóc sức khỏe sinh sản của các cơ sở y tế.
Nâng cấp chất lượng và chuyển biến theo Marketing dịch vụ đối với tư vấn, xét nghiệm HIV, điều trị HIV và các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV khác. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các mô hình dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV, các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV khác, đảm bảo tính sẵn có tính dễ tiếp cận với các dịch vụ tư vấn xét nghiệm, điều trị HIV.
Triển khai các hoạt động dự phòng phổ cập lây nhiễm HIV trong các dịch vụ xã hội, đảm bảo kết nối giữa các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV với các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ và điều trị HIV/AIDS.
3.1.5. Định hướng về điều trị, chăm sóc người bị bệnh HIV/AIDS
Mở rộng phạm vi cung cấp, đảm bảo tính liên tục và dễ tiếp cận các dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV, điều trị nhiễm trùng cơ hội, điều trị lao và từng bước mở rộng các cơ sở điều trị bệnh nhân AIDS, các phòng khám ngoại trú đưa công tác điều trị về tuyến y tế cơ sở và y tế ngoài công lập, trong các trung tâm giáo dục lao động xã hội, trại tạm giam.
Lồng ghép điều trị HIV với các chương trình khác, củng cố phát triển hệ thống chăm sóc tại cộng đồng người nhiễm HIV, các Tổ chức Tôn giáo, Tổ chức xã hội và các Tổ chức khác.
Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ vật chất, tinh thần cho người bị nhiễm HIV hòa nhập cộng đồng, đảm bảo quyền học tập, vui chơi cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS, tạo việc làm cho người bị nhiễm HIV.
Về giám sát dịch HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá:
Củng cố và kiện toàn hệ thống giám sát, theo dõi, đánh giá cung cấp thông tin chương trình phòng chống HIV/AIDS kịp thời chính xác và thống nhất.
Thường xuyên phân tích, đánh giá diễn biến tình hình dịch HIV/AIDS và hiệu quả các hoạt động chương trình trên cơ sở đó xác định nhiệm vụ, giải pháp, khu vực ưu tiên phòng chống HIV/AIDS.
3.1.6. Định hướng về nguồn tài chính
Đảm bảo chính sách khuyến khích đầu tư bằng chính sách, ngân sách địa phương, hỗ trợ giá thuốc ARV cho các chương trình, dự án, đề án trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS.
Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn hỗ trợ của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và nước ngoài cho các hoạt động phòng chống HIV; đồng thời triển khai lộ trình mức thu một phần chi phí điều trị HIV/AIDS và điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc và các hoạt động can thiệp giảm tác hại.
Điều phối, phân bổ các nguồn lực đầu tư hợp lý cho các hoạt động phòng chống HIV. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực đầu tư đảm bảo hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm và theo đúng quy định pháp luật hiện hành.
3.1.7. Định hướng về nguồn nhân lực
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực làm công tác phòng chống HIV/AIDS, thực hiện tốt chế độ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên trong các cơ quan chúc năng làm nhiệm vụ phòng chống HIV/AIDS
Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị Trung tâm phòng chống HIV đạt tiêu chuẩn bậc IV. Kiện toàn mạng lưới, tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cán bộ chuyên trách làm công tác phòng chống HIV các cấp.
3.1.8. Định hướng về cung ứng thuốc, thiết bị
Cung ứng đủ thuốc và thiết bị đáp ứng các hoạt động phòng chống nhất là các thiết bị chuyên ngành, thuốc Methadone, thuốc kháng vi rút HIV, các thuốc, hóa chất sinh phẩm, dụng cụ, vật tư phục vụ cho các chương trình, dự án để phòng chống HIV/AIDS.
Đảm bảo tính sẵn có tính dễ tiếp cận với thuốc kháng vi rút HIV. Khuyến khích ứng dụng bài thuốc y học cổ truyền để nâng cao thể trạng và tăng cường miễn dịch cho người nhiễm HIV.
3.1.9. Định hướng về hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác với tổ chức quốc tế có uy tín đối với sự thành công của chuyển giao công nghệ như UNIDO, UNCTAD, WIPO, ESCAP, APCTT đồng thời mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài, người nước ngoài và Việt kiều, đẩy mạnh vận động và tranh thủ sự hỗ trợ, tài trợ về kinh phí, kỹ thuật, kinh nghiệm, nhất là các hoạt động can thiệp giảm tác hại, tuyên truyền, giáo dục và phối hợp công- tư trong công tác phòng chống chống HIV/AIDS.
3.2. Các giải pháp của luận văn
3.2.1. Giải pháp 1: Hỗ trợ chuyển giao công nghệ để tự điều trị HIV/AIDS tại Hải Phòng và Việt Nam
- Khẳng định thuốc ARV hiện nay là loại thuốc đặc trị vi rút HIV
Các nhà khoa học khẳng định con người có thể ngăn chặn dịch AIDS. Tuyên bố này hoàn toàn khả thi với sự ra đời của thuốc ARV.
ARV viết tắt ANTIRETROVARAL- Thuốc kháng virus HIV là thuốc đặc trị HIV/AIDS hữu hiệu nhất trên thế giới hiện nay, có tác dụng ức chế sự nhân lên của vi rút HIV trong cơ thể. Điều trị ARV càng sớm và điều đặn thì hiệu quả càng cao và làm chậm quá trình chuyển sang giai đoạn AIDS, làm giảm nguy cơ lây truyền ra cộng đồng và làm tăng chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV/AIDS. Tuy đây chưa phải là thuốc có thể chữa khỏi hoàn toàn căn bệnh, nhưng nếu người nhiễm vi rút HIV duy trì điều trị liên tục và suốt đời thì sẽ giảm thiểu được nguy cơ tử vong, giảm khả năng lây lan và giúp tiến tới kết thúc dịch AIDS trong tương lai. Những diễn biến thực tế ở các nước trên thế giới hiện nay đã và đang củng cố luận điểm trên là có cơ sở.
Hiện nay các nước đang phát triển như Cuba, Ấn độ và một số nước ở Đông Nam Á như Campuchia ..đã chính thức trở thành các Quốc gia đầu tiên trên thế giới ngăn chặn thành công HIV/AIDS và bệnh giang mai truyền từ mẹ sang con. Tổ chức Y tế Thế giới đã gọi đây là “một trong những thành công lớn nhất có thể đạt được trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng”.Một chiến thắng lớn trong cuộc chiến lâu dài chống lại HIV/AIDS cũng như các bệnh lây qua đường tình dục, đồng thời là một bước quan trọng hướng tới một thế hệ không còn AIDS. Thành công này đến từ những nỗ lực của các Nhà khoa học, chính sách hỗ trợ trong việc tập trung ngăn chặn HIV/AIDS từ các đối tượng hành nghề mại dâm, ma túy, các bà mẹ nhiễm HIV và quan trọng hơn đã bào chế, sản xuất và cung cấp thuốc ARV cho người bị nhiễm vi rút HIV/AIDS nhằm hạn chế sự lây lan của vi rút HIV.
Để thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước ngoài đang có công nghệ sản xuất thuốc ARV, các doanh nghiệp tiếp nhận phải xây dựng nền tảng của chuyển giao công nghệ gồm 03 yếu tố đó là hệ thống giáo dục quốc gia, các hoạt động của nền kinh tế đặc biệt là vai trò của ngành công nghiệp và sự tham gia hỗ trợ của Chính phủ.
Sự phối hợp giữa ba yếu tố nền tảng sẽ tạo ra cơ sở hạ tầng để tiến hành chuyển giao công nghệ. Các thành phần của cơ sở hạ tầng để chuyển giao công nghệ gồm: các cơ chế, các nguồn lực và các công cụ. Trong các nguồn lực để chuyển giao công nghệ vai trò của các cơ quan nghiên cứu triển khai có ý nghĩa quyết định trong sự thành công của chuyển giao công nghệ. Vai trò của cơ quan nghiên cứu khoa học, triển khai bao trùm từ giai đoạn chuẩn bị dự án sơ bộ cho chuyển giao công nghệ cho đến giai đoạn sử dụng, nâng cao công nghệ nhập.
Tại Việt Nam theo Luật Chuyển giao công nghệ của Quốc hội khóa XI , kỳ họp thứ 10 số 80/2014/QH11 ngày 29/11/2014, Thông tư số 18/2020/TT-BKHCN ngày 02/10/2020,Thông tư số 08/2021/TT-BKHC ngày 08/03/2021 hướng dẫn các nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao. Ngày 17/12/21014 tại Nghị định số 120/2022/NĐ-CP ngày 17/12/2022 về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 133/2016/NĐ-CP ngày 31/12/2016 đã chỉ rõ tại Phụ luc1- Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao (thứ tự số 46) “Công nghệ sản xuất thuốc điều trị Ung thư, tim mạch, tiểu đường, HIV/AIDS thuốc cai nghiện ma túy, thuốc phục vụ sinh đẻ có kế hoạch” được khuyến khích chuyển giao.
Như vậy về các vấn đề pháp lý, chủ trương cho phép thực hiện về chuyển giao công nghệ, sản xuất thuốc điều trị HIV/AIDS không gặp các trở ngại khi các tổ chức, doanh nghiệp, tư nhân khi lập dự án chuyển giao công nghệ, sản suất thuốc điều trị HIV/AIDS từ các nước đang phát triển (Ấn Độ, Cu Ba..) hoặc các nước phát triển (Mỹ, Đức, Pháp…).
Để tạo môi trường thông thoáng, các cơ chế gọn nhẹ, khi đàm phán, phê duyệt dự án đầu tư, ký kết hợp đồng,…tiếp nhận công nghệ sản xuất thuốc điều trị HIV/AIDS được khả thi, có giá bán thấp, phù hợp cho các bệnh nhân bị nhiễm vi rút HIV/AIDS là rất cần thiết. Do vậy để xã hội hóa đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khi tham gia tiếp nhận công nghệ, sản xuất, thuốc điều trị HIV/AIDS trên thực tế phải khắc phục hàng loạt những khó khăn, vướng vướng mắc như: cơ chế ưu đãi đầu tư, thủ tục hành chính, giám định chất lượng, bảo quản, phân phối, sử dụng; tài chính, bản quyền, thị trường mới giải quyết sự “bế tắc” này được.
Theo quan điểm của tác giả luận văn, trước mắt để tiếp nhận công nghệ sản xuất thuốc ARV tại Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung cần khắc phục, hoàn thiện hệ thống pháp lý, hạ tầng cơ sở, nâng cao chỉ số cạnh tranh của các tỉnh, thành phố để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài về công nghệ sinh học, dược học nói chung và công nghệ sản xuất thuốc ARV để điều trị vi rút HIV nói riêng.
- Gọn nhẹ, hiệu quả các thủ tục hành chính
Trên thực tế, việc đi làm thủ tục hành chính, trong đó có thủ tục hành chính về cấp phép, phê duyệt dự án đầu tư, sản xuất thuốc thường mang lại cảm giác “ngại” cho nhiều doanh nghiệp. Một phần nhiều doanh nghiệp cũng đang băn khoăn về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng như giới hạn hành chính tới đâu vào thị trường là hợp lý. Các doanh nghiệp Nhà nước có giới hạn hoạt động kinh doanh ở những lĩnh vực nào, quy mô như thế nào, phân định như thế nào giữa quy luật cung cầu và vai trò điều tiết thị trường của Nhà nước.
Đây là áp lực không nhỏ với các doanh nghiệp không nằm trong khối các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước trong việc cấp phép dự án đầu tư chuyển giao công nghệ trong sản xuất, đối với các loại dược phẩm, mỹ phẩm trong đó có thuốc ARV vì văn bản trong các thủ tục hành chính thay đổi liên tục, trong khi các doanh nghiệp chưa “chủ động” nghiên cứu và cập nhật các quy định mới, dẫn đến khó khăn trong việc kê khai hồ sơ thủ tục hành chính. Những khó khăn này không thể giải quyết dứt điểm ngay được, mà cần phải có lộ trình cùng với quá trình đổi mới kinh tế; dân chủ hóa đời sống xã hội; hội nhập quốc tế; củng cố và duy trì ổn định chính trị; phòng chống tiêu cực; tiết kiệm, chống lãng phí.
