Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam mà cụ thể là bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ này đóng một vai trò vô cùng quan trọng để đảm bảo hoạt động giao dịch của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam luôn được thông suốt, liền mạch và an toàn tuyệt đối.
Hiện nay, với vai trò là cơ quan chuyên môn tham mưu trực tiếp cho Chính phủ để điều tiết, đảm bảo sự hoạt động ổn định và phát triển đi lên của lĩnh vực ngân hàng thì ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tham mưu cho Quốc hội và Chính phủ ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương, công khai, minh bạch trong các hoạt động của các Tổ chức tín dụng, trong đó có các NHTM nhằm đảm bảo quyền lợi của các Tổ chức tín dụng và của Người tiêu dùng.
1.2 Tính cấp thiết của đề tài Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Cuộc cách mạng này mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Trong bối cảnh đó, lĩnh vực ngân hàng cần có phương hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của ngành, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Tại Việt Nam, từ năm 2006, Ngân hàng nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt. Đề án này đã được điều chỉnh phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt. Xu hướng Ngân hàng điện tử tại Việt Nam bắt đầu chỉ với vài giao dịch phổ biến.
Nhưng càng ngày càng nhiều tính năng, tiện ích được thêm vào để có thể đáp ứng mọi nhu cầu của Người tiêu dùng một cách tốt nhất. Ví dụ: Người tiêu dùng có thể quản lý tài khoản thanh toán, tài khoản thẻ tín dụng, truy vấn số dư, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn, gửi tiết kiệm, mua sắm trực tuyến… Ngoài ra, diễn biến phức tạp của dịch Covid19 đã thay đổi thói quen tiêu dùng của Người tiêu dùng và trở thành “cú hích” khiến dịch vụ.
Tuy nhiên, vấn NHĐT bùng nổ. Minh chứng là trong quý I/2021, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đạt mức tăng trưởng khá. So với cùng kỳ năm 2020, giao dịch qua kênh Internet đạt 156,2 triệu lượt với giá trị 8,1 triệu tỷ đồng, tăng 55,9% về số lượng và 28,4% về giá trị; giao dịch qua kênh điện thoại di động đạt 395,05 triệu lượt với giá trị hơn 4,6 triệu tỷ đồng, tăng 78% về số lượng và 103% về giá trị đề nào cũng có hai mặt đối lập của nó, ngoài những tiện ích mang lại cho Người tiêu dùng, thì cùng với sự phát triển của công nghệ số sẽ làm tăng những lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao hoạt động ngày càng tinh vi. Ngày nay, xu thế tội phạm công nghệ cao tấn công vào lĩnh vực ngân hàng, tài chính tại Việt Nam đang ngày càng tăng cả về số lượng lẫn mức độ tinh vi, phức tạp và gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Theo thống kê của công ty phần mềm Symantec, Việt Nam đứng thứ 11 trên thế giới về các hoạt động đe dọa tấn công mạng. Hiệp hội An toàn thông tin số Việt Nam VNISA đưa ra chỉ số an toàn thông tin năm 2018 là 45.6%. Trong thời gian qua, đã xảy ra hàng loạt các vụ việc tài khoản ngân hàng bị xâm nhập khiến Người tiêu dùng chịu thiệt hại đáng kể về tài sản. Mặc dù cơ quan chức năng có sự can thiệp, đưa ra các giải pháp, tuyên truyền cho Người tiêu dùng ý thức việc bảo mật an toàn thông tin cá nhân, tuy nhiên sự can thiệp này chưa đủ mạnh do thiếu hành lang pháp lý bảo vệ Người tiêu dùng, do đó chưa đáp ứng được kỳ vọng của Người tiêu dùng. Hậu quả của hành vi xâm nhập tài khoản ngân hàng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Người tiêu dùng. Xét ở khía cạnh cao hơn, việc quyền lợi của Người tiêu dùng không được đảm bảo sẽ gây ra sự hoài nghi của Người tiêu dùng về tính an toàn trong hoạt động cung ứng dịch vụ NHĐT, làm cho hoạt động ngân hàng mất tính duy trì ổn định, ảnh hưởng sâu đậm đến nền kinh tế của Việt Nam. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Từ những thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu bản chất của hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử và cơ chế bảo vệ Người tiêu dùng, kết hợp đánh giá thực tiễn công tác bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động Ngân hàng điện tử, từ đây phân tích những vấn đề pháp lý còn tồn đọng và kiến nghị một số giải pháp là những yêu cầu mang tính cấp thiết. Với ý nghĩa này, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam” để nghiên cứu.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Mục tiêu tổng quát
Tác giả xác định mục tiêu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành, đưa ra các nhận xét thực trạng hiện nay còn tồn đọng, vướng mắc, từ đó tác giả đề xuất, kiến nghị các giải pháp và trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới một cách có chọn lọc nhằm nâng cao vai trò, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được tác giả cụ thể hóa bằng những câu hỏi nghiên cứu sau:
- NTD là gì? Bảo vệ Người tiêu dùng là gì? Sử dụng công cụ nào để thực hiện việc bảo vệ Người tiêu dùng? Có cần thiết phải bảo vệ Người tiêu dùng hay không?
- NHĐT là gì? Chủ thể nào cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam?
- Thực trạng pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ NHĐT hiện nay được quy định có những hạn chế, vướng mắc gì? Đủ sức bảo vệ NTD hay chưa?
- Những giải pháp về pháp luật để giải quyết những hạn chế, vướng mắc đó? – Tiếp tục có những giải pháp gì về pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ Người tiêu dùng?
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài được tác giả nghiên cứu giới hạn trong phạm vi hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến vấn đề bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện của các Tổ chức tín dụng, Người tiêu dùng, cơ quan quản lý nhà nước; Mối quan hệ pháp luật tiêu dùng giữa bên cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử và Người tiêu dùng khi có hành vi xâm phạm quyền lợi Người tiêu dùng xảy ra, những rủi ro và thiệt hại của Người tiêu dùng, hậu quả pháp lý và cơ chế bảo vệ Người tiêu dùng của bên cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử trong trường hợp này. Ngoài ra, tác giả nghiên cứu thêm nguồn tư liệu pháp luật nước ngoài có liên quan đến vấn đề bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử nhằm củng cố quan điểm của tác giả trong vấn đề bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam bằng pháp luật. Cụ thể là Luật bảo vệ người tiêu dùng, Luật giao dịch điện tử và Luật các tổ chức tín dụng
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2023.
- Phạm vi không gian: Người tiêu dùng là khách hàng tham gia giao dịch các cung ứng dịch vụ của ngân hàng trên phạm vi trên lãnh thổ Việt Nam.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp phân tích logic quy phạm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh luật học.
6. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
Bản chất hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử và cơ chế bảo vệ Người tiêu dùng của bên cung ứng dịch vụ tại Việt Nam. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Khung khổ, hành lang pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
Thực trạng pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Về ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần làm rõ các vấn đề lý luận chung và thực trạng của pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử ở nước ta hiện nay.
7.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo để tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề của pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp những kiến thức cần thiết mang lại những giá trị thực tế cho người làm công tác nghiên cứu. Ngoài ra, với kết quả nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp những kiến nghị, đề xuất của cá nhân nhằm củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
8. TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
Hiện nay tại Việt Nam mới chỉ có Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng (năm 2010) trong nhiều lĩnh vực, chưa có pháp luật chuyên biệt về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Do đó, vấn đề bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới dừng lại ở hình thức là sách chuyên khảo, bài báo, bài viết, luận văn nghiên cứu có liên quan. Có thể kể đến các nghiên cứu như: Sách “Phát triển dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam” của TS. Phạm Thu Hương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Sách “Vai trò của Hội bảo vệ Người tiêu dùng trong việc bảo vệ Người tiêu dùng” của TS. Nguyễn Thị Vân Anh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Sách “Hỏi – Đáp về Luật bảo vệ Người tiêu dùng” của NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Sách “Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại” của PGS. TS Phan Thị Cúc, NXB Giao thông Vận tải, Hà Nội; Sách “Cẩm Nang Quy Chế Hoạt Động Ngành Ngân Hàng” của tác giả Quí Lâm – Kim Phượng, NXB Tài chính, Hà Nội…. Các luận văn như: Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong giao dịch điện tử ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Quyên; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi Tiến Đạt…. và các bài viết trên tạp chí, website uy tín như: “Bảo đảm an toàn hoạt động Ngân hàng điện tử từ thực tiễn pháp luật Việt Nam” của TS. Viên Thế Giang đăng trên Kỷ yếu Hội thảo khoa học: An ninh tài chính của Việt Nam trong hội nhập quốc tế; “Giám sát an toàn công nghệ: Điều kiện bảo đảm phát triển bền vững dịch vụ tài chính công nghệ ở Việt Nam hiện nay” của ThS. Võ Thị Mỹ Hương đăng trên Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Hoạt động ngân hàng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0; “Giải pháp tăng cường an ninh, bảo mật trong phát triển ngân hàng số” của tác giả Thanh Thúy đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 03/ 2019; “Quy định của Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010 và một số kiến nghị” của tác giả Lê Văn Sua đăng trên website Bộ Tư pháp; “Đảm bảo an toàn thông tin, phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng là nhiệm vụ trọng tâm” của tác giả Thoa Lê đăng trên website Ngân hàng Nhà nước; “Thực trạng an toàn, an ninh mạng tại các ngân hàng Việt Nam” của tác giả Hà Thị Trúc Lan đăng trên website Tạp chí Công thương; “Định hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng” của tác giả Nguyễn Thị Ái Linh đăng trên website Tạp chí Tài chính…
Đề tài “Pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam” có thể xem là đề tài chuyên khảo đầu tiên, tập trung phân tích bản chất, thực trạng và quy định hiện hành nhằm kiến nghị hoàn thiện cơ chế bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động Ngân hàng điện tử.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1.1.1. Khái niệm về dịch vụ Ngân hàng điện tử Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Khi bàn đến khái niệm dịch vụ Ngân hàng điện tử người ta thường bàn đến nội hàm của “Ngân hàng điện tử”. Trên thế giới, loại hình dịch vụ Ngân hàng điện tử (Tiếng Anh: Ebanking) đã xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử, lần đầu tiên được cung ứng từ năm 1980 bởi một ngân hàng ở Scotland. Tuy nhiên, dịch vụ Ngân hàng điện tử chính thức được cung ứng bởi các ngân hàng vào năm 1990, tiền thân của dịch vụ này là việc Người tiêu dùng sử dụng đường dây điện thoại và các thiết bị điện tử để truy cập hệ thống ngân hàng. Mỹ và Châu Âu là những nơi đầu tiên manh nha các hình thức của Ebanking, biểu hiện bằng việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng từ xa thông qua các thiết bị như điện thoại, máy tính và ngày càng trở nên phổ biến cho đến ngày nay.
Ở Việt Nam, Ngân hàng điện tử bắt đầu được biết đến và có những nền móng đầu tiên vào giữa những năm 2000. Tuy nhiên, phải đến đầu thập niên 2010, dưới sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng 4.0, xu hướng E-banking mới thực sự bùng nổ. Xuất phát từ sự phát triển công nghệ thông tin cũng như kỷ nguyên số trong những nấc thang phát triển kinh tế xã hội chung của nhân loại ngày nay đã tác động lớn đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng đã đến gần hơn với Người tiêu dùng nhờ mạng lưới Internet hay viễn thông, việc trao đổi thông tin giữa Người tiêu dùng và ngân hàng được giản lược chỉ qua một cái click chuột hay bàn phím điện thoại là kết nối thành công. Máy tính và Internet đã mở ra hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, nhanh gọn, chính xác và nhất là nó có tính kết nối rộng khắp giữa các châu lục, vùng miền trên toàn thế giới. Có thể nói, thuật ngữ “NHĐT” không còn xa lạ với chúng ta trên tất cả mọi phương diện giao dịch.
Thực tế hiện nay, đã có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau về “NHĐT”. Chẳng hạn như: “NHĐT là khả năng của một kế hoạch có thể truy cập từ xa vào một Ngân hàng nhằm thu thập thông tin, thực hiện các giao dịch thanh toán, tài chính dựa trên các tài khoản lưu ký tại ngân hàng đó và đăng ký các dịch vụ mới”. Nếu coi ngân hàng cũng như một thành phần của nền kinh tế số, một khái niệm tổng quát nhất về Ngân hàng điện tử diễn đạt cụ thể như sau: “NHĐT là ngân hàng mà tất cả các giao dịch giữa ngân hàng và Người tiêu dùng dựa trên quá trình xử lý và chuyển giao dữ liệu số hóa nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng”. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Khái niệm dịch vụ Ngân hàng điện tử được hiểu với rất nhiều định nghĩa khác nhau theo nhiều quan điểm đưa ra từ nhiều quốc gia trên thế giới. Về mặt bản chất, Ngân hàng điện tử gồm các dạng của giao dịch giữa ngân hàng và Người tiêu dùng dựa trên quá trình xử lý và chuyển giao dữ liệu số hóa để từ đó cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng điện tử tồn tại dưới hai hình thức là: hình thức ngân hàng trực tuyến chỉ tồn tại trên cơ sở mạng Internet, cung cấp 100% dịch vụ thông qua mạng Internet và mô hình kết hợp giữa hệ thống NHTM truyền thống và điện tử hóa các dịch vụ truyền thống, nghĩa là phân phối những sản phẩm dịch vụ cũ trên những kênh phân phối mới. Dịch vụ ngân hàng Ngân hàng điện tử của ngân hàng cho phép Người tiêu dùng có khả năng truy cập từ xa nhằm: thu thập thông tin; thực hiện các giao dịch thanh toán, tài chính dựa trên các khoản lưu ký tại ngân hàng và đăng ký sử dụng các dịch vụ mới.
Theo Quyết định 35/2006/QĐ-NHNN Ban hành Quy định về các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng điện tử là hoạt động ngân hàng được thực hiện qua các kênh phân phối điện tử. Kênh phân phối điện tử là hệ thống các phương tiện điện tử và quy trình tự động xử lý giao dịch được các Tổ chức tín dụng sử dụng để giao tiếp với Người tiêu dùng và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cho Người tiêu dùng.
Nghiên cứu theo góc độ pháp luật thương mại điện tử Việt Nam, phương tiện điện tử là các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học điện tử hoặc công nghệ tương ứng. Mạng viễn thông bao gồm mạng Internet, mạng điện thoại, mạng vô tuyến, mạng Intranet, mạng Extrane. Dịch vụ Ngân hàng điện tử là một loại dịch vụ được ngân hàng cung cấp đến Người tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ mới và truyền thống của ngân hàng thông qua các kênh phân phối điện tử tương tác như Internet, điện thoại, các thiết bị thanh toán trực tuyến chuyên dụng… Sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử, Người tiêu dùng được đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ ngân hàng mà không phải đến quầy giao dịch gặp nhân viên ngân hàng. Theo quy định về hoạt động thương mại điện tử hiện hành thì hoạt động thương mại điện tử được hiểu là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, dịch vụ Ngân hàng điện tử là sự kết hợp giữa một số hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống với điện tử viễn thông và công nghệ thông tin. Loại hình dịch vụ này là một dạng của thương mại điện tử (e-commerce) ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Bởi vì các giao kết liên quan đến lĩnh vực ngân hàng trong thương mại điện tử có giá trị pháp lý như bản gốc. Tức là nó được thừa nhận như một bản chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại có giá trị pháp lý như bản gốc nếu đáp ứng cả hai điều kiện: i) Có sự bảo đảm đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử từ thời điểm thông tin được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng chứng từ điện tử; ii) Thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể truy cập, sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.
Như vậy, Tác giả có thể đưa ra định nghĩa về dịch vụ Ngân hàng điện tử (E-banking) được hiểu là các nghiệp vụ, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng được phân phối trên các kênh điện tử như Internet, điện thoại, mạng không dây thay vì phải đến quầy giao dịch gặp nhân viên ngân hàng để thực hiện giao dịch.
1.1.2. Các đặc trưng của dịch vụ Ngân hàng điện tử Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Dịch vụ Ngân hàng điện tử hiểu theo nghĩa trực quan, đó là loại dịch vụ ngân hàng được Người tiêu dùng thực hiện nhưng không phải đến quầy giao dịch gặp nhân viên ngân hàng.
Cho nên dịch vụ Ngân hàng điện tử có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Người tiêu dùng tự phục vụ: xét theo góc độ bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng thì các TCTD phải “Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi”. Đối với việc dịch vụ Ngân hàng điện tử có lượng Người tiêu dùng tham gia giao dịch là tổ chức, cá nhân tham gia, họ sẽ tự phục vụ thông qua dụng cụ điện tử của chính họ. Tức là cũng giống như việc tự đi mua hàng tại siêu thị hay những trang mua bán trên mạng, dịch vụ Ngân hàng điện tử có đặc điểm là Người tiêu dùng sẽ tự mình lựa chọn, giao dịch và hạch toán với hệ thống máy tính của ngân hàng mà không cần đến sự trợ giúp trực tiếp của nhân viên ngân hàng. Điều này dựa trên cơ sở tính bảo mật của dịch vụ Ngân hàng điện tử và sự minh bạch, rõ ràng trong thông tin ngân hàng. Để thực hiện được đặc trưng cơ bản này, pháp luật quy định các Tổ chức tín dụng kinh doanh hoạt động ngân hàng phải xây dựng nền tảng kỹ thuật số có liên quan đến các giao dịch dịch vụ Ngân hàng điện tử này để Người tiêu dùng giao dịch.
Thứ hai, vốn đầu tư lớn: để cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử đòi hỏi ngân hàng đầu tư một lượng vốn ban đầu khá lớn để xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại, đúng định hướng. Liên quan tới vấn đề vốn đầu tư lớn có thể quan tâm đến cơ sở dữ liệu dự phòng, Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành có quy định: “TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xây dựng cơ sở dữ liệu dự phòng để bảo đảm hoạt động an toàn và liên tục”. Muốn an toàn và liên tục trong hoạt động dịch vụ Ngân hàng điện tử thì phải đầu tư xây dựng dữ liệu dự phòng.
Thứ ba, chính xác, tức thời: dịch vụ Ngân hàng điện tử trong Tổ chức tín dụng giúp Người tiêu dùng có thể liên lạc với ngân hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện để thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng tại bất kỳ thời điểm nào và ở bất kỳ vị trí địa điểm nào. Điều này đặc biệt có ý nghĩa phục vụ ứng dụng linh hoạt, dễ dàng gắn kết gia tăng số lượng Người tiêu dùng tham gia. Bởi vì ngoài khách hàng là doanh nghiệp lớn thì Tổ chức tín dụng hoạt động dịch vụ Ngân hàng điện tử còn có một lượng Người tiêu dùng như: họ có ít thời gian đến văn phòng trực tiếp giao dịch ngân hàng, các khách hàng nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân có số lượng giao dịch với ngân hàng không nhiều, số tiền giao dịch mỗi lần không lớn.
Thứ tư, giúp giảm chi phí tăng doanh thu: pháp luật hiện hành có quy định về tính tự chủ hoạt động kinh doanh của các ngân hàng như sau: “TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Do đó, với dịch vụ Ngân hàng điện tử, ngân hàng có thể cân đối tự cắt giảm một số chi phí hoạt động của mình, cụ thể như chi phí xây dựng và duy trì văn phòng, chi phí trả lương cho nhân viên. Với các thiết bị điện tử viễn thông ngày một phát triển thì việc cung ứng dịch vụ của ngân hàng không còn giới hạn về thời gian, không gian, từ đó ngân hàng vững vàng để mở rộng quy mô hoạt động phục vụ khách hàng của ngân hàng. Theo đó các chi phí liên quan hoạt động giao dịch, thanh toán, kiểm đếm, chi phí đi lại được giảm thiểu. Như vậy dịch vụ Ngân hàng điện tử giúp ngân hàng giảm chi phí hoạt động. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Thứ năm, sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú: ban đầu, dịch vụ Ngân hàng điện tử chỉ cung cấp những dịch vụ đơn giản như truy vấn thông tin, liệt kê giao dịch tài khoản… Cho đến nay, dịch vụ Ngân hàng điện tử còn cung cấp Người tiêu dùng những dịch vụ nâng cao như chuyển tiền, mở tài khoản, gửi và tất toán sổ tiết kiệm, thu thuế điện tử vào ngân sách nhà nước, xin vay, trả nợ vay, thanh toán hóa đơn (điện, nước, truyền hình cáp…), lập thư mở L/C, có sẵn các chứng từ giao dịch trước khi đến ngân hàng giao dịch như giấy nộp tiền, rút tiền và ủy nhiệm chi cho cá nhân hay công ty… Ngoài ra dịch vụ Ngân hàng điện tử có thể cung cấp dịch vụ trọn gói nếu Người tiêu dùng có nhu cầu sử dụng.
Thứ sáu, tiềm ẩn những rủi ro: nhìn nhận theo góc độ pháp lý thì tại điểm đ khoản 1 điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2027, có ghi rõ: “Có Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống Tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống Tổ chức tín dụng”. Đây là điều kiện bắt buộc mà pháp luật quy định đối với một Tổ chức tín dụng được NNNN cho phép hoạt động ngân hàng. Quan trọng trong dịch vụ Ngân hàng điện tử là vấn đề an toàn và bảo mật, bởi vì nó liên quan đến hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động do tính chất phức tạp của ứng dụng công nghệ thông tin và tốc độ phát triển nhanh chóng của dịch vụ Ngân hàng điện tử mà mức độ rủi ro trong kinh doanh, chiến lược phát triển, bảo mật an ninh, uy tín và môi trường pháp lý trong hoạt động ngân hàng cũng ngày càng gia tăng.
1.1.3. Phân loại dịch vụ Ngân hàng điện tử Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Dịch vụ Ngân hàng điện tử không chỉ mang lại những ích lợi cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Bản thân ngân hàng khi xây dựng và phát triển dịch vụ Ngân hàng điện tử cũng nhận lại rất nhiều lợi ích. Nhờ dịch vụ E-banking, ngân hàng tiết kiệm được một phần chi phí vận hành như chi phí nhân sự, mặt bằng,… từ đó góp phần tăng doanh thu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Với các lợi ích mà Ngân hàng điện tử mang lại, ngày càng có thêm nhiều người dùng tham gia và sử dụng loại hình dịch vụ này. Thông qua đó, ngân hàng có thêm cơ hội để thu hút và chăm sóc Người tiêu dùng chu đáo hơn. Do vậy, dịch vụ Ngân hàng điện tử được phân ra các loại cụ thể sau đây:
Thứ nhất: dịch vụ Ngân hàng điện tử qua hệ thống chấp nhận thẻ (POS Banking).
Máy POS (viết tắt của chữ Point of Sale) là máy bán hàng chấp nhận thẻ ngân hàng để thanh toán hóa đơn dịch vụ. Thực tế máy được thiết kế nhỏ gọn, cầm chắc trong lòng bàn tay. Máy cà thẻ dễ dàng lắp đặt tại cửa hàng của trung tâm thương mại, tại shop, cửa hàng lớn nhỏ mà không tốn quá nhiều không gian. Hiện có thể dễ dàng thấy sự có mặt của máy tại các điểm mua sắm, các quầy thu ngân, tính tiền của siêu thị, cửa hàng…
Nhìn nhận theo phương diện dịch vụ Ngân hàng điện tử thì POS Banking là phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng qua hệ thống máy POS tại các điểm bán hàng (POS: Point of sale). Máy POS dùng để cung cấp dịch vụ Ngân hàng điện tử là hệ thống điện tử dùng tại các điểm bán hàng có khả năng đọc thẻ và được nối tới một trung tâm dữ liệu tài khoản để thực hiện chức năng thanh toán bằng thẻ. Chức năng chính của POS Banking là cung cấp dịch vụ thanh toán qua thẻ cho việc mua bán hàng hóa dịch vụ. Tiện ích mà POS mang lại cho chủ thẻ là không phải mang tiền mặt mỗi khi đi mua sắm, tránh việc trả lại tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông lưu hành; các chương trình khuyến mãi giảm giá do các ngân hàng và đơn vị chấp nhận thẻ tổ chức.
Hiện tại ở nước ta, các hệ thống POS được phát triển rất đa dạng để phục vụ nhu của của người dùng. Do đó, đã có những loại máy khác nhau ra đời thay vì kiểu truyền thống như trước. Hiện nay có 2 loại phổ biến thực hiện chức năng thanh toán đó là máy POS di động và máy POS tính tiền điện tử. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Một là: máy POS di động/ cầm tay.
Đây là loại phổ biến nhất và cũng chính là loại máy được thiết kế dựa trên phiên bản đầu tiên của máy POS. Máy được sử dụng rộng rãi và Người tiêu dùng có thể dễ dàng bắt gặp ở các cửa hàng có quy mô vừa và nhỏ như siêu thị mini, cửa hàng tạp hóa, cửa hàng bán mỹ phẩm, cửa hàng thời trang, phụ kiện,…
Máy cầm tay thường có thiết kế nhỏ gọn, cầm vừa trong lòng bàn tay. Nó có màn hình cảm ứng hoặc màn hình điện tử kèm phím cơ. Ngoài ra, loại này sẽ được tích hợp cùng với tính năng in hóa đơn và phần mềm quản lý bán hàng cho chủ cửa hàng. Máy sẽ hoạt động bằng pin và sim kết nối Internet để truyền dữ liệu.
Hai là: máy POS tính tiền điện tử.
Đây được xem là phiên bản nâng cấp của máy POS di động, tức là với chức năng chính là tính tiền nhưng có kích thước lớn hơn. Bên cạnh đó, chúng còn được kết hợp với các thiết bị khác như máy đọc mã vạch, máy in hóa đơn bán lẻ, máy thanh toán bằng thẻ tín dụng và ngăn kéo đựng tiền,… Người tiêu dùng có thể bắt gặp loại máy này ở các cửa hàng lớn, chuỗi siêu thị,… để đáp ứng nhu cầu thanh toán cao và khắc phục các hạn chế nhất định ở máy cầm tay di động. Hơn nữa, máy POS tính tiền điện tử sẽ có loại một màn và loại hai màn để Người tiêu dùng lựa chọn.
Nói về tính ứng dụng của nó đối với loại Người tiêu dùng nào thì có thể những loại máy POS khác nhau thì sẽ có những đối tượng khác nhau nhất định. Đối với máy POS di động: thích hợp với các chủ quán cà phê, quán ăn, cửa hàng mỹ phẩm, quần áo nhỏ. Còn đối với máy POS điện tử thì do yếu tố cố định, nên loại máy này sẽ thích hợp sử dụng trong các nhà hàng, chuỗi showroom, cửa hàng lớn, chuỗi siêu thị. Bên cạnh đó, nó sẽ thích hợp với các hệ thống kinh doanh đồ ăn, nước uống yêu cầu gọi món tại quầy trực tiếp.
Xét về tính năng sử dụng những loại thẻ nào thì hầu hết các loại thẻ ATM do ngân hàng phát hành đều có thể dùng POS để thanh toán hóa đơn dịch vụ. Những loại thẻ thông dụng như: thẻ ATM nội địa, thẻ tín dụng… Máy POS không phân biệt là Người tiêu dùng dùng thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành. Sự liên kết chặt chẽ giữa các ngân hàng tạo điều kiện cho mọi người đều có thể dùng máy này để thanh toán, Người tiêu dùng có thể dùng thẻ với bất cứ máy POS nào dù rằng mỗi ngân hàng đều có dịch vụ cung ứng máy POS cho cơ quan tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu sử dụng.
Thứ hai: dịch vụ Ngân hàng điện tử qua điện thoại cố định Call Center.
Do quản lý dữ liệu tập trung nên Người tiêu dùng có tài khoản tại bất kỳ chi nhánh nào vẫn có thể gọi về số điện cố định của trung tâm để được cung cấp mọi thông tin về sản phẩm, dịch vụ, lãi suất, tỷ giá hối đoái… và thông tin tài khoản cá nhân. Người tiêu dùng nhấn vào các phím điện thoại theo mã do ngân hàng quy định trước để yêu cầu hệ thống trả lời thông tin cần thiết. Call Center có thể linh hoạt cung cấp thông tin hoặc trả lời các thắc mắc của Người tiêu dùng, hoạt động 24/24.
Điển hình cụ thể là ngân hàng Vietcombank có 24/7 VCB-Phone B@nking.
Tính năng được thể hiện ở chỗ, Người tiêu dùng gọi đến Hotline 1900545413 bằng số điện thoại đang sử dụng VCB – SMS B@nking để tự động thực hiện các yêu cầu: Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
- Khóa toàn bộ các thương hiệu thẻ quốc tế và thẻ nội địa;
- Khóa toàn bộ thẻ thuộc các thương hiệu thẻ do Vietcombank phát hành;
- Khóa tất cả các dịch vụ Ngân hàng điện tử và ngừng liên kết ví điện tử, không bao gồm khóa dịch vụ VCB SMS Banking;
- Khóa dịch vụ VCB-iB@nking;
- Khóa dịch vụ VCB – Mobile B@nking và VCBPay;
- Ngừng liên kết tất cả các ví điện tử;
- Thay đổi mật khẩu sử dụng dịch vụ VCB – Phone B@nking.
Bên cạnh đó, Người tiêu dùng gọi đến Hotline 1900545413 gặp Chuyên viên Dịch vụ khách hàng để được cung cấp và giải đáp các các thông tin liên quan về:
Các sản phẩm và dịch vụ của Vietcombank (điều kiện sử dụng, quy trình, thủ tục, các chương trình khuyến mại, các thông tin tỉ giá, lãi suất, biểu phí dịch vụ, mạng lưới…);
- Thông tin liên quan đến việc sử dụng sản phẩm dịch vụ của Người tiêu dùng Vietcombank;
- Tư vấn, hướng dẫn Người tiêu dùng sử dụng sản phẩm dịch vụ Vietcombank.
Ngoài ra, Người tiêu dùng được hỗ trợ thực hiện các yêu cầu:
- Khóa thẻ tạm thời, khóa chi tiêu thẻ trên Internet, thay đổi hạn mức sử dụng ngày của thẻ, kích hoạt thẻ;
- Khóa/ngừng dịch vụ VCB-iB@nking; VCB-Mobile Banking, VCB-SMS B@nking;
- Cấp lại tên truy cập/mật khẩu truy cập dịch vụ VCB-iB@nking; VCB- Phone B@nking, VCB – Mobile B@nking;
- Đăng ký/hủy đăng ký dịch vụ tin nhắn chủ động;
- Cấp phép giao dịch thẻ, hủy cấp phép giao dịch thẻ;
- Các yêu cầu khác của Người tiêu dùng.
Thứ ba: dịch vụ Ngân hàng điện tử qua điện thoại di động.
Dịch vụ ngân hàng qua mạng điện thoại di động (tiếng Anh: Mobile Banking) là một trong những dịch vụ ngân hàng được sử dụng trong thanh toán B2C – Business to customer. Mobile Banking là một dịch vụ ngân hàng trực tuyến thông qua ứng dụng của ngân hàng trên điện thoại thông minh. Theo đó, Người tiêu dùng chỉ cần cài đặt ứng dụng của ngân hàng về điện thoại của cá nhân để sử dụng được các dịch vụ này. Dịch vụ Mobile Banking gồm 2 sản phẩm: Mobile App và Mobile Web. Mobile App là dịch vụ ngân hàng qua ứng dụng cài trên điện thoại di động, được cài đặt trên dòng điện thoại chạy hệ điều hành IOS và Android. Mobile Web là dịch vụ ngân hàng thông qua trình duyệt Internet trên điện thoại di động, không yêu cầu dòng máy hay hệ điều hành, chỉ cần điện thoại có kết nối Internet. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Khái niệm dịch vụ ngân hàng qua mạng điện thoại di động là việc hệ thống mạng điện thoại di động sử dụng giao thức không dây (WAP – Wireless Applications Protocol) và việc kiểm soát bảo mật thông tin sẽ tiến hành trên thẻ thông minh (số SIM). Do vậy, đối với loại hình này, thẻ thông minh đóng một vai trò hết sức quan trọng, lưu trữ mọi thông thông tin liên quan đến người sử dụng và tình hình tài chính của họ. Thẻ thông minh trong điện thoại di động thường được biết đến dưới cái tên viết tắt SIM (Subscriber Identity Module). Bên cạnh việc tiến hành giao dịch và chuyển tiền giữa các tài khoản, dịch vụ này chủ yếu được sử dụng để nhận các thông tin thị trường cập nhật nhất, đặc biệt là giá cả chứng khoán và ngoại hối. Cũng như quan niệm đối với mạng điện thoại gia đình, với số lượng người sử dụng điện thoại di động vào khoảng trên 1 tỉ người thì thị trường điện thoại di động quả là một thị trường đầy tiềm năng cho loại hình dịch vụ này. Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng có thể sử dụng dịch vụ này mà còn phải tuỳ thuộc vào sự phát triển của ngành viễn thông ở mỗi quốc gia. Dịch vụ ngân hàng qua mạng điện thoại di động là một trong những dịch vụ ngân hàng được sử dụng trong thanh toán B2C – Business to customer.
Như vậy, Mobile Banking là loại dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ viễn thông không dây của mạng điện thoại di động (Mobile Network) bao gồm việc thực hiện dịch vụ ngân hàng bằng cách kết nối điện thoại di động với trung tâm cung cấp dịch vụ Ngân hàng điện tử (tương tự như Home Banking) và kết nối Internet trên điện thoại di động sử dụng giao thức ứng dụng không dây WAP (Wireless Application Protocol). Một số tiện ích mà dịch vụ Mobile Banking cung ứng cho Người tiêu dùng như: cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động tài khoản cá nhân Người tiêu dùng, thực hiện giao dịch thanh toán hóa đơn (điện, nước, vé máy bay, học phí…), vay thấu chi, kinh doanh chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư tài chính của Người tiêu dùng… Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Thứ tư: dịch vụ Ngân hàng điện tử qua mạng máy tính toàn cầu (Internet Banking).
Internet banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thông qua mạng Internet. Người tiêu dùng chỉ cần một công cụ duyệt web và một đường truyền Internet Banking tại bất cứ nơi nào có thể truy cập Internet và bất cứ lúc nào. Dịch vụ Internet banking cung cấp đầy đủ và toàn diện nhất các loại hình dịch vụ Ngân hàng điện tử cho Người tiêu dùng từ việc tham khảo thông tin thị trường. Nếu sử dụng dịch vụ Internet Banking trong các giao dịch ngân hàng phổ biến, Người tiêu dùng sẽ nhận được những tiện ích sau:
- Thực hiện chuyển tiền cùng ngân hàng, liên ngân hàng, chuyển tiền từ thẻ qua thẻ hoặc từ tài khoản qua tài khoản thay vì đến trực tiếp chi nhánh ngân hàng hoặc quầy giao dịch;
- Thực hiện kiểm tra số dư tài khoản, số tiền còn trong sổ tiết kiệm, lãi suất, bảng sao kê các giao dịch đã thực hiện trong một khoảng thời gian;
- Thực hiện thanh toán hóa đơn trực tuyến như thanh toán tiền nước, tiền điện, tiền Internet, nạp tiền điện thoại, nạp ví điện tử;
- Nộp thuế, phí, lệ phí trực tuyến;
- Truy vấn thông tin lãi suất, biểu phí, tỷ giá;
- Liên kết với ví điện tử để mua sắm;
- Thanh toán phí bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, trả lãi khoản vay,… – Kết hợp tài khoản cho phép Người tiêu dùng cùng lúc theo dõi tất cả các tài khoản này ở ngân hàng chính hay ở trụ sở khác nhau.
Hiện nay, việc sử dụng Internet Banking ngày càng nhiều trong thanh toán trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi trong mua sắm trên các trang mạng điện tử. Với dịch vụ Internet Banking, khoảng cách về không gian và thời gian giữa ngân hàng với Người tiêu dùng dường như được xóa bỏ, các giao dịch được xử lý trực tuyến, nhanh chóng, hiệu quả. Mặt khác, khi đăng ký dịch vụ Internet Banking của một số ngân hàng, một số NTD còn nhận được các ưu đãi độc quyền như:
- Miễn phí chuyển tiền trong và ngoài ngân hang.
- Mở tài khoản số đẹp miễn phí.
