Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội gắn với coi trọng bảo vệ, cải thiện môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo tiền đề tốt để tăng cường công tác bảo vệ môi trường thời gian tới. Tuy nhiên sự gia tăng của dân số, sự phát triển của nền kinh tế làm phát sinh lượng chất thải ngày càng gia tăng đã và đang gây áp lực đến sức khỏe con người và môi trường. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì việc hoàn thiện và tăng cường hệ thống pháp luật kiểm soát và bảo vệ môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng. Kiểm soát ô nhiễm môi trường tốt sẽ giảm thiểu các rủi ro gây tổn thương đối với cộng đồng trước các vấn đề môi trường nan giải, phục vụ cho việc hoạch định tốt các chính sách công của Đảng và Nhà nước. Kiểm soát ô nhiễm môi trường tốt sẽ đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của con người, giảm thiểu các chi phí cho việc khôi phục môi trường khi có ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường xảy ra, bớt chi phí và đồng nghĩa với việc quản lý môi trường có hiệu quả hơn. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo vệ môi trường nói chung, về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói riêng đang là một yêu cầu cấp thiết để bảo vệ môi trường đồng thời để các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở Việt Nam không bị thua thiệt khi tham gia vào nền kinh tế thế giới.
Một trong những thách thức về môi trường ở Việt Nam hiện nay là vấn đề xử lý chất thải – trong số đó phải kể đến chất thải y tế – loại chất thải tiềm tàng nhiều nguy cơ gây hại cho sức khoẻ con người cũng như cho môi trường. Chất thải y tế là loại chất thải rất nguy hại, nó không giống những loại chất thải khác là ở khả năng lây nhiễm, có độc tính cao gây hại cho sức khỏe cộng đồng và môi trường. Nếu không được quản lý, kiểm soát và xử lý đúng trình tự thì rác thải y tế có thể gây ra những hậu quả lâu dài và nghiêm trọng cho môi trường và cuộc sống chúng ta. Chính vì vậy việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trở thành vấn đề nóng bỏng trong công tác bảo vệ môi hiện nay. Đặc biệt tại các thành phố lớn, những nơi tập trung rất nhiều các bệnh viện tuyến trung ương cũng như của địa phương, các cơ sở y tế nhỏ lẻ….
Vấn đề xử lý kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế được các cấp chính quyền dành nhiều sự quan tâm, tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa thực sự tìm được giải pháp triệt để để giải quyết. Vẫn có rất nhiều vấn đề, nhiều vụ việc liên quan đến việc kiểm soát và xử lý chất thải y tế gây bức xúc trong dư luận. Để thực hiện hiệu quả các vấn đề liên quan đến kiểm soát chất thải y tế thì vai trò của các giải pháp pháp lý là vô cùng quan trọng. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên và với mong muốn có những góp ý góp phần hoàn hiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế để góp phần vào công cuộc bảo vệ môi trường sống, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tếở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm từ trước đến nay luôn dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên gia. Đặc biệt là về các khía cạnh pháp lý, bởi từ xưa đến nay pháp luật vẫn được xem như là công cụ quản lý hiệu quả nhất để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Khi đời sống con người nâng cao, nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cũng ngày càng tăng. Chất thải y tế theo đó cũng càng nhiều hơn về số lượng. Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chất thải y tế. Nhưng phần lớn các nghiên cứu ấy thiên về lĩnh vực quản lý chất thải y tế, các nghiên cứu về khía cạnh kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế thì ít hơn. Vấn đề pháp luật quản lý chất thải y tế đặt trong mối liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi trường, có thể kể tên một số nghiên cứu như: Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Duyên Thủy (2009): “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam”, luận án tiến sĩ Luật học,Đại học Luật Hà Nội. “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học của Bùi Kim Hiếu (2010), Học viện Khoa học và xã hội, Luận văn đã phân tích đánh giá tương đối đầy đủ và toàn diện thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường ở Việt Nam và việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các quy định đồng thời đề ra được phương hướng và các giải pháp khắc phục nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây nhiễm môi trường gây ra ở Việt Nam. “Đánh giá hiện trạng chất thải rắn y tế trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An” Luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Thị Tiến (2014) Trường Đại học Khoa học tự nhiên, luận văn đã mô tả hiện trạng quản lý chất thải y tế tại các bệnh viện trên địa bàn thành phố Vinh, đánh giá công tác quản lý, xử lý chất thải y tế của các bệnh viện từ đó đề xuất các giải pháp quản lý chất thải y tế.“Pháp luật về quản lý chất thải y tế ở Việt Nam”Luận văn tốt nghiệp của Đào Huyền Trang (2016) Đại học Luật Hà Nội, luận văn đã tìm hiểu, phân tích, đánh giá về chất thải y tế, quá trình quản lý chất thải y tế và các quy định pháp luật liên quan đến quá trình quản lý chất thải y tế tại Việt Nam, trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quản lý chất thải y tế. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Ngoài ra còn có một số đề tài, bài viết của một số tác giả như: Đề tài nghiên cứu khoa học của Bộ Y tế, “Mô tả thực trạng ô nhiễm môi trường do chất thải y tế, các giải pháp xử lý chất thải y tế và triển khai mô hình quản lý chất thải y tế tại bệnh viện, trung tâm y tế huyện”, do PGS.TS. Đào Ngọc Phong (chủ nhiệm đề tài), Cơ quan chủ trì Đại học Y Hà Nội năm 2007; Phạm Hữu Nghị, Bùi Đức Hiển (2011), “Các quy định pháp luật về thiệt hại, xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra và định hướng xây dựng, hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số1/2011, tr. 40 – 47; Nguyễn Võ Hinh (2013) “Nguy cơ môi trường ô nhiễm ảnh hưởng sức khỏe do chất thải y tế”. Điểm chung của các công trình khoa học nêu trên là đều đề cập đến vấn đề môi trường dưới góc độ các quy định của pháp luật, trong đó có nhiều góc độ khác nhau cũng đã đề cập liên quan đến pháp luật về quản lý chất thải y tế. Cho đến nay chưa có công trình nghiêm cứu nào của thạc sĩ luật học đề cập trực tiếp tới vấn đề pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở Việt Nam. Vì vậy với đề tài “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở Việt Nam” tôi mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hệ thống và phân tích toàn diện các vấn đề pháp lý liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trên phạm vi cả nước, đồng thời góp phần xây dựng và hoàn thiện một số quy định pháp luật để hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế được hiệu quả hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu, phân tích đánh giá về chất thải y tế, quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế và các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Trên cơ sở đó luận văn sẽ đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế; qua đó chỉ ra những ưu điểm và những mặt còn hạn chế, bất cập cần được khắc phục.
