Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn với phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam những năm gần đây. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ là hoạt động đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng nguồn lực đầu tư đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, phụ kiện, phụ tùng linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, chế biến, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng cũng như chuỗi giá trị toàn cầu. Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ được xem là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, một số ngành công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam như điện tử, dệt may, da giày, lắp ráp ô tô, xe máy… hầu như chưa có công nghiệp hỗ trợ đi kèm, nên phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến sản xuất nhiều khi còn manh mún, bị động, chi phí sản xuất cao cụ thể: ngành như sản xuất lắp ráp ô tô các bộ phận đều phải nhập khẩu, từ động cơ đến các vật liệu, chi tiết đơn giản khác như vải bạt, da, mút, ốc vít….như ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp xe máy của Việt Nam đã có thể tự sản xuất được khoảng 70% các loại linh kiện, phụ tùng, còn lại 30% thì phải nhập khẩu nguyên vật liệu. Ngành cơ khí chế tạo đều quá lạc hậu, sản phẩm làm ra chưa đảm bảo chất lượng theo yêu cầu thị trường, chưa đúc được những mác thép có chất lượng và độ bền cao. Công nghệ chế tạo phôi bằng phương pháp biến dạng dẻo kim loại ở trạng thái nóng (cán, rèn dập) cũng còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Khâu nhiệt luyện và xử lý chất lượng bề mặt các sản phẩm cơ khí còn yếu đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng của các chi tiết thành phẩm. Các sản phẩm đối với dầu khí, dàn khoan của doanh nghiệp trong nước hầu như chưa phù hợp với môi trường biển, dầu khí dễ cháy nổ, đòi hỏi độ tin cậy cao và nghiêm ngặt về các chỉ tiêu kỹ thuật theo các yêu cầu của cơ quan kiểm định, đăng kiểm quốc tế….đều phụ thuộc vào việc cung cấp đến từ các doanh nghiệp FDI Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Trước thực trạng trên, Việt Nam thực hiện chủ trương thu hút FDI (Foreign Direct Invesment) trong hoạt động hỗ trợ công nghệ góp phần giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 70,6 tỷ USD; Thứ hai là Nhật Bản (60,3 tỷ USD). Các nước, vùng lãnh thổ tiếp theo là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông. Riêng Trung Quốc đại lục trong 5 năm gần đây đứng thứ 7…
FDI hiện nay đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố, trong đó có tỉnh Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, giáp với Thành phố Hồ Chí Minh, với vị trí thuận lợi nên việc cơ cấu kinh tế của Bình Dương tiếp tục dịch chuyển tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp. Trong năm 2020 cơ cấu kinh tế của Bình Dương tiếp tục dịch chuyển tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp, cơ cấu kinh tế của Bình Dương tiếp tục dịch chuyển tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp, đến nay, Bình Dương đã thu hút được 3.953 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 35,8 tỷ USD, đứng thứ 3 cả nước về thu hút vốn FDI, chỉ sau TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong đó tập chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất, gia công đồ gỗ gia dụng, sắt thép, linh kiện điện tử và các sản phẩm đồ điện gia dụng.
Tuy nhiên, so với tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương thì mức đóng góp của các doanh nghiệp FDI cho việc nâng cao năng lực công nghiệp Việt Nam vẫn còn rất thấp tại tỉnh Bình Dương. Các mối liên kết giữa khối doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân như khung pháp lý về FDI cần được thực hiện theo hướng giảm các tác động tiêu cực và tăng các lợi ích tiềm tàng của khu vực này đối với nền kinh tế, chính sách thuế và tài chính liên quan cần được quan tâm, thủ tục hành chính về thông quan,… đặc biệt việc mời gọi được các công ty xuyên quốc gia (MNC) đầu tư vào tỉnh Bình Dương là rất cần thiết, góp phần làm ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo dựng mạng lưới công nghiệp hỗ trợ, liên kết kinh doanh. Đây là vấn đề còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư FDI đối với ngành công nghiệp phụ trợ tại các địa phương, tạo dựng các công cụ liên kết hiệu quả thông qua xây dựng chính sách liên kết ngành, ươm tạo DN và qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giúp nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh, tạo giá trị gia tăng, góp phần tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu nền kinh tế. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam nói chung và tại Bình Dương nói riêng ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng cũng như chuỗi giá trị toàn cầu. Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ được xem là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp.
Bình Dương hiện có 29 khu công nghiệp, 12 cụm công nghiệp với hơn 43.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động. Bình Dương nằm trong top 5 địa phương có ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh của cả nước. Sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ bước đầu đã hình thành sự liên kết sản xuất giữa các DN trong nước và các DN FDI; đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước từng bước tiếp cận công nghệ tiên tiến. Xác định phát triển công nghiệp hỗ trợ giữ vai trò quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp khác, tỉnh Bình Dương đã và đang nỗ lực xây dựng chiến lược phát triển lâu dài cho ngành này. Bình Dương cũng là một trong những địa phương thu hút vốn đầu tư nước ngoài dẫn đầu cả nước đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo chiếm nhiều ưu thế.
Mặc dù, thời gian qua năng lực ngành công nghiệp hỗ trợ của tỉnh Bình Dương đã được cải thiện đáng kể. Bên cạnh những kết quả đạt được, những năm qua, các doanh nghiệp trong tỉnh hầu hết sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất thành phẩm. Công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước nói chung chưa đáp ứng nhu cầu nguyên phụ liệu cho sản xuất trong nước cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó, việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và công nghiệp hỗ trợ phát triển chưa tương xứng đã ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp trong cả nước. Để phát triển được ngành công nghiệp hỗ trợ, không thể thiếu được những hành lang pháp lý về đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, pháp luật về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài cho ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế như : việc thực hiện một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ còn nhiều vướng mắc, thiếu tính nhất quán, chưa ổn định. Thủ tục hành chính còn nhiều nhiêu khê, phức tạp trong quá trình đầu tư dự án…vv. Các chính sách ưu đãi đầu tư còn dàn trải, thiếu tính chọn lọc.
Đứng trước những cơ hội và thách thức trên, Chính phủ cần đặc biệt quan tâm cải cách chính sách pháp luật về kinh tế nói chung và đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng, tạo hành lang pháp lý để doanh nghiệp phát triển trong môi trường kinh doanh an toàn, bền vững.
Từ những vấn đề nêu ra ở trên, học viên cho rằng, việc nghiên cứu một cách hệ thống về vai trò và tác động của pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là đối với ngành công nghiệp hỗ trợ qua thực tiễn tại tỉnh Bình Dương có tính cấp thiết cao và có ý nghĩa quan trọng về mặt thực tiễn.
Chính vì vậy, học viên đã chọn đề tài : “Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương” làm luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục tiêu của đề tài
3,1 Mục tiêu tổng quát Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và quy định pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như thực tiễn thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương nói riêng và tại Việt Nam nói chung. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
3,2 Mục tiêu cụ thể
Dựa trên mục tiêu tổng quát đề tài tập trung các mục tiêu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ. Qua đó, đánh giá những hạn chế, bất cập và vướng mắc của hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Đánh giá thực tế thực hiện các chính sách về đầu tư nước ngoài đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương.
- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
4. Câu hỏi nghiên cứu
4.1. Về khía cạnh lý luận
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì?
- Ngành công nghiệp phụ trợ là gì?
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ là gì?
- Xác định nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ
- Đánh giá các yếu tố tác động tới pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ có đặc điểm gì?
Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ bao gồm những nội dung cơ bản nào? Có những hạn chế, bất cập nào không?
4.2 Về khía cạnh thực tiễn
Thực tiễn áp dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ có những vướng mắc, bất cập gì?
4.3 Về kiến nghị, đề xuất Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Với những bất cập, vướng mặc đã nghiên cứu thì cần phải có những giải pháp gì để hoàn thiện pháp luật? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả thực thi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và những quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu các cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ qua quy định của Luật đầu tư năm 2014, 2020 và những văn bản quy phạm pháp luật khác đến nay.
- Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung từ năm 2014 đến hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài một cách hiệu quả, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin là phương pháp chính được tác giả sử dụng nhằm nghiên cứu các vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng của các sự vật, hiện tượng và trong mối quan hệ tổng thể giữa các tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác, trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bên cạnh đó, tác giả còn dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong điều kiện xây dựng một nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu.
