Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ, tác giả đưa ra một số phương hướng cụ thể như sau:

Tập trung hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm một số doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp hạ nguồn trọng điểm như ngành ô-tô, điện – điện tử, dệt may, da – giày trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW, của Bộ Chính trị.

Xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước; tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hợp lý thị trường nội địa phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.

Xây dựng chính sách về thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu linh hoạt, phù hợp để giúp các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh cắt giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh so với hàng hóa nhập khẩu.

Thực thi có hiệu quả việc kiểm soát hiện tượng chuyển giá, gian lận thuế đối với các doanh nghiệp FDI nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các doanh nghiệp công nghiệp trong nước đầu tư sản xuất, kinh doanh thông qua các biện pháp: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về doanh nghiệp FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng; tăng cường thanh tra giá chuyển giao, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành thuế.

Xây dựng chính sách đột phá tạo lập môi trường khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.2. Các giải pháp hoàn thiện về chính sách pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Một số giải pháp hoàn thiện về pháp luật nhằm thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung: 

Một là, hoàn thiện thể chế pháp luật để khắc phục các khiếm khuyết đã được phát hiện như thiếu tính hệ thống, có sự chồng chéo  và không nhất quán giữa các bộ luật, các điều luật mang tính xung khắc với nhau, luật chờ nghị định, thông tư nên chậm được thi hành. Rà soát lại các văn bản pháp luật về đầu tư nhằm nâng cao chất lượng văn bản pháp luật, giản lược những nội dung không tương thích với luật pháp quốc tế, cập nhật những cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, lao động không cưỡng bức, tổ chức công đoàn độc lập

Hai là, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành luật dễ hiểu và dễ thực hiện, xây dựng các khái niệm rõ ràng để tránh việc diễn giải khác nhau gây cản trở thực thi luật. Quy định rõ ràng và chi tiết hơn tạo điều kiện dễ dàng áp dụng các thủ tục và điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư đồng thời đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.

Ba là, xây dựng quan hệ đối tác thực sự tin tưởng giữa Nhà nước và các lãnh đạo doanh nghiệp thực sự (cả doanh nghiệp sở hữu trong nước và nước ngoài) để cải thiện chất lượng, tăng cường sự ổn định và đồng bộ trong quy định luật pháp và ưu tiên việc thực hiện các cải cách quan trọng nhất, bao gồm những cải cách khó khăn (chính sách cho ngành công nghiệp ô tô, mở cửa thị trường thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài). Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Bốn là, ổn định chính sách Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đòi hỏi chính đáng của nhà đầu tư vì vậy trong trường hợp Chính phủ thay đổi chính sách thì cần tạo thuận lợi cho họ, hết sức tránh gây tâm lý phản kháng vì làm thiệt hại lợi ích của nhà đầu tư như đã xảy ra trong lần sửa đổi Luật ĐTNN năm 1996. Trong trường hợp bất khả kháng, khi Chính phủ áp dụng chính sách không có lợi cho nhà đầu tư thì cần thực hiện chính sách “không hồi tố” hoặc bồi thường thiệt hại do chính sách mới gây ra cho họ.

Năm là nâng cao năng lực phân tích, dự báo của các cơ quan ban hành thể chế chính sách pháp luật ; kịp thời ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới, các mô hình, phương thức kinh doanh mới… tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư và hoạt động quản lý của cơ quan Nhà nước.

Sáu là đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số; tiếp tục thực hiện “chuyển đổi số” trong các dịch vụ hành chính công; đẩy nhanh xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc triển khai, xây dựng phát triển Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam; xây dựng cơ chế quản lý linh hoạt, phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo không gian thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo; thay thế các quy định và hệ thống dùng giấy tờ lỗi thời bằng các giải pháp công nghệ số/trực tuyến, nhờ đó mà giảm tham nhũng vấn đề vốn vẫn bị nhà ĐTNN coi là rào cản hàng đầu đối với tăng trưởng.

Một số giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật nhằm thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng: 

Chính phủ Việt Nam đang tăng cường các biện pháp xây dựng và phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ trong quy hoạch tầm nhìn đến năm 2025. Ở Việt Nam, các chính sách thúc đấy đầu tư nước ngoài dù đã được quan tâm, nhưng còn nhiều bất cập, đặc biệt Việt Nam chưa có những chính sách riêng thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào phát triển các ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Đây là một thiếu sót cần được khắc phục ngay trong thời gian tới. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành chế tạo nói chung và chế tạo công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Trước hết để có thể thực hiện được mục tiêu trên, Việt Nam cần hướng đến của các động cơ khuyến khích điều chỉnh dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp chế tạo và công nghiệp hỗ trợ.