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật nêu trên, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế của nước ta hiện nay, nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trong cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các các quan điểm, luận điểm về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế; các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trong hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam. Ngoài Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn có quy định tại một số văn bản pháp luật liên quan về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế như: Bộ luật Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế, cụ thể là Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các văn bản pháp luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế như: Các quy định pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường; các quy định về kiểm soát, xử lý, giảm thiểu phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm, về cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế và quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Luận văn cũng tìm hiểu thực trạng thực hiện công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở nước ta từ khi Luật Bảo vệ môi trường 2014 có hiệu lực để đưa ra các đánh giá làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp, phương hướng nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở nước ta hiện nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước kết hợp với việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
- Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, tổng hợp để nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế (Chủ yếu sử dụng ở Chương 1);
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá số liệu về thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế (Chủ yếu sử dụng ở Chương 2);
- Phương pháp phân tích được sử dụng để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nội dung trọng tâm của luận văn.
- Đồng thời, tác giả cũng có tham khảo các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận văn để góp phần hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống các vấn đề về khái niệm, lý luận về chất thải y tế, kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế đồng thời đưa ra những phân tích, đánh giá khoa học về những ưu điểm cũng như tồn tại hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Luận văn cũng đề xuất một số giải pháp góp phần hòan thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở nước ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế và pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
- Chương 3: Yêu cầu đặt ra và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế tại Việt Nam.
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO CHẤT THẢI Y TẾ VÀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO CHẤT THẢI Y TẾ
1.1. Những vấn đế chung về chất thải y tế
1.1.1. Khái niệm chất thải y tế
1.1.1.1. Khái niệm
Chất thải nói chung và chất thải y tế nói riêng là một vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và xã hội. Chất thải y tế là một loại chất thải vì vậy để hiểu rõ hơn khái niệm chất thải y tế, trước hết chúng ta cần làm rõ như thế nào là chất thải
- Khái niệm chất thải Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về chất thải tùy theo gốc độ tiếp cận vấn đề này.
Theo trang WIKIPEDIA tiếng Việt thì “chất thải là những vật và chất mà người dùng không còn muốn sử dụng và thải ra, tuy nhiên trong một số ngữ cảnh nó có thể là không có ý nghĩa với người này nhưng lại là lợi ích của người khác, chất thải còn được gọi là rác. Trong cuộc sống, chất thải được hình dung là những chất không còn được sử dụng cùng với những chất độc được xuất ra từ chúng. Chất thải theo quy định tại Khoản 12 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 là: “ vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và hoạt động khác.”
Như vậy, chất thải là tất cả những gì chúng ta không dùng tới và thải ra môi trường xung quanh. Bạn có thể tìm thấy rác thải ở bất cứ nơi đâu từ nông thôn đến thành thị, từ đất nước nghèo đói đến các cường quốc lớn mạnh. Các loại chất thải nếu không được xử lý sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
- Phân loại chất thải: Có 4 cách phân loại chất thải và theo mỗi cách phân loại chất thải được phân chia thành các loại cụ thể như sau:
- Phân loại theo nguồn gốc phát sinh: Nếu phân loại theo nguồn gốc phát sinh thì chất thải có 6 loại. Bao gồm: Chất thải sinh hoạt; Chất thải văn phòng;Chất thải công nghiệp; Chất thải nông nghiệp và Chất thải xây dựng.
- Phân loại theo mức độ nguy hại: nếu phân loại theo mức độ nguy hại thì chất thải có 2 loại chất thải không nguy hại và chất thải nguy hại.
- Phân loại theo thành phần chất thải thì chất thải được phân thành chất thải hữu cơ và chất thải vô cơ.
- Phân loại theo trạng thái tồn tại, chất thải được phân thành 03 loại: chất thải rắn, khí thải và nước thải.
Chất thải y tế là một loại chất thải mà khái niệm của nó được quy định rõ trong các văn bản chuyên môn của các cơ quan y tế.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa chất thải y tế “bao gồm toàn bộ chất thải từ các cơ sở y tế, các trung tâm nghiên cứu và các p òng th nghiệm. Ngoài ra nó bao gồm cả các nguồn rác thải nhỏ và rải rác từ các hoạt động y tế diễn ra tại nhà như lọc máu, tiêm insulin…vv”.
“ Chất thải y tế bao gồm toàn bộ chất thải thải ra trong các hoạt động y tế và hoạt động chẩn đoán” là định nghĩa về Chất thải y tế của Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế (ICRC).
Đạo luật Theo dõi Chất thải Y tế năm 1988 của nước Mỹ định nghĩa chất thải y tế là chất thải phát sinh trong quá trình nghiên cứu y học, xét nghiệm, chẩn đoán, tiêm chủng, hoặc điều trị cho người hoặc động vật.
Như vậy chất thải y tế bao gồm chất thải phát sinh từ các cơ sở y tế như văn phòng bác sĩ, bệnh viện, phòng khám nha khoa, phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu y khoa và phòng khám thú y. Các định nghĩa trên về chất thải y tế cơ bản làm rõ nguồn gốc phát sinh của nó. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Việt Nam khái niệm như thế nào là chất thải y tế được quy định trong văn bản pháp luật lần đầu tiên vào năm 1997 tại Quy chế bệnh viện ban hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ y tế về việc ban hành quy chế bệnh viện. Tại phần III của Quy chế quy định về quy chế quản lý bệnh viện, mục 12 quy định quy chế công tác xử lý chất thải đã đưa ra khái niệm chất thải y tế như sau: “Chất thải bệnh viện bao gồm chất thải rắn lỏng và kh ; là những chất thải được thải ra trong quá trình điều trị, chẩn đoán, chăm sóc và sinh hoạt. Chất thải bệnh viện có đặc t nh lý học, hóa học và sinh học vừa là nguồn gây ô nhiễm môi trường vừa là nguồn lây bệnh; vì vậy xử lý và kiểm soát nghiêm ngặt chất thải là nhiệm vụ quan trọng của bệnh viện”.Cũng theo đó năm 1999 Bộ y tế ban hành Quyết định số 2575/1999/QĐ-BYT ngày 27/8/1999 về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế cũng đã đưa ra khái niệm chất thải y tế tại khoản 2, điều 1 Quy chế này như sau “Chất thải y tế là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế từ hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên cứu, đào tạo. Chất thải y tế có thể ở dạng Rắn, Lỏng, Kh ”. Như vậy có thể thấy rằng các khái niệm này cơ bản dựa theo quy định của Tổ chức y tế thế giới (WHO) về chất thải y tế và có bổ sung thêm các dạng của chất thải y tế gồm rắn, lỏng, khí.
