Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Giải pháp pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. Xu hướng số hóa trong hoạt động ngân hàng và sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử
3.1.1. Xu hướng số hóa trong hoạt động ngân hàng
Việc nắm bắt chính xác xu hướng chuyển đổi số ngân hàng trong năm 2022 nhằm giúp các ngân hàng định hướng các hoạt động của mình trong thời gian sắp tới. Trong thời điểm thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu của người dùng ngày một gia tăng, các doanh nghiệp ngân hàng cần có cái nhìn chiến lược để chuyển đổi số thành công.
Thứ nhất: Chiến lược coi khách hàng là trọng tâm.
Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng chiến lược giữ chân khách hàng giúp các ngân hàng giảm hơn 30% chi phí thu hút khách hàng mới. Điều này đã giúp doanh nghiệp tăng tốc quy trình vận hành lên khoảng 1,5 lần và tăng doanh thu hơn 80% chỉ trong vòng dưới 2 năm. Tuy nhiên, đây là một là một chiến lược phức tạp và không dễ thực hiện. Để giữ chân được khách hàng, ngân hàng phải có sự thấu hiểu mong muốn, nhu cầu của người dùng. Từ đó, doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều trải nghiệm có ý nghĩa và xây dựng mối quan hệ lâu dài. Để chiến lược này thành công, ban lãnh đạo cần có một tầm nhìn và định hướng hoạt động rõ ràng. Không chỉ được áp dụng trong các quy trình vận hành hay các sản phẩm/dịch vụ, tư tưởng lấy khách hàng làm trọng tâm phải được ăn sâu vào tiềm thức của lãnh đạo cũng như nhân viên ngân hàng. Từ đó, định hướng giúp tạo thành một văn hóa doanh nghiệp đặc trưng. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Ghi nhận thực tế, việc lấy khách hàng làm trọng tâm giúp ngân hàng đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 3,2 lần so với các đối thủ cạnh tranh. Sử dụng dữ liệu khách hàng trong suốt giai đoạn tiếp cận cho để khi khách hàng sử dụng dịch vụ chính là nền tảng cơ bản tạo dựng sự thành công của chiến lược này. Một ví dụ cụ thể: J.P. Morgan Chase – Công ty dịch vụ tài chính và ngân hàng đầu tư đa quốc gia của Mỹ đã đánh giá chi tiết dữ liệu khách hàng. Dựa vào đó, J.P. Morgan Chase đã lập kế hoạch nâng cao trải nghiệm của khách hàng bằng cách cung cấp lời khuyên ở mỗi giai đoạn trong hành trình phát triển.
Thứ hai: Ngân hàng di động số.
Theo tác giả, chuyên gia ngân hàng Brett King trong cuốn sách Ngân hàng 4.0: Giao dịch mọi nơi, không bao giờ ở ngân hàng: “Tương lai của ngân hàng không chỉ là nâng cao hiệu quả xoay quanh các tiện ích thanh toán và tín dụng… Kỷ nguyên Ngân hàng 4.0 sắp tới là kỷ nguyên mà ngân hàng của Người tiêu dùng được kết nối với thế giới thông qua công nghệ, và ngân hàng truyền thống sẽ không tồn tại nữa.” Điều này cho thấy, xu hướng chuyển đổi số sẽ tập trung vào ngân hàng số, tức là ở đó có các dữ liệu điện tử liên quan đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng di động số sẽ trở thành mô hình vận hành chủ yếu của các doanh nghiệp ngân hàng, phù hợp với quy định hiện hành về môi trường điện tử trong xã hội của chúng ta hiện nay. Sự thay đổi này đồng nghĩa với việc chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng phụ thuộc vào năng lực công nghệ. Khả năng đáp ứng nhu của người dùng 24/7 trên kênh di động, máy tính một cách nhanh chóng nhất và dễ dàng nhất cũng là một yếu tố quan trọng.
Chuyển đổi sang ngân hàng số trở nên thiết yếu trong bối cảnh các đợt giãn cách xã hội do đại dịch Covid-19. Có khoảng 15% – 45% khách hàng tin rằng mình sẽ tiếp tục hạn chế đến các chi nhánh ngân hàng do lo sợ dịch bệnh. Điều này kéo theo các nhu cầu sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử tăng cao.
Thứ ba: Chú trọng đầu tư, khai thác và vận dụng dữ liệu.
Là nguồn năng lượng của thời đại mới, dữ liệu ngày càng đóng vai trò quan trọng xuyên suốt trong quá trình vận hành của các tổ chức tài chính cũng như tìm kiếm và gắn kết với khách hàng. Trong quá trình vận hành, doanh nghiệp nào cũng sản sinh ra dữ liệu, dù dưới dạng giấy tờ, bản mềm hay các dữ liệu trong các phần mềm. Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng tập trung đầu tư, khai thác và vận dụng những dữ liệu này một cách hiệu quả. Một xu hướng chuyển đổi số ngân hàng quan trọng trong năm 2022 là tập trung đầu tư và sử dụng dữ liệu trong hoạt động doanh nghiệp.
Có thể chứng minh một ví dụ thực tế, BNP Paribas, ngân hàng của Pháp có trụ sở trên toàn thế giới. Họ đã vận dụng công nghệ data visualization giúp tạo hình ảnh trực quan về dữ liệu khu vực chỉ trong vòng vài phút. Từ đó ban Lãnh đạo dễ dàng đưa ra các quyết định phù hợp với thị trường và xu hướng địa phương như: – Lựa chọn vị trí đặt các máy ATM mới.
- Xác định triển vọng tiềm năng dựa trên vị trí. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
- Đánh giá các chi nhánh địa phương dựa trên một số chỉ số, bao gồm mức độ sử dụng ngân hàng trực tuyến của khách hàng tại khu vực đó.