Việt Nam nên tiếp tục xây dựng các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư khá hiệu quả chẳng hạn như: tăng cường hoạt động nghiên cứu triển khai, phát triển nhân lực, phát triển mối liên kết công nghiệp và sử dụng công nghệ cao trong chế tạo máy móc và linh kiện, chế tạo thiết bị giao thông vận tải, phát triển công nghiệp hỗ trợ, chế tạo các thiết bị điện và điện tử cũng như các linh kiện, chế tạo các phụ kiện nhựa. Những động thái nêu trên nếu được thực hiện kịp thời, đúng lúc sẽ giúp Việt Nam được đánh giá cao hơn trong mắt các nhà đầu tư. Thúc đẩy nghiên cứu triển khai, phát triển nhân lực và phát triển mối liên kết công nghiệp được xem là những điểm nhấn mà không nước nào bỏ qua. Chính vì vậy, có thể khẳng định đây là một biện pháp khá hiệu quả mà Việt Nam nên áp dụng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ. (Nguồn: Trương Bá Thanh, 2006, Phát triển các loại hình dịch vụ và doanh nghiệp phụ trợ nhằm đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng đầu tư nước ngoài tại Duyên hải Nam Trung Bộ, Đại học Kinh tế – Đại học Đà Nẵng)

Việc tăng cường thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực chế tạo, lắp ráp sản phẩm cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành Công nghiệp hỗ trợ. Các doanh nghiệp này sẽ là nơi có nhu cầu về các linh phụ kiện đầu vào để sản xuất. Do đó, nếu số lượng các doanh nghiệp này tăng lên sẽ góp phần mở rộng cầu về sản phẩm hỗ trợ, tạo điều kiện Công nghiệp hỗ trợ phát triển. Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Để tăng cường thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ trong ngành Công nghiệp hỗ trợ mà trong cả các lĩnh khác, Việt Nam cần phải tạo ra một môi trường đầu tư an toàn, đảm bảo quyền lợi và tài sản của các nhà đầu tư. Để có thể tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam cần có những cam kết bảo đảm quyền về tài sản liên quan đến đất đai, bất động sản và các tài sản vô hình của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Bên cạnh chính sách tăng cường thu hút FDI vào ngành Công nghiệp hỗ trợ, để có thể thúc đẩy sự phát triển của ngành này, Việt Nam còn phải có một số biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, và xây dựng mối quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp này với các doanh nghiệp FDI. Thực hiện được điều này, không những giúp Công nghiệp hỗ trợ phát triển thêm mà còn tạo điều kiện tăng cường thu hút vốn FDI. Ở Việt Nam, hiện nay mối liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn còn khá lỏng lẻo. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thông tin, thiếu cơ sở dữ liệu và độ chính xác, tin tưởng của thông tin. Hiện tại, hầu hết các nhà cung cấp linh phụ kiện trên thị trường Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp lớn của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam do không tìm được các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cung cấp các sản phẩm phụ trợ nên đã “một tay ôm hết” toàn bộ chuỗi sản xuất từ những thiết bị, sản phẩm phụ trợ nhỏ nhất đến các khung máy lớn và đảm đương luôn khâu lắp ráp. Do đó để giải quyết tình trạng trên vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp sản xuất trong nước, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến cải thiện các mối liên kết đó. Tuy nhiên, thực tế là trong các văn bản pháp quy về phát triển và hỗ trợ chưa có một quy định cụ thể nào về phát triển các mối liên kết đó. Để có thể phát triển mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất trong các ngành công nghiệp này cần có những quy định cụ thể và triển khai một cách hiệu quả nhờ những biện pháp triển khai cụ thể và tích cực hơn nữa. Vì vậy, Chính phủ, đặc biệt là BCT, cần phải quan tâm đến việc phát triển SMEs. BCT cần phải hợp tác chặt chẽ với các địa phương để hoạch định được các chính sách công nghiệp phù hợp, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp nói chung, chứ không chỉ doanh nghiệp thuộc Bộ.

Ngày nay, chuỗi giá trị toàn cầu đang là xu thế phổ biến của các công ty đa quốc gia. Chính phủ Việt Nam cần rút kinh nghiệm từ các nước đi trước và hợp tác với các tổ chức quốc tế để thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty đa quốc gia. Kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy thành công trong việc thúc đẩy liên kết công nghiệp là nhờ sự phản ứng kịp thời của chính phủ đối với những thay đổi trong môi trường kinh doanh; có các doanh nghiệp đủ mạnh dẫn đầu; và được chính phủ hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính. Đây cũng là một động lực thúc đẩy ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam pháp triển cả về chất lượng và số lượng, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Tuy nhiên, bên cạnh một số nước khá thành công trong việc thiết lập chuỗi giá trị toàn cầu như Nhật Bản, Hàn Quốc, có một số quốc gia khác đã thất bại hoặc chỉ đạt được thành công ở mức vừa phải trong việc thúc đẩy liên kết công nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu được cho là do thiếu sự phối hợp giữa các bộ ngành; doanh nghiệp thiếu hiểu biết về các chính sách của Chính phủ; chính sách của chính phủ không đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp; có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, và thiếu sự nhiệt tình của doanh nghiệp. Từ những trường hợp thất bại, cũng như thành công nêu trên, Chính phủ Việt Nam nên tận dụng lợi thế của công nghệ thông tin để thu hẹp khoảng cách thông tin và hiểu biết giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, Việt Nam cũng cần xây dựng một cơ sở dữ liệu về công nghiệp hoàn chỉnh, vì đây sẽ là chất xúc tác giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian để tìm được nhà cung cấp hay khách hàng cho mình.

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần có các cơ quan chuyên trách để phân tích, dự báo các điều kiện và xu thế phát triển thương mại, công nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vấn đề liên quan khác. Cơ quan này sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu công nghiệp và hệ thống thống kê công nghiệp cần thiết cho hoạt động nghiên cứu, phân tích và hoạch định chính sách về công nghiệp. Ngoài ra, đế đáp ứng yêu cầu hiện nay và đuổi kịp các nước đi trước, các chính sách công nghiệp cần phải chú trọng xây dựng đồng thời xã hội công nghiệp và xã hội tri thức. Điều này có nghĩa là các chính sách không chỉ tập trung vào việc giảm chi phí và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng công nghiệp mà còn phải duy trì được môi trường thuận lợi cho việc cải cách, đổi mội.

3.3. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách đầu tư  nước ngoài đối với ngành công nghiệp tại tỉnh Bình Dương

Sự thành công và thất bại của quá trình xây dựng Công nghiệp hỗ trợ không chỉ phụ thuộc vào các chiến lược và các chính sách công nghiệp được vạch ra, mà còn phụ thuộc phần lớn vào việc điều phối và thực thi các chính sách đó như thế nào.

Công nghiệp hỗ trợ nằm trong hệ thống công nghiệp quốc gia và chịu ảnh hưởng chủ yếu từ hoạt động của các ngành công nghiệp, Công nghiệp hỗ trợ của một địa phương chịu sự tác động mạnh mẽ và quyết định của các chính sách công nghiệp quốc gia như: Chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia và vùng; Phát triển cơ sở hạ tầng của vùng; Các chính sách hỗ trợ công nghiệp; Các chính sách khác về kinh doanh như Thuế, Các ưu đãi tài chính, hỗ trợ công nghệ… Như vậy, nhìn một cách chung nhất, sự phát triển công nghiệp nói chung, Công nghiệp hỗ trợ cũng như Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí nói riêng của một địa phương sẽ chịu ảnh hưởng từ chính sách công nghiệp quốc gia. Tuy nhiên nếu xét trên góc độ riêng biệt thì mỗi địa phương, sẽ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển công nghiệp trong một số ngành cụ thể dựa trên những đặc điểm đặc thù của địa phương về lợi thế cạnh tranh, lịch sử phát triển, trình độ phát triển của địa phương đó. Các địa phương nếu có những chính sách hợp lý, có thể từ nền tảng chính sách quốc gia, thúc đẩy một số ngành công nghiệp nhất định phát triển.

