Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Yêu Cầu Đắt Ra Và Các Giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế

Bảo vệ môi trường trong đó có kiểm soát ÔNMT do CTYT là mục tiêu ưu tiên trong phát triển bền vững của quốc gia.Trách nhiệm đó thuộc về các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân. Để tạo được khung pháp lý toàn diện và khả thi cho hoạt động kiểm soát ÔNMT do CTYT, việc hoàn thiện các quy định pháp luật cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất,hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT phải bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Tại Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành đồng thời phải có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.”. Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành là một nguyên tắc chính thức tuy nhiên chưa ghi nhận các quyền khác làm cơ sở, làm tiền đề cho thực hiện quyền này, như: quyền được thông tin về môi trường; quyền được yêu cầu và được bồi thường thiệt hại về môi trường; trách nhiệm hình sự với tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm đến quyền được sống trong môi trường trong lành,…và cũng chưa có các quy định về cơ chế để bảo vệ quyền này theo quy định rõ cơ chế pháp lý thuần túy (tức là kiện ra cơ quan quản lý nhà nước hoặc Tòa án) để bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành. Luật BVMT 2014 và các văn bản luật liên quan cần có những cập nhật sửa đổi phù hợp với quy định của Hiến pháp, tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật cũng như góp phần làm tăng thêm tính hiệu quả và tính khả thi trong quá trình áp dụng, thực hiện pháp luật kiểm soát ÔNMT do CTYT trên thực tiễn. Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Thứ hai,hoàn thiện pháp luật kiểm soát ÔNMT do CTYT cần đảm bảo thực hiện hiệu quả đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này phải xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ môi trường trong đó đề cao việc kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường nhưtại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI năm 2013 đã ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong đó đưa ra mục tiêu về bảo vệ môi trường đến năm 2020 là: “không để phát sinh và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tiêu huỷ, xử lý trên 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế.”

Thứ ba,việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT phải đảm bảo yêu cầu của việc hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay.Với ý nghĩa đó việc hoàn thiện pháp luật về môi trường ở Việt Nam sẽ phải phù hợp với các điều ước quốc tế và khu vực về vấn đề này, đặc biệt hơn là Việt Nam càng ngày càng phải thực thi nghiêm túc những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, kể cả trường hợp Việt Nam chưa nội luật hóa các điều ước quốc tế đó. Việt Nam cần chủ động học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và kiểm soát ÔNMT do CTYT của nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Đức,….Cần có các quy định pháp luật hạn chế việc xử lý chất thải y tế nhỏ lẻ bằng các công nghệ lạc hậu, có chính sách khuyến khích ứng dụng được các công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, thu hồi được năng lượng vào xử lý chất thải y tế, kiểm soát chất thải y tế có chứa thủy ngân như các nước trên đã quy định.

Thứ tư, việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT cần chấm dứt tình trạng chưa đồng bộ, chưa có tính hệ thống, còn tản mạn, phải đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất trong từng quy định của văn bản cũng như với cả hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT và bảo vệ môi trường đồng thời phải dự liệu và tính toán một cách đầy đủ toàn diện,đảm bảo tính ổn định tránh tình trạng các quy định được sửa đổi liên tục gây khó khăn cho các chủ thể trong việc cập nhật và triển khai thực hiện.Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tại Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020như sau: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Tính đồng bộ và thống nhất của pháp luật phải được xem xét trên cả hai phương diện hình thức và nội dung, trong mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành, luật nội dung và luật hình thức… đòi hỏi các văn bản pháp luật phải bảo đảm sự nhất quán. Vì vậy các văn bản pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT khi được hoàn thiện phải thống nhất với nhau và thống nhất với các văn bản luật thuộc các lĩnh vực khác, chấm dứt tình trạng các quy định của pháp luật chồng lấn nên khó triển khai trong tình trạng “lắm thầy thối ma” hoặc “cha chung không ai khóc”. Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Thứ năm,việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT cần gắn với vai trò của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong việc giám sát công tác quản lý, cũng như chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, kiểm soát ÔNMT do CTYT dường như vẫn đang được xem là trách nhiệm của Nhà nước. Quan điểm kiểm soát ÔNMT để bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội vẫn chưa được thực thi một cách đầy đủ do thiếu những quy định xác định rõ vai trò, quyền hạn, trách nhiệm, phân định nhiệm vụ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng dân cư.