Để đảm bảo phù hợp yêu cầu của công tác quản lý đối với chất thải y tế trong tình hình mới, năm 2007 Bộ Y tế đã ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế. Quy chế này đã đưa ra khái niệm chất thải y tế theo trạng thái tồn tại của chất thải y tế, cụ thể như sau: “Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và kh được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường” (Khoản 1, Điều 3 Quy chế Quản lý chất thải y tế năm 2007). Quy định này có điểm mới so với các quy định trước đây là nêu ra trạng thái tồn tại của chất thải y tế “là vật chất ở thể rắn, khí, lỏng”, điều này có nghĩa là chất thải y tế tồn tại dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí hoặc các dạng khác, những yếu tố phi vật chất không thể được coi là chất thải.
Hiện nay theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 58/2015/ TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 có hiệu lực từ 01/4/2016 Thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên – Môi trường thay thế Quy chế Quản lý chất thải y tế năm 2007 đã định nghĩa Chất thải y tế như sau: “Chất thải y tế là chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động của các cơ sở y tế, bao gồm chất thải tế nguy hại, chất thải y tế thông thường và nước thải y tế.”. Khái niệm này bao gồm các nội dung xác định chất thải y tế là chất thải, nguồn phát sinh và tính chất của chất thải y tế.
Tóm lại, trên thế giới cũng như ở nước ta và qua các giai đoạn đã có nhiều khái niệm như thế nào là chất thải y tế. Qua các khái niệm trên, ta có thể thấy một số đặc trưng cơ bản của chất thải y tế như sau:
- Chất thải y tế là một loại chất thải, có đầy đủ đặc điểm của chất thải
- Nguồn gốc phát sinh chất thải y tế là từ hoạt động y tế. Đây là điểm đặc biệt nhất để phân biệt chất thải y tế với các loại chất thải khác.
- Trạng thái tồn tại của chất thải y tế dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí hoặc các dạng khác.
1.1.1.2. Phân loại chất thải y tế Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Có 2 loại chất thải y tế là chất thải y tế nguy hại và chất thải y tế thông thường:
Chất thải y tế nguy hại là chất thải chứa yếu tố nguy hại cho sức khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất này không được tiêu hủy an toàn. Chất thải y tế nguy hại chiếm từ 10 – 25% tổng lượng chất thải y tế.
Chất thải y tế thông thường là chất thải có chứa thành phần và tính chất tương tự như chất thải sinh hoạt. Chất thải y tế thông thường không chứa các chất độc hại, các tác nhân gây bệnh đối với con người và môi trường. Chất thải y tế thông thường có thể bao gồm các vật liệu, bao gói: giấy, thùng carton; chai nhựa, chai thủy tinh không ô nhiễm…, có nguồn gốc phát sinh từ khu vực hành chính, từ các khoa, phòng không cách ly trong cơ sở y tế…, Một phần chất thải y tế thông thường có thể tái sử dụng hoặc tái chế và đem lại nguồn thu cho các cơ sở y tế. Thực hiện triệt để đúng quy định trong công tác phân loại chất thải y tế sẽ góp phần giảm tải tác động của chất thải y tế nói chung tới con người và môi trường
Theo Điều 4 Thông tư Liên tịch Số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên Môi trường, chất thải y tế được chia thành 3 nhóm: Chất thải lây nhiễm; chất thải nguy hại không lây nhiễm; CTYT thông thường.
Nhóm 1: Chất thải lây nhiễm: Là loại chất thải chứa các mầm bệnh như khuẩn, vi rút, ký sinh trùng hoặc nấm có khả năng gây bệnh cho con người. Chất thải lây nhiễm được phân thành 4 loại, bao gồm:
Chất thải sắc nhọn: Là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền, kim chọc dò; kim châm cứu, lưỡi dao mổ và các vật sắc nhọn khác…
Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn: Là chất thải bị thấm, dính, chứa máu hoặc dịch sinh học của cơ thể; các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao: Là chất thải phát sinh trong các phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp III trở lên như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm.
Chất thải giải phẫu: Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể người thải bỏ và xác động vật thí nghiệm.
Nhóm 2: Chất thải nguy hại không lây nhiễm. Nhóm này bao gồm các chất thải sau: Hóa chất thải bỏ bao gồm hoặc có các thành phần nguy hại; Dược phẩm thải bỏ thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại từ nhà sản xuất; Thiết bị y tế bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng thải bỏ có chứa thủy ngân và các kim loại nặng; Chất hàn răng amalgam thải bỏ; Chất thải nguy hại khác… Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Nhóm 3: CTYT thông thường: Là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, các yếu tố nguy hại không lây nhiễm bao gồm: Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly); Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại…;Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính; Sản phẩm thải lỏng không nguy hại; Chất thải ngoại cảnh…
Ngoài ra, cần phải đề cập tới nước thải bệnh viện. Nước thải bệnh viện bao gồm nước thải từ các phòng phẩu thuật, phòng thí nghiệm, từ các nhà vệ sinh, khu giặt là, rửa thực phẩm, như nước thải từ các khu vực xét nghiệm, chuẩn và điều trị, nước thải từ khoa ngoại, nước thải từ khu xét nghiệm và chụp X quang, nước thải từ khu khám và điều trị, nước thải từ khu bào chế dược, nước thải từ khu giải phẫu tử thi…..Căn cứ quy định Khoản 2 Điều 14
Thông tư 58 có quy định “Sản phẩm thải lỏng được thải cùng nước thải thì gọi chung là nước thải y tế”; Mục 1.3.1 của Quy chuẩn quốc gia về nước thải y tế QCVN28:2010/BTNMT quy định “Nước thải y tế là dung dịch được thải ra từ cơ sở khám, chữa bệnh” và quy định của Khoản 7 Điều 2 Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014 của Chính phủ về thoát nước và xử lý nước thải quy định: “Nước thải là nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất do sử dụng hoặc do hoạt động của con người vào hệ thống thoát nước hoặc ra môi trường” thì có thể hiểu nước thải y tế là nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất do sử dụng hoặc do hoạt động của con người trong các cơ sở y tế thải cùng nước thải vào hệ thống thoát nước hay ra môi trường.
1.1.2. Những tác hại của chất thải y tế
Chất thải y tế nguy hại phát sinh từ hoạt động y tế có chứa các thành phần gây hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới sức khỏe con người và môi trường. Chất thải y tế nguy hại có một trong các đặc tính sau: Gây độc; Gây dị ứng; Dễ cháy; Phản ứng; Ăn mòn: pH ≤ 2,0 hoặc pH ³ 12,5; có chứa chất độc hại, kim loại nặng như: chì, niken, thủy ngân…; Chứa các tác nhân gây bệnh.
Có hai loại rủi ro liên quan trực tiếp đến chất thải y tế nguy hại bao gồm: Nguy cơ gặp phải chấn thương hoặc bị nhiễm trùng và nguy cơ ảnh hưởng chính đến môi trường là nguy cơ lây nhiễm bệnh tật đối với cộng đồng.