- Miễn phí duy trì tài khoản sáu tháng đầu. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
- Tự động nâng cấp hạn mức giao dịch với 1 lần video call.
- Tham gia các chương trình ưu đãi chỉ dành riêng cho Người tiêu dùng của ngân hàng và các tiện ích khác.
Cách đăng ký dịch vụ Internet Banking để sử dụng, Người tiêu dùng có thể thực hiện đăng ký bằng 3 cách sau:
- Đăng ký Internet Banking ngay sau khi mở thẻ ngân hàng: khi đến ngân hàng mở tài khoản ngân hàng, nhân viên thường sẽ tư vấn cho Người tiêu dùng đăng ký sử dụng dịch vụ Internet Banking. Người tiêu dùng chỉ cần điền thông tin vào biểu mẫu hoặc chọn mục dịch E-Banking, các thủ tục khác sẽ được nhân viên hỗ trợ hoàn tất.
- Đăng ký Internet Banking trực tiếp tại quầy giao dịch ngân hàng: Người tiêu dùng có thể đến trực tiếp quầy giao dịch hoặc các chi nhánh ngân hàng để đăng ký dịch vụ Internet Banking nếu khi mở thẻ chưa đăng ký. Sau khi được nhân viên tư vấn hỗ trợ và đăng ký dịch vụ thành công, Người tiêu dùng có thể thực hiện các giao dịch như gửi tiền tiết kiệm, chuyển tiền, tra cứu số dư,… nhanh chóng và tiện lợi.
- Đăng ký Internet Banking online: trong trường hợp không có nhiều thời gian hoặc điều kiện không cho phép để đến trực tiếp ngân hàng, Người tiêu dùng có thể đăng ký Internet Banking trực tuyến. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi ngân hàng đều đã triển khai dịch vụ này. Một số ngân hàng chỉ áp dụng dành cho Người tiêu dùng đã sở hữu tài khoản ngân hàng từ trước, tuy nhiên nhiều ngân hàng dành cho Người tiêu dùng sự dễ dàng mở tài khoản Internet Banking online 100% ngay tại nhà. Các bước đăng ký Internet Banking online như sau:
Bước 1: truy cập website của ngân hàng và chọn “Đăng ký”/“Tạo tài khoản ngay”.
Bước 2: Nhập số điện thoại và thông tin Người tiêu dùng theo yêu cầu của biểu mẫu.
Bước 3: Chụp hai mặt giấy tờ tùy thân và xác thực khuôn mặt.
Bước 4: Kiểm tra thông tin cá nhân, tạo mật khẩu và chọn điểm giao dịch gần nhất.
Bước 5: Nhập mã OTP gửi về số điện thoại đăng ký để hoàn thành.
Thứ năm: Dịch vụ Home Banking. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Ngân hàng tại nhà (HOME BANKING) là nghiệp vụ ngân hàng tự phục vụ dành cho Người tiêu dùng và các chủ doanh nghiệp nhỏ, giúp người sử dụng thực hiện nhiều chức năng thường nhật tại nhà thông qua điện thoại, kết nối cáp.
Home Banking có nghĩa là dịch vụ ngân hàng tại nhà. Đây là một loại dịch vụ Ngân hàng điện tử được phát hành bởi các Tổ chức tín dụng, thông qua dịch vụ này, Người tiêu dùng sẽ nhận được những thông báo liên quan đến biến động tài khoản. Cho phép Người tiêu dùng có thể chủ động kiểm soát các giao dịch ngân hàng từ văn phòng của mình thông qua các phương tiện: website, thư điện tử, điện thoại di động hay điện thoại cố định. Người tiêu dùng giao dịch với ngân hàng qua mạng nhưng là mạng nội bộ (Intranet) do ngân hàng xây dựng riêng. Các giao dịch được tiến hành tại nhà thông qua hệ thống máy tính nối với hệ thống máy tính của ngân hàng. Mọi thông tin giao dịch sẽ được hệ thống ngân hàng gửi về số điện thoại hoặc email cá nhân của Người tiêu dùng. Hoặc cách khác, Người tiêu dùng có thể chủ động truy vấn tài khoản, tra cứu lãi suất, tỷ giá…bằng cách nhắn tin tới tổng đài Home Banking.
Với hệ thống này, Người tiêu dùng sẽ tiết kiệm được tối đa thời gian và tiền bạc. Thay vì phải tới trực tiếp phòng giao dịch ngân hàng, Người tiêu dùng chỉ cần ngồi nhà bấm phím máy tính ở bất cứ nơi nào và bất cứ khung thời gian nào. Người tiêu dùng sẽ có thêm nhiều thời gian để tập trung vào các hoạt động kinh doanh. Thông qua dịch vụ Home Banking, Người tiêu dùng có thể thực hiện các giao dịch về chuyển tiền, liệt kê giao dịch, tỷ giá lãi suất…Để sử dụng được dịch vụ này Người tiêu dùng chỉ cần có máy tính (tại nhà hoặc trụ sở) kết nối với hệ thống máy tính của ngân hàng thông qua modem – đường điện thoại quay số, Người tiêu dùng phải đăng ký số điện thoại và chỉ những số điện thoại này mới được kết nối với hệ thống Home Banking của ngân hàng. Hệ thống này giúp Người tiêu dùng tiết kiệm thời gian và tiền bạc vì không cần đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng, dành thời gian tập trung vào kinh doanh. Với dịch vụ này, giao dịch ngân hàng chỉ còn là việc bấm bàn phím máy tính, vào thời điểm thuận tiện nhất. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Các dịch vụ Home Banking hiện nay các các NHTM ở nước ta cung cấp cho Người tiêu dùng 3 dịch vụ như sau:
- Bank Mail Access: Người tiêu dùng sẽ nhận được thông tin giao dịch tự động qua email đã đăng ký với ngân hàng.
- Bank Mobile Access: mọi thông tin giao dịch tài khoản sẽ tự động gửi về tin nhắn điện thoại. Ngoài ra, Người tiêu dùng có thể tra cứu tỷ giá, lãi suất…bằng cách gửi tin nhắn tới tổng đài.
- Bank Voice Access: Người tiêu dùng đăng ký dịch vụ, đăng nhập hệ thống bằng cách nhập đúng mã của Người tiêu dùng. Sau đó, làm theo hướng dẫn để tra cứu thông tin trên tổng đài 0000000000 hoặc số điện thoại khác của ngân hàng.
Xét về mặt lợi ích khi sử dụng Home Banking, có thể nhận thấy rằng khi đăng ký dịch vụ Home Banking của Tổ chức tín dụng, Người tiêu dùng sẽ được trải nghiệm những tiện ích vô cùng hấp dẫn dưới đây:
- Mọi biến động về tài khoản sẽ tự động gửi về email hoặc số điện thoại.
- Nhận thông tin về các sản phẩm mới, chương trình khuyến mãi để Người tiêu dùng tiện theo dõi.
- Được hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng liên quan đến sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
- Giao dịch thông qua điện thoại, Người tiêu dùng không cần mất thời gian đến ngân hàng, chỉ cần gọi điện thoại hoặc truy cập hộp email (E-mail).
- Miễn phí đăng ký sử dụng dịch vụ Home Banking.
- Miễn phí thường niên, chỉ mất phí đối với trường hợp đăng ký số điện thoại thứ 2.
- Trường hợp thay đổi thông tin dùng dịch vụ (thêm tài khoản, đổi số điện thoại, v.v…) sẽ hoàn toàn miễn phí.
- NTD chỉ cần đăng ký dịch vụ 1 lần nhưng có thể dùng mãi mãi.
1.2. HƯỚNG TIẾP CẬN VIỆC BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ BẰNG CÔNG CỤ PHÁP LUẬT Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
1.2.1. Khái niệm về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Trong Luật La Mã, là nguồn chính của phần lớn các hệ thống luật dân sự hiện hành, người mua đã có một số hành động pháp lý chống lại người bán trong các trường hợp cụ thể, bao gồm:
- hoàn trả giá đã thanh toán khi hàng hóa bán ra không phù hợp với chất lượng khai báo (Actio Redhibitoria);
- giảm giá (Quanti Minoris);
- đòi bồi thường từ người bán khi bên thứ ba tuyên bố quyền sở hữu đối với hàng hóa được bán (Eviction).
Trong những thế kỷ tiếp theo, không có sự bảo vệ cụ thể nào cho Người tiêu dùng. Hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ theo nguyên tắc tự do hợp đồng và Nhà nước không can thiệp vào thỏa thuận hoặc hợp đồng giữa các chủ thể.
Mục đích chính của việc ban hành Luật Bảo vệ Người tiêu dùng là ngăn chặn sự lạm dụng khả năng thương lượng vượt trội của người bán, đồng thời điều chỉnh sự bất bình đẳng về khả năng thương lượng giữa họ và Người tiêu dùng. Vấn đề này dựa trên việc bảo vệ Người tiêu dùng chống lại các hành vi không lành mạnh của người bán trong tất cả các giai đoạn sản xuất, cung cấp và phân phối. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Xét về khái niệm “Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng”, theo từ điển bách khoa toàn thư thì bảo vệ Người tiêu dùng gắn liền với ý tưởng về quyền Người tiêu dùng và với sự thành lập của các tổ chức Người tiêu dùng giúp Người tiêu dùng lựa chọn tốt hơn trên thị trường và trợ giúp họ về các phàn nàn.