Bên cạnh đó, để hoàn thành Luận văn này, tác giả đã sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp logic: Trên cơ sở tham khảo những công trình khoa học, đề tài hệ thống hoá các lý luận dựa trên các quy định của pháp luật, giáo trình, sách chuyên kháo để từ đó học viên làm rõ các khái niệm, cơ sở lý luận và mở rộng vấn đề cần nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp quan trọng được áp dụng chính trong Chương 1 và Chương 2 Luận văn để phân tích khái niệm, đặc điểm đặc trưng pháp lý liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong phạm vi Chương 2 để thu thập một số thông tin cần thiết để chứng minh thực trạng pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ ở từ tại tỉnh Bình Dương nói riêng và hiệu quả áp dụng pháp luật trên phạm vi cả nước nói chung.
Phương pháp so sánh: được áp dụng chủ yếu ở Chương 2 của Luận văn để đánh giá được những điểm tiến bộ của pháp luật cũng như sự phù hợp của pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ, cần sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu, so sánh quy định pháp luật qua các thời kỳ để làm rõ bản chất của vấn đề được đề cập tới.
Phương pháp đánh giá: Sau khi thu thập thông tin và phân tích, tổng hợp và so sánh các quy định pháp luật về pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương, tác giả sẽ đưa ra các quan điểm đánh giá các ưu điểm và hạn chế còn tồn đọng cùng các nguyên nhân của hạn chế của quy định pháp luật. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
Phương pháp tổng hợp: từ những vấn đề được phân tích, phương pháp tổng hợp được dùng đồng bộ trong tất cả các chương của Luận văn để tổng hợp các quan điểm khác nhau về nhận thức khoa học xung quanh các khái niệm, quy phạm pháp luật liên quan đến pháp luật pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
7. Nội dung nghiên cứu Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Luận văn được thực hiện bao gồm các nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Bình Dương.
8. Tổng quan tình hình nghiên cứu đến đề tài
Luận văn thạc sỹ: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng của Nguyễn Đình Thắng (năm 201 Đề tài đã góp phần hệ thống hóa, bổ sung một phần lý luận về FDI và quản lý nhà nước đối với DNFDI, thực hiện tổng kết công tác quản lý nhà nước đối với các DNFDI tại Đà Nẵng, Từ đó thấy được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. – Có được những căn cứ để đề xuất giải pháp có giá trị tham khảo trong việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các DNFDI trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới
Luận án tiến sỹ kinh tế: Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nghiên cứu vùng kinh tế Đông Nam Bộ- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh của Cao Tấn Huy (năm 2019). Đề tài đề tài xác định và lượng hóa được các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư (theo cách tiếp cận theo góc độ về hành vi của nhà đầu tư) và tìm ra 11 được một điểm mới so với các nghiên cứu trước là đó là yếu tố liên kết vùng có tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, so với các công trình đã công bố, tiếp cận các yếu tố tác động đến thu hút FDI thường các tác giả mới tập trung vào phân tích định tính tác động tích cực, tiêu cực mà ít được kiểm định và lượng hóa mức độ tác động của các yếu tố đó tới thu hút FDI vào vùng kinh tế.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Viết Bằng và cộng sự trong bài “Các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Đồng Nai” [3]. Nhóm tác giả cho rằng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động bởi 08 yếu tố, bao gồm: Kết cấu hạ tầng đầu tư, chính sách đầu tư, chất lượng dịch vụ công, nguồn nhân lực, môi trường sống và làm việc, chi phí đầu vào cạnh tranh, lợi thế ngành đầu tư, thương hiệu địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 08 yếu tố tác động đến quyết định của nhà đầu tư thì yếu tố KCHT và nguồn nhân lực là các yếu tố tác động nhiều nhất. Điều này có nghĩa là, KCHT và nguồn nhân lực là 02 yếu tố mà các nhà đầu tư xem xét nhiều nhất trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Vì vậy, để các nhà đầu tư quyết định đầu tư vào các KCN (KCN) trên địa bàn tỉnh, lãnh đạo địa phương cần quan tâm nhiều đến 02 yếu tố này. Đây sẽ làm cơ sở để thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Nghiên cứu của tác giả Phan Thị Quốc Hương trong bài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào Việt Nam”. Tác giả cho rằng dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam chịu tác động trực tiếp bởi 04 nhóm yếu tố, bao gồm: nhóm yếu tố khung chính sách; nhóm yếu tố kinh tế; nhóm yếu tố chất lượng thể chế; và nhóm yếu tố về thông tin quá khứ về vốn FDI thu hút được. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Tác giả Nguyễn Minh Tiến trong bài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa FDI với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, tác giả Nguyễn Minh Tiến cho rằng dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam chịu tác động của 07 yếu tố: Quy mô thị trường, nguồn nhân lực, Độ mở thương mại, KCHT, lao động có kỹ năng, chính sách kinh tế vĩ mô, ổn định kinh tế vĩ mô. – Nhóm tác giả Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang trong bài nghiên cứu “Thuộc tính địa phương và sự hài lòng của doanh nghiệp” đã thực hiện nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư vào tỉnh Tiền Giang. Nhóm tác giả cho rằng doanh nghiệp cảm thấy hài lòng đối với một địa phương sẽ đầu tư vốn vào địa phương đó. Nhóm tác giả cho rằng sự hài lòng của nhà đầu tư chịu tác động trực tiếp bởi các yếu tố, bao gồm: hạ tầng cơ bản, mặt bằng, lao động, hỗ trợ chính quyền, dịch vụ kinh doanh, ưu đãi đầu tư, văn hóa, đào tạo kỹ năng, môi trường sống
Những công trình nêu trên đã tiến hành nghiên cứu các yếu tố tác động tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế trên nhiều khía cạnh khác nhau, ở nhiều địa phương khác nhau và trong những khoảng thời gian khác nhau. Trên cơ sở các công trình nghiên cứu đã được tác giả lược khảo, có thể thấy một số kết quả mà các công trình nghiên cứu đã đạt được:
Thứ nhất, các công trình đã làm rõ một số vấn đề về lý luận như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ . Kết quả nghiên cứu của các công trình là một nguồn tài liệu tham khảo quý giá để tác giả kế thừa trong việc hình thành khung lý thuyết của luận văn
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ vào vùng kinh tế đã đạt được nhiều kết quả lý luận và thực tiễn.
9. Đóng góp của đề tài
Đề tài với những nội dung thực hiện sẽ có những đóng góp về mặt lý thuyết và thực tiễn như sau:
Về mặt lý thuyết, đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý thuyết liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là một nghiên cứu thực tiễn bổ sung thêm cho lý thuyết về khung pháp lý của hoạt động đầu tư.
Về mặt thực tiễn, đề tài nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương, đánh giá về kết quả và hạn chế thực hiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương.
Đồng thời, luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho các nhà quản trị doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp hỗ trợ, những nhà nghiên cứu, sinh viên quan tâm.
10. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục dự kiến luận văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại tỉnh Bình Dương.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Bình Dương. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế quốc gia gắn liền với vai trò, tác động tích cực của hoạt động đầu tư kinh tế cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề đầu tư đã được sự quan tâm và chú trọng của nhiều nước song quan niệm về đầu tư vẫn chưa có sự thống nhất.
- Hoạt động đầu tư được nghiên cứu trên nhiều phương diện như:
Phương diện kinh tế, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Mục tiêu của hoạt động đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những sự hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Phương diện xã hội, đầu tư sẽ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Tức là bằng những nguồn lực đang có đem ra đầu tư vào một lĩnh vực nào đó và kết quả nhận lại là lợi nhuận lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra.
Phương diện pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức khác nhau được pháp luật quy định cụ thể trong từng lĩnh vực để thực hiện hoạt động nhằm mục đích thu lại lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội trong hoạt động đầu tư đó.
Tuỳ thuộc vào thời điểm mà thuật ngữ “đầu tư” hay “đầu tư kinh doanh” mà các nhà lập pháp sử dụng khác nhau, nhưng về bản chất hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất tạo lập bằng việc bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005: Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Luật đầu tư năm 2005, nhà đầu tư bỏ vốn ra thực hiện đầu tư bằng hình thức đầu đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, để tiến hành hoạt động đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, xác định ý định nhà đầu tư khi sử dụng vốn đầu tư “trực tiế”; đầu tư “gián tiếp” rất khó để quản lý, phân biệt giữa hai hình thức này.