1.1.2.1. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khỏe con người * Những đối tượng có nguy cơ ảnh hưởng của chất thải y tế
Tất cả mọi người khi tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại đều có thể có khả năng bị tác động xấu tới sức khỏe. Các đối tượng có nguy cơ chịu ảnh hưởng lớn nhất của chất thải y tế nguy hại bao gồm:
Cán bộ, nhân viên y tế: bác sĩ, y sĩ, y tá, điều dưỡng, kỹ thuật viên, hộ lý, y công, nhân viên văn phòng, sinh viên thực tập, công nhân vận hành các công trình xử lý chất thải…;
Nhân viên của các đơn vị hoạt động trong bệnh viện: nhân viên công ty vệ sinh môi trường; nhân viên giặt là, nhân viên làm việc ở khu vực nhà tang lễ, trung tâm khám nghiệm tử thi…;
Đối tượng khác: gồm người tham gia vận chuyển, xử lý chất thải y tế ngoài khuôn viên bệnh viện; người liên quan đến bãi chôn lấp rác và người nhặt rác;Bệnh nhân điều trị nội trú và ngoại trú;Người nhà bệnh nhân và khách thăm; Cộng đồng và môi trường xung quanh cơ sở y tế;Cộng đồng sống ở vùng hạ lưu các con sông tiếp nhận các nguồn chất thải chưa được xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu của các cơ sở y tế. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Những nguy cơ ảnh hưởng của chất thải y tế tới sức khỏe con người Các bệnh viện được cho là môi trường có nguy cơ rủi ro cho sức khỏe con người. Chất thải y tế có thể gây ra nhiều tác động xấu tới sức khỏe con người như: lây bệnh qua đường máu cho nhân viên y tế, đặc biệt là sự cố thương tích do chất thải sắc nhọn. Dạng phơi nhiễm nghề nghiệp phổ biến nhất qua đường máu của nhân viên y tế trong quá trình thực hiện quản lý chất thải là bị thương do các kim tiêm lây nhiễm.
Ảnh hưởng của chất thải sắc nhọn:
Chất thải sắc nhọn được coi là loại chất thải nguy hiểm, có nguy cơ gây tổn thưởng kép tới sức khỏe con người nghĩa là vừa gây chấn thương do vết cắt, vết đâm và thông qua vết chấn thương để gây bệnh truyền nhiễm nếu trong chất thải có các mầm bệnh viêm gan B (HBV), viêm gan C (HCV) và virus HIV…,
Ảnh hưởng của chất thải lây nhiễm:
CTYT lây nhiễm cơ thể chứa các vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm như: tụ cầu, HIV, viêm gan B … chúng có thể xâm nhập vào cơ thể người thông qua các hình thức: qua da: (vết trầy xước, vết đâm xuyên hoặc vết cắt trên da); qua các niêm mạc (màng nhầy); qua đường hô hấp (do xông, hít phải); qua đường tiêu hóa (do nuốt hoặc ăn phải). Việc quản lý chất thải y tế lây nhiễm không đúng cách còn có thể là nguyên nhân lây nhiễm bệnh cho con người thông qua môi trường trong bệnh viện.Chẳng hạn một số người có khả năng bị lây nhiễm các bệnh mà họ không mắc phải trước khi đến bệnh viện, nhưng khi đến và làm việc trong bệnh viện sau một thời gian bị mắc bệnh hoặc đem mầm bệnh đến nơi họ ở.
Ảnh hưởng của chất thải hóa học và dược phẩm:
Mặc dù chiếm tỉ lệ nhỏ, nhưng chất thải hóa học và dược phẩm có thể gây ra các nhiễm độc cấp tính, mãn tính, chấn thương và bỏng… Hóa chất độc hại và dược phẩm ở các dạng dung dịch, sương mù, hơi… có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường da, hô hấp và tiêu hóa,… gây bỏng, tổn thương da, mắt, màng nhầy đường hô hấp và các cơ quan trong cơ thể như: gan, thận,… Một số ví dụ về ảnh hưởng của chất thải hóa học và dược phẩm:
Thủy ngân là một chất độc hại trong chất thải y tế. Thủy ngân có mặt trong một số thiết bị y tế, nhất là các thiết bị chẩn đoán như: nhiệt kế thủy ngân, huyết áp kế thủy ngân … và một số nguồn khác như khi bóng đèn huỳnh quang, compact sử dụng bị vỡ;
Chất khử trùng được dùng với số lượng lớn trong bệnh viện, chúng thường có tính ăn mòn và có thể kết hợp thành các hợp chất có độc tính cao hơn; Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Dư lượng các hóa chất sử dụng tại các phòng xét nghiệm khi thải vào hệ thống thoát nước có thể ảnh hưởng tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học hoặc các hệ sinh thái tự nhiên của các nguồn nước tiếp nhận;
Tương tự như vậy đối với dư lượng dược phẩm trong các chất thải có chứa dược phẩm. Dư lượng dược phẩm thải có thể bao gồm: các loại kháng sinh, các thuốc khác nếu không được xử lý khi thải vào các nguồn nước tiếp nhận sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường sống và các loài thủy sinh trong các nguồn nước tiếp nhận.
Ảnh hưởng của chất gây độc tế bào:
Chất gây độc tế bào có thể xâm nhập vào cơ thể con người bằng các con đường: hô hấp khi hít phải, qua da, qua đường tiêu hóa; hoặc tiếp xúc với chất thải dính thuốc gây độc tế bào; hoặc tiếp xúc với các chất tiết ra từ người bệnh đang được điều trị bằng hóa trị liệu. Một số chất gây độc tế bào có thể gây hại trực tiếp tại nơi tiếp xúc, đặc biệt là da và mắt, một số triệu chứng thường gặp là: chóng mặt, buồn nôn, nhức đầu và viêm da. Ảnh hưởng của chất thải phóng xạ: Ảnh hưởng của chất thải phóng xạ tùy thuộc vào loại phóng xạ, cường độ và thời gian tiếp xúc. Trong bệnh viện, các chất phóng xạ thường có chu kỳ bán rã ngắn (kéo dài từ vài giờ, vài ngày cho đến vài tuần). Các triệu chứng hay gặp là đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn và nôn nhiều bất thường … ở mức độ nghiêm trọng hơn có thể gây ung thư và các vấn đề về di truyền.
1.1.2.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường
Chất thải y tế nếu không được xủ lý đúng cách có thể tác động xấu tới tất cả các khía cạnh của môi trường dẫn đến ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, xử lý chất thải y tế không đúng phương pháp (chôn lấp, thiêu đốt không đúng qui định, tiêu chuẩn) thì sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí và sự ô nhiễm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe con người, hệ sinh thái.
- Đối với môi trường đất
Quản lý CTYT không đúng quy trình và việc tiêu hủy CTYT tại các bãi chôn lấp không tuân thủ các quy định sẽ dẫn đến sự phát tán các vi sinh vật gây bệnh, hóa chất độc hại… gây ô nhiễm đất và làm cho việc tái sử dụng bãi chôn lấp gặp khó khăn.