Các tổ chức khác thúc đẩy việc bảo vệ Người tiêu dùng bao gồm các tổ chức chính phủ và các tổ chức kinh doanh tự điều chỉnh như các cơ quan và tổ chức bảo vệ Người tiêu dùng, các cán bộ thanh tra, ở Mỹ có Ủy ban Thương mại Liên bang và các Better Business Bureau (văn phòng kinh doanh tốt hơn)… Lợi ích của Người tiêu dùng cũng có thể được bảo vệ bằng cách thúc đẩy thương mại công bằng, cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp và thông tin chính xác trên thị trường để phục vụ Người tiêu dùng, phù hợp với hiệu quả kinh tế, nhưng chủ đề này được đối xử trong luật cạnh tranh.
Từ điển bách khoa toàn thư cũng đưa ra khái niệm về Người tiêu dùng là người mua hàng hoá hoặc dịch vụ để sử dụng trực tiếp hoặc sở hữu hơn là bán lại hoặc sử dụng trong chế tạo và sản xuất.
Về mặt pháp lý, Người tiêu dùng được bảo vệ qua các đạo luật trong đó có Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Chúng là một hình thức bao gồm những quy định của chính phủ nhằm bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng. Luật pháp cũng được thiết kế như là các quy định để ngăn chặn các doanh nghiệp tham gia gian lận hoặc các hoạt động không công bằng từ việc giành được lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Chúng cũng giúp bảo vệ bổ sung cho những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Bảo vệ Người tiêu dùng cũng có thể được đòi hỏi thông qua các tổ chức phi chính phủ và cá nhân như là hoạt động của Người tiêu dùng.
Như phân tích trên đây, Tác giả có thể đưa ra khái niệm bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng, như sau: Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội. Quyền lợi của Người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật.
1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử là ứng dụng trực tiếp trong hoạt động ngân hàng của các Tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật hiện hành. Từ hoạt động này, việc bảo vệ Người tiêu dùng trong dịch vụ Ngân hàng điện tử là hết sức cần thiết và phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Cụ thể là pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng và pháp luật giao dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng chính là nội dung pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử.
Thứ nhất: nguyên tắc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng được quy định tại điều 4 Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010, như sau: Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội; Quyền lợi của Người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật; Bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật; Hoạt động bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác. Nguyên tắc này được các đại biểu quốc hội khóa 15 kế thừa thông qua Luật bảo vệ Người tiêu dùng năm 2023 cso hiệu lực thi hành ngày 01/7/2024, như sau: 1. Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng là trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội; 2. Quyền, lợi ích hợp pháp của Người tiêu dùng được công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ theo quy định của pháp luật; 3. Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng phải được chủ động thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật; 4. Hoạt động bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh và tổ chức, cá nhân khác; 5. Bảo đảm công bằng, bình đẳng, không phân biệt về giới, tự nguyện, không vi phạm pháp luật, không trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội trong giao dịch giữa Người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Như vậy, bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội. Với dân số gần 100 triệu dân tính đến năm 2021, Việt Nam được xem là quốc gia có thị trường tiêu dùng vô cùng lớn và tiềm năng. Bất kể là cá nhân hay tổ chức nào cũng đều có thể là Người tiêu dùng, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhiều nguồn khác nhau chính vì thế để bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng, Nhà nước và toàn xã hội cần có trách nhiệm thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình trong quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Quyền lợi của Người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật. Quyền lợi của Người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật không chỉ thể hiện ở Luật Bảo vệ Người tiêu dùng năm 2010 mà còn hiện diện trên nhiều văn bản pháp luật khác như là Luật Cạnh tranh năm, Luật An toàn thực phẩm, Luật Giá, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017, Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, Nghị định số 99/2011/NĐCP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Người tiêu dùng,… Với những quy định trên, quyền lợi của Người tiêu dùng đã được pháp luật đảm bảo đầy đủ, rõ ràng và cụ thể. Ví dụ tại Điểm a Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng đã quy định rõ về mức phạt tiền trong các lĩnh vực liên quan đến tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ như sau: “Điều 4. Quy định các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả. Mức phạt tiền: a) Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực thương mại, bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức; mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm là 200.000.000 đồng đối với cá nhân và 400.000.000 đồng đối với tổ chức;”. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Bảo vệ quyền lợi của Người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật. Người tiêu dùng là bất cứ cá nhân hay tổ chức nào có nhu cầu sử dụng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng, với mục đích tiêu dùng, sinh hoạt mà không vì mục đích bán lại hoặc mục đích thương mại khác. Vì thế mà trong quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ người mua với vị thế yếu, không thể nắm được đầy đủ thông tin về sản phẩm, có thể gặp rủi ro trong quá trình sử dụng bất cứ lúc nào. Việc lạm dụng từ ngữ để quảng cáo cho sản phẩm hàng hóa dịch vụ vẫn còn xảy ra ở nhiều loại hàng hóa, dịch vụ. Chúng ta không khó để tìm kiếm trên thị trường những sản phẩm hàng hóa tự gán những dòng chữ “chất lượng hàng đầu” hay “sản phẩm số 1” lên nhãn hàng hóa, mặc dù không có tổ chức nào công nhận. Do đó việc bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng điện tử cần phải được thực hiện kịp thời, công bằng, đúng pháp luật, rõ ràng và công khai đại chúng vì đây cũng là một quan hệ phát sinh hàng ngày, diễn ra trên phạm vi rộng, nhiều chủ thể tham gia trong quan hệ đó, trực tiếp chịu ảnh hưởng từ hàng hóa, dịch vụ mà họ tiêu dùng.
Hoạt động bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác. Hiện nay, có nhiều Người tiêu dùng bị xâm phạm quyền lợi nhưng không biết phản ánh với cơ quan, tổ chức nào, không biết địa chỉ để khiếu nại vì thế mà rất cần có sự tham gia của các tổ chức xã hội giúp Nhà nước tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, hướng dẫn Người tiêu dùng bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, có thể kể đến Hội Bảo vệ Người tiêu dùng, Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề,… đã và đang thực hiện tốt công việc đó. Những hoạt động của các hội và hiệp hội này không vì mục đích lợi nhuận, tuân thủ các nguyên tắc theo quy định của pháp luật liên quan về hoạt động của tổ chức xã hội và nhằm mục đích hỗ trợ hoặc đại diện cho Người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Hoạt động đó của hội, hiệp hội không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác.
Thứ hai: nội dung quy định về chính sách của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Nội dung này được Luật bảo vệ Người tiêu dùng năm 2010 quy định tại điều 5, cụ thể như sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến để sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lượng.
- Triển khai thường xuyên, đồng bộ các biện pháp quản lý, giám sát việc tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
- Huy động mọi nguồn lực nhằm tăng đầu tư cơ sở vật chất, phát triển nhân lực cho cơ quan, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng; thường xuyên tăng cường tư vấn, hỗ trợ, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn kiến thức cho Người tiêu dùng. – Đẩy mạnh hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm quản lý trong việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Đứng ở phương diện pháp lý, các đại biểu quốc hội đã xây dựng nội dung quy định về chính sách của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng với 5 khoản riêng biệt để điều chỉnh việc bảo vệ Người tiêu dùng nói chung và bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử nói riêng.
Thực tế, quy định này cho thấy Nhà nước ta luôn đề ra những chính sách kịp thời, thích ứng với điều kiện kinh tế – xã hội chung của đất nước ta hiện nay. Việc tham gia vào nền kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới bên ngoài đang làm thay đổi căn bản về nhận thức của Nhà nước trong việc đề ra các chính sách hỗ trợ, thiết lập các chuẩn mực kinh doanh hiện đại và bảo hộ Người tiêu dùng ở Việt Nam.
Sự ra đời của Hội Bảo vệ Người tiêu dùng năm 2018 đã cho thấy Nhà nước luôn chủ động tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Hội Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam là tổ chức phi chính phủ về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng duy nhất hoạt động trong phạm vi cả nước cho tới thời điểm hiện tại, Hội cũng đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc thông tin, hướng dẫn cho Người tiêu dùng, làm cầu nối giữa Hội và Người tiêu dùng, giải quyết khiếu nại cho Người tiêu dùng, mang lại quyền lợi cho Người tiêu dùng, đồng thời phát hiện được những tiêu cực trên thị trường, lấy lại sự công bằng cho xã hội, làm cho thị trường vận hành lành mạnh hơn.