Thứ sáu, quá trình hoàn thiện chính sách pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT cần tập trung vào kiểm soát ô nhiễm tại nguồn nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Xây dựng các chính sách ưu đãi, khuyến khích các cơ sở xử lý chất thải đầu tư các thiết bị, công nghệ xử lý chất thải theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường. Hỗ trợ đầu tư xử lý chất thải y tế theo hình thức hợp tác công tư để đầu tư, xây dựng các công trình, hạng mục BVMT tại cơ sở y tế nhằm phát triển năng lực xử lý chất thải y tế tại Việt Nam cả về chất lượng và số lượng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở Việt Nam

Thứ nhất, cần quy định rõ nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường vào trong Luật, như: các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường coi đây là cơ sở để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường; các quy định về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường; các quy định về thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường; các quy định về ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường; các quy định về xử lý ô nhiễm môi trường; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong thực hiện các nội dung trên nhằm giữ cho môi trường được trong lành. Trên cơ sở nội dung kiểm soát ÔNMT của Luật thì cần có một Nghị định của Chính phủ quy định về hướng dẫn thi hành các nội dung trên đồng thời Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư quy định về kiểm soát ÔNMT do CTYT để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả.

Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung các quy định đối với hệ thống về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật bảo vệ môi trường trong ngành y tế. Cụ thể như sau: Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Đối với các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được ban hành đã lâu và không còn phù hợp Luật BVMT 2014 và yêu cầu thực tế hiện nay thì cần có những sửa đổi, bổ sung. Ví dụ như đối vớiQCVN 28:2010/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải y tế tại các cơ sở y tế cần bổ sung quy định giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm đặc trưng trong nước thải y tế khi xả ra nguồn tiếp nhận. Nguồn tiếp nhận nước thải là nơi nước thải được xả vào, bao gồm hệ thống thoát nước (đô thị, khu dân cư), sông, suối, khe, rạch, kênh, mương; hồ, ao, đầm; vùng nước biển ven bờ, vùng biển và nguồn tiếp nhận khác. Sửa đổi, điều chỉnh giá trị của các thông số ô nhiễm cho phù hợp với quy chuẩn quốc gia và xem xét bổ sung một số thông số như tổng Nitơ (thay cho thông số nitrat), Clo dư, tổng các chất hoạt động bề mặt… Đối với bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải y tế sau khi khử trùng sẽ được quản lý như đối với chất thải rắn y tế thông thường, để tránh gây tốn kém kinh phí cho các cơ sở y tế khi phải thực hiện phân tích tính chất nguy hại theo quy định của QCVN 50:2013/BTNMT. Sửa đổi sổ sung quy định về đối tượng áp dụng theo hướng bao quát hết các nhóm đối tượng cơ sở y tế có liên quan để phù hợp với quy định tại Luật khám, chữa bệnh.

Đưa nội dung quy định về tổng lượng thải vào quy định của các quy chuẩn để phù hợp nội dung quy định tại khoản 2 Điều 117 Luật Bảo vệ môi trường 2014 “Hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong chất thải được xác định căn cứ vào tính chất độc hại, khối lượng chất thải phát sinh và sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải”và để làm căn cứ tính toán dự báo khả năng ÔNMT, là cơ sở để tính thuế, phí môi trường đối với cá nhân, tổ chức có hoạt động thải CTYT hoặc khí thải ra môi trường.

Bổ sung quy định về thời điểm được phép xả thải hoặc thời điểm vận hành lò đốt CTRYT, thiết bị hấp chất thải lây nhiễm ngoài các quy định các thông số ô nhiễm và phương pháp xác định các thông số để giảm tải cho các nguồn tiếp nhận (nguồn nước, không khí….) vào các giờ cao điểm.

Xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật khác như quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xử lý chất thải y tế lây nhiễm bằng lò vi sóng để phù hợp với xu hướng sử dụng ngày càng rộng rãi phương pháp xử lý chất thải y tế lây nhiễm bằng lò sóng hiện nay.

Thứ ba, Luật BVMT 2014 cần có những quy định hướng dẫn cụ thể hơn về trách nhiệm dân sự do sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường trong đó có nguyên nhân do chất thải y tế:

Quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường, nhiễm môi trường trong đó có nguyên nhân do chất thải y tế, giải quyết được các nội dung chưa được quy định đầy đủ và thống nhất của Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015 và quy định tại điểm d khoản 1 Điều 112 của Luật BVMT 2014 để tránh việc dẫn chiếu lòng vòng các quy định của pháp luật khi áp dụng và rất khó xác định định căn cứ pháp lý, quy định cụ thể để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại với các chủ thể vi phạm.

Quy định thời hiệu khởi kiện gắn với thời điểm thiệt hại thực tế bắt đầu xảy ra cho việc yêu cầu đòi bồi thường trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vì ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm không hoàn toàn trùng khớp với ngày phát sinh thiệt hại

Thứ tư, đối với các quy định về xử phạt vi phạm hành chính cần tăng mức phạt tiền là 2.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 5.000.000.000 đồng đối với tổ chức nhằm đủ sức răn đe không để chủ thể vi phạm có thể tái phạm nhiều lần. Ngoài ra, có thể bỏ quy định quy định tối đa đối với mức phạt để cơ quan có thẩm quyền trong một số trường hợp nếu xác định được thiệt hại do hành vi phạm gây ra lớn hơn mức phạt nhiều lần sẽ căn cứ để áp dụng mức xử phạt cao hơn.

Quy định cụ thể đối với biện pháp buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 để cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế có căn cứ để ghi rõ biện pháp cưỡng chế được áp dụng trong quyết định cưỡng chế. Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Bổ sung quy định tại Nghị định 155/2016/NĐ-CP về cơ chế cơ chế phối hợp, cũng những trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành liên quan trong phối hợp thực hiện các quyết định cưỡng chế thi hành các quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Sửa đổi, bổ sung các quy định trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường, thẩm quyền xử phạt của các cơ quan quản lý nhà nước giữa Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định 72/2010/NĐ-CP tạo ra sự đồng bộ, thống nhất đối với quy định này.

Thứ năm, đối với các quy định về trách nhiệm hình sự cần bổ sung quy định các cơ sở y tế khám chữa bệnh, cơ sở xét nghiệm, nghiên cứu dược phẩm(là pháp nhân không phải là pháp nhân thương mại) cũng phải chịu trách nhiệm hình sự khi có các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Với sức răn đe mạnh mẽ hơncủa các chế tài trách nhiệm hình sự thì các chủ thể quản lý chất thải y tế sẽ chấp hành nghiêm chỉnh hơn các quy định của pháp luật, hạn chế được sự vi phạm và các ảnh hưởng xấu đến môi trường đồng thời không bỏ lọt tội phạm môi trường.

Bộ Luật Hình sự 2015 cần có quy định đối với hành vi “Che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường” mà theo quy định tại khoản 15 Điều 7 của Luật BVMT 2014 thì đây là hành vi bị cấm để tạo ra sự thống nhất của các quy định pháp luật đối với tội phạm môi trường.

Đối với tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường được quy định tại Điều 237 BLHS 2015 khoản 1 thì nên gộp điểm a, điểm b thành 1 điểm với việc quy định “Vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên hoặc gây thiệt hại từ 1 tỷ đồng đến dưới 3 tỷ đồng”. Bởi vì, nếu chỉ quy định như tại Điểm a, Khoản 1, Điều 237 là “để xảy ra sự cố môi trường” đã bị xử lý hình sự thì sẽ không hợp lý và không rõ trường hợp nào sẽ phải xử lý. Sự cố môi trường có thể có nhiều cấp độ khác nhau và theo quy định về tội phạm môi trường là những hành vi nguy hiểm cho môi trường cần phải loại bỏ thì nhất thiết phải xác định được hậu quả trong trường hợp này.

Thứ sáu, đối với các quy định về thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về chất thải y tế, Luật BVMT 2014 bổ sung quy định riêng về thanh tra, kiểm tra về môi trường các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm luật phù hợp với Luật BVMT năm 2014, tạo điều kiện thuận lợi cho các bệnh viện thực hiện tốt các quy định của nhà nước về BVMT. Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành, phát hiện kịp thời các sai phạm để kịp thời chấn chỉnh đối với các bệnh viện gây ô nhiễm môi trường, đi đôi với việc áp dụng các chế tài, xử phạt nghiêm khắc có tác dụng răn đe, ngăn ngừa vi phạm. Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Thứ bảy, trên cơ sở các quy định của Điều 105, 106 và 107 Luật BVMT 2014, cần có quy định riêng về phục hồi môi trường bị ô nhiễm do CTYT để việc áp dụng các quy định chung về phục hồi môi trường nhằm giải quyết vấn đề ÔNMT do CTYT được thuận lợi và hiệu quả cao.

Thứ tám, trên cơ sở Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, cần có văn bản hướng dẫn về đối tác công tư trong xử lý chất thải y tế, tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, hiệu quả và khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ hơn trong việc đầu tư vào các dự án xử lý chất thải theo hình thức đối tác công tư. Giúp giảm gánh nặng đầu tư ban đầu cho các bệnh viện và chi trả cho nhà đầu tư chi phí vận hành hàng tháng trong giới hạn cho phép của ngân sách. Ngoài ra, các nhà đầu tư không chỉ cung ứng vốn, mà còn chuyển giao các phát minh, các công nghệ mới, cũng như kỹ năng quản trị tốt.

Thứ chín, Công ước Minamata về Thủy ngân đưa ra quy định kiểm soát các hoạt động liên quan đến sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh, phân phối, vận chuyển, sử dụng, lưu trữ và thải bỏ thủy ngân nhằm mục tiêu bảo vệ sức khỏe con người và môi trường do phát thải nhân sinh của thủy ngân và các hợp chất thủy ngân. Các quốc gia thành viên sau khi ký kết sẽ có lộ trình đến giai đoạn năm 2020- 2025 để thực thi các quy định của Công ước. Ở nước tatrong thông tư liên tịch Số: 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT Quy định về Quản lý chất thải y tế, tại điều 4 quy định chất hàn răng amalgam thải bỏ là một loại chất thải nguy hại không lây nhiễm cần phải xử lý. Các chất thải chứa thủy ngân khác đều là chất thải nguy hại và phải xử lý theo Nghị định 38/2015/NĐ-CP về Quản lý chất thải và phế liệu. Để thực thi Công ước Minamata cần xây dựng và ban hành các quy định pháp luật về kiểm soát chất thải y tế có chứa thủy ngân và dần tiến tới loại bỏ các dụng cụ y tế có chứa thủy ngân nhằm giảm thiểu tác hại của thủy ngân đối với sức khỏe và môi trường sống của cộng đồng.

Thứ mười, ban hành các quy định xác định rõ vai trò, quyền hạn, trách nhiệm, phân định nhiệm vụ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng dân cư trong việc giám sát công tác quản lý, cũng như chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở có nguồn phát sinh CTYT. Xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, phân định rõ rách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Y tế và các Bộ, ngành liên quan về trách nhiệm chỉ đạo thực hiện, bố trí nguồn lực, kiểm tra giám sát việc thực hiện các biện pháp khắc phục ÔNMT trong các CSYT của địa phương.