- Đối với môi trường nước
Tác động của chất thải y tế đối với các nguồn nước có thể so sánh với nước thải sinh hoạt. Tuy nhiên, nước thải từ các cơ sở y tế còn có thể chứa Salmonella, Coliform, Tụ cầu, Liên cầu, Trực khuẩn Gram âm đa kháng, các hóa chất độc hại, chất hữu cơ, kim loại nặng. Do đó, nếu không được xử lý triệt để trước khi xả thải vào nguồn nước tiếp nhận, đặc biệt đối với nguồn tiếp nhận được sử dụng cho sinh hoạt, trồng trọt, chăn nuôi, sẽ có nguy cơ gây ra một số bệnh như: tiêu chảy, lỵ, tả, thương hàn, viêm gan A … cho những người sử dụng các nguồn nước này
- Đối với môi trường không khí Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Chất thải y tế từ khi phát sinh đến khâu xử lý cuối cùng đều có thể gây ra tác động xấu tới môi trường không khí. Bụi rác, bào tử vi sinh vật gây bệnh, hơi dung môi, hóa chất … phát sinh trong các khâu phân loại – thu gom – vận chuyển, chất thải y tế có thể phát tán vào không khí. Trong khâu xử lý, đặc biệt là với các lò đốt chất thải y tế quy mô nhỏ, không có thiết bị xử lý khí thải có thể phát sinh ra các chất khí độc hại như sau:
- Ô nhiễm bụi: khi nhiệt độ đốt không đủ hoặc không tuân thủ đúng quy trình vận hành, lượng chất thải nạp vào lò quá lớn sẽ làm phát tán bụi, khói đen và các chất độc hại;
- Các khí axit: Do trong chất thải y tế có thể có chất thải làm bằng nhựa PVC, hoặc chất thải dược phẩm khi đốt có nguy cơ tạo ra hơi axit, đặc biệt là
- Dioxin và Furan: Trong quá trình đốt cháy chất thải có thành phần halogen (Cl, Br, F) ở nhiệt độ thấp có thể hình thành dioxin và furan là những chất rất độc dù ở nồng độ nhỏ;
- Kim loại nặng: đối với những kim loại nặng dễ bay hơi như thủy ngân có thể phát sinh từ các lò đốt chất thải y tế nếu trong quá trình phân loại không tốt.
Ngoài ra, một số phương pháp xử lý khác như chôn lấp có thể phát sinh các chất gây ô nhiễm cho môi trường không khí như: CH4 , H2 S,..
1.2. Những vấn đề chung về kiểm soát kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
1.2.1. Khái niệm của kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế
Ở nhiễm môi trường ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự sinh tồn của trái đất chúng ta. Do vậy việc kiểm soát ô nhiễm môi trường có vai trò hết sức quan trọng, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế. Theo WIKIPEDIA- Bách khoa toàn thư mở đã đưa ra khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường như sau: “Kiểm soát ô nhiễm là một từ dùng trong quản lý môi trường. Nó bao gồm việc kiểm soát phát thải và chất thải vào không khí, nước và đất. Nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải, đốt nhiên liệu tạo nhiệt, và các hoạt động khác của con người sẽ làm tích tụ hoặc phát tán chất ô nhiễm sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống. Trong các cấp kiểm soát, phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu chất thải được xem là các biện pháp hiệu quả.”
Theo giáo trình Luật Môi trường của Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm năm 2011 thì Kiểm soát ô nhiễm môi trường là “tổng hợp các hoạt động của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ hạn chế những tác động xấu đối vơi môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên” . Khái niệm này xác định chủ thể có trách nhiệm hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường. Năm 2014, sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2014 được ban hành, giáo trình Luật Môi trường của Đại học Luật Hà Nội thống nhất với quy định tại khoản 18 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014, theo đó “kiểm soát ô nhiễm môi trường là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm”. Khái niệm này không xác định rõ chủ thể của kiểm soát ô nhiễm môi trường nhưng lại xem kiểm soát ô nhiễm môi trường là một chu trình gồm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm.
Kiểm soát ô nhiễm môi trường thường được gọi tắt là kiểm soát ô nhiễm được hiểu một cách tổng quát là một sự tổng hợp các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ nhằm phòng ngừa, khống chế không cho sự ô nhiễm xảy ra, hoặc khi có sự ô nhiễm xảy ra thì có thể chủ động xử lý, làm giảm thiểu hay loại trừ được nó.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các lĩnh vực cụ thể. Theo tác giả Lưu Ngọc Tố Tâm trong Luận án Tiến sĩ: “Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong hoạt động hàng hải ở Việt Nam” (năm 2012 – Đại học Luật Hà Nội) thì kiểm soát ô nhiễm môi trường bao gồm: đánh giá môi trường, quản lý chất thải, hệ thống quy chuẩn, kỹ thuật môi trường, giải quyết các tranh chấp môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các hoạt động cụ thể… Còn theo tác giả Bùi Đức Hiển trong Luận văn Tiến sĩ: “ Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam (năm 2016- Viện Khoa học Xã hội) thì “ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể trong phòng ngừa, dự báo, theo dõi, kiểm tra, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, cải tạo, phục hồi môi trường không khí; xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp”…
Các khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường trên là kết quả quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu. Tác giả sẽ có sự kế thừa hợp lý trong quá trình hoàn thành đề tài của mình. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Từ cách hiểu về chất thải y tế, về kiểm soát ô nhiễm môi trường theo tác giả: kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân, chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường; kiểm soát, xử lý, giảm thiểu phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm; cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế và xử lý vi phạm làm ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Hay nói cách khác kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế là tổng hợp các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ nhằm phòng ngừa và khống chế không cho ô nhiễm môi trường do chất thải y tế xảy ra hoặc nếu có sự ô nhiễm môi trường do chất thải y tế xảy ra thì có thể chủ động xử lý, làm giảm thiểu hoặc loại trừ nó.
Vai trò của việc Kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế là vô cùng quan trọng vì việc kiểm soát nhằm mục đích phòng ngừa và hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của chất thải y tế đối với môi trường. Đặc biệt là việc phòng ngừa, kiểm soát ngay từ đầu khi chưa xảy ra ô nhiễm môi trường bởi vì khi môi trường đã bị ô nhiễm do chất thải y tế thì việc giải quyết sẽ vô cùng khó khăn, phức tạp, tốn kém rất khiều chi phí và để lại hậu quả lâu dài cho môi trường cũng như sức khỏe con người.