Đổi mới thủ tục hành chính theo hướng không gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu đối với doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vưc Marketing xã hội cũng như các lĩnh vực khác. Đổi mới thủ tục hành chính phải để các doanh nghiệp nhận thấy có sự thay đổi đáng kể khi làm các thủ tục hành chính đối với các văn bản, giấy tờ cũng như thái độ thân thiện và giải quyết có hiệu quả của đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước.
Các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn để tình trạng “nợ” văn bản hướng dẫn thi hành Pháp luật, (có những Bộ luât có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cảu các Bộ chủ quản nên các doanh nghiệp, người dân cũng không thể thực hiện được) và việc ban hành văn bản Pháp luật có chất lượng chưa cao, phải sửa đổi nhiều lần. Các thủ tục hành chính không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên, nhiều thủ tục hành chính ban hành chưa coi trọng ý kiến các tổ chức,nhân dân, chủ yếu là tạo điều kiện thuận lợi cho các Tập đoàn kinh tế, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Các Quy tắc và Quy định hay bị các cơ quan, chính quyền địa phương diễn giải và áp dụng khác nhau gây ra sự thiếu rõ ràng và không nhất quán. Chưa kể, tình trạng thiếu hệ thống hóa các quy trình và sự phối hợp thiếu hiệu quả giữa các cơ quan quản lý, buông lỏng việc phòng chống vi phạm pháp luật làm suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư. Do vậy phải bảo đảm sự nhất quán, kiên trì liên tục trong triển khai cải cách hành chính từ xây dựng chương trình, kế hoạch cải cách hành chính; tổ chức triển khai; kiểm tra thực hiện; đánh giá kiểm điểm kết quả cải cách hành chính phải dựa vào đánh giá những mục tiêu đề ra cũng như tác động (tích cực và tiêu cực nếu có) tới xã hội của hoạt động cải cách hành chính.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại Cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương cũng như Địa phương; đặc biệt, là triển khai hệ thống công nghệ thông tin, một cửa liên thông hiện đại.
Cần nhận thức đúng về vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2019-2030 trên phạm vi toàn quốc; các Bộ, Ngành cần xây dựng và triển khai các đề án, dự án được phân công tại Nghị quyết số 30c/ NQ-CP ngày 08/11/2019 của Chính phủ và Nghị quyết số 76/NQ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP Cải cách thủ tục hành chính phải đi vào thực chất, nhất là các thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, Doanh nghiệp. Quán triệt sâu rộng và triển khai nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 19/NQ- CP ngày 18/3/2022 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh; nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong đó trọng tâm là xây dựng; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật, các cơ chế chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiêp, người dân phát triển sản xuất kinh doanh…
Các cơ quan Chính phủ tập trung vào việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước theo tầm vĩ mô; tinh giản bộ máy hành chính, đảm bảo tính chuyên nghiệp; đồng thời, giúp tạo nguồn thu hỗ trợ các Hiệp hội doanh nghiệp xúc tiến thương mại, hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết, và chuyển giao công nghệ mới.
Và quan trọng nhất là tạo dựng một khuôn khổ thể chế hoạt động thông suốt là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công các dự án đối tác công-tư. Đẩy mạnh công tác kiểm tra cải cách hành chính, thực hiện phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước theo các Nghị quyết của Đảng và Chính phủ; xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn cho người dân và Doanh nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức được giao nhiệm vụ giải quyết thủ tục hành chính.
Đánh giá các chỉ số cạnh tranh giữa các tỉnh thành phố và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các doanh nghiệp, người dân nhìn nhận thấy sự thay đổi hàng năm của các chính quyền địa phương.
Hình 3.1. Đánh giá cạnh tranh các tỉnh, thành phố
3.2.1.3. Chuyển giao công nghệ ngoại sinh, tiến tới chuyển giao công nghệ nội sinh.
- Chuyển giao công nghệ ngoại sinh
Việc sản xuất thuốc ARV điều trị HIV/AIDS ở Việt Nam của các doanh nghiệp hiện nay vẫn trong tình trạng chưa đánh giá được thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường ở đây được hiểu theo hướng phụ thuộc vào đấu thầu hoặc chỉ định thầu cung cấp thuốc cho Chương trình phòng chống HIV/AIDS Quốc gia. Tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất thuốc ARV tại Việt Nam cũng chỉ đáp ứng chưa được 10% nhu cầu điều trị khoảng 270.000 người đang có nhu cầu. Nếu như không xã hội hóa đối với tiếp nhận công nghệ sản xuất thuốc ARV thì các bệnh nhân HIV/AIDS tại Hải Phòng, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn thậm chí nguy cơ chuyển sang AIDS và tử vong cao. Mặt khác, chiến lược tổng thể phòng chống AIDS Quốc gia đến năm 2030, chúng ta sẽ phấn đấu đảm bảo 90% bệnh nhân tiếp cận, sử dụng thuốc ARV để điều trị vi rút HIV/AIDS.
Hiện, cả nước có 07 doanh nghiệp dược đã được cấp số đăng ký sản xuất thuốc kháng vi rút HIV (2 doanh nghiệp đạt WHO-GMP, 5 doanh nghiệp đạt ASEAN-GMP). Các doanh nghiệp này có thể sản xuất được các thuốc kháng vi rút HIV thuộc danh mục thuốc thiết yếu của Việt Nam hoặc có thể tự sản xuất theo phương thức chuyển nhượng, gia công cho các Công ty đang nắm giữ bản quyền, phát minh như một nhà máy sản xuất thuốc ở Thành phố Hồ Chi Minh (liên doanh với Công ty dược phẩm của Đức) hiện đã sản xuất thuốc ARV với nguồn nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu từ các doanh nghiệp của Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Để nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách; nhu cầu thiết yếu của xã hội trong việc điều trị vi rút HIV/AIDS bằng thuốc ARV và tăng năng lực cạnh tranh, chủ động nguồn thuốc và hạ giá thuốc cùng loại của các hãng nước ngoài khi tiến hành cung ứng thị trường thuốc ARV song song. Doanh nghiệp tại Hải Phòng cũng như trên lãnh thổ Việt Nam phải có được công nghệ để có thể triển khai sản xuất thuốc ARV bằng cách tiếp nhận công nghệ từ các Quốc gia khác đang có công nghệ sản xuất thuốc ARV là phương án tốt nhất trong giai đoạn này và được gọi là tiếp nhận công nghệ ngoại sinh .
Tuy nhiên khi tiếp nhận công nghệ sản xuất thuốc điều trị AIDS của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tại Hải Phòng và Việt Nam thì trong chuyển giao công nghệ một vấn đề cũng cần chú ý là: trước khi quyết định chuyển giao công nghệ, bên giao công nghệ cũng phân tích rất kỹ tình hình bên nhận bằng cách đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến bên nhận công nghệ như:
Sự khác biệt về quan điểm sở hữu trí tuệ của các nước phát triển được xác định với tư cách là một nhân quyền phổ quát: “tất cả mọi người có quyền bảo vệ các lợi ích về tinh thần và vật chất có được từ bất cứ một sản phẩm nào mang tính khoa học – văn học hay nghệ thuật mà người đó là tác giả” so với tư duy một số nước đang phát triển như xem sở hữu trí tuệ như là một loại sản phẩm công cộng.
Ranh giới giữa các ngành công nghiệp, quan hệ giữa các ngành kinh tế khác nhau, những hình thức bảo vệ khác và tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ .
Việt Nam chính thức gia nhập WTO ngày 11/01/2015 và việc chấp hành Hiệp định TRIPS cũng quy định đối với các Quốc gia là thành viên (bao gồm các Tổ chức, Cá nhân) của WTO phải tuân thủ mọi quy định hiện hành của WIPO, cụ thể là của các công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp và công ước Berne về quyền tác giả.
Ngoài ra còn một số câu hỏi khác về thị trường, ổn định chính trị và khả năng thanh toán, chiến lược hợp tác lâu dài…
Như vậy việc chuyển giao công nghệ ngoại sinh từ các nước phát triển cũng không phải là đơn giản đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuộc các nước đang phát triển như Việt Nam cách nhìn từ bên chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc ARV. Nếu thấy tình hình bên nhận công nghệ sản xuất thuốc ARV không thuận lợi, bên giao có thể sẽ không chuyển giao công nghệ, do đó bên nhận cần phải đưa ra phương án cụ thể để thu hút công nghệ sản xuất thuốc ARV.
Việc chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc điều trị vi rút HIV/AIDS cũng cần tranh thủ sự ủng hộ của các chương trình phòng chống HIV/AIDS như UNAIDS, USAIDS để đàm phán với các cơ sở sản thuốc ARV có giá thành hợp lý hoặc kêu gọi các hình thưc đầu tư FDI, BOT, BTO, BT, Liên doanh…
Phối hợp với Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đào tạo, hợp tác các Chuyên gia, các nghiên cứu sinh trong công nghệ sinh học, dược học tại các nước đang sản xuất thuốc ARV như Cu Ba, Ấn Độ và chính các Chuyên gia này sẽ về Việt Nam làm đầu mối trong việc chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc ARV cụ thể đối với Hải Phòng
Hoạt động Marketing xã hội để sản xuất thuốc ARV tại Hải Phòng là hoạt động cần có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, các sở, ban, ngành. Do đó, việc tăng cường trao đổi thông tin và hiểu biết lẫn nhau là vô cùng quan trọng trong việc phối hợp thực hiện hoạt động. Các nhà Quản trị hoạt động Marketing xã hội sản xuất thuốc ARV cần có những hiểu biết về đặc điểm hoạt động của phòng chống HIV/AIDS, và ngược lại, các cán bộ của trung tâm phòng chống HIV/AIDS cũng cần được trang bị những kiến thức và kỹ năng về Marketing xã hội.
Các cán bộ quản lý HIV/AIDS phải nâng cao năng lực quản lý, nâng cao hiểu biết về Marketing xã hội nói chung và Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV nói riêng. Các cán bộ quản lý tuyến huyện, xã, các cộng tác viên, và các cơ quan phối hơp thực hiện hoạt động Marketing xã hội cần được đào tạo mới một cách căn bản kiến thức, kỹ năng về Marketing xã hội về phòng chống HIV/AIDS. Bên cạnh đó, việc tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị chia sẻ thông tin, hội thi tìm hiểu, toạ đàm, … về Marketing xã hội phòng chống HIV/AIDS trong sinh hoạt của các hội, nhóm, tổ chức là cần thiết.
Làm tốt công tác thông tin cung cấp kiến thức về Marketing xã hội cho cấp uỷ Đảng, chính quyền trong giới lãnh đạo đầu ngành và các ban ngành có liên quan trên địa bàn thành Phố Hải Phòng và Việt Nam cần:
Mời các chuyên gia trong lĩnh vực Marketing xã hội cộng tác xây dựng, soạn thảo các giáo trình, giáo án, tài liệu học tập để cung cấp cho các Trung tâm phòng chống HIV/AIDS, phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động. Bên cạnh đó, hoạt động Marketing xã hội tại Hải Phòng cần phối hợp với Trường Trung học Y tế, trường Đại học Y Hải Phòng và Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hải Phòng chủ trì, triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Marketing xã hội ứng dụng vào thực tiễn hoạt động tại thành phố Hải Phòng.
Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh lây nhiễm HV/AIDS tại Hải Phòng cần từng bước kiện toàn và củng cố tổ chức bộ máy, quy hoạch, phân cấp quản lý số cán bộ chuyên trách đã được đào tạo về Marketing xã hội phòng chống và điều trị HIV/AIDS, mô tả nhiệm vụ cụ thể từng vị trí, từng chức danh, xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ, nâng cao năng lực phối hợp điều hành và có chính sách lương bổng, thù lao, chế độ thi đua, khen thưởng thoả đáng.
Đội ngũ cán bộ là yếu tố quyết định hiệu quả của mọi hoạt động, số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ dân số tham gia vào hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng chống HIV/AIDS ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi và phát triển hoạt động. Nếu thực hiện tốt giải pháp phát triển nguồn nhân lực, sẽ xây dựng được một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, với kiến thức, kỹ năng hoạt động Marketing xã hội, có thể đảm đương việc xây dựng, triển khai hoạt động, cũng như áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động, thu thập thông tin phản hồi, thực hiện tư vấn, giúp đỡ, tuyên truyền về phòng chống và sử dụng sản phẩm thuốc ARV trong cộng đồng. Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ còn giúp cho việc thống nhất cao trong phối hợp hoạt động, khắc phục được tình trạng thiếu đồng thuận trong hoạt động phối hợp do chênh lệch về nhận thức hoạt động.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực còn góp phần đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế khi hội nhập kinh tế toàn cầu.