Thứ mười một, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý ô nhiễm triệt để, tạo hành lang pháp lý đồng bộ hoàn thành tiến độ theo yêu cầu của Quyết định số 1788/QĐ-TTg. Đồng thời, xây dựng và ban hành các văn bản quy định về chứng nhận cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng đã hoàn thành xử lý triệt để ô nhiễm môi trường như: Thông tư quy định về chứng nhận cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng đã hoàn thành xử lý triệt để ô nhiễm môi trường (thay thế Quyết định số 10/2006/QĐ-BTNMT ban hành quy định chứng nhận cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng đã hoàn thành xử lý triệt để theo quyết định số 64/2003/QĐ-TTg); Thông tư quy định về Tiêu chí xác định cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng (thay thế Thông tư số 04/2012/TT-BTNMT ngày 8/5/2012 quy định tiêu chí xác định cơ sở gây ô nhiễm môi trường, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng). Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở Việt Nam

3.3.1. Giải pháp khoa học và công nghệ

Sự phát triển kinh tế – xã hội đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho công tác BVMT, đặc biệt là kiểm soát ô nhiễm, ứng phó sự cố môi trường. Từ thực tiễn của công tác quản lý nhà nước về BVMT trong những năm qua cho thấy, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong BVMT ngày càng trở nên quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý môi trường.

Những ứng dụng khoa học và công nghệ góp phần nâng cao hiệu quả công tác quan trắc và kiểm soát chất lượng môi trường. Giải pháp hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đi kèm với bảo vệ môi trường để hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống để hạn chế phát thải, thì sử dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để giải quyết các vấn đề môi trường hiện hữu, đặc biệt là rác thải y tế, là rất cần thiết.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra các chính sách nhằm khuyến cáo các quốc gia quan tâm đến quản lý CTYT, theo đó khuyến khích sử dụng các thiết bị bằng công nghệ không đốt để xử lý chất thải rắn y tế thay thế cho công nghệ đốt. Ở Việt Nam hiện nay đã áp dụng công nghệ không đốt (sử dụng phương pháp nhiệt độ thấp như nồi hấp khử trùng hoặc thiết bị vi sóng) để xử lý CTYT lây nhiễm và đã chứng minh được hiệu quả xử lý. Việc áp dụng các công nghệ không đốt trong xử lý CTYT lây nhiễm thay thế cho công nghệ đốt hiện nay là rất cần thiết, phù hợp với xu hướng chung của thế giới, góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam khi tham gia Công ước Stốckhôm về giảm phát thải không chủ định các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ công nghệ đốt.

Để áp dụng giải pháp khoa học và công nghệ cần có sự chung tay, góp sức của tất cả các cơ quan quản lý cũng như các nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng để đưa nhanh, phát huy hết hiệu quả của các kết quả nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn, bằng những biện pháp cụ thể như: Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

  • Có rất nhiều công trình nghiên cứu về công nghệ tiên tiến xử lý chất thải y tế, tuy nhiên chúng ta còn gặp khó khăn trong chuyển giao, ứng dụng.Vì vậy, rất cần sự quan tâm, chính sách hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước để đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ xử lý chất thải thân thiện với môi trường cho các cơ sở phát sinh CTYT.
  • Nghiên cứu, đầu tư các công nghệ hiện đại để phòng ngừa ÔNMT do CTYT, để dự báo, giám sát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ÔNMT do CTYT.
  • Cần khuyến khích phát triển áp dụng các công nghệ và quy trình trong hoạt động y tế ít chất thải, công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm môi trường

Để hoàn thành mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 không còn cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế cần yêu cầu Sở Y tế các tỉnh rà soát tổng thể các cơ sở y tế, bệnh viện công lập trực thuộc. Trên cơ sở đó sẽ xem xét thực trạng nhu cầu của từng đơn vị, lập danh mục các cơ sở y tế có hệ thống xử lý nước thải đã xuống cấp hoặc quá tải; cơ sở có nhu cầu cải tạo, nâng cấp… để báo cáo UBND các tỉnh xem xét bố trí ngân sách.Về việc xử lý chất thải rắn y tế nguy hại theo phương án: với các cơ sở y tế có khoảng cách gần nhau, có thể lựa chọn mô hình điểm tiếp nhận và lưu giữ chất thải theo cụm trước khi vận chuyển đến các khu xử lý tập trung. Còn với các cơ sở y tế ở khu vực có khoảng cách xa, khối lượng và thành phần chất thải y tế phát sinh ít, cần xây dựng phương án liên kết, phối hợp theo mô hình cụm để việc thu gom, xử lý có hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Các cơ sở y tế không có điều kiện vận chuyển chất thải rắn y tế đến các khu xử lý tập trung hoặc theo cụm có thể lựa chọn hướng xử lý tại chỗ. Tất nhiên, việc xử lý chất thải y tế tại chỗ phải áp dụng công nghệ không đốt, thân thiện với môi trường.