1.2.2. Nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế
Kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế bao gồm kiểm soát việc phát thải và chất thải y tế vào không khí, đất và nước. Trong các cấp kiểm soát thì phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu chất thải y tế được xem là biện pháp hiệu quả nhất. So sánh giữa kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế và quản lý chất thải y tế thì kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế có nội dung rộng hơn, bao gồm mục đích, cách thức, công cụ và phương tiện kiểm soát ô nhiễm. Mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế là phòng ngừa, khống chế không để ô nhiễm môi trường do chất thải y tế xảy ra, còn nếu trường hợp xảy ra ô nhiễm thì kiểm soát ô nhiễm môi trường là hoạt động xử lý, khắc phục hậu quả, phục hồi môi trường như trước khi bị nhiễm do chất thải y tế. Chủ thể của kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế không chỉ thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường mà còn bao gồm các tổ chức, cá nhân , doanh nghiệp có các hoạt động liên quan đến chất thải y tế như chủ nguồn thải y tế, chủ thu gom vận chuyển chất thải y tế, chủ lưu giữ chất thải y tế, chủ xử lý chất thải y tế… Kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế nói riêng không chỉ được thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính, công cụ hành chính, mà còn được thực hiện bằng công cụ kinh tế, các biện pháp kỹ thuật, các giải pháp công nghệ, các yếu tố xã hội, yếu tố thị trường…trong đó hai yếu tố là yếu tố xã hội và yếu tố thị trường ngày càng được cân nhắc lựa chọn. Kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y thế được thực hiện theo 04 nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất là phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường. Nội dung này bao gồm các hoạt động như:
Phòng ngừa, ngăn chặn những nguyên nhân có thể gây ô nhiễm môi trường từ chất thải y tế, những tác động tiêu cực đến môi trường của chất thải y tế nhằm giữ hiện trạng môi trường phù hợp với quy chuẩn môi trường.
Dự báo hiện trạng môi trường tại các cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải rắn y tế và khu vực dân cư xung quanh…giúp cho việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường do chất thải y tế được chủ động, kịp thời hơn và giảm thiểu được những tác động tiêu cực của chất thải y tế tới môi trường. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Thứ hai là kiểm soát, xử lý, giảm thiểu phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm. Bao gồm các hoạt động:
- Phát hiện ra ô nhiễm môi trường do chất thải y tế, khoanh vùng ô nhiễm, ngăn chặn ô nhiễm.
- Nắm bắt thông tin về chủ thể gây ô nhiễm, tình hình ô nhiễm và tác động của nó đến các chủ thể bị ảnh hưởng.
Thứ ba là cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế bao gồm các hoạt động nhằm xác định, phân loại các khu vực bị ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường đã bị ô nhiễm do chất thải y tế.
Thứ tư là thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế: xác định định trách nhiệm của các chủ thể để có hình thức xử lý phù hợp các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính và kỷ luật.
Kiểm soát chất thải y tế luôn là vấn đề “nóng”, bởi nếu không được quản lý tốt, nguồn chất thải này sẽ gây ra những hiểm họa không nhỏ cho môi trường và con người .Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng và hoàn thiện các quy định về kiểm soát ÔNMT do CTYT để giảm thiểu những tác động của nó đối với môi trường, góp phần bảo vệ môi trường sống an toàn, lành mạnh.
1.3. Những vấn đề chung về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế
1.3.1. Khái niệm và nội dung của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế
1.3.1.1. Khái niệm
Môi trường là nguồn cung cấp nguyên liệu, năng lượng cho mọi hoạt động của con người. Môi trường cũng là nơi tiếp nhận, chứa đựng và xử lý các chất thải mà con người thải ra trong quá trình phát triển đó. Nhưng chính con người lại đang hủy hoại nó, từ việc bảo tồn cho sự phát triển bền vững của môi trường, pháp luật bảo vệ môi trường ra đời nhằm đáp ứng cho nhu cầu cấp thiết đó. Sự gia tăng số lượng người có nhu cầu khám chữa bệnh, số lượng, quy mô các cơ sở y tế tăng lên nhanh chóng đã kéo theo sự tăng lên ngày càng lớn của lượng chất thải y tế nếu không được xử lý đúng cách sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như hệ sinh thái. Do vậy vấn đề đặt ra là cần có công cụ thiết thực để kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế, đó chính là công cụ pháp luật.
Hiện nay quan điểm về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế nói riêng có những cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên trên cơ sở khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế cũng nhưng những đặc điểm, vai trò, nội dung của nó, tác giả cho rằng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế là: tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân, chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường; kiểm soát, xử lý, giảm thiểu phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm; cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế và xử lý vi phạm làm ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
1.3.1.2. Nội dung
Để các quy định của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do CTYT có tính hiệu quả thực thi thì cần xác định được việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế gồm các hoạt động nào? Chủ thể nào có trách nhiệm và nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế? Đối tượng nào bị kiểm soát? Chu trình, trình tự, mục tiêu của kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
Hiện trạng của môi trường được chia làm ba giai đoạn bao gồm giai đoạn chưa bị ô nhiễm, giai đoạn đang bị ô nhiễm và giai đoạn sau khi bị ô nhiễm. Căn cứ vào hiện trạng môi trường ở mỗi giai đoạn thì pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường sẽ có những nội dung phù hợp đảm bảo tính hiệu quả thực thi.
Ở giai đoạn chưa bị ô nhiễm, kiểm soát ô nhiễm môi trường đặt ra vấn đề cho việc phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường. Ở giai đoạn này mục tiêu của việc phòng ngừa, ngăn chặn những nguy cơ chất thải y tế làm ô nhiễm môi trường được đề cao nhằm ngăn ngừa những nguy cơ chất thải y tế có thể làm ô nhiễm môi trường. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn những nguy cơ chất thải y tế làm ô nhiễm môi trường gồm các quy định như: trách nhiệm của các chủ thể trong phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ làm ô nhiễm môi trường của chất thải y tế; xây dựng các đề án kiểm soát đặc biệt đối với các cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải y tế có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường; kiểm kê khí thải từ các lò đốt chất thải rắn y tế…
Ở giai đoạn môi trường đang bị ô nhiễm, kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế hướng tới việc nhanh chóng phát hiện ra ô nhiễm môi trường, khoanh vùng ô nhiễm, ngăn chặn ô nhiễm môi trường do chất thải y tế gây ra. Nội dung cơ bản của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trong giai đoạn này sẽ gồm các quy định về quan trắc hiện trạng môi trường khu vực có chất thải y tế và khu dân cư xung quanh; thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải y tế có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường; khoanh vùng và ngăn chặn ô nhiễm môi trường do chất thải y tế; quy dịnh về trách nhiệm của các chủ thể trong việc ngăn chặn, phát hiện ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Trong giai đoạn này việc phòng ngừa, ngăn chặn những nguy cơ chất thải y tế làm ô nhiễm môi trường vẫn được đặt ra nhằm khoanh vùng, giới hạn khu vực bị ô nhiễm do chất thải y tế để không bị lan sang các khu vực khác.