Theo Khoản 8 Điều 3 Luật đầu tư năm 2014 quy định: Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế, đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
Khoản 8 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2020 quy định: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh.” Hoạt động đầu tư kinh doanh là hoạt động đầu tư, mà nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời, thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư góp vốn mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế, đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
Từ đó, hoạt động đầu tư là hoạt động mà nhà đầu tư có quyền thực hiện tất cả các hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật đầu tư không cấm. Đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, qua nội dung phân tích trên hoạt động đầu tư kinh doanh được hiểu là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản của mình ra để đầu tư vào một lĩnh vực nào đó và hoạt động đầu tư này phải không nằm trong các loại đầu tư bị cấm. Nếu là đầu tư có điều kiện thì phải đáp ứng đúng điều kiện đó.
Hoạt động đầu tư kinh doanh không chỉ được quy định trong Luật Đầu tư mà là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý, tổ chức thực hiện hoạt động đầu tư và vận hành kết quả đầu tư.
Như vậy, kể từ khi có ý tưởng đầu tư đến hiện thực hóa ý tưởng bằng hình thức đầu tư và có kết quả đầu tư thì quá trình đầu tư được thực hiện với sự tham gia của nhiều chủ thể. Đó là sự tham gia của cơ quan nhà nước, nhà đầu tư, người quản lý, chuyên gia kinh tế hoặc người lao động. Tuy nhiên, có hai nhóm chủ thể cơ bản đóng vai trò quan trọng xuyên suốt quá trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, đó là nhà đầu tư và cơ quan nhà nước.
- Một là nhà đầu tư :
Từ Luật Đầu tư năm 2005 đến Luật Đầu tư năm 2020 quy chế pháp lý về nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư bao gồm ba nhóm: (i) nhà đầu tư trong nước, (ii) nhà đầu tư nước ngoài, (iii) tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, việc phân loại nhà đầu tư thành ba nhóm rõ ràng còn nhằm mục đích phục vụ cho việc áp dụng thủ tục đầu tư. Nhóm nhà đầu tư trong nước khi tiến hành hoạt động đầu tư không phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Nhóm nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong mọi trường hợp. Đối với nhà đầu tư là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ căn cứ vào tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong đó để xem xét có cần thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hay không.
Qua đó, Luật Đầu tư năm 2020 đã cố gắng đảm bảo tối đa quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức đồng thời thể hiện quan điểm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, tôn trọng các cam kết tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Quyền tự do kinh doanh là một trong các quyền về tự do, dân chủ điều này thể hiện một nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường, người dân có thể được lựa chọn hình thức tổ chức kinh tế, ngành nghề hay quy mô kinh doanh.
Ngoài Hiến pháp năm 2013 khẳng định người dân có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật đầu tư năm 2020 khẳng định: “doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” và “Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm”.
- Luật đầu tư cũng quy định chi tiết liên quan đến quyền tự do kinh doanh như sau:
Nhà đầu tư được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư kinh doanh theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật.”.
Đây được coi là một quyền kinh tế của con người. Quyền tự do kinh doanh được thực hiện thông qua hoạt động góp vốn, huy động vốn, thay đổi vốn và thoái vốn.
- Hai là: Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư
Đầu tư là hoạt động có tính liên ngành nên hầu hết các cơ quan chức năng của Nhà nước đều có sự tham gia với các mức độ khác nhau. Do đó, để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả và hạn chế sự chồng chéo quyền lực giữa các cơ quan chuyên môn, Nhà nước cần phân công, phân cấp thẩm quyền quản lý hoạt động đầu tư theo những nguyên tắc nhất định.
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tự chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện nhiệm vụ quản lý đầu tư trong lĩnh vực được phân công.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế quản lý hoạt động đầu tư theo địa bàn và khu vực được phân cấp.
- Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm theo dõi, hỗ trợ hoạt động đầu tư và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư.
Như vậy, Chính phủ thay mặt nhà nước thống nhất quản lý về hoạt động đầu tư cả trong và ngoài nước. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn cấp địa phương, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đều có trách nhiệm quản lý và quyền hạn thực hiện việc quản lý trong lĩnh vực được phân công, trong khu vực, địa bàn quản lý tương ứng.
1.1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Theo tính chất quan hệ quản lý của nhà đầu tư đối với nguồn lực đầu tư, hoạt động đầu tư được chia thành đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) và đầu tư gián tiếp. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư với mục đích thiết lập các quan hệ kinh tế bền vững với một công việc kinh doanh, đem lại khả năng thực hiện một ảnh hưởng có hiệu quả đối với quản lý việc đầu tư ấy”
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) trong báo cáo cán cân thanh toán tháng năm đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài: “ Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư – hosting country), Không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư – source country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp”
Tổ chức Thương mại thế giới: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó”. Phương diện quản lý là điều kiện để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “ chi nhánh công ty”
Như vậy, hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn lực đầu tư, theo hình thức này thì người đầu tư vốn và người sử dụng vốn cùng một chủ thể.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về Đầu tư trực tiếp nước ngoài là Nghị định số 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài được Chính phủ ban hành ngày 18/4/1977 quy định về khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương “đổi mới” về kinh tế. Luật đầu tư năm 1987, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm 03 hình thức: Liên doanh, BCC và 100% vốn nước ngoài. 03 hình thức đầu tư này đã tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư tại Việt Nam bằng hình thức đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, ở hình thức liên doanh thì giới hạn tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài là 30%, mà không giới hạn tỷ lệ tối đa.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được sửa đổi bổ sung năm 1990 mở rộng đối tượng được tham gia hoạt động đầu tư. Tiếp đến Luật đầu tư nước ngoài năm 1992 đa dạng hoá các hình thức đầu tư, bổ sung thêm hình thức đầu tư BOT; BTO và các hình thức đầu tư được cho phép.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài” là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật”.
Tại chương II gồm 16 Điều, quy định chi tiết về hình thức đầu tư. Quy định này cho phép nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam thực hiện bằng việc bỏ vốn, tài sản để thực hiện đầu tư với hình thức: (i), Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; (ii). Doanh nghiệp liên doanh; (iii), Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Luật đầu tư năm 1996 thêm hình thức đầu tư BT, thừa nhận hình thức đầu tư M&A. Những quy định này đã mở rộng hình thức đầu tư cho nhà đầu tư, nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000 quy định về đầu tư nước ngoài giữ nguyên các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư năm 1996. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Luật đầu tư năn 2005,Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư chung thay thế Luật đầu tư nước ngoài và Luật đầu tư trong nước, xoá bỏ phân biệt giữa hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, là cơ sở để áp dụng cho tất cả mọi loại hình doanh nghiệp, thực hiện cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm, bãi bỏ cơ chế xin cho.
Luật đầu tư năm 2005 quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư, quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Luật đầu tư quy định cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy, kể từ ngày 01.07.2006, nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư cùng thuộc sự điều chỉnh của Luật đầu tư năm 2005; đảm bảo sự thống nhất với Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật chuyên ngành.
Về hình thức đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm: (i); Thành lập tổ chức kinh tế; (ii) Góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế; (iii) Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (hợp đồng PPP); (iv) Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC)
Những hình thức đầu tư theo Luật đầu tư năm 2005 về cơ bản giống Luật đầu tư năm 1996; SĐBS năm 2000; 2002. Tuy nhiên, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được tiếp cận dưới hình thức (i); (ii). Không còn gọi với tên gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài giống Luật đầu tư năm 1986.
Quy định chung tại 01 Điều luật; thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đầu tư, tạo nên một khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các hoạt động đầu tư phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với yêu cầu hội nhập; tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhờ hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư đã ban hành, việc huy động nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng.