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ công nghệ sản xuất thuốc ARV theo quy trình GMP – WHO
- Chuyển giao công nghệ nội sinh
Y học cổ truyền Việt Nam còn gọi là thuốc Nam là một ngành y học thuộc Đông y với nguồn gốc xuất phát từ Việt Nam thay vì từ Trung Hoa. Các vị thầy thuốc nổi tiếng được xem là bậc tổ của nghề y Việt Nam như Hải Thượng Lãn Ông (còn lưu truyền bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh là sách căn bản của Đông y Việt Nam) và Tuệ Tĩnh (tác giả của câu nói nổi tiếng “Nam dược trị Nam nhân” – thuốc Nam dùng chữa bệnh cho người Nam).
Một đặc tính của thuốc Nam là nguyên liệu dùng những loại thảo mộc tại Việt Nam không phải những dược chất xa lạ. Ngoài ra cách chế biến, sử dụng là dùng nguyên liệu ở dạng tươi hoặc sấy khô hoặc bào chế.
Những rau trái quen thuộc trong ẩm thực hàng ngày của người Việt Nam như rau muống, rau răm, kinh giới, cải cúc, đều được dùng như một vị thuốc. Một số loài hoa như ngọc lan, hoa sen, hoa nhài, hoa hồng, hoa hòe.. cũng được xem là vị thuốc để chữa bệnh.
Theo phát hiện mới nhất một loại nấm cũng có tác dụng làm ức chế vi rút HIV/AIDS và điều trị Ung thư là nấm Vân Chi. Nấm Vân Chi hiện nay đã được trồng rộng rãi tại Việt Nam và được bán cho các công ty dược, tuy nhiên công nghệ sinh học và dược học của Việt Nam chưa chiết xuất được các hoạt chất của loại nấm này điều trị vi rút HIV/AIDS cũng như bệnh ung thư.
Để phát huy truyền thống y học cổ truyền có hàng trăm năm của người Việt Nam rất cần sự vào cuộc của các trung tâm y tế, các phòng nghiên cứu của các trường đại học như trường đại học Y Dược Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và các Giáo sư -Tiến sĩ như Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng, Giám đốc Trung tâm vi sinh vật học ứng dụng Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trương Việt Bình là một trong những người đóng góp lớn trong việc phát triển về Y Dược học cổ truyền Việt Nam
- Các lợi ích về chuyển giao công nghệ nếu được thực hiện
- Lợi ích đối khách hàng (người bệnh nhiếm vi rút HIV)
Mục tiêu Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam vừa để giúp người bệnh chi trả mức chi phí hợp lý, duy trì việc điều trị HIV bằng thuốc ARV được liên tục và ổn định, thúc đẩy ngành công nghiệp dược trong nước phát triển.
Việc nhận dịch vụ điều trị và chăm sóc HIV/AIDS toàn diện và miễn phí đã thành thói quen của người nhiễm HIV tại Việt Nam 20 năm qua. Năm 2025, trước bối cảnh bị cắt giảm viện trợ và sẽ hết hẳn nguồn thuốc viện trợ trong thời gian không xa, sản xuất thuốc ARV tại Việt Nam sẽ là cứu cánh cho người nhiễm HIV để tiếp tục điều trị với sự đồng chi trả như các bệnh mãn tính khác.
- Lợi ích đối Lợi ích đối với xã hôi, Chính phủ, Nhà nước
Thúc đẩy ngành công nghiệp dược trong nước phát triển, giảm bớt gánh nặng đầu tư công.
Hoàn thiện được hệ thống văn bản quy phạm Pháp luật trong lĩnh vực đầu tư chuyển giao công nghệ, các chính sách liên quan đến ưu đãi đầu tư và đặc biệt ưu đãi đầu tư để tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần xã hội tiếp cận nhanh công nghệ và tham gia đầu tư sản phẩm thuốc điều trị vi rút HIV và các bệnh khác.
- Lợi ích đối với các Trung tâm y tế
Cung ứng đủ thuốc cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh của bệnh nhân HIV với chất lượng bảo đảm, phù hợp với cơ cấu bệnh tật, đáp ứng kịp thời yêu cầu an ninh, quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh và các nhu cầu khẩn cấp khác.
Giảm trừ các nguy cơ đại dịch bùng phát và đe dọa trở lại, vì vi rút HIV có thể đột biến và kháng thuốc.
3.2.2. Giải Pháp 2. Huy động nguồn tài chính xã hội (tổ chức, cá nhân và các nguồn NGOs) trong hoạt động ngăn chặn bệnh HIV/AIDS
Cũng như các hoạt động xã hội khác, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV phải dựa vào nguồn tài trợ. Tuy nhiên, khác với các hoạt động xã hội khác, phải sử dụng toàn bộ ngân quỹ cho việc chi tiêu hoạt động, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV có thể duy trì nguồn tiền từ doanh thu bán sản phẩm. Và nếu có một chính sách giá bán hợp lý – như đã trình bày ở giá bán – cùng với một chính sách phát triển thêm nguồn lực tài chính từ các nguồn tín dụng thích hợp, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV chẳng những có thể vẫn phục vụ được người dân có thu nhập thấp và trung bình trong xã hội mà còn có thể bảo toàn được nguồn ngân quỹ và có thêm lợi nhuận phục vụ cho mục tiêu tái hoạt động mở rộng. Đây là điều kiện quyết định cho tính bền vững của hoạt động.
Giải pháp huy động nguồn tài tài chính có thể động viên, thu hút các nguồn lực tài chính khác đầu tư cho hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV nói chung và tại Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung được nêu sau đây.
3.2.2.1. Giải pháp về huy động nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính thứ nhất có thể huy động cho hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng là Quỹ phòng chống AIDS, có từ nhiều nguồn khác nhau: từ Ngân sách nhà nước, các nguồn vay Tín dụng uu đãi, vay ODA không hoàn lại, viện trợ và từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức xã hội, các tổ chức cộng đồng (CBO), ban quản lý cộng đồng (CIC) các doanh nghiệp, các cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra theo Quyết định số 1767/QĐ-TTg ngày 19/10/2023 còn có Cơ quan chủ quản là Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đang làm Chủ Dự án phòng chống HIV/AIDS do Quỹ toàn cầu tài trợ với Tổng kinh phí bằng nguồn vốn ODA không hoàn lại là 6.942.775 USD.
Nguồn lực tài chính thứ hai có thể huy động cho hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng là từ Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam. Đây là hệ thống ngân hàng được thành lập theo Quyết định số 131/2010/QĐ-TTg, do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 04 tháng 10 năm 2010. Ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và từ nguồn vốn đóng góp tự nguyện không có lãi hoặc không hoàn trả gốc của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước. Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua hoạt động cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và ổn định xã hội.
Nguồn lực tài chính thứ ba có thể huy động cho hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc phòng tránh và điều trị vi rút HIV/AIDS từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Đây là hệ thống Ngân hàng được thành lập theo Quyết định số 108/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 19/5/2014. Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển trước đây. Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam không vì mục đích lợi nhuận, có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và từ vốn huy động, trong đó có vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị – xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức trong và ngoài nước. Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển thông qua việc cho vay xuất khẩu và cho vay đầu tư phát triển trong đó có ngành sản xuất thuốc kháng sinh, ung thư và HIV/AIDS.
Như các hoạt động kinh tế, muốn có được nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại thành phố Hải Phòng phải có phương án kinh doanh khả thi, đảm bảo sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích và phải đảm bảo khả năng hoàn vốn và trả lãi trong thời hạn vay.
Muốn thế, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng, cho dù là hoạt động không vì lợi nhuận, vẫn phải hoạch định chiến lược kinh doanh cụ thể, rõ ràng. Giá bán sản phẩm phải được cấu thành từ các chi phí hoạt động một cách đầy đủ, trong đó có cả lãi ngân hàng nhưng phải bảo đảm không quá mức trần theo đánh giá Các nhà quản trị hoạt động cần phải được trang bị thêm các kiến thức về quản trị kinh doanh,quản trị tài chính, quản trị nhân lực. Mọi chi phí cho hoạt động cần phải được tính toán hiệu quả cẩn thận và kiểm soát chặt chẽ.
Nguồn lực tài chính thứ tư có thể huy động vốn từ việc thoái vốn và cổ phần hóa đối với Doanh nghiệp Nhà nước, tập đoàn kinh tế Nhà nước (tất nhiên vẫn bảo đảm lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, lợi ích xã hội)… . Đây là cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư tiềm năng thông qua thị trường chứng khoán, một kênh huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung tại thị trường này
Các nguồn lực tài chính xã hội khác đối với từng loại hình doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp Stat-UP, các doanh nghiệp đã vượt qua giai đoạn khởi động ban đầu, có doanh thu, có thể huy động vốn đầu tư các quỹ đầu tư mạo hiểm đang có tại Việt Nam, như Quỹ đầu tư mạo hiểm IDGVV (Ventues VietNam); Quỹ DFJVinaCapital hay Quỹ CyberAgent của Nhật Bản hoặc qua một số công ty đóng vai trò trung gian giữa các nhà tài trợ trong cộng đồng và những dự án đang cần vốn. Tuy nhiên các doanh nghiệp phải chi phí phần trăm hoa hồng trên mức vốn huy động được hoặc chi phí môi giới.
Ngoài ra, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng cần phải có một tư cách pháp nhân chính thức khi giao dịch với các Ngân hàng. Hình thức pháp nhân như là một doanh nghiệp dịch vụ công ích có thể là một sự lựa chọn thích hợp trong trường hợp này, hoặc, Uỷ ban phòng chống HIV/AIDS hoặc Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hải Phòng có sự hỗ trợ trong việc này bằng cách tham mưu, đề xuất với Uỷ ban Nhân dân thành phố Hải Phòng và các cơ quan hữu quan, nghiên cứu, vận dụng một loại hình pháp nhân phù hợp hơn cho hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại thành phố Hải Phòng.
Ví dụ: Thực hiện Đầu tư một Nhà máy sản xuất thuốc ARV chi phí đầu tư và nguồn vốn xã hội hóa dự kiến như sau:
Bảng 3.1. Bảng dự tính Tổng mức đầu tư nhà máy sx thuốc ARV
Đơn vị tính: triệu VND
TT | Khoản mục | Tổng số | Tiến độ thực hiện đầu tư dự án năm 2025 | |||
Quý I | Quý II | Quý III | Quý IV | |||
1 | Tổng mức đầu tư | 28.056 | 1.430 | 3.000 | 8.000 | 15.626 |
Vốn cố định | 25.256 | |||||
-Chi phí xây lắp | 12.520 | |||||
-Chi phí thiết bị | 8.943 | |||||
-Chi phí kiến thiết cơ bản khác | 944. | |||||
-Chi phí dự phòng | 2.097 | |||||
-Lãi vay VCĐ trong thời gian ĐT | 750 | |||||
VLĐ SX ban đầu | 2.800 | |||||
2 | Kế hoạch HĐ vốn | 28.056 | 1.430 | 3.000 | 8.000 | 15.626 |
-Nguồn vốn NS | 0 | |||||
-Nguồn vốn vay NH Phát triển Việt Nam, chính sách xã hội | 15.500 | 3.000 | 6.000 | 6.500 | ||
-Nguồn vốn cố định còn lại | 1.430 | 1.430 | ||||
-Nguồn vốn lưu động vay khác | 2.800 | 2.800 | ||||
-Nguồn vốn huy động khác | 8.326 | 2.000 | 6.326. | |||
3 | Cân đối vốn đầu tư |
[Nguồn: Tác giả tự tổng hợp]
- Giải pháp về nguồn tài chính từ các chính sách sách ưu đãi thuế của Nhà nước
Doanh nghiệp xã hội là một loại hình doanh nghiệp rất có ý nghĩa với sự phát triển của xã hội. Mục tiêu hoạt động của các Doanh nghiệp xã hội là nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Hơn thế nữa doanh nghiệp xã hội còn sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường. Do đó Nhà nước cần giành nhiều chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên cũng chưa khuyến khích toàn diện với các doanh nghiệp xã hội cụ thể như đối với doanh nghiệp sản xuất thuốc ARV tại Việt Nam cụ thể:
Theo thông tư số 78/2022/TT-BTC ngày 18/6/2022 tại điều 6 mục 2.31. Các khoản chi không tương ứng với doanh thu tính thuế, trừ các khoản chi sau: “ Các khoản thực chi cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS tại nơi làm việc của doanh nghiệp, bao gồm: Chi phí đào tạo cán bộ phòng, chống HIV/AIDS của doanh nghiệp, chi phí tổ chức truyền thông phòng, chống HIV/AIDS cho người lao động của doanh nghiệp, phí thực hiện tư vấn, khám và xét nghiệm HIV, chi phí hỗ trợ người nhiễm HIV là người lao động của doanh nghiệp” vì vậy để khuyến khích hơn nữa đối với các doanh nghiệp xã hội, hoạt động theo mô hình Marketing xã hội đối với sản phẩm phòng chống và điều trị vi rút HIV/AIDS Tác giả đề xuất về ưu đãi tài chính như sau: miễn thuế sử dụng đất trong 20 năm, tiếp theo miễn thuế nguyên liệu đầu vào kể cả thuế nhập khẩu 10 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 10 năm, giảm tiếp 50% đối với các khoản thuế hết thời gian được miễn. Đây cũng là nguồn tài chính đáng kể để các doanh nghiệp xã hội tồn tại và phát triển bền vững đối với mục tiêu xã hội cụ thể của mình.