Xây dựng các cơ chế tương tác giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với người dân trong việc kiểm soát ÔNMT do CTYT như công cụ Facebook, Internet, Email, Zalo…để các thông tin về tình hình môi trường xung quanh khu dân cư gần các nguồn CTYT cũng như hoạt động của các chủ nguồn CTYT được giám sát kịp thời và hạn chế hậu quả của ÔNMT.

3.3.2. Giải pháp xã hội hóa hoạt động kiểm soát chất thải y tế Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Xã hội hóa công tác BVMT chính là việc huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các tổ chức xã hội và cộng đồng tham gia các hoạt động BVMT, là việc huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp BVMT của đất nước. Để đạt được mục đích đó trong lĩnh vực kiểm soát ÔNMT do CTYT cần thực hiện các giải pháp sau:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các bệnh viện trong kiểm soát ÔNMT do CTYT và thực hiện các quy định về BVMT. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật, các thông tin về BVMT cho cán bộ y tế, người bệnh… trong các bệnh viện.

Xây dựng và thực hiện các mô hình hợp tác công tư, nhà nước và nhân dân cùng làm trong kiểm soát CTYT, đặc biệt là trong việc khắc phục, cải tạo các điểm nóng về môi trường. Việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ và khu vực tư nhân (hợp tác công-tư, PPP) sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy các sáng kiến môi trường bền vững. Tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, hiệu quả và khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ hơn trong việc đầu tư vào các dự án xử lý chất thải theo hình thức đối tác công tư.

 Tổ chức truyền thông rộng rãi, nâng cao nhận thức, tổ chức các diễn đàn kêu gọi đầu tư vào các công trình, dự án, hoạt động liên quan đến CTYT có công nghệ thân thiện với môi trường. Tăng cường cơ chế trao đổi thông tin liên quan đến lĩnh vực, tạo điều kiện thuận lợi cho khối tư nhân có nhu cầu tham gia công tác xã hội hóa xử lý CTYT.

Thúc đẩy mạnh mẽ hơn các phong trào BVMT trong nhân dân, đặc biệt cần phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức phi chính phủ, của cộng đồng trong việc giám sát và thực thi các quy định pháp luật về BVMT. Xây dựng các quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của cộng đồng. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng bằng việc công bố dự thảo báo cáo đánh giá tác động môi trường để lấy ý kiến của người dân, các bên liên quan trước khi phê duyệt các quy hoạch phát triển và dự án cụ thể. Xác lập cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính sự nghiệp và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các cơ sở nhà nước và tư nhân khi tham gia BVMT. Tăng cường vai trò của cộng đồng trong việc giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật về kiểm soát ÔNMT do chất thải y tế ở địa phương. Khuyến khích mở rộng các phong trào tình nguyện tham gia trong công tác BVMT, kiểm soát ÔNMT do chất thải y tế. Nghiên cứu xây dựng mạng lưới tình nguyện viên về kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT trong cả nước. Xây dựng các cơ chế tương tác giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với người dân trong việc kiểm soát ÔNMT do CTYT.

3.3.3. Giải pháp tài chính Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Đa dạng hóa nguồn lực đầu tư nhằm thu hút tối đa, sử dụng hiệu quả các nguồn lực với cơ chế khuyến khích hợp lý, nhằm ngăn ngừa, khắc phục, xử lý ô nhiễm, cải tạo môi trường bị ô nhiễm là giải pháp tài chính quan trọng. Huy động nguồn lực tài chính để đầu tư xây dựng hệ thống xử lý CTYT từ các nguồn: Ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu cho địa phương; Ngân sách địa phương; Kinh phí từ các nguồn tài trợ, viện trợ và các nguồn vốn hợp pháp khác. Đặc biệt cần thiết huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế tư nhân tham gia vào đầu tư, xử lý CTYT để giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.

Bố trí kinh phí đầu tư các cơ sở xử lý chất thải y tế công ích ở các vùng, miền còn gặp nhiều khó khăn hoặc không có cơ sở xử lý như vùng núi, vùng biên giới, hải đảo…Có chính sách ưu đãi đối với lao động tham gia trực tiếp vào công tác thu gom, xử lý, vận chuyển CTYR.

Có chính sách ưu đãi với các dự án xử lý CTYT có công nghệ thân thiện với môi trường bằng các biện pháp như đưa ra các chính sách ưu đãi về vốn, ưu đãi về thuế sử dụng đất, thuế bảo vệ môi trường, tiền thuê đất dự án, phí xử lý chất thải rắn, giá điện … nhằm thu hút nguồn vốn xã hội hoá đầu tư vào lĩnh vực này

3.3.4. Giải pháp hợp tác quốc tế

Hợp tác quốc tế về môi trường là một trong những nội dung quản lý nhà nước về BVMT được đề cập trong các Luật BVMT 2014 (khoản 11 Điều và là giải pháp quan trọng trong các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về môi trường Việt Nam chúng ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế nhanh và mạnh. Mặc dù đã đạt được những thành quả đáng khích lệ về kinh tế nhưng Việt Nam vẫn phải đang đối mặt với các vấn đề ô nhiễm môi trường như một hệ quả của việc phát triển. Để giải quyết vấn đề này, một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu được đề ra trong chiến lược bảo vệ môi trường Việt Nam là ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm. Trong những năm qua, thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường, Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã triển khai hiệu quả các điều ước song phương, đa phương và kế hoạch hành động đã ký kết với các quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức trong lĩnh vực này. Qua đó có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, vận động tài trợ cho việc triển khai các nhiệm vụ của ngành, nhất là trong điều kiện ngân sách nhà nước còn khó khăn.

Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường trong thời gian tới, chúng ta thay đổi tư duy về hợp tác quốc tế, chuyển từ quan niệm thụ động tiếp nhận viện trợ sang chủ động hội nhập, sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế về môi trường; bố trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ trì, tiến tới cử đại diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến lược, tập trung vào những vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu và khu vực, nhất là chú trọng những vấn đề mới mà Việt Nam có lợi thế hiện nay… Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Để triển khai, thu hút đầu tư vào lĩnh vực xử lý rác thải nên tổ chức đấu thầu công khai để đảm bảo cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia một cách công khai, minh bạch và những chính sách ưu đãi để nhà đầu tư an tâm đầu tư lâu dài và cùng đạt được những kết quả tốt nhất.

Tăng cường các chương trình hợp tác, Hội thảo như “Hợp tác quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm”,để có thể tiếp thu được những kiến thức, kinh nghiệm, công nghệ để giúp Việt Nam có lộ trình và bước đi phù hợp, hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường.Ở cấp độ toàn cầu bên cạnh các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường đã đạt được các quốc gia cần có thỏa thuận xây dựng các điều ước quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Ở cấp độ khu vực Việt Nam và các nước của khối cũng như chính ASEAN cần thỏa thuận xây dựng những quy chuẩn chung về môi trường chất thải y tế, ứng phó phòng ngừa sự cố môi trường do CTYT, hỗ trợ các quốc gia thành viên về công nghệ, nguồn vốn để kiểm soát ô nhiễm môi do CTYT. Ở cấp độ song phương, Việt Nam cần hợp tác với các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia trong hợp tác phòng ngừa ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, trong đó có ô nhiễm môi trường do CTYT. Bên cạnh đó, tận dụng quan hệ đối tác chiến lược với các nước có nền kinh tế phát triển như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Anh, Mỹ, Úc, Newzealand … để kêu gọi sự hỗ trợ của các nước này về tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm trong kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT, đặc biệt là thực hiện không nhập khẩu các sản phẩm, thiết bị dùng trong y tế có chứa thủy ngân vào năm 2020 như Công ước Minamata đã ký kết.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên cơ sở lý luận tại Chương 1 và thực trạng pháp luật tại Chương 2,