Do Luật đầu tư năm 2005 còn tồn tại một số quy định khác biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập doanh nghiệp và thực hiện dự án đầu tư, đồng thời chưa xác định rõ hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư và triển khai thực hiện dự án. Do đó, Luật đầu tư năm 2014 đã quy định theo hướng mở rộng hơn hình thức đầu tư từ Điều 22 đến Điều 29 quy định về các hình thức đầu tư: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; thực hiện hoạt động đầu tư của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế; hình thức và điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế; thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp; đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP; đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC;
Luật đầu tư năm 2014, hoạt động đầu tư trực tiêp nước ngoài mở rộng hình thức đầu tư, ngành nghề đầu tư, chủ trương theo hướng chọn “cấm”, sang chọn “bỏ”, đề cao nguyên tắc tự do đầu tư với những hình thức đầu tư: Thành lập tổ chức kinh tế, thực hiện hoạt động đầu tư của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế. Theo Điều 25 Luật đầu tư năm 2014 quy định cụ thể việc NĐT NN được góp vốn; mua cổ phần, phần vốn góp vào các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Cũng giống Luật đầu tư năm 2005, Luật đầu tư năm 2014 không “sử dụng thuật ngữ đầu tư trực tiếp nước ngoài” mà liệt kê các hình thức đầu tư để nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn. Nếu nhà đầu tư nước ngoài, muốn thực hiện hình thức đầu tư trực tiếp; chọn hình thức (i); (ii) theo Điều 25 Luật đầu tư năm 2014.
Như vậy, Luật đầu tư năm 2014 quy định về các hình thức đầu tư theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư bình đẳng, thuận lợi và minh bạch hơn nữa để huy động tối đa nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; góp phần thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Luật đầu tư năm 2020, trên cơ sở kế thừa Luật đầu tư năm 2014, theo Điều 21 Luật đầu tư năm 2020, quy định nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam được thực hiện 05 hình thức: (i).Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.(ii).Đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp; (iii) Thực hiện dự án đầu tư; (iv)Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC; (v) Các hình thức đầu tư, loại hình tổ chức kinh tế mới theo quy định của Chính phủ.
Luật đầu tư năm 2020 quy định nhà đầu tư nước ngoài khi sử dụng nguồn vốn đầu tư để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận được thực hiện bởi một trong năm hình thức trên; đáp ứng yêu cầu huy động, sử dụng nguồn vốn cho hiệu quả, góp phần cải thiện nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân và hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
Như vậy, thuật ngữ “đầu tư trực tiếp từ nước ngoài”, kể từ Luật đầu tư năm 2005 đến Luật đầu tư năm 2020; không sử dụng mà Luật đầu tư đã liệt kê các hình thức đầu tư, để từ đó nhà đầu tư nước ngoài xác định nếu thành lập tổ chức kinh tế thì xác định tỷ lệ vốn góp và phạm vi hoạt động theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài đã được đối xử bình đẳng với nhà đầu tư trong nước về quyền thực hiện hoạt động đầu tư; Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên 51%, nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế; nhà đầu tư ký kết Hợp đồng PPP với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công; Hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận.
Từ Luật đầu tư 2020 nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện đầu tư trực tiếp kinh doanh tại Việt Nam có thể lựa chọn thành lập các tổ chức kinh tế là “tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh”
1.1.3. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Thứ nhất: Là tổ chức kinh tế giúp nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng, thuận lợi hơn
Việc thành lập tổ chức kinh tế là tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh giúp nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dễ dàng hơn các quyền của mình. Nhà đầu tư không bị giới hạn quy mô, lợi nhuận, trách nhiệm pháp của công ty sẽ chia theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên nên đảm bảo được tính công bằng. Tuy nhiên, thủ tục của hình thức này khá phức tạp và thời gian sẽ kéo dài hơn do ngoài việc tuân thủ Luật Đầu tư thì còn phải tuân thủ Luật Doanh Nghiệp và các văn bản pháp luật liên quan khác. Bên cạnh đó, sau khi kết thúc dự án, nhà đầu tư phải làm thủ tục giải thể doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp hiện hành.
Thứ hai: Đây là hình thức di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn.
Đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao. Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đánh kể đối với việc quản lý doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác. Tiếng nói hiệu quả trong quản lý phải đi kèm với một mức sở hữu cổ phần nhất định thì mới được coi là Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cụ thể:
ĐTTTNN không tạo ra những ràng buộc về chính trị, quân sự, không để lại những gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế quốc gia tiếp nhận. Mặc dù Đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ít bị lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên do Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư bằng vốn tư nhân và hoạt động với mục đích cơ bản là lợi nhuận, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý và vận hành. Theo đó, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tránh cho quốc gia tiếp nhận những ràng buộc phải đánh đổi về chính trị, quân sự và đặc biệt không để lại hậu quả nợ nần cho nền kinh tế nước chủ nhà. Tuy nhiên, một quốc gia sẽ có thể gặp nhiều rủi ro nếu như quá phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài này.
ĐTTTNN thường đi kèm với việc chuyển giao công nghệ cho quốc gia nhận đầu tư, bởi lẽ khi thực hiện hoạt động đầu tư nước ngoài, bên cạnh vốn bằng tiền và các tài sản hữu hình như máy móc, thiết bị, bất động sản… nhà đầu tư còn mang cả quy trình công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, các phát minh sáng chế, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý… đến nước chủ nhà. Đây là một trong những điểm trọng yếu mà các quốc gia tiếp nhận đầu tư hướng tới khi kêu gọi thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt ở các nước đang phát triển với trình độ khoa học – kỹ thuật, năng lực quản lý còn hạn chế.
ĐTTTNN có tác động trực tiếp và lâu dài tới cơ cấu kinh tế, mức độ phát triển của quốc gia tiếp nhận. Hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang đến cho quốc gia tiếp nhận những công nghệ mới, góp phần tạo ra những lĩnh vực mới, ngành nghề mới. Sự phát triển của khu vực Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực nhất định trực tiếp làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có tác động lâu dài đến mức độ phát triển của quốc gia tiếp nhận.
Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp theo đó rủi ro và lợi nhuận sẽ được san sẻ cho các bên. Nếu nhà ĐTNN đầu tư 100% vốn thì họ toàn quyền quản lý và điều hành công ty.
Thứ ba: chủ thể của Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhà đầu tư nước ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài là “cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam” Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Nhà ĐTNN là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận. Khi thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài vừa tuân thủ theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ tư: mục đích hàng đầu của Đầu tư trực tiếp nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận.
Trong khi các hình thức đầu tư gián tiếp thu được lợi tức tài chính ổn định, nguồn thu của các doanh nghiệp Đầu tư trực tiếp nước ngoài hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ đầu tư vốn, do đó thu nhập mà doanh nghiệp Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được mang tính chất thu nhập kinh doanh và kém ổn định hơn.
Xét về mặt tích cực, nhà đầu tư được tự chủ hoàn toàn trong hoạt động kinh doanh của mình, toàn quyền đưa ra các quyết định tài chính và chịu trách nhiệm lãi lỗ với các khoản đầu tư. Đây được coi là động lực thúc đẩy nhà đầu tư tập trung đưa ra các quyết định phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đó cũng là lý do các dự án ĐTTTNN thường đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn so với các hình thức đầu tư khác.
1.1.4. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
1.1.4.1. Khái niệm ngành công nghiệp hỗ trợ
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” (CNPT) tương đồng với khái niệm “công nghiệp hỗ trợ” (CNHT) (supporting industries).
Thuật ngữ “công nghiệp phu ̣trợ ” hay “công nghiệp hỗ trợ ” được sử dụng rộng rãi, đặc biệt ở các nước Đông Á.
Tuy nhiên, khái niệm “công nghiệp phu ̣trợ” hay “công nghiệp hỗ trợ” chưa hình thành một cách hiểu thống nhất trong các lý thuyết kinh tế cũng như trên thực tế.
Tùy theo tình hình cụ thể và đặc thù của từng quốc gia, khái niệm Công nghiệp phụ trợ có sự khác biệt nhất định.Một số tổ chức của các nước cũng có cách định nghĩa riêng về Công nghiệp phụ trợ.
Theo văn phòng phát triển CN hỗ trợ Thái Lan (Bureau of Supporting Industries Development – BSID): CN hỗ trợ là các ngành CN cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra cho các ngành CN cơ bản. Đây là khái niệm và khá tương đồng với khái niệm về Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam.