Bảng 3.2. Bảng tính diện tích tối thiểu theo mô hình GMP-WHO
STT | HẠNG MỤC | Diện tich | SỐ TẦNG | DT SÀN |
1 | Phân xưởng thuốc viên kháng vi rút HIV
– Tầng 1 phân xưởng sản xuất – Tầng hệ thống kỹ thuật |
620 m2 | 1 | 620m2
620m2 |
2 | Tổng kho nguyên liệu bao bì và thành
phẩm GSP |
780m2 | 1 | 780m2 |
3 | Phòng kiểm nghiệm GLP | 220m2 | 1 | 220m2 |
4 | Xưởng cơ khí | 50m2 | 1 | 50m2 |
5 | Hệ thống xử lí nước thải | 120m3 | ||
6 | Hệ thống tường rào, công viên, phụ trợ | 5000 m2 | ||
Tổng cộng | 6.790 m2 |
[ Nguồn: Tác giả tự tổng hợp]
Giải pháp huy động nguồn lực tài chính kết hợp với giải pháp xây dựng chính sách giá bán sản phẩm hợp lý, tạo ra một bước ngoặt quyết định đến tính bền vững của hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại thành phố Hải Phòng. Bằng cách cân đối thu – chi nhờ vào việc hạch toán đầy đủ chi phí vào giá bán sản phẩm, cũng như phát triển thêm các nguồn lực tài chính nhờ vào việc vay vốn hoạt động từ các ngân hàng chức năng để hỗ trợ tái hoạt động mở rộng, giải pháp này giải quyết được một cách căn cơ vấn đề dòng tiền của nguồn tài chính (Cash flow), chuyển từ dòng tiền luôn luôn âm (negative cash flow) sang dòng tiền dương (positive cash flow) mà vẫn đảm bảo mục tiêu xã hội và không vì lợi nhuận cho hoạt động vì toàn bộ lợi nhuận đều được đưa vào quỹ tái hoạt động mở rộng. Nếu giải pháp này được thực hiện thì – lần đầu tiên một hoạt động Marketing xã hội tại một tỉnh, thành phố nào đó ở Việt Nam chứ không riêng Hải Phòng, có thể tự chủ về tài chính, chương trình phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm của thời đại và phát triển một cách bền vững.
- Huy động nguồn tài chính xã hội (tổ chức, cá nhân và các nguồn NGOs) trong hoạt động ngăn chặn bệnh HIV/AIDS nếu được thực hiện
- Lợi ích đối khách hàng (người bệnh nhiếm vi rút HIV)
Mua thuốc ARV điều trị rẻ tiền hơn các loại thuốc đang nhập khẩu, chủ động mua thuốc trong thuốc điều trị khi phải đi làm việc dài ngày, giảm bớt gánh nặng kinh tế do việc chi trả tiền mua thuốc điều trị vi rút HIV.
Không còn tâm lý e ngại, dễ mua thuốc theo kê đơn và phác đồ điều trị của Bác sĩ và người nhiễm HIV được đối xử bình đẳng như các bệnh mãn tính khác.
- Lợi ích đối Lợi ích đối với xã hội, Chính phủ, Nhà nước
Trong một báo cáo của Bộ Tài chính trước Quốc hội, mức nợ công tính tới cuối năm 2023 đang chiếm 61,3 % GDP. Nợ công Việt Nam gia tăng mạnh qua các năm, chủ yếu do nợ trong nước. Hiện mỗi người dân Việt Nam đang phải gánh khoản nợ khoảng gần 29 triệu đồng. Đại diện ngân hàng thế giới cho rằng đây là mức an toàn và Chính phủ Việt Nam vẫn có khả năng trả 100% các khoản nợ đến hạn.Tuy nhiên, nếu việc huy động các nguồn tài chính từ xã hội (tổ chức, cá nhân và các nguồn NGOs) tham gia đầu tư trong hoạt động ngăn chặn bệnh HIV/AIDS và điều trị vi rút HIV sẽ giảm được những áp lực lớn về trả nợ đối với ngân sách Nhà nước do Nhà nước không phải trả nợ lãi đối với các khoản nợ này.
Nhà nước chỉ đứng vai trò điều tiết vĩ mô, hỗ trợ bằng các chính sách thuế, ưu đãi đầu tư không cần phải đi sâu, quản lý về việc sử dụng vốn trong đầu tư cũng như hiệu quả khai thác dự án đầu tư.
- Lợi ích đối với các Trung tâm y tế
Khi thuốc được bán rộng rãi trên thị trường, cung cấp đủ thuốc cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh của bệnh nhân HIV giảm bớt gánh nặng cấp phát thuốc, xét nghiệm cho các nhân viên y tế cấp cơ sở. Mặt khác việc bệnh nhân chủ động chi trả tiền thuốc cũng như các xét nghiệm sẽ xóa bỏ tình trạng cấp phát gây phiền nhiễu, cửa quyền và quan trọng nhất không mất thời gian điều trị của bệnh nhân HIV.
3.2.3. Giải pháp 3: Truyền thông xã hội và hiểu biết về bệnh AIDS
- Đổi mới về truyền thông xã hội và hiểu biết về bệnh AIDS
Thế giới lấy ngày 01/12 hàng năm này là ngày Thế giới phòng chống AIDS, nhiều hoạt động nhân ngày này được tiến hành trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam để tưởng nhớ những người đã mất vì AIDS và gia đình họ cũng như để một lần nữa khẳng định cam kết phòng chống HIV và đấu tranh chống lại kỳ thị và phân biệt đối xử đối với bệnh nhân AIDS.
Giải pháp quan trọng nhất là truyền thông với những thay đổi như: Đổi mới tư duy về truyền thông. Chuyển từ truyền thông hù dọa sang truyền thông giải thích dựa trên các cơ sở khoa học và thực tiễn; Chuyển từ việc nhấn mạnh vào con đường lây nhiễm sang nhấn mạnh hơn con đường không lây; chuyển từ việc coi người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ là đối tượng sang coi họ là chủ thể của truyền thông; chuyển từ đưa tin, hình ảnh tiêu cực về người nhiễm HIV sang đưa tin, hình ảnh tích cực về họ, cải thiện hình ảnh, tiến tới bình thường hóa sự có mặt của người nhiễm HIV trong cộng đồng. Đa dạng hóa các phương pháp truyền thông, lồng ghép nội dung chống kỳ thị, phân biệt đối xử vào tất cả các hoạt động truyền thông về HIV/AIDS. Tổ chức nhiều hoạt động truyền thông với sự tham gia của người nhiễm HIV và tạo điều kiện để các nhóm người nhiễm HIV/AIDS tổ chức các hoạt động truyền thông trong cộng đồng, trong trường học, tại nơi làm việc…
HIV/AIDS đã trở thành một vấn đề hiện diện trong đời sống của chúng ta trong suốt nhiều năm qua. Trong bài phát biểu của mình nhân ngày Thế giới phòng chống HIV/AIDS, Tổng Thư ký Liên hợp Quốc Ban Ki-Moon đã nói: “AIDS là một bệnh, không giống những căn bệnh chúng ta thường gặp. AIDS là một vấn đề xã hội, là vấn đề về quyền của con người, là vấn đề kinh tế của mỗi quốc gia. AIDS nhằm vào thanh thiếu niên ở tuổi trưởng thành, đúng vào thời điểm sung sức nhất để đóng góp sức mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế, trưởng thành về trí tuệ và nuôi dạy thế hệ kế tiếp. Chính AIDS đã và đang gây ra một sự hủy hoại mất cân đối lên người phụ nữ. Chính AIDS là thủ phạm làm cho hàng triệu trẻ em bị côi cút. AIDS tàn phá xã hội cũng như HIV tàn phá cơ thể con người – làm hao mòn sức lực, suy giảm năng lực, ngăn trở công cuộc phát triển và đe dọa sự bền vững của xã hội.”
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác truyền thông
Ở Việt Nam cũng phòng chống và điều trị HIV/AIDS đã được ghi nhận hiệu quả công tác truyền thông phòng chống căn bệnh thế kỷ thể hiện ở nhận thức đúng đắn, sâu sắc của người dân về HIV/AIDS ngày càng cao. Thời điểm năm 1990, nhận thức về HIV/AIDS của phần lớn người dân, kể cả chính quyền các cấp còn hạn chế, những quan niệm sai lầm còn quá phổ biến, sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS còn quá nặng nề. Trải qua thời gian dài sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của ngành Y tế, nhận thức đúng đắn về HIV/AIDS của người dân đã cải thiện đáng kể. Qua khảo sát, đánh giá nhanh về kết quả công tác truyền thông phòng, chống HIV/AIDS cuối năm 2024 cho thấy 69% người dân độ tuổi 15 – 49 hiểu biết đúng đắn về HIV/AIDS và phản đối các quan niệm sai lầm, đồng thời tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử trong cộng đồng với người nhiễm HIV/AIDS đã giảm thiểu.
Truyền thông vẫn là biện pháp chủ yếu trong dự phòng lây nhiễm HI/AIDS, truyền thông trong thời gian qua thay đổi hành vi giúp mọi người hiểu biết đúng đắn và đầy đủ hơn về HIV/AIDS, làm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS và những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS trong cộng đồng. Thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi góp phần nâng cao trách nhiệm và sự quan tâm của các cấp, các ngành, thu hút xã hội ủng hộ hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, duy trì bền vững những thành quả đã đạt được. Đồng thời, thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi còn góp phần định hướng cho mọi người thực hiện pháp luật và các chính sách về phòng, chống HIV/AIDS, kết nối và thúc đẩy các dịch vụ về dự phòng lây nhiễm HIV, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS và các dịch vụ hỗ trợ về kinh tế xã hội khác, tạo môi trường thuận lợi cho mọi người duy trì việc thực hiện các hành vi an toàn.
Công tác truyền thông xã hội còn góp phần tuyên truyền giáo dục các nhóm đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao, đã nhiễm AIDS vì vậy, hoạt động truyền thông xã hội về hiểu biết về bệnh AIDS tại Hải Phòng không nên chỉ do một tổ chức đơn độc thực hiện mà đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội với mọi nguồn lực, đối tượng tạo nên sức mạnh tổng hợp tác động đến nhận thức và hành vi hiểu biết về AIDS. Truyền thông xã hội về bệnh AIDS và cách phòng chống, điều trị gồm các lĩnh vực.
- Một là đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức xã hội
Nhóm nghiện chích ma túy hỗ trợ các kế hoạch và thay đổi hành vi góp phần giảm nguy cơ lan truyền dịch
Nhóm quan hệ tình dục đồng giới hỗ trợ chương trình giáo dục, dự phòng, can thiệp giảm tác hại và chăm sóc góp phần làm giảm sự lan truyền của dịch.