Giai đoạn sau khi môi trường bị ô nhiễm vấn đề đặt ra đối với việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế là việc xử lý môi trường bị ô nhiễm. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế ở giai đoạn này là khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường bị ô nhiễm, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
Và để sáng tỏ những nội dung trên khi nghiên cứu về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Các quy định pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường.
- Các quy định pháp luật về kiểm soát, xử lý, giảm thiểu phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm.
- Các quy định pháp luật về cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế.
- Các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
1.3.2.Vai trò của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần đắp nên những giá trị mới. Trong kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế vai trò của pháp luật thể hiện ở những khía cạnh sau:
Những quy định của pháp luật quy định những quy tắc mà khi con người có những hoạt động liên quan đến việc làm phát sinh cũng như xử lý chất thải y tế phải theo cách thức mà pháp luật bảo vệ môi trường đã quy định để hạn chế các chất gây ô nhiễm, các chất độc hại khi thải vào môi trường. Ví dụ như khi phân loại chất thải y tế thì phải phân loại tại nguồn, từng loại chất thải y tế phải phân loại riêng vào trong bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa chất thải theo quy định, trường hợp các chất thải y tế nguy hại không có khả năng phản ứng, tương tác với nhau và áp dụng cùng một phương pháp xử lý có thể được phân loại chung vào cùng một bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa.
Các chế tài pháp luật môi trường được ban hành gồm chế tài hình sự, hành chính chính, dân sự và kỷ luật có tính chất răn đe các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường trong việc phân loại, thu gom, lưu giữ và xử lý chất thải y tế và khiến họ phải tự giác tuân theo các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường để hạn chế, ngăn ngừa và kịp thời xử lý những hành vi liên quan đến chất thải y tế có tác động xấu đến môi trường. Các quy chuẩn kỹ thuật môi trường là cơ sở pháp lý xác định hành vi vi phạm pháp luật và truy cứu trách nhiệm đối với những hành vi đó đồng thời thông qua pháp luật mà các quy chuẩn môi trường được tuân thủ trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế.
Pháp luật tạo ra cơ chế hoạt động hiệu quả bằng các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát nhiễm môi trường do chất thải y tế.
Những quy định của pháp luật môi trường góp phần thức đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong hoạt động y tế, hạn chế được việc phát sinh nguồn chất thải gây ô nhiễm. Đồng thời pháp luật yêu cầu các chủ xả thải phải hạn chế đến mức tối đa việc xả thải ra môi trường bằng những quy định cụ thể và để đáp ứng yêu cầu của các quy định này các chủ thể xả thải phải nghiên cứu, áp dụng các biện pháp tiên tiến nhất trong quá trình hoạt động cũng như quy trình xử lý chất thải sau này.
Quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trước tiên cần có sự phối kết hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với cơ quan quản lý chuyên môn (Bộ tài nguyên Môi trường, Bộ Y tế ). Đồng thời cần có sự hợp tác quốc tế vì kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung là vấn không của riêng quốc gia nào mà là vấn đề chung toàn cầu, cần có sự gắn kết các quốc gia với nhau. Pháp luật là cơ sở vững chắc để việc hợp tác trở nên hiệu quả và thiết thực, có thể thông qua việc tham gia các Điều ước quốc tế, thảo thuận hợp tác song phương, đa phương…giữa các quốc gia với nhau. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
1.4. Pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế trên thế giới
Vấn đề môi trường sống của con người trên trái đất đã và đang bị ô nhiễm là một vấn đề cấp bách đối với bất kì quốc gia nào. Vì nó gây ra những hiện tượng biến đổi khí hậu dẫn đến những thảm họa thiên tai khủng khiếp. Chất thải y tế và sự ảnh hưởng của nó đến môi trường và sức khỏe con người đã và đang trở thành mối quan tâm của công chúng và các nhà lập chính sách ở nhiều quốc gia.
Thế giới chúng ta đã các công ước quốc tế như:
Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển và tiêu hủy chất thải nguy hại qua biên giới vào năm 1995 nhằm mục đích giảm sự di chuyển của chất thải nguy hại, giảm thiểu số lượng và độc tính của chất thải phát sinh; trong lĩnh vực y tế, dược phẩm, sản phẩm, thiết bị sử dụng cho chuẩn đoán, dịch vụ chăm sóc…có thể trở thành chất thải nguy hại vì vậy chúng cần được quản lý một cách an toàn.
Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy vào năm 2001, công ước có mục đích loại bỏ hoặc hạn chế sản xuất và sử dụng các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POPs) – trong đó Dioxin và Furan là hai chất POPs có thể phát sinh không chủ đích trong quá trình đốt chất thải y tế;
Công ước Rotterdam về những thủ tục thỏa thuận cung cấp thông tin ưu tiên đối với hóa chất độc hại và thuốc bảo vệ thực vật trong thương mại quốc tế vào năm 2007;
Công ước Minamata về thủy ngân – là một hiệp ước quốc tế được ký kết nhằm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường khỏi các tác động của thủy ngân và các hợp chất thủy ngân. Theo công ước chậm nhất đến năm 2020 các sản phẩm, thiết bị dùng trong y tế có chứa ngủy ngân như nhiệt kế thủy ngân, huyết áp kế thủy ngân sẽ không được nhập khẩu. Khi các quốc gia ký kết tham gia vào Điều ước, Công ước quốc tế thì đều có quá trình ban hành, chỉnh sửa các quy định của pháp luật sao cho phù hợp theo những cam kết mà mình đã tham gia. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Ở Mỹ, Quốc hội thông qua đạo luật Theo dõi Chất thải y tế vào năm 1988, trong đó yêu cầu Cục Bảo vệ môi trường (EPA) triển khai chương trình theo dõi trong hai năm. Sau đó, các bang và cơ quan chính quyền liên bang chịu trách nhiệm quy định và hướng dẫn quản lý chất thải y tế. Hầu hết 50 bang của nước này đã ban hành quy định riêng về quản lý chất thải y tế. Các cơ quan chính quyền liên bang chịu trách nhiệm ban hành các hướng dẫn kỹ thuật như Tiêu chuẩn phơi nhiễm nghề nghiệp với vi sinh vật gây bệnh qua đường máu của Cục Sức khỏe và an toàn nghề nghiệp; Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở y tế của Trung tâm kiểm soát bệnh và Cách thực hành môi trường tốt nhất cho cơ sở y tế của EPA. Mỹ có nhiều quy định kiểm soát phát thải thủy ngân, trong đó có Hướng dẫn loại bỏ thủy ngân trong các bệnh viện vào năm 2002 của Cục BVMT. Ngành y tế Mỹ về cơ bản đã loại bỏ các thiết bị y tế chứa thủy ngân. Ngày nay, hầu như không thể mua được nhiệt kế thủy ngân ở Mỹ.