Bộ Năng lượng Mỹ định nghĩa Công nghiệp phụ trợ bao gồm những ngành cung cấp các quy trình cần thiết để SX và hình thành sản phẩm trước khi chúng được đưa đến các ngành CN cuối cùng. Chương trình phát triển ngành Công nghiệp phụ trợ hiện nay ở Mỹ bao gồm 07 ngành: các thiết bị làm nóng CN; xử lý nhiệt; rèn; hàn; luyện kim bột và các vật liệu dạng hạt; sứ cao cấp; các sản phẩm các – bon [122]. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Trong thực tiễn SX kinh doanh, có hai cách hiểu về Công nghiệp phụ trợ. Ở góc độ hẹp, Công nghiệp phụ trợ là các ngành SX phụ tùng, linh kiện phục vụ cho công đoạn lắp ráp ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ở góc độ rộng hơn, Công nghiệp phụ trợ được hiểu như toàn bộ các ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo ra các máy móc, thiết bị hay những yếu tố vật chất nào khác góp phần tạo thành sản phẩm.
Khái niệm Công nghiệp phụ trợ trên thực tế chủ yếu sử dụng trong các ngành CN có sản phẩm đòi hỏi sự kết nối của nhiều chi tiết phức tạp đòi hỏi tính chính xác cao, dây chuyền SX đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. Hai ngành CN hay sử dụng nhiều khái niệm Công nghiệp phụ trợ là ngành ô tô và điện tử.
Tuy nhiên, Công nghiệp phụ trợ phải được hiểu một cách tổng quát như một hình dung về toàn bộ quá trình SX nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ khác nhau về yếu tố phụ trợ.
Như vậy, có thể thấy rằng Công nghiệp phụ trợ là một khái niệm rộng, có tính chất tương đối. Dù có rất nhiều cách định nghĩa, các khái niệm Công nghiệp phụ trợ đều có các điểm chung như sau: (i) cung ứng các linh phụ kiện cho mục đích SX sản phẩm cuối cùng; (ii) bao gồm các công đoạn chủ yếu để SX các linh kiện kim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử, sợi… nhằm phục vụ một số ngành CN chế tạo như xe máy, ô tô, điện tử, chế tạo máy móc, hàng may mặc; (iii) việc cung ứng này chủ yếu được đáp ứng bởi hệ thống DNNVV có trình độ công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm có độ chính xác lớn, thực hiện các cam kết hợp đồng với khách hàng một cách chuẩn mực; (iv) khách hàng cuối cùng của các ngành Công nghiệp phụ trợ là nhà lắp ráp, do vậy, thị trường của Công nghiệp phụ trợ không rộng như SX sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thị trường hàng hoá của họ thu hẹp hơn, có những nhóm sản phẩm nằm ở phần thị trường rất hẹp và chỉ dành cho một số khách hàng nhất định. Đây chính là khó khăn lớn nhất để phát triển Công nghiệp phụ trợ. Mặc dù vậy, Công nghiệp phụ trợ lại trở nên hấp dẫn và tương đối ổn định nếu DN hỗ trợ đó tìm được khách hàng dài hạn, hoặc tìm được thị trường “ngách” cho mình. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Nhìn chung, các khái niệm về Công nghiệp phụ trợ trên đây đều nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngành CNSX đầu vào cho thành phẩm. Tuy nhiên, mỗi khái niệm xác định một phạm vi khác nhau cho ngành CN này. Nếu không định nghĩa một cách cụ thể thì không thể xác định được đó là ngành CN nào và hỗ trợ cho cái gì, cho ai. Phạm vi của Công nghiệp hỗ trợ nêu trong các chính sách, chiến lược CN rất khác nhau, tùy thuộc vào mục đích sử dụng của các nhà hoạch định chính sách. Thuật ngữ này càng được định nghĩa cụ thể bao nhiêu thì việc hoạch định chính sách càng trở nên dễ dàng hơn, và các chính sách đó cũng có tính khả thi cao hơn.
Ở Việt Nam, thuâṭ ngữ Công nghiệp phụ trợ lần đầu tiên đươc ̣nhắc đến trong sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản, chính thức thông qua và năm 2003.
Thuật ngữ Công nghiệp phụ trợ được sử dụng chính thức từ năm 2004, chủ yếu trong các chỉ thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ. Nội dung phát triển Công nghiệp phụ trợ đã được đề cập trong Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành CN Việt Nam và Kế hoạch tổng thể phát triển CN điện tử Việt Nam năm 2010, tầm nhìn đến 2020.
Trong đó, Công nghiệp phụ trợ được định nghĩa: Hệ thống Công nghiệp phụ trợ là hệ thống các nhà SX và công nghệ SX có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng… cho khâu lắp ráp cuối cùng [62].
Trong bản quy hoạch này, Công nghiệp phụ trợ được phân chia thành hai thành phần chính, phần cứng liên quan đến SX và phần mềm là hệ thống dịch vụ CN và marketing. Năm nhóm ngành đã được Chính phủ chỉ định ưu tiên phát triển Công nghiệp phụ trợ và được hoạch định kế hoạch phát triển cụ thể, đó là: cơ khí, điện tử, ô tô, dệt may, da – giày.
Như vậy, có thể thấy khái niệm về Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam có nét khác biệt so với các khái niệm ở các quốc gia khác:
(i).CNPT được xác định rộng hơn, từ khâu SX nguyên vật liệu đến cả các dịch vụ CN và không chỉ tập trung các DNNVV mà cả các DN lớn. Điều này đồng nghĩa với việc rất khó có thể tạo ra được trọng tâm trong Công nghiệp phụ trợ.
(ii). Các ngành Công nghiệp phụ trợ ở đây được xác định trên cơ sở các ngành CN hạ nguồn (cơ khí, điện tử, ô tô, dệt may, da – giày) chứ không xác định trên đặc thù sản phẩm của ngành SX hỗ trợ (cơ khí chế tạo, nhựa, điện tử…).
Ngoài ra, cùng với thuật ngữ “CNPT”, có một vài khái niệm khác cũng được sử dụng để chỉ ngành CN chuyên cung cấp đầu vào như: CN liên quan và hỗ trợ, thầu phụ, CN phụ thuộc, CN linh phụ kiện, nhà cung cấp…
Đối với Việt Nam, cách hiểu về “CN hỗ trợ” hay “CN phụ trợ” hiện còn chưa đồng thuận về mặt khái niệm, vẫn còn một số cách hiểu và tiếp cận khác nhau , Lĩnh vực công nghiệp phụ trợ có thể phân chia thành 3 nhóm lớn như sau:
- Công nghiệp phụ trợ cung cấp máy móc công cụ và trang thiết bị cho nhiều ngành công nghiệp, bao gồm công nghiệp lắp ráp, chế biến và công nghiệp hỗ trợ khác. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
- Công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp chế biến cung cấp nguyên phụ liệu cho công nghiệp chế biến như dệt may, da giày…
- Công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp lắp ráp cung cấp linh kiện, phụ tùng cho công nghiệp lắp ráp như ô tô, xe máy, điện tử…
1.1.4.2. Đặc điểm ngành công nghiệp hỗ trợ
- CNPT tương đối thâm dụng vốn và đòi hỏi nhiều công nhân lành nghề hơn so với các ngành công nghiệp lắp ráp.
- Sản phẩm của chúng được cung cấp cho cả nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu.
- CNPT là ngành sản xuất cả các bộ phận và linh kiện tiêu chuẩn hóa , thường được sản xuất theo mô-đun và hướng đến xuất khẩu, và các loại cồng kềnh và cụ thể, là loại tích hợp được sản xuất và sử dụng trong nước.
- CNPT được yêu cầu trong cả các ngành công nghiệp loại lắp ráp (như ô tô, xe máy, điện tử) và công nghiệp chế biến (dệt may, da giày) nhưng tính năng khác nhau và yêu cầu xử lý khác nhau; loại thứ nhất đòi hỏi lực lượng lao động có tay nghề cao hơn, sản xuất nhiều bộ phận bằng kim loại, cao su và nhựa, và ảnh hưởng mạnh đến chất lượng sản phẩm, trong khi loại thứ hai có thể sử dụng lao động tay nghề thấp, bao gồm một số ngành công nghiệp và chất lượng của sản phẩm không phụ thuộc nhiều vào họ. Đó là lý do tại sao các ngành công nghiệp hỗ trợ của hai lĩnh vực này cần được giải quyết và phân nhóm riêng trong quy hoạch chiến lược
Như vậy, ngành công nghiệp phụ trợ là một phần quan trọng trong các ngành công nghiệp quốc gia trong thời đại hội nhập kinh tế toàn cấu. Nói cách khác, ngành công nghiệp ở mỗi quốc gia không thể phát triển mạnh mẽ nếu không có ngành công nghiệp phụ trợ hưng thịnh bởi nó là yếu tố xác định chi phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng và quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng.
1.1.5 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho nước nhận đầu tư rất nhiều lợi ích, các ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội của nước nhận đầu tư.
Ngành công nghiệp hỗ trợ (hay ngành công nghiệp phụ trợ) là chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính như sản xuất những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm,… và cũng có thể là những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế.
Đối với các quốc gia trên thế giới, ngành công nghiệp hỗ trợ được phát triển khá sớm (Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á…). Ở Việt Nam được sử dụng từ năm 2003 đến nay. Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về vấn đề này là Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ được yêu cầu bởi sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản, nhằm thúc đẩy quan hệ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản.
Ngành công nghiệp phụ trợ có vai trò quan trọng, sản xuất ra các yếu tố đầu vào được sử dụng rộng rãi, phối hợp hoạt động trong chuỗi giá trị
Trong các văn bản pháp luật cũng như các công trình nghiên cứu khoa học về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa đưa ra khái niệm về đầu tư trực tiếp nước đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
Từ khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và khái niệm về ngành công nghiệp hỗ trợ tác giả đề xuất khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ đó là nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc chủ đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài thông qua các hình thức đầu tư được quy định tại Luật đầu tư và các văn bản pháp luật liên quan đối với các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh.
Như vậy, khái niệm về Đầu tư trực tiếp nước ngoài về ngành công nghiệp phụ trợ là: (i) hoạt động đầu tư bởi các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; (iii) các ngành công nghiệp phụ trợ cung cấp các dịch vụ sản xuất hậu cần, lưu trữ, phân phối và bảo hiểm hoặc cung cấp tất cả các yếu tố đầu vào vật chất bao gồm các bộ phận, linh kiện, công cụ, máy móc, và vật liệu.
Theo phương diện pháp lý, Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức thành lập các tổ chức kinh tế nhằm mục đích kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Từ những phân tích trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhà đầu tư nước ngoài là “cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”
Nhà đầu tư nước ngoài gồm cá nhân, tổ chức thoả mãn các điều kiện mà pháp luật về đầu tư và những cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên được quyền thực hiện hoạt động đầu tư ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam, điều này không có sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, khi thực hiện hoạt động đầu tư đối với một số ngành nhà đầu tư phải chứng minh được năng lực của nhà đầu tư về năng lực tài chính, kinh nghiệm, trình độ… để đảm bảo tính khả thi khi thực hiện đầu tư; chứng minh qua các dự án đầu tư, đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai: Hình thức đầu tư đầu tư trực tiếp bằng thành lập các tổ chức kinh tế phù hợp với đặc thù ngành công nghiệp hỗ trợ. Ngành công nghiệp phụ trợ là ngành cung cấp các yếu tố đầu vào, quy mô hoạt động của doanh nghiệp đa dạng bao gồm: Công ty cổ phần, công ty Trách nhiệm hữu hạn 1 TV, Công ty Trách nhiệm hữu hạn 2TV trở lên và Doanh nghiệp tư nhân. Đây là ngành nghề mà đòi hỏi nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn với tài sản vốn lớn. Tuy nhiên, đối với một số lĩnh vực nhà đầu tư nước ngoài bị giới hạn bởi tỷ lệ phần vốn góp. Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế: Điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài là quy định về tỷ lệ vốn tối đa mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ trong tổ chức kinh tế, phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh của tổ chức kinh tế đó.
Thứ ba: Ngành công nghiệp hỗ trợ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Tại Phụ lục IV của Luật Đầu tư năm 2020, ngành công nghiệp phụ trợ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chính vì lẽ đó, nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Nhà đầu tư được quyền kinh doanh trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại Phụ lục IV của Luật Đầu tư kể từ khi đáp ứng đủ điều kiện và phải bảo đảm đáp ứng các điều kiện đó trong quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp được phép kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Khi thành lập đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, NĐT cần chú ý thực hiện những nội dung, trình tự, thủ tục xin cấp giấy chứng nhận ĐKDN những ngành nghề có điêu kiện.. Ngành công nghiệp phụ trợ đòi hỏi phải có nhiều công nhân lành nghề, chuyên môn cao so với các ngành nghề khác, điều kiện về chứng chỉ hành nghề là điều kiện bắt buộc để thực hiện chuyên môn sản xuất các bộ phận và linh kiện lắp ráp, chế biến tiêu chuẩn hoá để xuất khẩu, các loại cồng kềnh, tích hợp được.
1.1.6. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ.
Thực tiễn đã phản ánh rằng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp đối với ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tới mọi mặt đời sống của nước tiếp nhận đầu tư, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các mặt chính trị, xã hội. Về chính trị, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các công ty đa quốc gia đã đóng vai trò chi phối, thậm chí tham gia các bộ máy chính quyền của nước tiếp nhận đầu tư. Về mặt xã hội, FDI có tác động đến văn hóa, đạo đức của nước tiếp nhận đầu tư.
Xét trên khía cạnh kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những tác động sau đây:
Thứ nhất: Đối với nhà đầu tư nước ngoài
Mục tiêu căn bản nhất của nhà đầu tư nước ngoài là tối đa lợi nhuận và tránh các rủi ro phát sinh khi đầu tư kinh doanh ở nước ngoài.
Mục đích kinh tế của cá nhân, doanh nghiệp cũng như của một quốc gia thường là lợi nhuận và lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Do đó, một khi thị trường trong nước hay các thị trường quen thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh thì họ buộc phải đầu tư sang nước khác để tiêu thụ số sản phẩm đó nếu muốn tiếp tục phát triển hoặc không bị phá sản.
Trong khi đầu tư ra nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị trường cũ như giá lao động rẻ hay tài nguyên chưa bị khai thác nhiều. Hơn nữa, hàng hóa, dịch vụ được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài có khả năng táng uy tín và sức cạnh tranh. Ngoài ra, một trong những mục tiêu mà nhà đầu tư nước ngoài có thể hướng tới là bán máy móc và công nghệ cũ kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhưng lại là mới đôì với nước nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang hoặc chậm phát triển). Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Thứ hai: Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, tạo ra một luồng vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế khác, bởi hoạt động đầu tư dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng và không tạo ra nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy, ít có khuynh hướng thay đổi khi có tình huống bất lợi.
- Cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển.
Có thể nói, công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng được khằng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một trong những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một trình độ phát triển nhất định của khoa học kỹ thuật. Do đó, hoạt động đầu tư được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà ĐTNN.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường đầu tư thường được thực hiện chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia, dưới các hình thức chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của chính công ty đó và chuyển giao giữa các chi nhánh của các công ty đa quốc gia. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các công ty đa quốc gia sang nước chủ nhà, nhất là các nước đang phát triển được thông qua các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm phần lớn cổ phần dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing.
Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là ở các doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế, chế tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với việc phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.
- Giúp phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi nhuận tối đa, cùng cố chỗ đứng và phải duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước tiếp nhận đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt động dịch vụ và gia công cho các dự án có nguồn vốn đầu tư của NĐT nước ngoài cũng tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Những cải thiện về nguồn nhân lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đặt hiệu quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
- Giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu.
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhưng có đầy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Toàn nước đang phát triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của các nước này.
Thông qua Đầu tư trực tiếp nước ngoài các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới, vì hầu hết các hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Ở các nước đang phát triển, các công ty xuyên quốc gia đều đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu do vị thế và uy tín của chúng trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, chính Đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kĩ thuật và công nghệ ở nhiều ngành nghề, phát triển năng suất lao động của các ngành này mặt khác sự tác động của doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào một số ngành nghề được kích thích phát triển đặc biệt là ngành công nghiệp hỗ trợ (phụ trợ) nhưng cũng có một số ngày nghề bị mai một và dần bị xóa bỏ.
1.2. Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
Hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh từ các quan hệ Đầu tư trực tiếp nước ngoài, các quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, nước tiếp nhận đầu tư đã xác định hành lang pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự phát sinh, phát triển, vận động của các quan hệ này theo mục tiêu và ý chí của mình.
Do đó, hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện bởi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bằng việc thành lập tổ chức kinh tế hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật để thực hiện các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Do đó, hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài không chỉ chịu sự tác động, điều chỉnh của một đạo luật về đầu tư (Luật đầu tư) mà còn thuộc sự điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác. Điều này góp phần mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư, không có sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
Do đó, pháp luật về Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu như sau: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp từ nhà đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực ngành nghề kinh doanh là công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam”
Như vậy, hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đối với ngành công nghiệp hỗ trợ được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó, là các điều ước quốc tế song phương và đa phương về đầu tư mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia như Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN (AIA)… Nhiều quy định trong các hiệp định này có nội dung liên quan đến việc điều chỉnh các quan hệ đầu tư trực tiếp được coi là các quy phạm do Nhà nước thừa nhận và là nguồn của pháp luật về đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
Phát triển Công nghiệp hỗ trợ là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Chính phủ, được kỳ vọng sẽ làm thay đổi bộ mặt của ngành công nghiệp Việt Nam.
Để nhận diện đầu tư nước ngoài đối với ngành Công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam đối với các ngành công nghiệp khác, thống nhất trong quản lý nhà nước qua một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật về Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam là tập hợp các chế định pháp luật của một số ngành luật khác như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật tài chính, Luật thương mại, pháp luật thuế… Các quy định của các đạo luật này có sự khác nhau nhất định về chức năng và nội dung cụ thể, tuy nhiên Luật đầu tư nói chung và pháp luật về Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là một bộ phận và có mối liên hệ chặt chẽ với các bộ phận cấu thành khác của các luật trên.
Thứ hai pháp luật về Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam được hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm xây dựng trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Thứ ba: Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam có một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Qua hơn 30 năm đổi mới, hệ thống pháp luật về Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã được hoàn thiện từng bước. Sự ra đời của Luật đầu tư năm 2020 càng thể hiện rõ hơn sự hoàn thiện của pháp luật đầu tư Việt Nam với môi trường đầu tư thông thoáng, an toàn.
Thứ tư, pháp luật về Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam là một hệ thống pháp luật vừa mang tính chất công lại vừa mang tính chất tư điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Pháp luật công thể hiện trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa Nhà nước mà đại diện là các cơ quan có thẩm quyền với nhà ĐTNN trong việc cấp phép đầu tư và quản lý nhà nước liên quan đến thực hiện dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Pháp luật tư thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước; giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với người lao động…
1.2.3. Nội dung pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
1.2.2.1. Các quy định về chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định của Luật đầu tư quy định, chủ thể tham gia hoạt động đầu tư tại Việt Nam là các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Quy định về chủ thể là một quy định quan trọng, nó quyết định phạm vi quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này.
Ngoài quy định của Luật đầu tư; Luật doanh nghiệp và quy định của pháp luật chuyên ngành, các văn bản dưới luật có liên quan.
Ngoài ra, mặc dù Việt Nam đang trong quá trình thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường với tư cách là thành viên WTO và một số FTA, EPA, nhưng cũng có những lĩnh vực mà nhà đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư hoặc phải đáp ứng một số điều kiện. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
1.2.2.2. Các quy định về hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhóm QPPL quy định về hình thức đầu tư như: Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật chuyên ngành…
Hình thức đầu tư: Theo quy định từ Điều 22 đến Điều 29 Luật Đầu tư năm 2020. Đầu tư nước ngoài bao gồm 05 hình thức: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; thực hiện hoạt động đầu tư của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế, hình thức và điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế; thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp; đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP, đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC.
Trong đó, Luật Đầu tư quy định về lĩnh vực, điều kiện, hình thức đầu tư, thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư của tất cả các doanh nghiệp, trong khi Luật Doanh nghiệp quy định về quyền thành lập, hoạt động và tổ chức quản lý doanh nghiệp của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu.
Đảm bảo quyền bình đẳng đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập doanh nghiệp và thực hiện hoạt động đầu tư, góp phần tạo mặt bằng pháp lý thống nhất về quyền thực hiện hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ với mức không hạn chế trong doanh nghiệp Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác. Như vậy, theo các quy định nêu trên, trừ một số hạn chế về tỷ lệ vốn góp và phạm vi hoạt động theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài đã được đối xử bình đẳng với nhà đầu tư trong nước về quyền thực hiện hoạt động đầu tư.
1.2.2.3. Các quy định về lĩnh vực, địa bàn đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam
Nhóm QPPL quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Nhóm QPPL này mang ý nghĩa quan trọng, xác định nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ được đầu tư, đầu tư kinh doanh có điều kiện, Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thành lập, hoạt động kinh doanh, minh bạch hóa môi trường kinh doanh.
Luật đầu tư năm 2020, Nghị định 31/2021/NĐ – CP, đã cải cách mạnh thủ tục đầu tư theo hướng thay thủ tục thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với lĩnh vực đầu tư có điều kiện bằng thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và không yêu cầu lấy ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành. Cùng với đó, đầu mục hồ sơ đăng ký đầu tư được giảm thiểu đáng kể theo hướng không yêu cầu nhà đầu tư phải chuẩn bị các tài liệu như, giải trình kinh tế – kỹ thuật, giải trình đáp ứng điều kiện… để tạo thuận lợi và giảm thời gian, thủ tục cho nhà đầu tư.
1.2.2.4. Nhóm các quy định về khuyến khích, bảo đảm đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam
Các quy định này mang ý nghĩa quan trọng và là lực hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về “Định hướng toàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”
Nghị quyết 58-NQ/CP ngày 27/4/2020 về “Ban hành chương trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
Theo quy định của Luật đầu tư gồm 02 mục và 07 điều (từ Điều 15 đến Điều 21). Cụ thể:
Mục 1: Ưu đãi đầu tư từ Điều 15 đến Điều 18, quy định về: Hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư, Ngành, nghề ưu đãi đầu tư và địa bàn ưu đãi đầu tư, thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư, mở rộng ưu đãi đầu tư
Mục 2: Hỗ trợ đầu tư từ Điều 19 đến Điều 21, quy định về: Hình thức hỗ trợ đầu tư, Hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, Phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Trong quan hệ với các luật về thuế: Luật Đầu tư quy định lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và nguyên tắc áp dụng ưu đãi đầu tư, còn mức ưu đãi cụ thể được quy định trong pháp luật thuế và pháp luật có liên quan.
Trong quan hệ với Luật Đất đai: Các quy định của Luật Đầu tư liên quan đến điều kiện sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất… đã được thiết kế phù hợp với quy định tương ứng của Luật Đất đai năm 2013.
Do đó, nhóm QPPL về ưu đãi đầu tư tập trung vào ưu đãi về thuế và đất đai:
- Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư;
- Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất.
Như vậy, nhằm đảm bảo tính khả thi, minh bạch và đồng bộ giữa quy định của Luật này với quy định của pháp luật liên quan, Luật Đầu tư năm 2020 đã làm rõ tiêu chí xác định một số dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư chưa được quy định cụ thể trong Luật hiện hành, như: dự án sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kết cấu hạ tầng, v.v.. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Về địa bàn ưu đãi đầu tư: Luật Đầu tư năm 2014 kế thừa những quy định của Luật Đầu tư năm 2005 khi quy định địa bàn đầu tư bao gồm:
- Địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;
- Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Nhóm QPPL về chính sách hỗ trợ phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế chủ yếu được tập trung tại Luật đầu tư năm 2020; Luật đất đai; Luật ngân sách nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng
Xác định rõ các điều kiện, tiêu chí hỗ trợ một phần vốn ngân sách và nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào KCN, KCX, KKT tại một số địa phương có địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn hoặc địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Tạo cơ chế hỗ trợ phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KCX, KKT theo hướng yêu cầu các địa phương có KCN, KCX, KKT phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà ở, công trình dịch vụ và tiện ích công cộng cho người lao động. Đối với các KCN, KCX gặp khó khăn trong bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở cho người lao động, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc dành một phần diện tích đất để phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động.