Nhóm phụ nữ bán dâm hỗ trợ chương trình giáo dục dự phòng can thiệp giảm hại và chăm sóc nhằm góp phần làm giảm sự làn truyền của dịch.
Để nâng cao chất lượng truyền thông cần thực hiện các nội dung sau:
- Thứ nhất, xây dựng kế hoạch truyền thông
Ban chỉ đạo phòng chống HIV/AIDS ma túy mại dâm tại Hải Phòng cần Chỉ đạo và tổ chức kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch hành động thực hiện chiến lược, chỉ đạo đẩy mạnh phối hợp hoạt động liên ngành phòng chống HIV/AIDS với phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm.
Sở Y tế là cơ quan thường trực về phòng chống HIV của ban chỉ đạo phòng chống HIV/AIDS, chống tệ nạn ma túy, mại dâm thành phố.
Chủ trì xây dựng kế hoạch hàng năm triển khai kế hoạch hành động thực hiện chiến lược, xây dựng kế hoạch chỉ tiêu, nhiệm vụ và lộ trình chi tiết thực hiện các đề án của Chiến lược theo chỉ đạo của Bộ y tế, hướng dẫn kiêm tra đông đốc giám sát hoạt động của các ngành, các cấp, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu của
Chiến lược, các đề án, dự án và chương trình mục tiêu phòng chống HIV/AIDS. Phối hợp chặt chẽ với Sở lao động thương binh xã hội, Công an thành phố,
các ngành, đoàn thể và Ủy ban nhân dân các quận huyện tổ chức triển khai các hoạt động phòng chống HIV/AIDS gắn với phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác.
Phối hợp với Sở kế hoạch và đầu tư, Sở tài chính, và các ngành liên quan, điều phối nguồn lực cho phòng chống , chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực của các tổ chức, cá nhân và sự tham gia của toàn xã hội vào công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, đề án, dự án chuyên môn y tế thuộc phạm vi, nhiệm vụ của ngành. Chỉ đạo thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật liên quan đến phòng chống, tổ chức thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về phòng chống HIV/AIDS.
Định kỳ tổng hợp đánh giá kết quả thực hiện chiến lược và kế hoạch hành động, báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố để kịp thời chỉ đạo bổ khuyết nhiệm vụ và các giải pháp phù hợp.
Tổ chức tổng kết giai đoạn, đề xuất bổ khuyết mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chiến lược giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến 2040.
- Sở Lao động thương binh Xã hội
Chủ trì phối hợp với Sở y tế tuyên truyền , dự phòng, chăm sóc điều trị HIV/AISDS tại các trung tâm giáo dục lao động xã hội, và cơ sở bảo trợ xã hội. Tổ chức duy trì có hiệu quả mô hình xã hội hóa điều trị nghiện, hỗ trợ triển khai các hoạt động phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Tăng cường rà soát quản lý đối tượng nghiện ma túy, mại dâm và người sau cai nghiện, người nghiện điều trị Methadone.
Triển khai thực hiện ké hoạch hành động vì trẻ em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV; duy trì có hiệu quả mô hình cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em nhiễm HIV/AIDS; chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra giám sát công tác phòng chống HIV cho người lao động, chú trọng dự phòng lây nhiễm HIV cho lao động nữ và nhóm di biến động dễ bị tổn thương.
Phối hợp với các ngành các đơn vị và Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đối với người bị nhiễm , người dễ bị lây nhiễm và trẻ em phụ nữ ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Công an thành phố
Chủ trì phối hợp với Sở y tế tổ chức tuyên truyền, dự phòng, chăm sóc và điều trị HIv/AIDS tại các trại giam, nhà tạm giữ, hỗ trợ triển khai các hoạt động can thiệp giảm tác hại cộng đồng, gắn kết chặt chẽ với các hoạt động phòng chống tội phạm, ma túy, mại dâm.
Chỉ đạo Công an các cấp tăng cường quản lý địa bàn, quản lý đối tượng nghiện ma túy, mại dâm; hỗ trợ đảm bảo an ninh trật tự đối với các cơ sở điều trị nghiện; xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến phòng chống HIV/AIDS
- Sở giáo dục và đào tạo
Chủ trì, chỉ đạo triển khai các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trong các trường học, xây dựng nội dung giáo dục phòng, chống HIV/AIDS với chống tệ nạn xã hội vào chương trình khóa và sinh hoạt ngoại khóa theo chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo.
Phối hợp với ngành Y tế Công an, triển khai công tác tuyên truyền bổ biến kiến thức phòng, chống HIV/AIDS và tệ nạn ma túy trong trường học. Hỗ trợ và đảm bảo quyền học tập của trẻ em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS chống kỳ thị và phân biệt đối xử.
- Sở văn hóa thể thao và du lịch:
Chủ trì, rà soát bổ sung các tiêu chí về công tác phòng chống HIV vào hương ước, quy ước và phòng trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa.
Phối hợp với ngành y tế tổ chức hoạt động tuyên truyền phòng chống HIV gắn với hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch.
- Sở thông tin và truyền thông:
Phối hợp với sở y tế hướng dẫn các cơ quan thông tin đại chúng và chỉ đạo hệ thống thông tin cơ sở đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động thông tin tuyên truyền giao dục phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn ma túy, mại dâm.
- Sở kế hoạch và đầu tư
Đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về công tác phòng chống HIV/AIDS vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn và hàng năm của thành phố, chỉ đạo giám sát việc lồng ghép các chỉ tiêu phòng, chống HIV/AISDS vào chương trình phát triển kinh tế xã hội của các ngành và Ủy ban nhân dân các cấp.
Phối hợp với sở Tài chính, sở Y tế về nguồn vốn và điều phối nguồn vốn đầu tư phát triển cho công tác phòng, chống HIV/AIDS vào chương trình phát triển kinh tế xã hội của các ngành và ủy ban nhân dân các cấp.
- Sở tài chính
Cân đối bố trí ngân sách hàng năm cho các chương trình dự án, đề án phòng chống được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định phù hợp với khả năng ngân sách và lộ trình cắt giảm dần nguồn tài trợ nước ngoài, đảm bảo đáp ứng nhu cầu hoạt động phòng chống HIV/AIDS.
Hướng dẫn kiểm tra giám sát việc quản lý sử dụng kinh phí các chương trình, dự án, đề án trong lĩnh vực phòng chống đảm bảo hiệu quả theo đúng quy định pháp luật hiện hành./
Phối hợp với sở y tế huy động các nguồn lực hỗ trợ khác cho công tác phòng chống HIV/AIDS, can thiệp giảm tác hại, hỗ trợ người nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Sở nội vụ
Chỉ đạo hướng dẫn kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách, chế độ đối với cán bộ, viên chức làm nhiệm vụ phòng chống theo quy định của Nhà nước.
- Phối hợp với sở Y tế đề xuất định mức biên chế cho các đơn vị làm nhiệm vụ phòng chống, giải pháp khuyến khích thu hút nguồn nhân lực cho lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS.
- Phối hợp với Sở y tế các ngành, đoàn thể, đơn vị tăng cường vận động các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài, người nước ngoài và Việt kiều tài trợ, hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật cho các tổ chức, đơn vị triển khai các hoạt động phòng chống HIV/AIDS.
- Bảo hiểm xã hội Hải Phòng:
Phối hợp với Sở y tế tuyên truyền, vận động người nhiễm HIV và vận động nguồn lực hỗ trợ người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước.
- Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng:
Ưu tiên phát sóng, đăng tải các nội dung thông điệp về phòng chống, thường xuyên thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về phòng chống và tệ nạn ma túy, mại dâm; chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng và thời lượng các chương trình.
- Các sở ban ngành khác
Có trách nhiệm chủ động xây dựng kế hoạch phù hợp với phạm vi, đặc thù của ngành, đơn vị và triển khai thực hiện công tác phòng chống theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Các tổ chức chính trị xã hội và đoàn thể:
Có trách nhiệm chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS; tăng cường tuyên truyền, giáo dục, vận động Đoàn viên, Hội viên tích cực, tự giác tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, tệ nạn mại dâm, ma túy
- Mặt trận tổ quốc thành phố:
Chủ trì phối hợp với Sở y tế, Sở văn hóa và Thể thao,Du lịch xây dựng chương trình phối hợp đẩy mạnh thực hiện phong trào”Toàn dân tham gia phòng chồng HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
Chỉ đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.
- Ủy ban nhân dân các quận huyện:
Căn cứ chiến lược và kế hoạch hành động của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, đặc điểm tình hình cụ thể và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương để xây dựng kế hoạch hành động phòng chóng HIV/AIDS và tổ chức triển khai thực hiện. Đồng thời chỉ đạo Ủy ban nhân dân các xã phường, thị trấn xây dựng kế hoạch và triển khai địa bàn.
Đưa các mục tiêu chỉ tiêu phòng chống HIV/AIDS vào các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Chủ động bổ sung nguồn lực địa phương và huy động xã hội hóa cho công tác phòng chống HIV/AIDS.
Chỉ đạo các cơ quan tổ chức của địa phương phối hợp chặt chẽ, triển khai đồng bộ, thường xuyên các hoạt động phòng chống ma túy, mại dâm. Chú trọng tuyên truyền giáo dục, phổ biến kiến thức, pháp luật, hỗ trợ triển khai các biện pháp can thiệp giảm tác hại, chăm sóc hỗ trợ người nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; quản lý đối tượng nghiện ma túy, mại dâm.
- Thứ hai, truyền thông nhằm xã hội hoá công tác phòng, chống AIDS
Xã hội hoá công tác phòng chống AIDS là quá trình làm thay đổi nhận thức và hành vi của mọi người về bệnh AIDS theo chiều hướng chấp nhận sử dụng các biện pháp an toàn,không lây nhiễm cho mình và người khác, tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống. Xã hội hoá công tác phòng chống và điều trị AIDS đồng thời là quá trình vận động các cá nhân, tổ chức chủ động tham gia huy động các nguồn lực của xã hội cùng với nguồn lực của Nhà nước, nhằm đạt được mục tiêu của chương trình phòng chống AIDS đã đề ra từng thời kỳ.
Theo giải pháp truyền thông xã hội hóa việc huy động các cá nhân, tổ chức tham gia công tác phòng chống và hiểu biết về AIDS, có nghĩa là tham gia vào các hoạt động: thực hiện phòng chống AIDS; cung cấp các thông tin về giáo dục, truyền thông, tư vấn về AIDS; cung cấp các biện pháp chăm sóc bệnh nhân AIDS và các phương tiện phòng chống AIDS; nghiên cứu khoa học; giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng chống AIDS
Xã hội hoá công tác phòng chống AIDS góp phần thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc của công tác phòng chống AIDS. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách gắn với phát triển, tạo cơ sở pháp lý và động lực thúc đẩy quá trình xã hội hoá công tác phòng chống AIDS.
Tăng cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho công tác phòng chống AIDS, khuyến khích và huy động sự tham gia của khu vực y tế tư nhân, hỗ trợ khu vực này về các mặt pháp lý và chuyên môn, tạo điều kiện cho các cơ sở y tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ về chăm sóc, điều trị phòng chống HIV/AIDS.
Nâng cao hiệu quả sự tham gia của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức tư nhân và tổ chức xã hội vào chương trình hiểu biết về AIDS trên cơ sở phân công, phân cấp, có định hướng và quy chế phối hợp rõ ràng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế – xã hội của thành phố Hải Phòng hiện nay, thực hiện xã hội hoá công tác phòng chống AIDS đã đem lại những lợi ích căn bản sau: Một là, xã hội hoá giúp giảm bớt khối lượng công việc và chia sẻ gánh nặng ngân sách của thành phố trong công tác phòng chống điều trị AIDS. Hai là, khi có nhiều người tham gia thì càng có nhiều ý tưởng, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật tốt hơn và càng có nhiều hiệu quả hơn trong công tác. Ba là, phát huy được khả năng, tiềm lực, tính tích cực, chủ động của người dân trong việc tham gia, tổ chức thực hiện công việc chung của cộng đồng và xã hội
- Thứ ba, phát triển hoạt động truyền thông xã hội, cổ động rộng rãi với mọi hình thức
Hoạt động truyền thông trong marketing (Marketing Communication Mix) được phát triển dựa trên các mục tiêu cơ bản của hoạt động là nhằm tuyên truyền thông tin, định vị sản phẩm hay gia tăng doanh thu. Các nhà quản trị hoạt động Marketing phải phát triển các chiến lược truyền thông để đạt tới các mục tiêu đó. Có hai loại chiến lược truyền thông chính là chiến lược đẩy và chiến lược kéo:
Chiến lược đẩy là chiến lược truyền thông tác động đến các thành phần trung gian trong các kênh phân phối như nhà phân phối, người bán sỉ, người bán lẻ để đẩy sản phẩm đi qua các kênh phân phối đến với người tiêu dùng.
Chiến lược kéo là chiến lược truyền thông tác động đến người tiêu dùng để tạo nên nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, từ đó, sẽ được đáp ứng cho nhu cầu của người tiêu dùng thông qua sự cung cấp từ các kênh phân phối như người bán lẻ, người bán buôn, nhà phân phối.
Dựa trên chiến lược được xác định, các nhà quản trị hoạt động phải chọn lựa các phương tiện cổ động để thực hiện một cách riêng lẻ hay phối hợp giữa các phương tiện. Nội dung truyền thông thể hiện trên các phương tiện cổ động được xây dựng trên nguyên tắc “A.I.D.C.A”. Nguyên tắc này gồm 5 bước:
- Thu hút sự chú ý (Attention) Tạo ra sự thích thú (Interest) Kích hoạt nhu cầu (Desire) Thuyết phục (Conviction)
- Thúc đẩy hành vi mua sản phẩm (Action).
Theo thực tế và dựa vào đặc điểm của hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng; Giải pháp phát triển hoạt động truyền thông, cổ động nên sử dụng chiến lược kéo vì chiến lược này thích hợp cho loại hàng tiêu dùng nhỏ, lẻ như sản phẩm phòng chống lây nhiễm HIV hoặc thuốc ARV nếu được bán rộng rãi theo đơn của Bác sĩ. Mặt khác, mục tiêu hoạt động của Marketing xã hội là tác động đến hành vi của đối tượng mục tiêu là những người sử dụng sản phẩm, nên chiến lược kéo sẽ đáp ứng mục tiêu này cao hơn.
Bên cạnh đó, theo giải pháp ngoài các phương tiện cổ động đã và đang được sử dụng, hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng nên phát triển thêm các phương tiện cổ động sau:
- Quảng cáo
Quảng cáo hay còn gọi là quảng cáo trên ấn phẩm, là cách tiếp cận khách hàng rộng rãi nhưng ít tốn kém nhất. Các nhà quản trị hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng cần liệt kê một danh sách các ấn phẩm có thể sử dụng để quảng cáo sản phẩm, các ấn phẩm này có thể là nhật báo, tuần báo, tạp chí hay các ấn phẩm sức khoẻ đời sống, được phát hành tại địa phương hoặc phát hành tại nơi khác nhưng có lưu hành tại địa phương. Yêu cầu từng ấn phẩm cung cấp các thông tin chi tiết về giá cả quảng cáo, các chủ đề, đặc điểm độc giả và số lượng phát hành. Các thông tin chi tiết mà ấn phẩm cung cấp sẽ giúp các nhà quản trị hoạt động quyết định thời điểm tốt nhất để đăng quảng cáo. Thời điểm tốt nhất thường là những thời điểm mà ấn phẩm đó thực hiện chủ đề liên quan đến phòng chống ma túy, mại dâm, quan hệ tình dục, giới tính, tình yêu. Hãy đặt tựa đề tốt nhất cho nội dung quảng cáo sản phẩm và hướng đến khách hàng Mục tiêu là nam, nữ có độ tuổi từ 15 – 49 tuổi.
Đi liền với tựa đề là nội dung quảng cáo, những yếu tố cấu thành nên nội dung quảng cáo như: văn phong, giọng điệu, màu sắc, bảng biểu, hình ảnh minh họa,… cần phải được chuẩn bị cẩn thận căn cứ trên đặc điểm của đối tượng mục tiêu. Nếu cần thiết, hãy nghiên cứu các quảng cáo hay của đối thủ cạnh tranh để học tập nghệ thuật quảng cáo sản phẩm, và quyết định sử dụng cách thức quảng cáo tương tự, hay có bổ sung, sáng tạo hơn. Nội dung quảng cáo cần tạo ra một gợi ý rõ ràng, đơn giản, tránh những ý tưởng phức tạp đòi hỏi người xem phải suy nghĩ vất vả. Tất cả điều trên nhằm tạo ra một quảng cáo thuyết phục, có thể dẫn đến hành vi mua và sử dụng sản phẩm của đối tượng mục tiêu.
Nên có bước kiểm tra trước, khi chuẩn bị tiến hành phát quảng cáo. Hãy tham khảo ý kiến của nhân viên nội bộ, đối tượng mục tiêu hoặc khách hàng tiềm năng về suy nghĩ của họ đối với quảng cáo chuẩn bị phát. Hỏi xem họ có thấy tựa đề quảng cáo có thu hút không? Hình thức quảng cáo có hấp dẫn không? Lời quảng cáo có dễ đọc, dễ hiểu không? Nội dung quảng cáo có thuyết phục không? Để việc nhận xét được khách quan hơn, có thể cho họ lựa chọn giữa hai quảng cáo chính thức và dự phòng, hoặc một quảng cáo của đối thủ cạnh tranh. Từ đó có những điều chỉnh để quảng cáo hoàn thiện hơn trước khi chính thức phát. Sau khi phát quảng cáo, hãy đánh giá hiệu quả của chúng bằng cách so sánh số lượng giao dịch mua bán sản phẩm, tỷ lệ gia tăng lượng người hỏi về sản phẩm, doanh số bán hàng, … Việc đánh giá kết quả có thể thực hiện ngay sau khi quảng cáo được đăng.
- Quảng cáo trên truyền thanh
Quảng cáo trên truyền thanh rất thích hợp với dân cư sống tại vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa vì người dân nông thôn thích đài vì tính cơ động dễ sử dụng của nó, họ có thể nghe đài mọi lúc, mọi nơi – buổi tối, ban ngày, ở nhà, ngoài đồng ruộng, trong vườn cây, trên sông nước – vì vậy, đối với hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS tại Hải Phòng, đây là một phương tiện truyền thông để quảng cáo sản phẩm một cách có hiệu quả. Để những đoạn quảng cáo trên sóng radio thành công, cách thể hiện nội dung quảng cáo phải thuyết phục được thính giả lắng nghe. Hiệu ứng âm thanh, điệu nhạc, giọng nói, phong cách trò chuyện trực tiếp với thính giả đều là những yếu tố giúp tạo nên một quảng cáo hay. Do đó, cần nghiên cứu chuẩn bị nhiều cho quảng cáo trên radio. Ngoài việc mua thời lượng phát sóng, việc dự trù những chi phí phát sinh là rất cần thiết, cần phải trả tiền cho người viết lời quảng cáo, cũng như cho diễn viên đọc lời quảng cáo. cần phải trả tiền cho nhà soạn nhạc, nhạc sĩ và ca sĩ. Nếu mượn bài nhạc đã có sẵn, cần xin phép và trả tiền bản quyền cho thời lượng phát sóng.
Tương tự như quảng cáo trên báo chí,, quảng cáo trên đài cũng cần có bước kiểm tra trước và sau phát sóng. Hãy thực hiện việc kiểm tra này tương tự như cách thức kiểm tra đối với quảng cáo ấn loát. Họ có thích không? quảng cáo có thuyết phục được họ mua và sử dụng sản phẩm không? Xây dựng nội dung quảng cáo trên đài cần nhớ rằng quảng cáo trên đài chỉ nghe mà không nhìn thấy; thời gian tồn tại ngắn hơn quảng cáo ấn loát; sản phẩm chỉ có thể mô tả, không thể trưng bày; thính giả phải ghi lại những thông tin cần thiết. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm phòng tránh lây nhiễm HIV như bao cao su, bơm kim tiêm sạch thì những hạn chế này không gây nhiều ảnh hưởng bất lợi và đã được triển khai trong các chương trình về kế hoạch hóa gia đình.
- Quáng cáo trên Internet:
Đã rất phổ biến, Internet đã khẳng định được ưu thế vượt trội của nó và ngày càng trở thành một phương tiện truyền thông hữu hiệu, không thể phản bác. Mọi tầng lớp dân cư từ nông thôn đến thành thị đều có thể tiếp cận dịch vụ này – tại nhà; nơi học tập, làm việc; điểm khai thác dịch vụ nơi công cộng;… để thu và phát mọi loại thông tin về mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Việc khai thác Internet như một phương tiện truyền thông, cổ động nên bắt đầu từ việc xây dựng một trang Web, Target market, Fan page trên Facebook…. với tên miền rõ ràng, dễ ghi nhớ. Do giao diện của trang web là điểm đầu tiên tiếp xúc với khách hàng nên cần phải được đặc biệt hấp dẫn. Việc này nên dành cho các chuyên gia thực hiện. Những chuyên gia thiết kế trang Web, Target market, Fan page biết những bí quyết xây dựng trang Web, Target market, Fan page.. phù hợp với hình ảnh của tổ chức. Trang Web, Target market, Fan page.. cần phải được đảm bảo rằng nó sẽ xuất hiện khi khách hàng sử dụng công cụ tìm kiếm những sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực hoạt động của tổ chức, đồng thời tạo kết nối với những trang Web khác. Hãy biến trang Web, Target market, Fan page.. thành một công cụ quảng cáo và loại hình quảng cáo có khả năng tương tác, có thể sử dụng biểu ngữ quảng cáo hoặc thiết kế các quảng cáo động hoặc tĩnh, có thể hiện ra trong những trang web tìm kiếm, và khi nhấp chuột vào, nó sẽ dẫn người xem trực tiếp đến trang Web, Target market, Fan page…
Việc xây dựng trang Web, Target market, Fan page, cho hoạt động Marketing xã hội sản phẩm phòng tránh và thuốc ARV tại Hải Phòng cần lưu ý đến những điểm sau:
- Trang Web, Target market, Fan page …nên được thiết kế nhằm mục đích phản ánh hình ảnh hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV và các sản phẩm phòng chống.
- Trang Web, Target market, Fan page..phải được truy cập dễ dàng.
- Hiển thị của trang Web, Target market, Fan page.. cần đẹp, hấp dẫn nhưng phải đơn giản, không mất nhiều thời gian để tải xuống.
- Trang Web, Target market, Fan page.. nên được thiết kế để có thể quay lại trang chủ đầu tiên chỉ bằng một cái nhấp chuột.
- Cung cấp một đường dẫn giúp khách hàng và những người quan tâm liên hệ dễ dàng bằng thư điện tử.
- Trang Web, Target market, Fan page ..nên được đăng ký trên danh bạ địa chỉ mạng để có thể phổ biến rộng rãi.
- Trang Web, Target market, Fan page, Zalo.. phải luôn được cập nhật thông tin, duy trì sao cho luôn mới mẻ và phù hợp.
Phương tiện truyền thông Internet sẽ ngày càng phát triển cùng với xu thế hội nhập và phát triển của đất nước. Hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV và các sản phẩm tiện phòng chống AIDAS tại Hải Phòng cần phát triển loại hình này, không chỉ cho lĩnh vực quảng cáo sản phẩm, mà cần xem nó như một bộ phận cấu thành của chiến lược hoạt động trên diện rộng.
Việc làm cho các chương trình truyền thông của hoạt động Marketing xã hội phải xuyên suốt là cần phải nhằm mục tiêu quảng bá sản phẩm và lợi ích của chúng, hơn là truyền bá tư tưởng và lý lẽ. Cụ thể, nếu sản phẩm thuốc ARV muốn bán rộng rãi phải được quảng bá như các sản phẩm tiêu dùng khác, với những lợi ích cụ thể, rõ ràng cho người sử dụng, chứ không phải là một sản phẩm gì đó được khuyên dùng vì lợi ích xã hội chung chung. Phải khơi gợi đúng các lợi ích của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm như:“Phụ nữ mang thai nhiễm HIV có thể sinh ra trẻ không nhiễm HIV khi được điều trị sớm bằng thuốc ARV”. Tránh các khẩu hiệu chung chung hay giống như là một lời dạy, lời khuyên mà không đưa ra chút lợi ích nào cho người tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó, việc phát triển hoạt động truyền thông phải dựa trên việc xác lập mục tiêu rõ ràng, cụ thể, định lượng được, có thời hạn rõ ràng để đạt được kết quả mong muốn, cần tránh những mục tiêu mơ hồ. Những nhà quản trị hoạt động Marketing xã hội sản phẩm ARV tại Hải Phòng cần phải đặt ra những mục tiêu định lượng, được như vậy thì mới xác định hiệu quả của hoạt động truyền thông, từ đó, có thể phân bố ngân sách vào hoạt động truyền thông một cách hiệu quả nhất.