Giải pháp nhằm khai thác và vận dụng tối ưu nguồn dữ liệu. Nhiều ngân hàng và các tổ chức tài chính đã thúc đẩy ứng dụng, chú trọng kết hợp dữ liệu và AI trong các công việc. Ứng dụng phổ biến nhất bao gồm: – Tự động hóa các tác vụ back-office.
- Cá nhân hóa trải nghiệm khách hàng.
- Trợ lý ảo dựa trên nguồn dữ liệu thu thập được.
Thứ tư: Đầu tư vào quy trình Back-Office, cải thiện việc sử dụng dữ liệu.
Nhằm nâng cao trải nghiệm khách hàng và đảm bảo văn hóa doanh nghiệp xoay quanh khách hàng, việc đầu tư, nâng cao và cải thiện các quy trình backoffice cũng sẽ đóng vai trò nền tảng. Xu hướng chuyển đổi số ngân hàng này giúp khách hàng hài lòng hơn do quy trình, yêu cầu được giải quyết nhanh chóng, chính xác và thuận tiện. Bằng việc số hóa quy trình back-office qua các công cụ số, các ngân hàng sẽ giảm thiểu các tác vụ thủ công trong quản lý và lưu trữ giấy tờ. Từ đó, sai sót trong quá trình vận hành cũng được hạn chế đáng kể. Một giải pháp điển hình mà nhiều ngân hàng đã áp dụng để số hóa quy trình và tránh thay thế các hệ thống cũ là xây dựng các ứng dụng bổ sung xung quanh các hệ thống cốt lõi đã có sẵn. Tuy nhiên, những nâng cấp như vậy đã dẫn đến nhiều quy trình bị trùng lặp hoặc thời gian xử lý chậm trễ. Để nâng cao hiệu quả chuyển đổi quy trình backoffice, các ngân hàng và tổ chức tài chính không nên chỉ dừng lại ở bước số hóa. Điều cần làm là nên ‘bắt đầu lại từ đầu’ bằng cách đánh giá các quy trình hiện tại. Các ngân hàng nên nghiên cứu phương án lược bỏ, tối ưu các bước bằng các công nghệ mới như RPA, AI, IoT nhằm tự động hóa để tăng hiệu quả và cải thiện trải nghiệm khách hàng.
- Khoảng 3/4 lượng quy trình vận hành hàng ngày (ví dụ: các công tác hành chính – tổng hợp, quản lý và thanh toán hóa đơn, v.v.). Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
- Tới 40% hoạt động mang tính chiến lược khác (ví dụ: kiểm soát và báo cáo tài chính, lập kế hoạch và phân tích tài chính,…) có thể được tự động hóa bằng các công nghệ như RPA, AI, IoT…
Nhờ đó, ngân hàng được hưởng lợi với doanh thu tăng trưởng do cung cấp dịch vụ nhanh chóng, giảm chi phí thông qua mức độ tự động hóa cao. Đơn cử như công nghệ tự động hóa quy trình thông minh đã giúp Deutsche Bank cải thiện năng suất của lực lượng lao động, giảm sai sót khi đã đạt được mức độ tự động hóa từ 30-70%, tùy vào quy trình.
Trong khi đó, Goldman Sachs đã tăng cường ứng dụng công nghệ Machine learning để tối ưu các quy trình giao giao dịch. Nhờ đó, Goldman Sách chỉ cần 2 chuyên viên giao dịch trên bàn giao giao dịch chứng khoán, thay vì con số 600 vào năm 2000. Các ngân hàng không tập trung cải thiện các quy trình back-office sẽ gặp nguy cơ sớm bị bỏ lại phía sau bởi những ngân hàng có định hướng hướng công nghệ hoặc thậm chí cả những công ty công nghệ cung cấp dịch vụ ngân hàng.
Thứ năm: Tập trung nhiều hơn vào tính công khai và minh bạch
Bắt kịp xu hướng ngân hàng số hiện nay và sự cạnh tranh ngày càng lớn, các ngân hàng cần tạo dựng niềm tin với khách hàng. Theo một nghiên cứu của Statista, niềm tin đối với ngân hàng là yếu tố thành công cần kíp nhất đối với một ngân hàng. Tỷ lệ chiếm đến hơn 40% trong tổng số ý kiến của gần 60.000 khách hàng tham gia khảo sát. Bên cạnh đó, một cuộc khảo sát gần đây của CSIweb cũng đã chỉ ra rằng hơn một nửa số khách hàng sẽ ngừng sử dụng dịch dịch vụ của ngân hàng nếu gặp phải vấn đề vi phạm quyền riêng tư. Nhu cầu tin tưởng này đã đòi hỏi ngân hàng tạo ra một môi trường cởi mở và trung thực cho khách hàng. Theo xu hướng ngân hàng số hiện nay, ngân hàng cũng sẽ cần tập trung nhiều hơn vào tính công khai và minh bạch thay vì chỉ dựa vào các nghiệp vụ ngân hàng điển hình để cạnh tranh.
Ví dụ điển hình như: Monzo – một ngân hàng trực tuyến không chi nhánh ở Anh đã thành công trong việc thu hút và giữ chân trên 5 triệu người dùng chỉ trong vòng 6 năm kể từ khi thành lập (2015-2021). Sự thành công này không chỉ bởi sự thuận tiện cho khách hàng khi mọi quy trình, tác vụ đều gói gọn trong một ứng dụng điện thoại. Yếu tố quyết định còn ở tôn chỉ công khai và minh bạch của ngân hàng. Kể từ khi ra đời, Monzo đã tích cực truyền thông các thông tin nội bộ, các hoạt động thử nghiệm, lộ trình triển khai sản phẩm, các chương trình mới cho khách hàng qua ứng dụng và qua trang Monzo Transparency Dashboard. Monzo cũng thiết lập các forum để tạo ra một cộng đồng cởi mở giữa khách hàng và ngân hàng Monzo.
Thứ sáu: Tăng cường hợp tác giữa các ngân hàng, công ty tài chính và phi tài chính.
Do đặc thù các ngân hàng truyền thống thường quá lớn, quá nhiều hệ thống CNTT cũ hay các quy trình nghiệp vụ ngân hàng để có thể chuyển đổi số trong một sớm một chiều. Các ngân hàng đang tăng cường sự hợp tác với các công ty fintech và các công ty khởi nghiệp để mang lại sự đổi mới và tiện lợi cho khách hàng. Nhờ đó, ngân hàng có thể sử dụng các công nghệ, quy trình số mới, tối ưu hơn mà không cần đầu tư tự xây dựng mới từ đầu. Ví dụ như: Ngân hàng Commerzbank hợp tác với IDnow để giúp xác minh khách hàng qua cuộc gọi điện video. FidorBank đã hợp tác với CurrencyCloud cho hệ thống Thanh toán điện tử của mình. Tương tự, Bankia đã hợp tác với Euro bits để cung cấp dịch vụ lập hóa đơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Không chỉ dừng lại ở đó, sự hợp tác giữa các ngân hàng với cả các doanh nghiệp phi tài chính (các doanh nghiệp điện, nước, viễn thông, các tổ chức giáo dục,…) và các doanh nghiệp tài chính khác cũng ngày càng gia tăng. Điều này đã tạo nên những hệ sinh thái ngân hàng (hay Ngân hàng mở), giúp giữ khách hàng ở vị trí trung tâm, đồng thời mang đến cho họ nhiều lựa chọn, sự tiện lợi và trải nghiệm được cá nhân hóa. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Để xây dựng được Ngân hàng mở, các ngân hàng có thể mở các giao diện lập trình ứng dụng (API) cho các bên thứ ba để truy cập vào dữ liệu hoặc chức năng của mình. Nhờ đó, khách hàng có thể cung cấp cho khách hàng một giải pháp đầu cuối hoặc nhiều sản phẩm và dịch vụ (tài chính và phi tài chính) đa dạng từ nhiều bên thứ ba.
Tuy mô hình Ngân hàng mở chưa hoàn toàn hoàn chỉnh ở Việt Nam nhưng Ngân hàng Nhà nước đang bước đầu xây dựng, thử nghiệm và dần hoàn thiện các khung pháp lý cho Ngân hàng mở và trên thực tế đã có rất nhiều ngân hàng như Vietcombank, Vietinbank, TPbank đang ứng dụng công nghệ Open API để mở kết nối với trung gian thanh toán, thương mại điện tử và các nhà cung cấp dịch vụ tiện ích.
Xu hướng chuyển đổi số ngân hàng đem lại nhiều lợi ích cho các tổ chức trong lĩnh vực tài chính, nhưng tùy thuộc vào mô hình kinh doanh, mục tiêu phát triển và thị yếu thị trường mà các ngân hàng có thể ứng dụng một hoặc một vài xu hướng khác nhau nhằm đạt được thành công trên con đường chuyển đổi số. Bên cạnh đó, với những kiến thức, năng lực chuyển chuyển đổi số cho lĩnh lĩnh vực tài chính, FPT Digital sẵn sàng đồng hành cùng các các doanh nghiệp để trở thành Ngân hàng điện tử toàn diện. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử
Ngân hàng là trung tâm thanh toán và trung tâm tín dụng, được ví như “mạch máu” của nền kinh tế. Nhưng ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác, trong đó có số đông công chúng. Vì vậy, pháp luật đặt ra nhiều yêu cầu nghiêm ngặt, nhiều đòi hỏi phức tạp, nhiều quy định chặt chẽ để bảo đảm sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả cho hoạt động của khách hàng, của chính ngân hàng, đồng thời cũng là cho cả nền kinh tế. Trong đó bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng là vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay trước sự phát triển của mạng lưới các công ty tài chính.
Thực tế cho thấy, Người tiêu dùng tài chính sẽ dễ dàng gặp phải 5 nhóm rủi ro xung đột lợi ích, gồm: Rủi ro về phát triển sản phẩm (sản phẩm, dịch vụ tài chính không tuân thủ các yêu cầu pháp lý); rủi ro về công nghệ (độ tin cậy của hệ thống bảo mật, lỗi hệ thống thông tin); rủi ro tiếp thị (quảng cáo sai sự thật, các mức thu phí dịch vụ…), rủi ro gian lận (giám sát giao dịch, giám sát nhân viên Tổ chức tín dụng) và rủi ro bán hàng (giao dịch nhầm, lộ thông tin khách hàng). Vì vậy, việc đặc thù hóa đối tượng Người tiêu dùng tài chính cần được đặt ra để có các quy định pháp lý bảo vệ quyền lợi phù hợp.
Bên cạnh đó, bảo vệ Người tiêu dùng cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ổn định tài chính và tài chính toàn diện. Văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng TC hiệu quả là điều kiện cần thiết để mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, mang lại lợi ích thiết thực cho Người tiêu dùng, tạo điều kiện cho họ có đầy đủ thông tin để đưa ra quyết định sử dụng các dịch vụ tài chính một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Đây là một trong những phương thức giúp củng cố niềm tin của Người tiêu dùng vào khu vực tài chính chính thức, đóng góp vào sự phát triển lành mạnh, bền vững của thị trường tài chính.
Tại điều 74 Luật bảo vệ Người tiêu dùng năm 2023 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2024 có quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, như sau: “1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng; 2. Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng; 3. Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm triển khai hoạt động bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong lĩnh vực được phân công quản lý, phối hợp với Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng; 4. Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng tại địa phương”. Nhưng thực tế thời gian qua, việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng TC hiện có liên quan đến 4 cơ quan là Ngân hàng nhà nước, Bộ Công thương, Bộ Thông tin – Truyền thông và Hội Bảo vệ Người tiêu dùng. Tuy nhiên, các cơ quan này đều chưa có bộ phận chuyên trách cũng như các quy trình quản lý cụ thể để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Người tiêu dùng TC. Ngoài ra, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trên cũng chưa rõ ràng và thiếu ràng buộc, vì vậy việc xử lý các xung đột lợi ích xảy ra khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính vẫn khá lúng túng. Hy vọng căn cứ vào thực tiễn pháp lý và áp dụng pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong Ngân hàng điện tử sẽ được Chính phủ sửa đổi bổ sung vào nghị định hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ Người tiêu dùng năm 2024 để làm quy tắc áp dụng thống nhất từ trung ương đến địa phương điều chỉnh có hiệu quả. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Ví dụ cụ thể như một NHTM có quy mô, mạng lưới lớn nhất hệ thống, Agribank tích cực thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu thúc đẩy tài chính đi đôi với an toàn, hiệu quả, bền vững, đồng thời bám sát định hướng phát triển lấy khách hàng là trọng tâm. Cụ thể hóa mục tiêu đó, thời gian qua, Agribank đã đẩy mạnh các giải pháp nhằm đáp ứng đồng bộ nhu cầu tài chính ngân hàng của khách hàng, cũng như bảo vệ lợi ích hợp pháp và quyền lợi của Người tiêu dùng TC, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng.
Agribank đã tích cực đa dạng hóa hệ thống sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng nhằm đem đến sự lựa chọn tối ưu, đáp ứng nhu cầu tài chính của khách hàng. Các sản phẩm dịch vụ của Agribank đều được thực hiện công khai, minh bạch, thông tin chính xác, đảm bảo cạnh tranh công bằng. Đặc biệt, ngân hàng đã nâng cấp hệ thống công nghệ, triển khai các giải pháp bảo mật nhiều lớp, an toàn hệ thống để bảo vệ thông tin dữ liệu cá nhân của khách hàng. Bên cạnh đó, Agribank cũng liên tục đổi mới quy trình hoạt động, thực hiện hiệu quả chính sách khách hàng, nâng cao công tác quảng bá, tiếp thị, hỗ trợ và chăm sóc khách hàng. Thời gian tới, để nâng cao hiểu biết và kiến thức tài chính cho cộng đồng, giúp người dân có thể tự bảo vệ quyền lợi và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính hiệu quả hơn; đồng thời, tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ sự phát triển của tài chính vi mô, bảo hiểm vi mô, góp phần triển khai có hiệu quả chiến lược tài chính toàn diện, Agribank đã đưa ra một số đề xuất giải pháp đẩy mạnh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Người tiêu dùng tài chính. Đó là hoàn thiện khung pháp lý chính sách bảo vệ Người tiêu dùng, cụ thể hóa chính sách đối với bảo vệ Người tiêu dùng tài chính. Thực tế cho thấy, hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động tài chính trực tuyến, thương mại điện tử cần hoàn thiện theo hướng chi tiết, cụ thể hơn.
Cùng với đó, đẩy mạnh sự phối hợp giữa Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ngân hàng nhà nước nhằm tăng cường hơn nữa để quản lý hiệu quả, hỗ trợ đảm bảo an toàn, an ninh mạng và ngăn chặn, giảm thiểu rủi ro phát sinh trong triển khai các phương thức thanh toán điện tử, thanh toán xuyên biên giới… của ngành Ngân hàng. Ngoài ra, các bộ, ngành liên quan cũng tăng cường cung cấp thông tin cho người dân về lợi ích, chi phí, rủi ro, phương thức quản lý và sử dụng hiệu quả các dịch vụ tài chính; các chương trình truyền thông giáo dục, phổ biến kiến thức tài chính cho người dân và doanh nghiệp; nâng cao kỹ năng tài chính, đặc biệt các công cụ quản trị rủi ro, bảo hiểm, cho thuê tài chính… cho người sản xuất nông nghiệp…“Các bộ, ngành, Ngân hàng nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho Agribank – NHTM chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn trong quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ, kết nối hợp tác với các đơn vị bảo hiểm xã hội, chi trả ngân sách nhà nước, các đơn vị cung cấp dịch vụ công… để triển khai và cung cấp các dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa; tăng khả năng tiếp cận đến các sản phẩm dịch vụ tài chính chính thức và an toàn qua ngân hàng của khách hàng tại khu vực này”, đại diện Agribank đề xuất thêm. Agribank tin tưởng rằng, với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, các bộ, ngành và sự tham gia tích cực của các Tổ chức tín dụng, việc bảo vệ Người tiêu dùng TC tại Việt Nam sẽ ngày càng hiệu quả, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện, hoàn thành các mục tiêu của Đảng và Chính phủ đề ra.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
3.2.1. Cần có quy phạm xác định giới hạn trách nhiệm của ngân hàng khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho người tiêu dùng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử
Thực tế hiện nay, pháp luật hiện hành chưa có quy phạm xác định giới hạn trách nhiệm của ngân hàng khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau: “Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Tuy nhiên, những điều kiện này sẽ là không phù hợp với những trường hợp thiệt hại khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, theo quy định của Điều 604, thì một trong các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là có lỗi (cố ý hoặc vô ý) của người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại. Theo PGS.TS. Đinh Văn Thanh, khái niệm về lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 được xây dựng giống như quy định về cố ý phạm tội và vô ý phạm tội theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, trong khi đây là hai ngành khoa học có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Như vậy, nếu hiểu về lỗi là trạng thái tâm lý và nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra, thì không thể tìm kiếm được yếu tố lỗi khi bản thân tài sản một vật vô tri, vô giác gây ra thiệt hại. Nếu xuất phát từ ngữ nghĩa của cụm từ “trách nhiệm bồi thường khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử” thì chúng ta hiểu nguyên nhân chính gây ra thiệt hại là do tài sản chứ không phải do hành vi của con người, mà lỗi thì chỉ gắn với hành vi của con người. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Thông thường, tài sản luôn chịu sự quản lý, trông coi và sử dụng của con người, nhưng không có nghĩa là mọi trường hợp hành vi trông coi, sử dụng tài sản của con người đều là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Liên quan đến tài sản gây thiệt hại có thể có 2 loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại sau phát sinh: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra có liên quan đến tài sản và trách nhiệm bồi thường trong trường hợp bản thân tài sản gây ra thiệt hại.
Thứ hai, nếu coi lỗi là một trong các điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì khi người gây thiệt hại chứng minh được không có lỗi sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khi đó, người bị thiệt hại tự chịu rủi ro vì không có ai chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ngoại trừ trường hợp họ có mua bảo hiểm. Điều này liệu có công bằng không khi thiệt hại xảy ra do tác động của bản thân tài sản (không có chủ thể nào có lỗi) thì người bị thiệt hại không được hưởng tiền bồi thường? Trong nghiên cứu khoa học pháp lý dân sự cũng đã có những luật gia đề xuất thuyết “trách nhiệm khách quan”. Theo đó, cứ có thiệt hại xảy ra, thì người bị thiệt hại phải được bồi thường, cho dù người đã gây ra thiệt hại có lỗi hay không có lỗi. Sự phát triển của pháp luật bồi thường, thiệt hại ngoài hợp đồng dựa trên học thuyết này nhằm hướng tới mục tiêu người bị thiệt hại sẽ được bồi thường một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng đã quy định theo xu hướng này, đó là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không cần có yếu tố lỗi. Do vậy, điều kiện cần phải có lỗi để xác định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại là không công bằng và thoả đáng đối với người bị thiệt hại.
Trên cơ sở những lý do nêu trên, theo chúng tôi, trách nhiệm bồi thường trong trường hợp khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử được phát sinh không cần yếu tố lỗi và dựa trên các điều kiện sau đây: Có thiệt hại xảy ra; Tài sản gây ra thiệt hại xâm phạm đến những lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ như sức khoẻ, tài sản, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của con người. Khi xác định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại không cần phải chứng minh tính trái pháp luật. Bởi tính trái pháp luật được gắn liền với hành vi của con người và phải có lỗi. Do vậy, chứng minh yếu tố có lỗi thường liên quan đến ý chí chủ quan của con người (mà chứng minh lỗi chủ quan thì rất khó) và cũng không phù hợp với trường hợp thiệt hại xảy ra xuất phát từ tài sản; Có mối quan hệ nhân quả giữa sự tác động của tài sản và thiệt hại xảy ra. Mối quan hệ nhân quả có thể nhận biết dưới các góc độ sau:
Phải có sự tác động về mặt cơ học giữa tài sản và thiệt hại xảy ra. “Tài sản gây ra thiệt hại” có những đặc điểm như sau: Là loại tài sản có tính chất hữu hình: Theo Điều 163 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản. Các quy định về các trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể trong Bộ luật Dân sự không sử dụng khái niệm thiệt hại do tài sản gây ra, mà chỉ xây dựng các điều luật điều chỉnh đối với các loại tài sản cụ thể gây ra thiệt hại như nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng. Những tài sản trên có đặc điểm là những “vật” có tính hữu hình được tồn tại dưới các dạng vật chất cụ thể. Bởi lẽ, đó là những tài sản có tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho những người xung quanh và có sự tác động cơ học của bản thân tài sản dẫn đến thiệt hại xảy ra. Tài sản vô hình như quyền tài sản hay quyền sở hữu trí tuệ thì không thể đáp ứng được điều kiện này; (ii) Tài sản đang chịu sự quản lý, trông coi hay sử dụng của những chủ thể nhất định. Chủ thể trên có thể là chủ sở hữu của tài sản hoặc những người được chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, quản lý trông coi tài sản hoặc là người đang chiếm hữu sử dụng bất hợp pháp tài sản. Hay nói cách khác, tài sản gây thiệt hại phải đang gắn liền với quyền hay nghĩa vụ của các chủ thể nhất định. Khi đó, mới có thể gắn trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các chủ thể cụ thể. Do vậy, những tài sản vô chủ không gắn với lợi ích hay nghĩa vụ của bất kỳ chủ thể nào thì khi tài sản đó gây ra thiệt hại thì không có chủ thể nào phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Người bị thiệt hại chỉ có thể bảo vệ lợi ích của mình thông qua việc mua bảo hiểm. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Dựa trên sự tiến triển bình thường, nếu không có sự tác động của tài sản thì thiệt hại cũng không xảy ra. Bằng phương pháp loại trừ chứng minh không phải các nguyên nhân khác gây thiệt hại thì có thể kết luận tài sản là nguyên nhân đã gây ra thiệt hại. Các nguyên nhân khác như: Do sự kiện bất khả kháng; Hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, được thể hiện dưới 2 góc độ là cố ý tự tử hoặc không cố ý nhưng có tính nghiêm trọng đó là lỗi không thể tha thứ được và là nguyên nhân duy nhất dẫn đến thiệt hại xảy ra; Do lỗi của người đang chịu trách nhiệm quản lý, trông coi, bảo quản tài sản; Do lỗi của người trực tiếp sử dụng và khai thác giá trị của tài sản; Hoàn toàn do lỗi của người thứ ba (không phải là người đang trông coi, bảo quản, sử dụng tài sản và cũng không phải là người bị thiệt hại). Nếu không chứng minh được các nguyên nhân trên gây ra thiệt hại, thì có thể kết luận tự bản thân tài sản đã gây ra thiệt hại và đó là trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại.
Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong giới luật học hiện nay đang tồn tại hai quan điểm về xác định chủ thể phải bồi thường khi tài sản gây ra thiệt hại:
Quan điểm thứ nhất, dựa trên lý thuyết về quyền sở hữu: Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại thuộc về chủ sở hữu của tài sản đó. Lập luận này được đưa ra dựa trên nguyên tắc chủ sở hữu là người được hưởng lợi từ tài sản thì sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi tài sản đó gây ra thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên, quan điểm trên sẽ không còn giữ được sự nhất quán khi chủ sở hữu lại chuyển giao việc “hưởng lợi” đó sang cho người khác như cho mượn, cho thuê, thuê khoán… tài sản mà tài sản gây thiệt hại thì người thuê, người mượn có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không? Có nhiều khi mục đích sử dụng tài sản thuê, mượn chưa đạt được mà tài sản đã gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại có khác đi không? Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Quan điểm thứ hai, dựa trên lý thuyết về trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại gắn liền với nghĩa vụ trông coi, quản lý, sử dụng tài sản. Vì trước khi tài sản gây ra thiệt hại, thì luôn phải có một người đang chịu trách nhiệm về tài sản. Sẽ là công bằng nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người đang chịu trách nhiệm quản lý, trông coi hay sử dụng tài sản. Tuy nhiên, tính công bằng trên sẽ bị phá vỡ khi người có trách nhiệm trông giữ tài sản hay khai thác sử dụng tài sản đã tuân thủ đầy đủ các yêu cầu cần thiết trong việc trông giữ, bảo quản hay sử dụng mà tài sản vẫn gây ra thiệt hại. Họ không có lỗi đối với việc tài sản gây ra thiệt hại khi họ không đồng thời là chủ sở hữu của tài sản mà phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ không đảm bảo được tính “công bằng” mà quan điểm trên hướng tới.
Trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, xác định giới hạn trách nhiệm của ngân hàng khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử đó chính là chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi vì Tổ chức tín dụng là một tổ chức có thiết lập quan hệ giao dịch Ngân hàng điện tử với khách hàng và ngân hàng là chủ sở hữu tài sản nhận tiền gửi hoặc hco vay hoặc là các cung ứng dịch vụ qua tài khoản ngân hàng. Các giao dịch này gây ra lỗi thì ngân hàng là chủ thể gánh chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Như vậy, nếu chủ sở hữu của tài sản đồng thời là người đang quản lý, trông coi và sử dụng tài sản thì dù có lỗi hay không có lỗi thì đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra cho người khác. Đây có thể là trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra ngay cả khi chủ sở hữu không có lỗi, trừ trường hợp bất khả kháng hay hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại.
Do vậy, để hoàn thiện khung khổ hành lang pháp lý, cần bổ sung quy phạm xác định giới hạn trách nhiệm của ngân hàng khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử.
3.2.2. Cân nhắc hình sự hóa các hành vi vi phạm gây thiệt hại nghiêm trọng trong hoạt động ngân hàng điện tử của tổ chức tín dụng Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Những năm gần đây, quy mô các vụ án về tín dụng ngân hàng ngày càng lớn cả về hành vi và hậu quả, giá trị tiền, tài sản thất thoát đặc biệt lớn, số người phạm tội ngày càng gia tăng, có cả cán bộ giữ vai trò chủ chốt, có chức vụ, quyền hạn cao. Tính chất các vụ án về tín dụng, ngân hàng ngày càng phức tạp. Hành vi phạm tội có tổ chức liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều người tham gia, có “dây”, có “ô dù” che chắn, bọc lót, móc xích chặt chẽ, trong đó có nhiều cán bộ đảng viên, nhiều người có trình độ chuyên môn cao. Đối tượng phạm tội lĩnh vực này thường móc nối với những phần tử tiểu cực như bọn lừa đảo, môi giới, mua bán dự án, kinh doanh trái phép, môi giới, đưa hối lộ, nhận hối lộ… với thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi.
Theo báo cáo của tổng cục thống kê, từ năm 2016 đến nay, cơ quan điều tra đã phát hiện và khởi tố 37 vụ án, Viện kiểm sát phê chuẩn khởi tố 115 bị can về hành vi phạm tội có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, tín dụng như: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Vi phạm về cho vay trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng, Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, Tham ô tài sản, Đưa hối lộ, Nhận hối lộ, Lập quỹ trái phép.. trong đó tội phạm xảy ra tại các Ngân hàng Nhà nước là 10 vụ, chiếm tỷ lệ 27% (riêng tại hệ thống Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam xảy ra 09 vụ, chiếm tỷ lệ 25%), Ngân hàng thương mại cổ phần xảy ra 17 vụ chiếm 46%, còn lại thuộc các loại hình ngân hàng khác. Tổng số tiền bị chiếm đoạt của các ngân hàng là 1.108 tỷ đồng, trên 320 lượng vàng, và gần 2 triệu USD.
Từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng thấy rằng hành vi phạm tội thường xuất phát từ những sai phạm sau:
- Cố ý làm sai các quy định, quy trình, nhằm hợp pháp hóa thủ tục vay và cho vay vốn.
- Nhân nhượng hoặc làm ngơ trước những sai sót của Người tiêu dùng.
- Các nội dung can thiệp trái pháp luật của lãnh đạo.
- Lợi dụng sự sơ hở của chính sách quản lý về ngân hàng và cho vay để tư lợi.
- Chính sách với khách hàng Vip còn nhiều sơ hở.
- Cho vay tín chấp không đủ điều kiện.
- “Vay ké”, “vay lại” để sử dụng vào mục đích tư lợi.
- Nhận hồ sơ thế chấp không phải là bản chính.
- Thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra và nắm chắc tình trạng tài sản trước và sau khi nhận thế chấp.
- Thẩm định hồ sơ thế chấp không đúng, không kỹ càng, đầy đủ.
- Thẩm định hồ sơ không đúng quy trình do nể nang cấp trên cho vay trước hoàn thiện hồ sơ sau.
- Quản lý kho hàng thế chấp, cầm cố không chặt chẽ.
- Tiếp nhận tài sản không được phép nhận. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
- Không kiểm tra được việc sử dụng vốn vay và nắm bắt được thực trạng tài chính sau khi cho vay.
- Xà xẻo, bớt xén, bán rẻ mạt, chi phí bừa bãi khi xử lý tài sản đảm bảo.
- Từ những vi phạm trên, dẫn đến thủ đoạn phạm tội của cán bộ ngân hàng như:
Lập hồ sơ vay vốn giả của Người tiêu dùng để rút tiền kinh doanh bất động sản, chứng khoán và cho vay nặng lãi (như vụ Bùi Thị Tâm, cán bộ Ngân hàng Cổ phần Đông Á quận 5 TP Hồ Chí Minh) làm hồ sơ giả hơn 700 hồ sơ vay chiếm đoạt 160 tỷ đồng.
Lợi dụng chuyển tiền, nhận quà qua ngân hàng bằng chứng minh nhân dân để rút tiền (vụ Hoàng Văn Luận, Chi nhánh Ngân hàng NN và PTNT Gia Lâm, Hà Nội lập khống giấy nhận tiền, ghi tên khách hàng bất kỳ, giả chữ ký thủ quỹ…chuyển tiền đến ngân hàng khác, sau đó dùng chứng minh nhân dân rút tiền chiếm đoạt.
Làm giả chữ ký của người gửi tiền, chữ ký của giao dịch viên, rút một phần hoặc toàn bộ tiền của khách hàng gửi (Vụ Lê Hoài Phương, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy, Hà Nội) lấy cắp mật khẩu, truy cập mã giao dịch vay Chương trình quản lý tiền ngân hàng chiếm đoạt 28 tỷ đồng.
Nhận tài sản thế chấp của khách hàng (sổ đỏ) không nhập kho quỹ mà đem cầm cố vay vốn bên ngoài (vụ Vũ Thị Hồng Điệp, Ngân hàng NN và PTNT Chi nhánh Tân Lập, Buôn Hồ, Đăks Lăk) lấy 07 sổ đỏ của khách hàng thế chấp mang đi vay ngoài 26 tỷ đồng, chiếm đoạt riêng.
Làm giả sổ tiết kiện, tẩy xóa số dư trên sổ tiết kiệm của khác hàng chiếm đoạt tiền của ngân hàng (vụ Trần Lệ Thủy, phòng giao dịch khách hàng ngân hàng Đông Đô, Hà Nội) tẩy xóa số dư trên sổ tiết kiệm của người thân, sửa số dư 190 triệu thành 272 tỷ đồng rồi thế chấp ở ngân hàng Đông Đô, rút và chiếm đoạt 300 tỷ đồng.
Lợi dụng giao địch một cửa, lề lối làm việc đơn giản, gia đình, nhân viên đều nắm được mật khẩu giao dịch, máy tính của nhau… đã truy cập và rút tiền ngân hàng chiếm đoạt như vụ Ngô Thanh Lam (ở Ngân hàng Ngoại thương) tham ô 4,5 triệu đô la, gần 1 năm sau mới bị phát hiện. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Lợi dụng chính sách quy định về mức lãi xuất huy động bằng đồng Việt Nam không quá 14% năm, đã tạo ra khoản phí môi giới để tham ô như vụ 23 cán bộ ngân hàng NN và PTNT tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lập 125 sổ tiết kiệm, lập khống 125 giấy xác nhận huy động vốn và chứng từ chi môi giới khống chiếm đoạt tiền môi giới gần 5 tỷ đồng.
Làm giả con dấu chữ ký giả mạo giấy tờ lừa đảo chiếm đoạt tham ô tiền ngân hàng ký hợp đồng huy động vốn với lãi xuất cao, rồi chiếm đoạt như vụ Huỳnh Thị Huyền Như, Chi nhánh NHTMCP Công thương Nhà Bè chiếm đoạt 3.600 tỷ đồng của 2 ngân hàng, công ty chứng khoán, và rất nhiều doanh nghiệp khác…
Nguyên nhân các vi phạm tội phạm trong hoạt động tín dụng, ngân hàng:
Quá trình thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, Viện kiểm sát nhân dân thấy, để xảy ra tình trạng các cán bộ tín dung, ngân hàng và đối tác làm ăn của các Tổ chức tín dụng, ngân hàng có hành vi phạm tội, chiếm đoạt tiền vốn, tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp do các nguyên nhân sau:
Về khách quan: do tác động và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm qua, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng tiền chung Châu Âu đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc tới toàn diện nền kinh tế nước ta, trong đó tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, gây khó khăn về tổ chức và hoạt động, dẫn đến phá sản, giải thể, và cũng là nguyên nhân các Tổ chức tín dụng, ngân hàng vi phạm các quy định của pháp luật, quy định, quy trình nội bộ về cho vay.
Về cơ chế, quy chế: quy chế cho vay và các văn bản quy định về cho vay của các Tổ chức tín dụng, ngân hàng ban hành từ lâu, có nhiều điểm không còn phù hợp với Luật
Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và thực tiễn hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng cần được ban hành mới để phù hợp. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Về Quản trị điều hành và kiểm soát, kiểm toán nội bộ: công tác quản trị, điều hành còn yếu, hiệu quả thấp và hoạt động của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ chưa thực sự phát huy được vai trò tham mưu và đề xuất kịp thời những vấn đề cần quan tâm cho hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ban kiểm soát và ban điều hành các Tổ chức tín dụng trong qua trình hoạch định chiến lược quản lý điều hành và chỉ đạo hoạt động chuyên môn nghiệp vụ.
Về quy trình, quy định nội bộ: không chặt chẽ, còn nhiều lỗ hổng như quy định về chi hoa hồng môi giới tiền gửi tiết kiệm, lãi xuất thỏa thuận… đã vô hình dung tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên ngân hàng, Tổ chức tín dụng vi phạm.
Về quản lý rủi ro tín dụng: thực tế cho thấy nếu cấp tín dụng quá hạn mức sẽ có nhiều nguy cơ gây rủi ro cho ngân hàng. Hầu hết các các Tổ chức tín dụng trong nước đã cấp tín dụng vượt quá hạn mức đặt ra đối với một số khách hàng lớn và nhóm khách hàng có liên quan là các tập đoàn, tổng công ty lớn…
Về con người: do sự suy thoái và biến chất của một số cán bộ nhân viên tín dụng, ngân hàng trong qua trình thẩm định, xét duyệt cho vay, lợi dụng sơ hở của pháp luật, quy định, quy trình nội bộ của các tổ chức TD, NH về cho vay, cấu kết với khách hàng trục lợi riêng.
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng và giảm thiểu các khoản nợ xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước.
Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Sửa đổi, bổ sung các văn bản cho phù hợp với Luật các Tổ chức tín dụng, văn bản pháp luật liên quan, yêu cầu thực tiễn về quản lý nhà nước và hoạt động của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, sửa đổi một số quy định để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng chức năng, các ngân hàng thương mại. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Áp dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại, phương tiện thông tin đại chúng để việc tuyên truyền tiếp cận đến đông đảo nhân dân, các địa bàn, khu vực của đất nước. Đổi mới hình thức vận động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và tố giác tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
Ba là, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về công tác phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin bắt kịp xu hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0. Quan tâm đầu tư đội ngũ lực lương chuyên trách đủ kỹ năng, thông thạo về lĩnh vực ngân hoàng, ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng đủ yêu cầu đặt ra với công tác quản lý, phòng, chống tội phạm về lĩnh vực ngân hàng. Củng cố hoàn thiện hệ thống công nghệ và cơ sở dữ liệu để thu thập thông tin về hoạt động ngân hàng nhằm bảo đảm tính đầy đủ về cơ sở dữ liệu phục vụ quá trình phân tích, đánh giá, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật.
Năm là, nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực ngân hàng. Kiện toàn bộ máy nhân sự của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động ngân hàng thuộc các bộ ban, ngành. Tập trung, thống nhất xây dựng cụ thể kế hoạch và nội dung về các hoạt động chuyên môn và nghiệp vụ thanh tra ngân hàng. Đổi mới mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra ngân hàng theo hướng bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo, bỏ sót nhiệm vụ. Xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm, nhanh chóng đánh giá phân tích các phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm; nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Sáu là, tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa các bộ, ngành và đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Tích cực phối hợp trong công tác quản lý, trao đổi thông tin giữa cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan chức năng cùng với các hệ thống ngân hàng, như: Những thay đổi về chính sách, nghiệp vụ tín dụng, các phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm ngân hàng… Sơ kết, tổng kết theo giai đoạn các quy chế, kế hoạch phối hợp góp phần nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy trong công tác lãnh đạo, chỉ huy tạo sự thống nhất về vị trí, vai trò, mục đích, nguyên tắc, đối tượng, biện pháp, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác phối hợp giữa các lực lượng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Tại chương 3 của luận văn Tác giả đã tập trung khai thác nội dung giải pháp pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ NTS trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử.
Thứ nhất: Xu hướng số hóa hoạt động ngân hàng và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Việc Đảng và nhà nước ta có chủ trương tiếp cận chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế văn hóa xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Tiếp cận chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta có sự giao thoa của các quốc gia phát triển trên thế giới. Điều nay chứng minh vai trò của việc cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử trong đời sống kinh tế xã hội nước ta là rất quan trọng và không thể thiếu. Mặt khác, việc bảo vệ Người tiêu dùng nói chung và Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử bằng pháp luật là một vấn
đề đặt ra rất lớn lao và hết sức cần thiết. Luận văn đã phân tích làm sáng tỏ điều cần thiết phải bảo vệ Người tiêu dùng hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử dưới lăng kính khoa học pháp lý.
Thứ hai: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả Người tiêu dùng hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Luận văn đã giải mã được ba vấn đề lớn. Một là, cần có quy phạm xác định giới hạn trách nhiệm của ngân hàng khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản cho Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Hai là, mở rộng phạm vi trường hợp được hưởng bảo hiểm tiền gửi. Ba là, cân nhắc hình sự hóa các hành vi vi phạm gây thiệt hại nghiêm trọng trong hoạt động Ngân hàng điện tử của Tổ chức tín dụng. Luận văn: Giải pháp PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng.
Những giải pháp này hy vọng đóng góp phần nào những kiến thức nhỏ bé để nâng cao hiệu quả bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com