Với đặc điểm phân cấp quản lý của chính quyền địa phương, các tỉnh sẽ có những hạn chế nhất định trong việc xây dựng và kiểm soát các chính sách công nghiệp địa phương nói chung, Công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Tuy vậy, các địa phương cũng có những khả năng nhất định trong việc tác động đến sự phát triển công nghiệp của địa phương mình. Nhận định các năng lực này sẽ đảm bảo cho các giải pháp đưa ra có khả năng thực thi cao hơn. Khả năng tác động của địa phương nằm trong phạm vi sau:

Quy hoạch kinh tế – xã hội trong Vùng: Mỗi địa phương có khả năng điều phối các nguồn lực chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp có thế mạnh. Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Chính sách ưu đãi đối với ưu đãi đầu tư đã được phân cấp, địa phương có thể sử dụng các ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục pháp lý để hỗ trợ các mục tiêu Công nghiệp hóa của mình.

Sử dụng các năng lực sẵn có vào mục tiêu hỗ trợ như xây dựng các thể chế hỗ trợ như các bộ phận đặc biệt, các chương trình hỗ trợ.

  • Chủ động trong hợp tác ở mức độ vùng.

Đưa ra các kiến nghị đối với Chính phủ trong các vấn đề đặc biệt, không thuộc quyển kiểm soát của mình, chủ động trong việc xây dựng quy hoạch công nghiệp và đề xuất các chính sách công nghiệp đặc thù để Chính phủ cân nhắc và hỗ trợ. Trong đó, Chính phủ và các địa phương cần có sự thống nhất phối hợp: công việc nào là của trung ương, công việc nào là của địa phương. Và Chính phủ nên thành lập cơ quan chức năng chịu trách nhiệm chính về Công nghiệp hỗ trợ, còn ở các địa phương thì thành lập ban chỉ đạo địa phương về Công nghiệp hỗ trợ. Do đó, tỉnh Bình Dương cần nhanh chóng thành lập Ban chỉ đạo của tỉnh về Công nghiệp hỗ trợ trong đó có các tiểu ban phụ trách về Công nghiệp hỗ trợ ngành CKCT.

Khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt ưu tiên trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp máy móc thiết bị ô-tô, xe máy và điện tử; quy hoạch phát triển khu, cụm công nghiệp hỗ trợ. Khuyến khích các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU)…; đồng thời, xây dựng cơ chế thu hút đầu tư gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Tỉnh Bình Dương cần xác định “chuẩn” dự án đầu tư được phép triển khai trên địa bàn theo hướng hạn chế tối đa những dự án thâm dụng lao động, công nghệ cũ, ô nhiễm môi trường…

3.4. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Bình Dương Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Để ngành Công nghiệp hỗ trợ Bình Dương phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, các DN làm hỗ trợ có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu mang lại giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế, theo tác giả cần tập trung vào một số nhóm giải pháp như sau:

Một là, tạo dựng môi trường đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh từng nhóm sản phẩm hỗ trợ thích ứng; hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, nguyên vật liệu hỗ trợ cho các ngành công nghiệp; hỗ trợ các DN vừa và nhỏ tham gia sản xuất các loại sản phẩm hỗ trợ, cung ứng linh kiện, phụ tùng, nguyên phụ liệu cho sản xuất hỗ trợ.

Hai là, đầu tư phát triển khoa học – công nghệ cho ngành Công nghiệp hỗ trợ: xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế; nâng cấp, hoàn thiện các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ đạt trình độ quốc tế; thực hiện chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất Công nghiệp hỗ trợ; hỗ trợ cho các DN nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ.

Ba là, đào tạo nguồn nhân lực về lĩnh vực thiết kế, chế tạo máy, luyện kim, điều khiển tự động, điện tử tin học có năng lực, trình độ nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo, có khả năng làm chủ các công nghệ được chuyển giao.

Bốn là, liên kết DN giữa DN FDI với các DN nội địa thông qua các chương trình giới thiệu nhu cầu phát triển và sử dụng sản phẩm hỗ trợ và hợp đồng kinh tế giữa hai bên.

Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN hỗ trợ tiếp cận được với nguồn vốn dài hạn cho đầu tư nghiên cứu và phát triển sản xuất hỗ trợ; ưu tiên cấp vốn và tạo các điều kiện khác để đổi mới thiết bị, thay đổi công nghệ tại những DN đã có quy mô tương đối lớn.

Sáu là, khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất các ngành Công nghiệp hỗ trợ bằng sự hỗ trợ đặc biệt về vốn và những ưu đãi đặc biệt khác như về hạ tầng, thủ tục hành chính, về cung cấp nguồn nhân lực cần thiết, miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ, miễn thuế doanh thu…

3.5. Đề xuất chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Bình Dương

3.5.1. Tổ chức quản lý Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước và của các doanh nghiệp về tầm quan trọng đặc biệt của công nghiệp hỗ trợ.

Nhận thức là chủ thể của hành động, nhận thức sẽ định hướng hành động nên chính quyền tỉnh cũng như các DN cần nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của ngành Công nghiệp hỗ trợ, được xem là hạ tầng và đóng vai trò nền tảng, có tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực khác của hoạt động sản xuất xã hội, mà Công nghiệp hỗ trợ lại được xem như chân núi, tạo nền tảng để hình thành nên thân núi và đỉnh núi là Công nghiệp. Từ đó, trong giới hạn khả năng tác động của mình, tỉnh Bình Dương cần có các chính sách ưu đãi, các chương trình hỗ trợ về hợp tác, đầu tư, phát triển thị trường, ưu đãi về khoa học công nghệ, về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh. Đặc biệt, cần có những ưu đãi hấp dẫn để khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài vào Công nghiệp hỗ trợ.

Tăng cường công tác quản lý các doanh nghiệp FDI trong chấp hành pháp luật về lao động, tài chính, bảo vệ môi trường, chống các hoạt động chuyển giá nhằm mục đích trốn thuế… Để thực hiện tốt công tác này cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan chức năng khác nhau như bộ phận quản lý xuất, nhập cảnh, cư trú, cấp giấy phép lao động cho lao động nước ngoài, cơ quan thuế, hải quan… nhằm tạo sự đồng bộ trong công tác quản lý doanh nghiệp FDI tại Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.

3.5.2. Tổ chức thực hiện Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Thứ nhất, Tăng cường cơ chế hợp tác và điều phối giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương trong việc phân cấp và phối hợp hoạt động.

(Theo Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú, 2006) thì Chế độ phân cấp trung ương, địa phương, cơ chế bộ chủ quản… đã làm cho sự phối hợp giữa các ngành với nhau, giữa các địa phương với nhau và giữa ngành với địa phương không được chặt chẽ và chưa hiệu quả. Với đặc điểm phân cấp quản lý như vậy, chính quyền tỉnh Bình Dương sẽ có những hạn chế nhất định trong việc xây dựng và kiểm soát các chính sách công nghiệp địa phương nói chung, Công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Những hạn chế đó có thể là giới hạn về liên kết kinh tế giữa các vùng, giới hạn về đầu tư cơ sở hạ tầng liên vùng, giới hạn về nguồn lực công nghệ và khoa học kỹ thuật cũng như giới hạn về ban hành các chính sách pháp luật. Do vậy, để các giải pháp phát triển Công nghiệp hỗ trợ của tỉnh Bình Dương có thể phát triển, rất cần có sự phối hợp giữa các cơ quan của chính phủ và chính quyền địa phương trong việc phân cấp và phối hợp hoạt động. Trong đó:

(i), Cần có sự thống nhất phối hợp giữa chính phủ và chính quyền địa phương trong chiến lược phát triển Công nghiệp hỗ trợ, chỉ rõ việc nào thuộc cấp quản lý nào, chỉ rõ cơ chế hợp tác, đánh giá.

(ii), Chính phủ có thể thành lập cơ quan chức năng chuyên phụ trách về Công nghiệp hỗ trợ, còn tỉnh Bình Dương thành lập ban chỉ đạo của tỉnh để qui hoạch và xây dựng chính sách riêng cho mình. Cơ quan này có trách nhiệm và quyền hạn nhất định trong việc điều phối, thực thi và phối hợp với các địa phương khác trong vùng về chính sách Công nghiệp hỗ trợ. Hình thức tổ chức có thể là một ban chỉ đạo có văn phòng và cơ chế hoạt động độc lập chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương. Ban chỉ đạo phát triển Công nghiệp hỗ trợ có chức năng thiết kế và tư vấn ban hành các chính sách, xây dựng các chương trình, phối hợp các ban ngành chức năng để thực thi và giám sát cũng như đánh giá kết quả.

(iii), Kiến nghị chính phủ cho thành lập cơ quan liên vùng phụ trách khu vực Đông Nam Bộ, để có thể liên kết và phối hợp hoạt động giữa các địa phương khác nhau trong khu vực Đông Nam Bộ, điều phối và giải quyết các vấn đề công nghiệp của nội vùng.

Thứ hai, Xây dựng các chương trình hành động cụ thể và thông qua chương trình để các giải pháp được thực thi

Sự thành công và thất bại của quá trình xây dựng Công nghiệp hỗ trợ không chỉ phụ thuộc vào các chiến lược và chính sách công nghiệp được vạch ra, mà còn phụ thuộc phần lớn vào việc điều phối và thực thi các chính sách đó như thế nào. Những giải pháp tốt vẫn có thể không phát huy tác dụng mong muốn khi có sự yếu kém trong thực thi và kiểm soát. Để việc triển khai các giải pháp được thông suốt và đồng bộ, tỉnh Bình Dương nên giao cho các bộ phận chức năng (ban điều hành) lập kế hoạch đề án một cách cụ thể các chương trình và hành động thực thi để có khả năng giám sát, theo dõi và chỉ đạo một cách chặt chẽ. Nếu không nhận diện được khả năng thực thi giải pháp thì rất dễ gặp rủi ro là giải pháp không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả, thậm chí các giải pháp không phát huy được tác dụng.

Tỉnh Bình Dương có Quy hoạch phát triển Công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025, tuy nhiên, để quy hoạch này có thể mau chóng được triển khai hiệu quả và đúng thời hạn thì Sở công thương tỉnh cần xây dựng ngay một chương trình hành động với các bước đi được tính toán cụ thể, rõ ràng, có tính khả thi cao và cùng với các bộ, ngành có liên quan cùng phối hợp thực hiện.

Tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh; nắm tình hình, diễn biến thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa; nghiên cứu xây dựng “Sổ tay hướng dẫn đầu tư năm 2023” cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp, chú trọng thu hút vốn “đầu tư xanh”, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững từ những doanh nghiệp FDI, tập đoàn lớn toàn cầu và các doanh nghiệp lớn của Việt Nam đến đầu tư trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

Tiểu kết chương 3 Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Trên cơ sở những điểm bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ  tại tỉnh Bình Dương. Kết thúc chương 3, luận văn giải quyết các vấn đề :

Một là, đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành Công nghiệp hỗ trợ nói chung và chính sách thu hút đầu tư của tính nói riêng.

Hai là, đề xuất các giải pháp về  nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách pháp luật và hoàn thiện chính sách pháp về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ và kiến nghị các chính sách ưu đãi về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Công nghiệp hỗ trợ là bộ phận đặc thù trong cấu thành nền công nghiệp, với chức năng sản xuất những sản phẩm hỗ trợ cho việc tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh. Ngoài chức năng làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và để các nhà đầu tư thích ứng nhanh với thị trường nội địa, ngành Công nghiệp hỗ trợ  còn có vai trò rất lớn lao trong việc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế và hội nhập nền kinh tế vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Đối với kinh tế Việt Nam, Công nghiệp hỗ trợ  đóng vai trò rất lớn trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa theo hướng vừa mở rộng vừa chuyên sâu. Các nước hiện nay thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều và có nền kinh tế phát triển đều có nền công nghiệp hỗ trợ phát triển. Việt Nam thu hút nhiều dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo không chỉ tạo công ăn việc làm mà còn tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư, tăng vị thế của Việt Nam trong bản đồ kinh tế thế giới. Đây là điều tích cực trong bối cảnh nền kinh tế đang phục hồi sau 2 năm chùng xuống do dịch bệnh COVID-19.

Trong luận văn này, tác giả đã có những tiếp cận với tình hình phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương để qua đó làm sáng tỏ hành lang pháp lý của Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung.

Nhận thức được về vai trò của chính sách, pháp luật, cơ chế hỗ trợ đầu tư  đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng và hình thành một môi trường đầu tư hấp dẫn, cởi mở, phù hợp với các thông lệ quốc tế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng.

Tác giả mong rằng, với những phân tích trên phương diện các cơ sở lý luận, phân tích về thực trạng và các  đề xuất, kiến nghị về giải pháp hoàn thiện khung pháp lý và chính sách ưu đãi đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ góp phần nhỏ vào công cuộc xây dựng hệ thống pháp luật công bằng, minh bạch của Chính phủ Việt Nam đang hướng tới. Luận văn: Giải pháp pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993