1.2.2.5. Các quy định về thủ tục đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam
Là quá trình thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Quy định về thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng từ sự vận động, phát triển của quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài tủ tục thông thoáng sẽ tạo tâm lý thoải mái cho các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư vào thị trường Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 30, 31, 32 Luật đầu tư năm 2020 đối với các dự án đầu tư mà phải xin quyết định chủ trương đầy tư của Quốc Hội, Thủ tướng Chính Phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh thì các chủ đầu tư phải thực hiện thủ tục xin quyết định chủ trương đầu tư phù hợp với quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền này với trình tự thủ tục quy định tại Điều 33, 34, 35 Luật đầu tư năm 2020.
Nếu các dự án không thuộc các trường hợp tại điều 30, 31, 32 Luật đầu tư năm 2014 thì nhà đầu tư không phải thực hiện thủ tục xin quyết định chủ trương.
Như vậy, nếu các nhà đầu tư muốn thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam, việc đầu tiên là phải xem dự án đầu tư có phải xin quyết định chủ trương của Quốc Hội, Thủ tướng Chính Phủ, Ủy ban nhân dân Tỉnh không. Nếu thuộc thì đầu tiên, phải thực hiện thủ tục xin quyết định chủ trương đầu tư theo quy định theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam
1.3.1. Yếu tố kinh tế Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Bảo đảm tính chủ động cho nền kinh tế. Việc cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện, các bán thành phẩm ngay trong nội địa làm cho nền công nghiệp chủ động, không bị lệ thuộc nhiều vào nước ngoài và các biến động của nền kinh tế toàn cầu. Công nghiệp hỗ trợ không phát triển làm cho các ngành công nghiệp chính thiếu sức cạnh tranh và phạm vi phát triển cũng giới hạn trong một số ít các ngành.
Hạn chế nhập siêu. Do luôn luôn phải nhập khẩu nguyên liệu và các linh phụ cho sản xuất lắp ráp trong nước, hầu hết các nước đang phát triển lâm vào tình trạng nhập siêu. Phát triển Công nghiệp hỗ trợ, vì vậy góp phần hiệu quả trong việc khai thác các nguồn lực trong nước, giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên và các sản phẩm chế biến thô. Phát triển Công nghiệp hỗ trợ sẽ là một trong các biện pháp quan trọng góp phần giải quyết tình trạng nhập siêu của nền kinh tế các quốc gia đang phát triển, bảo đảm cân bằng cán cân xuất nhập khẩu.
Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính. Cùng với việc chủ động trong nguồn cung ứng, chi phí của sản phẩm công nghiệp cũng giảm đáng kể do cắt giảm chi phí vận chuyển, lưu kho, tận dụng nhân công rẻ và nguồn nguyên liệu ngay tại nội địa. Việc phát triển các ngành Công nghiệp hỗ trợ một cách hợp lý, cân đối trong bối cảnh “thế giới phẳng” ngày nay sẽ tạo ra các sản phẩm có đặc thù riêng của quốc gia, có sức cạnh tranh hơn hẳn các sản phẩm chỉ được lắp ráp bởi các linh kiện và nguồn cung ứng toàn cầu.
Nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp. Các giai đoạn thượng nguồn và các hạ nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng cao. Đây chính là công đoạn của các ngành Công nghiệp hỗ trợ. Trong khi trung nguồn với các hoạt động lắp ráp, gia công là khu vực ít tạo ra giá trị gia tăng nhất. Như vậy, một quốc gia có thể tạo ra giá trị gia tăng của các sản phẩm công nghiệp khi khu vực thượng nguồn với nguyên phụ liệu, cụm linh kiện được cung ứng ngay trong nội địa. Phát triển Công nghiệp hỗ trợ, vì vậy, góp phần hiệu quả trong việc khai thác các nguồn lực trong nước, giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên và các sản phẩm chế biến thô.
Phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ: Công nghiệp hỗ trợ hầu hết do hệ thống DNNVV đảm nhiệm, đây là khu vực doanh nghiệp tạo nhiều việc làm, là nền tảng sáng tạo của quốc gia. Đặc biệt, phát triển hệ thống DNNVV là một trong các biện pháp hữu hiệu đối phó với khủng hoảng kinh tế, là đối trọng để cân bằng với các tập đoàn kinh tế khổng lồ hay bị tác động nhanh và mạnh nhất của các khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Mở rộng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công nghiệp hỗ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty sản xuất thành phẩm phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài, nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm, phí lưu kho bãi, ứ đọng vốn cho việc nhập khẩu và lưu kho… sẽ làm tăng chi phí đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Các công ty đa quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý chuỗi cung ứng nếu phải nhập khẩu phần lớn linh kiện, bộ phận và các sản phẩm Công nghiệp hỗ trợ khác.
1.3.2. Yếu tố quản lý nhà nước
- Tình hình chính trị của nước nhận đầu tư Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Tình hình chính trị của nước nhận đầu tư có liên quan chặt chẽ đến sự ổn định của kinh tế – xã hội. Đây là yếu tố tác động trực tiếp và có tính toàn diện làm tăng hoặc giảm khả năng rủi ro trong đầu tư. Các nhà đầu tư không thể quyết định chuyển vốn đầu tư vào thị trường có nền kinh tế bị khủng hoảng hoặc đang chứa đựng nhiều tiềm năng bùng phát khủng hoảng vì ở đó có độ mạo hiểm cao. Sự ổn định chính trị không chỉ là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn vốn đầu tư mà còn có vai trò to lớn để đảm bảo sự ổn định nền kinh tế xã hội, nhờ đó giảm được khả năng rủi ro đầu tư. Đây là những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Chính sách, pháp luật của nước nhận đầu tư
Vì quá trình đầu tư có liên quan đến nhiều hoạt động của các tổ chức, cá nhân và được tiến hành trong khoảng thời gian rất dài, ở nơi xa lạ nên các nhà đầu tư nước ngoài rất cần môi trường pháp lý vững chắc, có hiệu quả. Các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm nhiều đến mức độ đầy đủ, hiệu quả và tính minh bạch của các chính sách tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư như quy định về lĩnh vực đầu tư, mức sở hữu của người nước ngoài, miễn giảm thuế đầu tư, quy định tỷ lệ xuất khẩu, tư nhân hóa, cạnh tranh, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ., Các chính sách để ảnh hưởng gián tiếp như chính sách tài chính tiền tệ, thương mại, văn hóa xã hội, an ninh, đối ngoại. Nếu các chính sách này không thống nhất, chồng chéo sẽ là nhất nhân tố cản trở đến các nhà đầu tư nước ngoài vì họ không yên tâm làm ăn rẻ ở nước nhận đầu tư do đó không thu được lượng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phục vụ sự phát triển của đất nước
1.3.3. Yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
Đây cũng là một yếu tố mới thúc đẩy Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Toàn cầu hóa tạo nên mạng lưới sản xuất quốc tế rộng khắp. Khái niệm toàn cầu hóa được phát triển cao hơn khái niệm quốc tế hóa. Chính tốc độ phát triển nhanh chóng của toàn cầu hóa sẽ thúc đẩy xu hướng tự do hóa thương mại, từ đó tạo thuận lợi cho các công ty đa quốc gia mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn cầu. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng. Trên thực tế, động lực của quá trình sản xuất quốc tế ngày nay phần lớn đều phản ánh bản chất, tốc độ và tính thâm nhập của tiến bộ công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông, công nghệ vận tải mới … Đang cho phép các công ty đang ra mở rộng quy mô và quản lý các hoạt động đầu tư quốc tế của mình một cách hiệu quả hơn.
Tiểu kết chương 1
Đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam xuất hiện cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thúc đẩy kinh tế Việt Nam – nền kinh tế đang phát triển. Trong chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu những vấn đề chung về hoạt động đầu tư; hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, nhận diện bản chất về Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các ngành công nghiệp hỗ trợ, các yếu tố ảnh hưởng đến Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp này trên cơ sở lý luận về Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành Công nghiệp hỗ trợ; vai trò của Đầu tư trực tiếp nước ngoài để có cái nhìn tổng quan về cách thức thu hút, chính sách thu hút của Nhà nước đồng thời tác giả cũng nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp hỗ trợ để từ đó nghiên cứu và tìm hiểu các quy định của pháp luật thực định tại chương 2. Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật đầu tư nước ngoài về ngành công nghiệp […]