Một công thức đơn giản sau đây có thể được áp dụng để dự báo hiệu quả của một chiến dịch truyền thông. Công thức này dựa trên Phương pháp tỉ số chuỗi (Chain Ratio Method) là phương pháp được tiến hành trên cơ sở nhân một con số căn bản với một chuỗi bách phân nối tiếp nhau để ước lượng tổng nhu cầu của thị trường từ các con số tiềm năng. Ví dụ sau đây sẽ minh hoạ công thức nói trên:
Giả sử tổng chi phí cho một chiến dịch truyền thông sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng trong 3 năm tới là 10.000 nghìn đồng. Chi phí truyền thông đã được chiết tính trong giá thành một hộp thuốc ARV là 1000 nghìn đồng. Các giả thiết còn lại được ước lượng dựa trên các thông tin chi tiết về đặc điểm độc giả, khán thính giả, số lượng, thời lượng phát hành do cơ quan thực hiện dịch vụ truyền thông cung cấp. Các giả thiết cũng đồng thời dựa trên đặc điểm điều kiện tự nhiền, điều kiện kinh tế – xã hội của Hải Phòng. Khi tính toán, nếu sau một chiến dịch truyền thông, doanh sốtăng trưởng dự báo cáo hơn con số điểm hoà vốn, thì có thể xem chiến dịch truyền thông thành công. Ngược lại, thì cần phải rà soát lai các yếu tố chi phí, cũng như phương tiện và phương pháp truyền thông. Cách tính hiệu quả chí phí cho chiến dịch truyền thông nói trên được thể hiện ở bảng sau
Ví dụ về phương pháp dự báo hiệu quả một chiến dịch truyền thông sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng.
(A) Tổng chi phí cho chiến dịch truyền thông (đồng) | 10.000.000 |
(B) Chi phí truyền thông được chiết tính trong giá thành một hộp thuốc ARV (đồng) | 1.000 |
(C) Doanh số hộp thuốc cần thiết để hoà vốn (hộp): (A)/(B) | 10.000 |
(D) Dân số trung bình Hải Phòng (người): 1.667.156.000
(E) Tỉ số người đọc, nghe, xem chương trình truyền thông sản x 0,050 sản phẩm ARV (người)
(G) Tỉ số người đọc, nghe, xem đủ điều kiện và có quan tâm đến x 0,35 KHHGĐ (người)
(H) Tỉ số người đọc, nghe, xem đủ điều kiện và muốn thực hiện x 0,10 KHHGĐ sau khi được truyền thông (người)
(I) Tỉ số kỳ vọng người đọc, nghe, xem đủ điều kiện, muốn thực hiện x 0,03 và lựa chọn thuốc ARV làm phương tiện điều trị AIDS chiến dịch truyền thông (người)
(K) Dự báo số CYP tăng thêm của thuốc ARV sau chiến dịch truyền thông 875(CYP): (D) x (E) x (G) x (H) x (I)
(L) Dự báo doanh số thuốc ARV tăng thêm trong năm (hộp):
(K) x 14 hộp |
12.250 |
Theo tính toán của ví dụ thì kết quả dự báo ở bảng tính trên, doanh số tăng trưởng dự báo thuốc ARV trong năm sau chiến dịch truyền thông là 12.250 hộp, cao hơn doanh số 10.000 hộp cần thiết để hoà vốn. Như vậy, chiến dịch truyền thông này sẽ có hiệu quả và nên được tiến hành. Trên thực tế, các nhà quản trị hoạt động nên dành một khoảng tăng trưởng cao hơn điểm hoà vốn dự phòng vì doanh số tăng trưởng chỉ là dự báo, chứ không phải là một con số chắc chắn đảm bảo thành công.
Hoạt động truyền thông, cổ động là một thành phần quan trọng trong hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV và các sản phẩm phòng chống khác tại Hải Phòng. Một chiến dich truyền thông tốt sẽ giúp quảng bá sản phẩm, gia tăng doanh số, đồng thời đem lại danh tiếng; tốt cho tổ chức. Cụ thể:
Quảng cáo ấn loát sẽ có thể tiếp cận đối tượng mục tiêu tốt nhất, bởi vì mọi ấn phẩm đều có đối tượng độc giả cụ thể.
Quảng cáo trên truyền thanh dễ lĩnh hội, phù hợp với đối tượng dân cư nông thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa.
Đối với Internet, ngoài việc sử dụng trang web như một công cụ quảng cáo, trang web còn có thể sử dụng cho việc cung cấp thông tin về sản phẩm, tư vấn các vấn đề phơi nhiễm HIV, cách điều trị, phòng tránh và hiểu về AIDS để phòng tránh, thu thập thông tin phản hồi, v.v… Thêm nữa, trang Web còn giúp quảng bá hoạt động, trình bày kết quả và hiệu quả hoạt động, tìm kiếm đối tác, huy động các nguồn lực, tìm kiếm nguồn tài trợ, v.v… trong và ngoài nước.
- Giải pháp Truyền thông xã hội và hiểu biết về bệnh AIDS nếu được thực hiện
- Lợi ích đối khách hàng (người bệnh nhiếm vi rút HIV)
Người nhiễm vi rút HIV biết cách sử dụng các dịch vụ y tế liên quan đến HIV/AIDS : Thuốc (bao gồm cả thuốc ARV), hóa chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật; xét nghiệm HIV đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai và khi sinh con theo yêu cầu chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh nếu không được các nguồn kinh phí khác chi trả; kỹ thuật đình chỉ thai nghén ở phụ nữ mang thai nhiễm HIV; khám bệnh, xét nghiệm HIV, thuốc ARV và các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh HIV/AIDS khác đối với trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV; xét nghiệm HIV theo yêu cầu chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh (trừ chi phí xét nghiệm HIV đối với người hiến bộ phận cơ thể người, người cho tinh trùng, noãn); xét nghiệm HIV, điều trị bằng thuốc kháng HIV đối với người phơi nhiễm với HIV, người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro (trừ các trường hợp tai nạn rủi ro nghề nghiệp đã được ngân sách nhà nước chi trả); điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội.
Một lợi ích lớn nữa đối với người nhiễm HIV (chủ yếu là người nghèo, thu nhập không ổn định) được bình đẳng về điều trị và không bị kỳ thị, phân biệt đối xử. Song song với đó, người nhiễm HIV còn có những e ngại khi đi khám, chữa bệnh phải đưa giấy tờ chứng minh nhân thân sợ bị lộ danh tính, đặc biệt là người đang làm trong cơ quan nhà nước, công ty, xí nghiệp, lực lượng vũ trang. Mặt khác người nhiễm HIV không còn mặc cảm, cố gắng làm ăn, buôn bán, sống có ích cho gia đình và xã hội
- Lợi ích đối với xã hôi, Chính phủ, Nhà nước
Giải pháp truyền thông xã hội hiểu biết đối với AIDS đã làm cho việc ngăn chặn và đẩy lùi một đại dịch nguy hiểm. Bệnh AIDS không là mối mối hiểm họa đối với tính mạng, sức khỏe con người và tương lai nòi giống của người Việt Nam chúng ta, Không gây tác hại trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, cơ cấu dân số, sức khỏe cộng đồng, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.
- Lợi ích đối với các Trung tâm y tế
Khi xã hội hiểu biết đối với AIDS sẽ làm tăng khả năng phòng tránh và giảm tỷ lệ lây nhiễm vi rút HIV. Các trung tâm y tế, bệnh viện, bảo hiểm y tế sẽ tập trung nhân lực tốt hơn giải quyết các vấn đề về dịch bệnh khác đang phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu
3.3. Kết luận chương 3
Từ việc phân tích đánh giá thực trạng hoạt động Marketing xã hội đối với phòng chống và điều trị HIV/AIDS và đưa đến 03 giải pháp trong hoạt động ngăn chặn bệnh AIDS giai đoạn 2025-2030.
Quan điểm xây dựng các giải pháp dựa trên cơ sở quán triệt đường lối chung của Đảng và chính sách của Nhà nước trong công tác phòng chống HIV/AIDS. Góp phần bảo vệ Tổ quốc khi đứng trước thách thức an ninh phi truyền thống như các thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường, động đất, sóng thần, biến đổi khí hậu, dịch bệnh…, trực tiếp đe dọa sự mất còn của đất nước và chế độ, nếu không được đấu tranh ngăn chặn, khắc phục kịp thời.
Mục tiêu của các giải pháp là nhằm hỗ trợ việc thực hiện Chiến lược phòng chống AIDS tại Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung, giai đoạn năm 2025 – 2030, đồng thời hỗ trợ việc thực hiện Chiến lược và định hướng đến năm 2040 nhằm chấm dứt dịch bệnh AIDS tại Việt Nam cũng như toàn thế giới. Các giải pháp được chia làm 3 nhóm gồm:
Nhóm giải pháp về cơ sở hạ tầng, chính sách chế độ nhằm hoàn thiện hỗ trợ sản xuất thuốc ARV tại Hải Phòng, Việt Nam.
Nhóm giải pháp huy động rộng rãi mọi thành phần, đối tác tham gia vào hoạt động Marketing xã hội nhằm động viên mọi nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động Marketing xã hội trong hoạt động ngăn chặn bệnh AIDS.
Nhóm giải pháp về truyền thông xã hội nhằm phát huy hết các thế mạnh xã hội đối với công tác phòng, chống AIDS. Một trong những hình thức quan trọng nhất và hiệu quả nhất đó là truyền thông trực tiếp đến các bệnh nhân AIDS để những người trong cộng đồng, gia đình nơi bệnh nhận AIDS có thể lây nhiễm như thế nào, cách điều trị đối với từng giai đoạn của bệnh AIDS và có thể điều trị được bệnh AIDS và chấm dứt dịch bệnh AIDS 2040 theo tuyên bố chính trị của Liên Hợp Quốc năm 2024 về kết thúc dịch AIDS, khẳng định toàn thế giới “.. dồn tổng lực để đẩy nhanh tiến độ phòng, chống HIV và kết thúc dịch AIDS vào năm 2040 sẽ dẫn dắt toàn thế giới trong các nỗ lực nhằm củng cố mối liên kết giữa việc giải quyết các vấn đề về y tế, phát triển, bất công, bất bình đẳng, nghèo đói và xung đột” ( nguồn Báo điện tử tiếng nói Việt Nam)
Truyền thông xã hội còn hướng tới mục tiêu khuyến khích các nhà sản xuất thuốc ARV có thể bán sản phẩm đến các bệnh nhân HIV với giá thành thấp nhất, phục vụ lợi ích xã hội và kinh doanh một cách bền vững, hiệu quả theo phương án truyền thông của Marketing xã hội phù hợp kinh tế thị trường.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS tại Hải Phòng đến năm 2030 nếu được thực hiện, sẽ góp phần phát huy các mặt tích cực của hoạt động, đồng thời khắc phục các mặt han chế còn tồn tại. Ngoài ra, thành quả đạt được từ các giải pháp có thể được nhân rộng để áp dụng tại nhiều địa phương khác, cũng như áp dụng đối với các nước đang phát triển đang đối mặt với dịch AIDS.
Đặc biệt trong bối cảnh không còn tài trợ vào năm 2025, người nhiễm HIV/AIDS nhiều khả năng phải tự chi trả toàn bộ chi phí chữa bệnh thì việc hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội là giải pháp mang tính khả thi nhất nhằm đảm bảo việc điều trị bằng thuốc ARV được ổn định, bền vững cho những người nhiễm HIV tại các Trung tâm y tế, cũng như thực hiện khám chữa bệnh tại tuyến xã, các Trại cải tạo, Trung tâm cai nghiện …hoặc thuộc đối tượng người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi kể cả đối với những đối tượng đang chấp hành phạt tù bị nhiễm HIV… ít tốn kém nhất. Nếu thực hiện được cả giải pháp ngắn hạn và dài hạn trong việc duy trì nguồn thuốc ARV ổn định, mục tiêu xoá bỏ HIV/AIDS vào năm 2040 sắp tới mới có thể thực hiện được và Việt Nam có thể trở thành một trong những quốc gia đầu tiên tại Đông Nam Á chấm dứt đại dịch HIV/AIDS.