Cục Cạnh tranh và bảo vệ Người tiêu dùng thuộc Bộ Công thương cũng đã cung cấp Hệ thống Tổng đài tư vấn hỗ trợ (đường dây nóng) 18006838 đến Người tiêu dùng và các tổ chức, cá nhân có như cầu liên hệ để được tư vấn về chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Có thể thấy được rằng Nhà nước luôn huy động mọi nguồn lực, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phát triển nhân lực để phổ biến, hướng dẫn kiến thức cho Người tiêu dùng, giúp nâng cao được vị thế, hiểu biết pháp luật của họ trong quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Ngày 12 tháng 7 năm 2021 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành quyết định số 1157/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng giai đoạn 2021-2025 nhằm đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử, kinh tế số và kinh tế chia sẻ; khuyến khích kinh doanh, tiêu dùng bền vững. Chương trình phấn đấu đến hết năm 2025, hằng năm, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (63/63) đều có hoạt động hưởng ứng “Ngày Quyền của Người tiêu dùng Việt Nam”. Bảo đảm hằng năm ít nhất 200.000 Người tiêu dùng trên cả nước được tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng hoặc được đào tạo kỹ năng về tiêu dùng, trong đó có những chương trình ưu tiên cho đối tượng Người tiêu dùng yếu thế như học sinh, sinh viên, trẻ em, người cao tuổi, Người tiêu dùng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19, tính chất lây nhiễm cao của vi-rút rất nhanh, mạnh và tính tiện lợi từ việc giao đặt hàng online, các dịch vụ mua bán hàng hóa không tiếp xúc gia tăng mạnh, trong đó có dịch vụ Ngân hàng điện tử. Theo một khảo sát của công ty nghiên cứu thị trường của Hoa Kỳ – Forrester, năm 2020, 58% Người tiêu dùng chọn chi tiêu trực tuyến, tăng 12% so với mức trước đại dịch. Tại Báo cáo Khảo sát Triển vọng Kinh doanh thực hiện năm 2021, Công ty tư vấn tài chính Hoa Kỳ – LBMC nhận định, các ngành đều bị ảnh hưởng tiêu cực bởi Covid-19, một số ngành như công nghệ và dịch vụ chuyên nghiệp ít bị ảnh hưởng hơn do đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện đại. Với việc hội nhập quốc tế sâu rộng, các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã và đang từng bước học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ trong việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, điều chỉnh những chính sách phù hợp với quốc gia mình. Một ví dụ cụ thể đó là việc hoạt động tích cực của các sàn thương mại điện tử trong thời gian xã hội thực hiện giãn cách, người người nhà nhà mua sắm hàng hóa qua mạng, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát của Nhà nước, các shipper hoạt động vận chuyển hàng hóa trong mùa dịch phải đảm bảo tiêm ít nhất một mũi vaccine, thực hiện nghiêm quy tắc phòng chống dịch, không để lây nhiễm sang Người tiêu dùng.
Thứ ba: Bảo vệ thông tin của Người tiêu dùng.
Theo điều 6 Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng thì Người tiêu dùng trong trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của Người tiêu dùng thì Tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử có trách nhiệm: Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với Người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của Người tiêu dùng; Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với Người tiêu dùng và phải được Người tiêu dùng đồng ý; Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của Người tiêu dùng; Tự mình hoặc có biện pháp để Người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác; Chỉ được chuyển giao thông tin của Người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của Người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Thứ tư: quy định về các hành vi bị cấm và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử.
Đứng ở khía cạnh này, tại điều 10 và 11 Luật bảo vệ Người tiêu dùng hiện hành đã đưa ra các quy định cụ thể:
Một là các hành vi bị cấm:
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho Người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác về một trong các nội dung sau đây: Hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp; Uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Nội dung, đặc điểm giao dịch giữa Người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quấy rối Người tiêu dùng thông qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ trái với ý muốn của Người tiêu dùng từ 02 lần trở lên hoặc có hành vi khác gây cản trở, ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt bình thường của Người tiêu dùng.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ép buộc Người tiêu dùng thông qua việc thực hiện một trong các hành vi sau đây: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của Người tiêu dùng; Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của Người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để ép buộc giao dịch.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ yêu cầu Người tiêu dùng thanh toán hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà không có thỏa thuận trước với Người tiêu dùng.
- NTD, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của Người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cung cấp hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Người tiêu dùng. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Hai là xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng:
Khi tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng nói chung và trong lĩnh vực dịch vụ Ngân hàng điện tử nói riêng thì được áp dụng các quy định cụ thể như sau:
- Cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Chính phủ quy định chi tiết việc xử phạt vi phạm hành chính trong bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Ngày 16 tháng 03 năm 2012, Chỉnh phủ đã ban hành nghị định số 19/2012/NĐ-CP góp phần đẩy mạnh việc bảo vệ Người tiêu dùng khi Luật bảo vệ Người tiêu dùng năm 2010 có hiệu lực thi hành trong thực tiễn. Bên cạnh đó, để bảo đảm các nội dung xử phạt đủ mức răn đe cũng như các hành vi vi phạm đa dạng hơn được áp dụng kịp thời trong thực tiễn. Do đó, ngày 26/8/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Đối tượng bị xử phạt hành chính gồm: cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này trên lãnh thổ Việt Nam. Hộ kinh doanh được thành lập theo quy định của pháp luật; hộ gia đình sản xuất…, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật vi phạm các quy định tại Nghị định này bị xử phạt như đối với cá nhân vi phạm.
Thứ năm: quyền và nghĩa vụ của Người tiêu dùng trong việc bảo vệ Người tiêu dùng.
Một là: quyền của Người tiêu dùng được các đại biểu Quốc hội quy định cụ thể 8 nội dung cơ bản cho phép Người tiêu dùng sử dụng quyền năng của mình trong quan hệ với cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
- Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
- Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà Người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
- Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa Người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Về nghĩa vụ, tại điều 9 Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng có quy định cụ thể:
- Kiểm tra hàng hóa trước khi nhận, lựa chọn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình và của người khác; thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
- Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hóa, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của Người tiêu dùng.
Nội dung quy định về bảo vệ Người tiêu dùng theo pháp luật cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử:
Thứ nhất: nguyên tắc giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng nhằm bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Các nguyên tắc này được quy định tại điều 3 Nghị định 35/2007/NĐ-CP ngày 06/03/2007 của Chính phủ, bao gồm các nội dung sau đây: Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
- Việc giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng phải phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử, Nghị định này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Chỉ quy định về phương thức giao dịch bằng phương tiện điện tử trong hoạt động ngân hàng, nội dung của các hoạt động ngân hàng do các luật khác điều chỉnh.
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử hoặc giao dịch theo phương thức truyền thông, trừ trường hợp có quy định khác của Thống đốc NNNN.
- Việc cung cấp dịch vụ công của NNNN Việt Nam dưới hình thức điện tử được thực hiện theo quy định của NNNN nhưng không được trái với quy định của Luật Giao dịch điện tử, Nghị định và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Thứ hai: giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng nhằm mục đích bảo vệ Người tiêu dùng.
Đối với hoạt động ngân hàng giao dịch bằng phương tiện điện tử[10], hoạt động ngân hàng giao dịch bằng phương tiện điện tử là các hoạt động được quy định tại Chương III Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tại Chương III Luật các Tổ chức tín dụng; không áp dụng trong việc phát hành hối phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Về điều kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng thì tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Được cung cấp dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật;
- Có địa điểm, mạng truyền thông, thiết bị truyền thông, các phương tiện điện tử bảo đảm tính toàn vẹn và an toàn thông tin, đáp ứng yêu cầu khai thác, kiểm soát, xử lý, sử dụng, bảo quản và lưu trữ chứng từ điện tử;
- Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ, khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Cam kết thực hiện các quy trình về giao dịch điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử quy định;
- Có chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật;
- Xác lập phương thức gửi, nhận chứng từ điện tử với tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử.
Đối với tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng thì nghị định hiện hành có quy định: tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng thực hiện theo quy định của Luật Giao dịch điện tử và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Đối với việc sử dụng chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng, tại điều 7 nghị định hướng dẫn thi hành có nêu rõ: chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng bao gồm chữ ký số và các loại chữ ký điện tử khác theo quy định của pháp luật; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền thỏa thuận, lựa chọn sử dụng loại chữ ký điện tử, trừ trường hợp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quy định về việc sử dụng chữ ký điện tử trong những hoạt động ngân hàng cụ thể.
Thứ ba: quy định về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động dịch vụ Ngân hàng điện tử.
Đối với vấn đề này, pháp luật hiện hành có quy định cụ thể: tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng được giải quyết căn cứ vào quy định của Luật Giao dịch điện tử, Nghị định này, quy định khác của pháp luật có liên quan và các điều khoản được ký kết trong hợp đồng giữa các bên.
Đối với vấn đề khiếu nại, tố cáo, nghị định hướng dẫn giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng cần tuân thủ việc khiếu nại các quyết định hành chính và hành vi hành chính đối với giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng; việc tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các hành vi vi phạm liên quan đến giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm thì, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Việc thanh tra đối với các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Cơ quan, tổ chức khi tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị đình chỉ hoạt động theo quy định của pháp luật.
Cá nhân khi tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Trách nhiệm bảo mật thông tin người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao phải có trách nhiệm bảo mật thông tin Người tiêu dùng khi sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Ngân hàng điện tử là mô hình hoạt động của ngân hàng đáp ứng xu thế công nghệ của thế giới trong đó các hoạt động chủ yếu dựa vào các nền tảng dữ liệu điện tử và công nghệ số. Các dịch vụ Ngân hàng điện tử phổ biến hiện nay có thể nhắc tới như: Internet Banking, Mobile Banking, thẻ ngân hàng, ví điện tử… Trong đó, dịch vụ Internet Banking đem lại rất nhiều tính năng, tiện ích mới như chuyển tiền đến thẻ Visa, chuyển tiền bằng Mobile Banking, nạp tiền điện thoại hoặc thẻ trả trước, thanh toán hóa đơn tự động… Nhìn chung, Ngân hàng điện tử thịnh hành và phát triển vượt bậc trong những năm gần đây góp phần đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng cũng như Người tiêu dùng.
Về phía ngân hàng, Ngân hàng điện tử mở rộng phạm vi hoạt động, tiếp cận với Người tiêu dùng mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Với sự hỗ trợ từ công nghệ, dịch vụ Ngân hàng điện tử còn có thể phục vụ tốt hơn nhiều đối tượng Người tiêu dùng, thậm chí cả những Người tiêu dùng ở vùng sâu, vùng xa, giúp ngân hàng nâng cao lợi thế cạnh tranh hiệu quả, cắt giảm được các chi phí giao dịch như: chi phí văn phòng, nhân viên, văn phòng phẩm, quản lí hệ thống kho quỹ. Ngân hàng điện tử tăng tốc độ xử lý và đảm bảo hiệu quả vận hành, cải thiện hiệu quả hoạt động ngân hàng bán lẻ, giúp các ngân hàng nắm bắt hành vi thay đổi của Người tiêu dùng và đáp ứng tốc độ thay đổi nhanh của thị trường, tăng cường trải nghiệm Người tiêu dùng. Việc phát triển và đưa vào sử dụng Ngân hàng điện tử mang đến nhiều lợi ích thiết thực cho ngân hàng, hoạt động phát triển các sản phẩm, dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ số tạo điều kiện cho nhiều ngân hàng nâng tỉ trọng nguồn thu trong tổng lợi nhuận chung. Mô hình Ngân hàng điện tử với các sản phẩm, dịch vụ tài chính đa dạng, thủ tục đơn giản, thời gian xử lý nhanh và giao dịch không bị rào cản bởi vị trí địa lí thông qua thiết bị kết nối với Internet rất phù hợp với xu hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa.
Về phía Người tiêu dùng, có thể thực hiện và xác nhận các giao dịch với mức độ chính xác cao và nhanh chóng. Khi đã hoàn tất giao dịch, trang web hoặc ứng dụng điện thoại sẽ chuyển sang một giao diện mới có chứa thông tin giao dịch. Những thông tin này sẽ được lưu trữ trong lịch sử giao dịch nên rất thuận tiện cho Người tiêu dùng tìm kiếm và tra cứu. Ngoài ra, Ngân hàng điện tử tiết kiệm tối đa chi phí và thời gian cho Người tiêu dùng. Khi sử dụng ngân hàng truyền thống nếu muốn thực hiện các giao dịch như chuyển tiền, gửi tiết kiệm hoặc đóng bảo hiểm… thì Người tiêu dùng sẽ phải tới các chi nhánh ngân hàng để tiến hành giao dịch. Khi sử dụng Ngân hàng điện tử, các giao dịch sẽ trở nên đơn giản, nhanh chóng, tiết kiệm rất nhiều thời gian và chi phí. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Cùng với những ưu thế mà Ngân hàng điện tử mang lại thì vấn đề bảo mật thông tin Người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng là một vấn đề khá phức tạp và đang được quan tâm vì bảo mật thông tin liên quan đến lợi ích của Người tiêu dùng, nghĩa vụ của các Tổ chức tín dụng và các bên thứ ba muốn tiếp cận thông tin đó để đáp ứng các mục đích của họ. Mặc dù hiện nay, các dịch vụ Ngân hàng điện tử đều triển khai bảo mật ba lớp bao gồm: tên đăng nhập, mật khẩu và mã bảo vệ (OTP) để đảm bảo an toàn đối với tài sản của Người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc xuất hiện hoạt động tội phạm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng trong thời gian qua phản ánh tình trạng lỗ hổng trong bảo mật nghiêm trọng khi hàng loạt Người tiêu dùng bị lộ thông tin, rao bán thông tin, thậm chí là bị mất tiền trong tài khoản. Năng lực phòng, chống gian lận đối với các giao dịch Ngân hàng điện tử luôn được các ngân hàng quan tâm, song vẫn chưa thể tạo sự yên tâm cho Người tiêu dùng. Chính vì thế, việc bảo mật thông tin Người tiêu dùng khi sử dụng Ngân hàng điện tử là chìa khóa quan trọng cho việc phát triển NHĐT mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
Tại điều 19 về bảo mật thông tin khách hàng tại thông tư hợp nhất số 21/VBHN-NHNN ngày 28 tháng 12 năm 2018 của Thống đốc NNNN Việt Nam ban hành Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet, như sau:
Đơn vị phải áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, bảo mật cơ sở dữ liệu khách hàng, tối thiểu bao gồm:
- Thông tin bí mật của khách hàng khi lưu trữ phải áp dụng các biện pháp mã hóa hoặc che dấu để đảm bảo tính bí mật.
- Thiết lập quyền truy cập đúng chức năng, nhiệm vụ cho nhân sự thực hiện nhiệm vụ truy cập dữ liệu khách hàng; có biện pháp giám sát mỗi lần truy cập.
- Có biện pháp quản lý truy cập, tiếp cận các thiết bị, phương tiện lưu trữ dữ liệu về thông tin khách hàng để phòng chống nguy cơ lộ, lọt thông tin khách hàng.
Đây là quy định mang tính bắt phải bảo mật thông tin của Người tiêu dùng đối với các Tổ chức tín dụng có hoạt động dịch vụ Ngân hàng điện tử trên hệ thống nền tảng Internet. Quy định này đã phù hợp với thực tiễn áp dụng tại các NHTM có hoạt động ngân hàng theo đúng quy định tại khoản 12 của Luật các Tổ chức tín dụng có hoạt động dịch vụ Ngân hàng điện tử bắt buộc phải bảo mật tối đa thông tin của Người tiêu dùng.
1.2.4. Trách nhiệm của bên thứ ba trong cung ứng hệ thống hạ tầng cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho Người tiêu dùng đã được quy định cụ thể tại Điều 13 Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng 2010. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Theo đó, trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho Người tiêu dùng được quy định như sau:
Một là: trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho Người tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm:
- Bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp;
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp chứng cứ chứng minh tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
- Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
- Tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo.
Hai là: trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho Người tiêu dùng thông qua phương tiện truyền thông thì chủ phương tiện truyền thông, nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có trách nhiệm:
- Thực hiện quy định hiện hành;
- Xây dựng, phát triển giải pháp kỹ thuật ngăn chặn việc phương tiện, dịch vụ do mình quản lý bị sử dụng vào mục đích quấy rối Người tiêu dùng;
- Từ chối cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý nếu việc sử dụng có khả năng dẫn đến quấy rối Người tiêu dùng;
- Ngừng cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý để thực hiện hành vi quấy rối. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng đã thể hiện rõ sự bắt buộc phải chú trọng trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho Người tiêu dùng nói chung và trong hoạt động dịch vụ Ngân hàng điện tử nói riêng. Đây là những quy tắc mang tính xử sự áp dụng chung thống nhất trong phạm vi toàn quốc.
Luật giao dịch điện tử hiện hành cũng quy định trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ mạng, theo đó tổ chức cung cấp dịch vụ mạng có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng quy chế quản lý và các biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa, ngăn chặn việc sử dụng dịch vụ mạng nhằm phát tán các thông điệp dữ liệu có nội dung không phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức của dân tộc, gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật. Ngoài ra, tổ chức cung cấp dịch vụ mạng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu không kịp thời loại bỏ những thông điệp dữ liệu được quy định tại khoản 1 Điều này khi tổ chức cung cấp dịch vụ mạng đó đã nhận được thông báo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Luật giao dịch điện tử hiện hành quy định trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ mạng là những quy tắc xử sự chung để các văn bản pháp luật khác có liên quan àm căn cứ để ban hành điều chỉnh tối đa các tổ chức, cá nhân là bên thứ ba trong việc cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
Vai trò nhiệm vụ chính của nội dung chương 1 là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Tác giả đã tập trung giải quyết khái quát chung về dịch vụ Ngân hàng điện tử, trong đó làm rõ khái niệm về dịch vụ Ngân hàng điện tử, phân tích các đặc trưng của dịch vụ Ngân hàng điện tử, phân loại dịch vụ Ngân hàng điện tử để làm rõ bản chất của loại dịch vụ này trong thực tiễn nền kinh tế của nước ta. Chương này cũng tập trung phân tích hướng tiếp cận bảo vệ Người tiêu dùng trong hoạt động Ngân hàng điện tử bằng công cụ pháp luật hiện hành. Tức là phân tích sâu hơn khái niệm về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, tính chất của pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Ngoài ra còn phân tích đầy đủ nội dung pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Trách nhiệm bảo mật thông tin Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử cũng như trách nhiệm của bên thứ ba trong cung ứng hệ thống hạ tầng cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử để bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
Với những vấn đề liên quan tới lý luận chung của pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong cung ứng dịch vụ Ngân hàng điện tử mà tác giả đã nêu trên đây sẽ làm cơ sở khoa học phù hợp với logic nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn để tác giả tập trung giải quyết tại chương 2 dưới đây. Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng PL bảo vệ người tiêu dùng trong cung ứng

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoạt động cung ứng […]