Chương 3 của Luận văn đã làm sáng tỏ các nội dung sau:

Một là, hoàn thiện pháp luật quản lý CTYT là một hoạt động hết sức cần thiết và tất yếu. Sự cần thiết đó dựa trên quan điểm của Đảng chỉ đạo về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Bên cạnh đó trong quá trình thực hiện pháp luật cũng đã nảy sinh nhiều hạn chế, bất cập. Việc hoàn thiện pháp luật sẽ đảm bảo một cơ chế pháp lý tốt cho quá trình quản lý CTYT lâu dài, hiệu quả. Đảm bảo được quyền cho con người được sống trong môi trường trong lành, giảm thiểu mọi rủi ro về sức khỏe với cộng đồng dân cư.

Hai là, hoàn thiện pháp luật quản lý CTYT phải đảm bảo tốt các yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh đó cũng phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi tham gia các điều ước, công ước quốc tế.

Ba là, bên cạnh các giải pháp chung về hoàn thiện pháp luật, cần chú ý tập trung đến các giải pháp cụ thể như hoàn thiện các tiêu chuẩn về kỹ thuật môi trường. Đây là những tiêu chuẩn mang tính kỹ thuật nhưng được quy định bằng pháp luật và được xem như là công cụ chính để đánh giá việc thực hiện kiểm soát ÔNMT do CTYT. Việc hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết nhằm tạo cơ sở răn đe, giảm thiểu vi phạm. Đồng thời cần có chính sách khuyến khích đầu tư “công – tư” trong lĩnh vực quản lý CTYT. Các biện pháp mềm nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cũng cần được triển khai đồng thời nhằm mang lại hiệu quả quản lý bằng pháp luật tốt nhất.

KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định quan điểm phát triển hiệu quả và bền vững. Trong hoàn cảnh môi trường đang bị suy thoái nghiêm trọng, các điểm nóng về môi trường ngày càng đặt ra vấn đề bức xúc về môi trường nói chung và CTYT nói riêng. Để góp phần giải quyết vấn đề đó, yêu cầu về hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT là rất quan trọng, điều đó sẽ tạo nên hành lang pháp lý cho các chủ thể trong mối quan hệ liên quan đến CTYT thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Mặt khác, pháp luật của nước ta vẫn chưa được hoàn thiện, hiệu lực chưa cao, ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng các đối tượng gây ô nhiễm còn hạn chế, điều kiện và khả năng giám sát của các cơ quan quản lý môi trường còn nhiều khó khăn.

Để pháp luật về kiểm soát ÔNMT do CTYT ở Việt Nam thực sự hiệu quả, chúng ta cần phải có các biện pháp hoàn thiện như: Xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, thống nhất; Xây dựng các quy chuẩn mới về môi trường cho phù hợp với quy định của Luật bảo vệ môi trường 2014; Xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các hợp đồng hợp tác công tư trong quản lý CTYT, tạo điều kiện cho nhiều cá nhân được tham gia vào quá trình xử lý, tái chế CTYT.

Bảo vệ môi trường nói chung và thực hiện tốt kiểm soát ÔNMT do CTYT nói riêng là một công việc thường xuyên, lâu dài. Chúng ta phải coi phòng ngừa là chính, kết hợp với xử lý và kiểm soát ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện chất lượng môi trường, tiến hành có trọng điểm, trọng tâm và áp dụng khoa học công nghệ, các công vụ kinh tế trong quản lý môi trường bên cạnh các biện pháp pháp lý nhằm nâng cao pháp chế trong lĩnh vực môi trường. Luận văn: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993