Luận văn “Hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc điều trị HIV/AIDS tại Hải Phòng đến năm 2030 ” có thể được xem như một nghiên cứu đầu tiên về Marketing xã hội tại Hải Phòng. Mặc dù “Marketing” đã và đang được phổ biến rộng rãi tại Việt Nam kể từ khi tham gia hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu và Marketing xã hội là một bộ môn khoa học, nghệ thuật trong quản trị kinh doanh. Đối với khái niệm “Marketing xã hội ” một vấn đề khá mới, chưa được quan tâm và có những nghiên cứu đúng mức. Vì vậy, đề tài của luận văn có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu khoa học và thể chế xã hội hiện tại.
Phương pháp tiếp cận chủ đề nghiên cứu của luận án là phương pháp quy nạp, đi từ vấn đề đại dịch AIDS (căn bệnh của thế kỷ) đến sản phẩm thuốc ARV với việc áp dụng các nguyên lý và kỹ thuật Marketing để đưa sản phẩm thuốc ARV đến với các bệnh nhân nhiễm HIV, không phân biệt giới tính, độ tuổi hay hoàn cảnh sống. Những thực tế mà luận văn thu thập được, mặc dù bị giới hạn vì tính chất đặc thù của sản phẩm, danh tính, hoàn cảnh của người nhiễm HIV. Nhưng những thông tin này có thể là những thông tin có giá trị tham khảo cho các hoạt động Marketing xã hội khác. Bên cạnh đó, luận văn đồng thời đã giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn sau:
Hệ thống hoá cơ sở lý thuyết, các bằng chứng nghiên cứu và thực tiễn hoạt động về Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng và ở Việt Nam.
Quán triệt và vận dụng Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh phòng chống AIDS, và chấm dứt dịch bệnh AIDS tại Việt Nam đến năm 2040.
Đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing xã hội sản phẩm thuốc ARV tại Hải Phòng đến năm 2030 dựa trên việc xác định các mục tiêu và quan điểm xây dựng giải pháp.
Đề xuất các khuyến nghị đối với Nhà nước và thành phố Hải Phòng để các giải pháp có điều kiện thực hiện một cách khả thi và hiệu quả.
Kết quả sau cùng có giá trị thực tiễn cao nhất của đề tài là thông qua hoạt động Marketing xã hội góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người dân, từng gia đình và sức khỏe cộng đồng của toàn xã hội, góp phần xây dựng nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới.
Viêt Nam 30 năm đổi mới đã quảng bá rộng rãi hình ảnh con người, đất nước tới các bạn bè trên toàn thế giới. Du du lịch ngày càng phát triển, mang lại nhiều lợi ích cho các Quốc gia, người dân. Theo Tổng Cục du lịch Việt Nam, tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam, bao gồm cả đóng góp trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP). Trong đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6% GDP)hay nói cách khách Du lịch là ngành công nghiệp không xả thải ra môi trường, tăng khả năng cạnh tranh, tăng tư duy Dịch vụ của các ngành kết hợp theo ngành Du lịch như Vận tải, Ngân hàng, khách sạn, Văn hóa, Thông tin, các cơ sở lưu trú… Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đạt được cũng có những mặt tồn tại như xu hướng du nhập văn hóa nước ngoài không chon lọc, tội phạm về ma túy, mại dâm cũng gia tăng, đặc biệt nguy hiểm là loại tội phạm tình dục trẻ em và lữ hành.
Trong các hoạt động toàn cầu hóa, sự dịch chuyển của con người đi lại giữa các nước trên thế giới để du lịch, đầu tư, xuất khẩu lao động…là điều tất yếu. Nó cũng kéo theo nguy cơ làm gia tăng lây nhiễm các dịch bệnh từ các Châu lục, nước ngoài vào Việt Nam như các đại dịch rất nguy hiểm HIV/AIDS, Ê bô la, Sars, cúm gia cầm và gần đây là Zika dẫn đến việc kiểm soát các dịch bệnh khi vi rút này đến Viêt Nam rất khó khăn và tốn kém kinh phí, nhân lực. Các dịch vụ du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch, nhất là các khách sạn, nhà nghỉ phải thường xuyên duy trì chất lượng dịch vụ, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho, thái độ ứng xử với khách lễ phép, thân thiện, duy trì đồng bộ về cơ sở vật chất, vệ sinh môi trường, để uy tín và hình ảnh của du lịch Việt Nam thì đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp cũng phải được tập huấn về các loại dịch bệnh nguy hiểm để phòng tránh và hướng dẫn khách hàng đến các cơ sở Y tế có đầy đủ phương tiện và phương án ứng phó là rất cần thiết như đối với Trung tâm du lịch. Các cơ sở lưu trú có thể đặt một tủ thuốc nhỏ các phương tiện phòng tránh cho khách lưu trú như bao cao su, khẩu trang, găng tay y tế… để khách du lịch lưu trú khi có nhu cầu có thể thực hiện bảo vệ mình nhanh, thuận tiện nhất.
Việt Nam có nền y học cổ truyền lâu đời về chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có thể đáp ứng nhu cầu du lịch kết chữa bệnh của các du khách nước ngoài, trong nước vào Việt Nam như: Châm cứu, bấm huyệt, dao spa, dao mama, … hoặc du khách trong nước có nhu cầu ra nước ngoài du lịch chữa bệnh. Do đó trong Bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch quốc gia nên quy định đối với các Công ty Lữ hành, các Cơ sở lưu trú du lịch cũng phải bổ sung các chuyên gia Y tế ngoài việc nắm thông tin về dịch bệnh toàn cầu cũng phải có chuyên môn đáp ứng các loại hình du lịch chữa bệnh để giới thiệu và tăng sức mạnh cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong khu vực và quốc tế theo hướng thị trường du lịch chữa bệnh này.
Những khuyến nghị thực hiện kết quả nghiên cứu của đề tài Đối với Chính phủ và các Bộ, Cơ quan ngang Bộ Ban hành cơ chế lồng ghép hoạt động Marketing xã hội với công tác phòng chống ma túy, mại dâm, giáo dục học đường, y tế cộng đồng.
Công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS và hoạt động Marketing xã hội sản phẩm ARV đều có mục tiêu chung là giảm sự gia tăng lây nhiễm của dịch bệnh này. Trên thực tế, cũng đã có nghiên cứu, vận dụng và phối hợp với các dự án Marketing xã hội để triển khai các hoạt động trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, ngoại trừ dự án Tiếp thị xã hội do Ủy ban phòng chống AIDS thành lập, các hoạt động Marketing xã hội khác, trong đó có hoạt động Marketing xã hội do Tổ chức UNAID thực hiện, thì cơ chế hoạt động giữa các bên mới chỉ dừng ở mức phối hợp, chưa chặt chẽ, chưa phát huy được hết các thế mạnh của nhau để tăng cường hiệu quả hoạt động.
Khuyến nghị đối với Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm nghiên cứu ban hành cơ chế lồng ghép hoạt động Marketing xã hội với công tác phòng chống AIDS, trên cơ sở chính thức thành lập bộ phận Marketing xã hội dưới hình thức phòng, ban trong từng uỷ ban từ cấp tỉnh, thành phố đến cấp quận, huyện hoặc thị xã. Các bộ phận Marketing xã hội này nên do một chủ nhiệm uỷ ban phụ trách, đảm nhiệm việc điều phối các hoạt động Marketing xã hội tại địa bàn mình phụ trách. Có như thế, công tác phòng, chống AIDS và hoạt động Marketing xã hội mới phát huy được hết thế mạnh, cùng có trách nhiệm, cùng tồn tại và đạt được mục tiêu chung.
Xã hội hoá về tài chính, sản xuất thuốc ARV dùng các nguồn lực xã hội đầu tư cho công tác phòng chống HIV/AIDS cũng như cho hoạt động Marketing xã hội nhằm giảm bớt gánh nặng Ngân sách Nhà nước. Chuyển kinh phí tập trung cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng trong việc thụ hưởng các tiện ích và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng giữa người dân ở khu vực có thu nhập cao và thu nhập thấp.
Khuyến nghị Chính phủ và các Bộ, Ngành có liên quan cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ hơn nữa, nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích xã hội hoá công tác phòng chống AIDS, sản xuất thuốc ARV và hoạt động Marketing xã hội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi với cơ chế khen thưởng, quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng để khuyến khích sự tham gia của lực lượng y dược tư nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể, các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ, v.v… tham gia vào công tác sản xuất thuốc ARV. Hoạt động Marketing xã hội phải được thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đảm bảo bền vững và cạnh tranh lành mạnh theo quy luật của thị trường.
Bên cạnh đó, Marketing xã hội cũng nên được đưa vào nghiên cứu và giảng dạy tại Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn nhằm tạo điều kiện nghiên cứu và phát triển một cách tiếp cận mới trong việc ứng dụng các giải pháp kinh tế để giải quyết những vấn đề xã hội phức tạp ở các nước đang phát triển và phát triển, góp phần thúc đẩy năng lực hội nhập quốc tế theo hướng thị trường toàn cầu.
- Khuyến nghị đối với thành phố Hải Phòng
Nguồn tài trợ cho mua thuốc ARV đang bị cắt giảm và sẽ kết thúc hoàn toàn vào cuối năm 2025. Đây thực sự là một thách thức vì nếu không có nguồn kinh phí thay thế khoản tài trợ, người nhiễm HIV không được điều trị liên tục thì có thể dẫn đến tử vong sớm hay xuất hiện virus kháng thuốc, khiến bệnh càng nghiêm trọng hơn, đe doạ không chỉ đến tính mạng người bệnh mà còn là mối nguy cơ lây nhiễm cho cả cộng đồng. Do vậy trước mắt Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng đề xuất Chính phủ bãi bỏ theo “lộ trình” chế độ cấp phát miễn phí thuốc ARV và sớm ban hành Quy chế trợ giá thuốc ARV thay cho Quy chế cấp phát miễn phí thuốc ARV để hỗ trợ người nghèo, vùng sâu vùng xa, người có hoàn cảnh đang bị giam giữ, cai nghiện..có điều kiện mua và sử dụng thuốc ARV liên tục.
Chính sách cấp phát miễn phí thuốc ARV bao cấp tại Hải Phòng đang có nhiều bất cập, tạo ra sự bất bình đẳng “kẻ bán, người cho” trong thị trường thuốc điều trị HIV và không thể nâng cao năng lực quản lý cũng như phát sinh những tiêu cực có thể có trong quá trình phân phối miễn phí. Mặt khác, số thuốc ARV bao cấp này còn là một gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, trong khi giá trị của sự hỗ trợ này về mặt tài chính đối với từng người dân bị nhiễm HIV đang điều trị bằng thuốc ARV chưa phủ đều và là một con số không đáng kể.
Tăng cường đầu tư hạ tầng nông thôn, rút ngắn thời gian đầu tư theo Bộ tiêu chí Chuẩn nông thôn mới như: Giao thông nông thôn, nhà văn hóa, trạm y tế, trường học ..vô cùng quan trọng trong việc cải thiện trình độ phát triển, nâng cao dân trí, cuộc sống người dân nông thôn cũng như cho hoạt động Marketing xã hội phân phối sản phẩm thuốc ARV đến vùng sâu, vùng xa, nông thôn nơi chiếm tới 51,3 % tổng số người dân Hải Phòng đang sinh sống.
Cuối cùng thay cho lời kết xin trích tiêu đề một bài viết trên báo Sức khỏe và Đời sống của tác giả Mai Trâm ngày 07/9/2023 về thuốc ARV “Nhờ thuốc kháng vi rút (ARV) nhiều phận đời nhiễm HIV đã được “hồi sinh”. Nhưng tương lai của họ vẫn còn nhiều bất định vì tài trợ quốc tế cho ARV đang giảm và có thể kết thúc vào năm 2025”.

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com