Anh, khung chính sách bao gồm Luật Bảo vệ môi trường năm 1990 và quy định quản lý chất thải nguy hại năm 2005. Ở Đức, quản lý chất thải nói chung được thực hiện theo Luật Quản lý chất thải; vận chuyển chất thải nguy hại phải theo Quy định về hàng hóa nguy hiểm; còn thiêu đốt chất thải phải tuân thủ Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí. Công tác phân loại và tiêu hủy chất thải y tế được lồng ghép trong quản lý chất lượng cơ sở y tế.
Nhật Bản, quy định đầu tiên về quản lý chất thải lây nhiễm được ban hành năm 1992, bổ sung thêm vào Luật Tiêu hủy chất thải có từ năm 1970. Năm 2000, Nhật Bản ban hành Luật mua sắm xanh, trong đó hạn chế sản xuất và mua sắm thiết bị, chế phẩm y tế chứa thủy ngân. Nhiệt kế và huyết áp kế điện tử đã cơ bản thay thế cho thiết bị chứa thủy ngân nên các thiết bị y tế chứa thủy ngân đã giảm mạnh. Ở Hàn Quốc, Quốc hội sửa đổi Luật Quản lý chất thải năm 1999 để kiểm soát tốt hơn chất thải rắn y tế từ nơi phát sinh tới nơi tiêu hủy cuối cùng. Bên cạnh Luật, các nước còn ban hành các hướng dẫn kỹ thuật như Hướng dẫn quản lý an toàn chất thải y tế (Anh), các quy định về Kiểm soát nhiễm khuẩn và an toàn nghề nghiệp (Đức), Hướng dẫn quản lý chất thải lây nhiễm (Nhật Bản), Hướng dẫn quản lý chất thải y tế (Hàn Quốc).
Ấn Độ ban hành Quy định về quản lý chất thải y sinh từ năm 1998 và tiếp tục bổ sung, sửa đổi quy định này vào các năm 2000, 2003, 2016. Ban Kiểm soát ô nhiễm Trung ương đã xây dựng một loạt các hướng dẫn về quản lý chất thải trong tiêm chủng, chất thải thủy ngân, bơm kim tiêm tự hủy, lò đốt chất thải rắn y tế… Cùng lúc đó, Bộ Y tế Ấn Độ và chính quyền các bang cũng có những hướng dẫn về quản lý chất thải y tế. Để khuyến khích tập trung hóa và tư nhân hóa dịch vụ xử lý chất thải y sinh, Ban Kiểm soát ô nhiễm Trung ương ban hành Hướng dẫn cơ sở xử lý chất thải y sinh tập trung và Bộ Môi trường hỗ trợ 25% tổng chi phí đầu tư cơ sở xử lý chất thải y sinh tập trung theo cơ chế hợp tác công tư.
Trung Quốc ban hành Quy định kiểm soát chất thải y tế vào năm 2003 sau khi xảy ra dịch SARS. Năm 2004, Trung Quốc phê duyệt Kế hoạch quốc gia xây dựng các cơ sở xử lý chất thải nguy hại và chất thải y tế tập trung. Ngoài ra, Trung Quốc cũng có một số tiêu chuẩn và hướng dẫn kỹ thuật như Tiêu chuẩn kỹ thuật cho lò đốt chất thải rắn y tế, Tiêu chuẩn kỹ thuật cho phương tiện vận chuyển chất thải rắn y tế.
Các nước đã và đang tăng cường khung chính sách quốc gia bằng những quy định về quản lý chất thải y tế. Các quy định này có thể là văn bản pháp lý độc lập hoặc được lồng ghép trong các văn bản pháp lý hiện có với mục tiêu kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải y tế theo cách tốt nhất. Việt Nam đã tham gia công ước Basel năm 1995, công ước Stokholm vào năm 2001, công ước Rotterdam vào năm 2007 và công ước Minamata năm 2013.So với các nước khác, Việt Nam có nhiều cơ hội để cải thiện khung chính sách quốc gia về quản lý CTYT và thúc đẩy triển khai những công ước quốc tế liên quan. Việt Nam nên hạn chế đầu tư mới các lò đốt quy mô nhỏ trong CSYT và nghiêm cấm vận hành các lò đốt không đạt tiêu chuẩn; xây dựng hướng dẫn kỹ thuật, kế hoạch hành động khả thi và cơ chế hợp tác công tư cho phát triển các cơ sở xử lý tập trung; xây dựng kế hoạch hành động và hướng dẫn kỹ thuật để loại bỏ dần thủy ngân trong các cơ sở y tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
Chất thải nói chung và chất thải y tế nói riêng đã và đang là vấn đề ảnh hưởng lớn đến môi trường và xã hội. Qua phân tích giúp chúng ta hiểu rõ hơn các khái niệm về chất thải và chất thải y tế cũng như cách phân loại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng hiểu được nguồn phát sinh và những ảnh hưởng, tác động nguy hại như thế nào của chất thải y tế đến môi trường và sức khỏe cộng đồng nếu không được xử lý đúng cách.
Kiểm soát ô nhiễm môi trường có vai trò hết sức quan trọng để BVMT, kiểm soát ÔNMT do CTYT là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân, chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, ngăn chặn việc phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường, khu vực có chất thải y tế gây ô nhiễm môi trường; kiểm soát, xử lý, giảm thiểu phát sinh các nguồn chất thải y tế gây ô nhiễm; cải thiện phục hồi các khu vực đã bị ô nhiễm do chất thải y tế và xử lý vi phạm làm ô nhiễm môi trường do chất thải y tế. Hay nói cách khác kiểm soát ÔNMT do CTYT là tổng hợp các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ nhằm phòng ngừa và khống chế không cho ô nhiễm môi trường do chất thải y tế xảy ra hoặc nếu có sự ô nhiễm môi trường do chất thải y tế xảy ra thì có thể chủ động xử lý, làm giảm thiểu hoặc loại trừ nó. Hoạt động này được thực hiện theo các nội dung khác nhau và được các quốc gia trên thế giới quan tâm.
Pháp luật quản lý kiểm soát ÔNMT do CTYT là một bộ phận của pháp luật môi trường. Pháp luật kiểm soát ÔNMT do CTYT giữ một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu để phòng ngừa ô nhiễm môi trường; góp phần thay đổi, nâng cao nhận thức của cộng đồng theo hướng có lợi cho bảo vệ môi trường; tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường cũng như thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để bảo vệ môi trường trong các hoạt động y tế. Căn cứ vào hiện trạng môi trường ở mỗi giai đoạn thì pháp luật kiểm soát ÔNMT do CTYT sẽ có những nội dung phù hợp đảm bảo tính hiệu quả thực thi. Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải […]