Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Giải pháp bảo đảm hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Yêu cầu bảo đảm hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định nhiệm vụ: “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung; Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật”.

Thực tế cũng chỉ ra rằng, trong những năm qua UBND tỉnh Quảng Ngãi đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của địa phương mình nhằm mục đích tạo hành lang pháp lý phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, qua đó góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh ban hành đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của các cơ quan nhà nước ở tỉnh Quảng Ngãi, là hành lang pháp lý quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu quản lý, những thay đổi hàng ngày của đời sống xã hội và bộc lộ một số vấn đề bất cập, thiếu sót về lý luận và thực tiễn trong việc xác định thẩm quyền ban hành, xác định yếu tố quy phạm, xác định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, trình tự, thủ tục khi thực hiện xây dựng, văn bản ban hành sai thẩm quyền,….

Do vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh nói riêng và văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói chung trong giai đoạn hiện nay là hết sức cấp thiết và là trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ và Nghị quyết Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XIX đã đề ra. Đồng thời, việc nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh cần quán triệt các yêu cầu sau:

Thứ nhất, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi tham mưu xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành phải đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Điều này thể hiện dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh phải khi tham mưu xây dựng phải dựa trên cơ sở những quy phạm pháp luật của Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương. Văn bản cấp dưới phải căn cứ vào văn bản cấp trên, văn bản cấp dưới phải nhằm cụ thể hóa để thực hiện văn bản của cấp trên và không được chồng chéo, mâu thuẫn, trái với văn bản của cấp trên.

Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh phải đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Bên cạnh đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống thống nhất, thì yêu cầu không thể tách rời đối với văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh khi tham mưu xây dựng, ban hành là tính phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Mỗi địa phương đều có những tình hình kinh tế – xã hội khác nhau, do vậy văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội của địa phương đó phải dựa trên những đặc điểm riêng để xây dựng cho phù hợp. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ ba, hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động mang tính kỹ thuật cao, đòi hỏi người tham gia xây dựng văn bản phải có kỹ năng phân tích, đánh giá, chuyên sâu và kỹ năng nhìn nhận diễn biến thực tế tình hình xã hội để đưa ra những giải pháp, đề xuất những quy định phù hợp. Do vậy, yêu cầu cần phải có sự đổi mới căn bản, với định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của địa phương; mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

3.2.1. Hoàn thiện thể chế pháp luật về hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 xác định mục tiêu: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” và đưa ra định hướng cụ thể liên quan đến thể chế của hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật được thi hành ngay khi có hiệu lực. Thể chế hoá nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử, bảo đảm để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát bằng nhiều hình thức việc thi hành pháp luật của các cơ quan, công chức nhà nước. Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp”. Để thực hiện định hướng nêu trên, Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được ban hành. Đây là thể chế quan trọng điều chỉnh trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và địa phương. Tuy nhiên, qua thời gian hơn 2 năm triển khai thực hiện thì Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP có những quy định liên quan đến hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp, gây khó khăn trong quá trình thực hiện hoạt động xây dựng văn bản của các cấp chính quyền ở địa phương, đặc biệt đối với hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh nói chung trên cả nước và UBND tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP là hết sức quan trọng. Cụ thể sau: Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chí xác định văn bản quy phạm pháp luật tại Luật năm 2015. Mặc dù Luật năm 2015 đã khắc phục những bất cập về quy định thế nào là văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên chỉ trong một giới hạn nhất định khái niệm này vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau nên gây lúng túng cho địa phương khi tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế, vẫn chưa có sự thống nhất về cách hiểu như thế nào được xem là có “quy tắc xử sự chung”, “được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần” để xác định đó có phải là văn bản QPPL hay không đã dẫn đến một số trường hợp không có sự thống nhất giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan thẩm định. Bởi vì, có những văn bản không chứa dấu hiệu quy phạm nhưng lại quy định bắt buộc ban hành dưới hình thức quy phạm, cụ thể như theo Khoản 1 Điều 12 Luật năm 2015 quy định “Văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó hoặc bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền.” Tuy nhiên, văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật lại không đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu của một văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 2 và Khoản 1 Điều 3 Luật năm 2015. Đồng thời, văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật không chứa các quy phạm pháp luật, nhưng phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nên mất thời gian và phải thực hiện các thủ tục không cần thiết. Đặc biệt, việc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo thì phải thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định, nhưng ý kiến của Hội đồng tư vấn lại không có nội dung thẩm định, vì nội dung văn bản bãi bỏ không chứa các quy phạm pháp luật.

Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung và làm rõ quy định về văn bản quy phạm pháp luật hiện nay là rất cần thiết và quan trọng trong hoạt động tham mưu xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Điều này giúp cho các cơ quan tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có đầy đủ tiêu chí để phân biệt rõ ràng giữa văn bản quy phạm pháp luật với văn bản không phải quy phạm pháp luật từ đó xác định đúng hình thức và thực hiện đúng trình tự, thủ tục trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế sai sót và chấn chỉnh được tình trạng văn bản quy phạm pháp luật nhưng tham mưu dưới hình thức văn bản cá biệt.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 Luật năm 2015 thì kể từ ngày 01/7/2016, văn bản quy phạm pháp luật của địa phương không được quy định thủ tục hành chính, trừ trường hợp được luật giao. Quy định này được hiểu là địa phương chỉ được quy định thủ tục hành chính khi được giao trong luật, không phải được giao trong các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, tại Khoản 4 Điều 27 Luật năm 2015 thì HĐND tỉnh có thẩm quyền ban hành nghị quyết để quy định các biện pháp có tính chất đặc thù phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; tại Khoản 3 Điều 28 Luật năm 2015 quy định UBND tỉnh có thẩm quyền quy định các biện pháp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương. Do vậy, để các biện pháp, chính sách đặc thù do địa phương ban hành đảm bảo tính khả thi, thì phải ban hành các quy định về trình tự, hồ sơ, yêu cầu, điều kiện và cách thức thực hiện…đã đáp ứng đầy đủ dấu hiệu của một thủ tục hành chính, nhưng ở địa phương không được ban hành, vì vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều 14 Luật năm 2015 và không được giao trong Luật. Do vậy, để đảm bảo hoạt động quản lý lý nhà nước thông suốt, hiệu quả thì cần phải sửa đổi, bổ sung nội dung này cho phù hợp. Đối với giải pháp này, cần sửa đổi, bổ sung Luật năm 2015 theo hướng quy định thẩm quyền cho địa phương được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp quy định các biện pháp có tính chất đặc thù phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và quy định các biện pháp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về căn cứ pháp lý để ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP thì căn cứ pháp lý để ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, không được căn cứ vào văn bản áp dụng pháp luật hoặc văn bản cá biệt có chứa quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp trên. Trường hợp, nếu không tuân thủ đúng quy định thì các văn bản đã được ban hành đó là các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và phải được kiểm tra, xử lý theo quy định của Điều 103, Điều 104 và Điều 130 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay nhiều văn bản không phải là quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương (Ví dụ: Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020; Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp,…) lại giao trách nhiệm cho HĐND, UBND cấp tỉnh ban hành văn bản để quy định cụ thể các nội dung phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương. Do vậy, nếu không căn cứ vào các văn bản trên thì việc ban hành nghị quyết của HĐND tỉnh, quyết định của UBND tỉnh thiếu tính thuyết phục và là thiếu sót trong việc xác định cơ sở pháp lý về nội dung.

Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về xác định văn bản quy phạm pháp luật của cấp huyện, cấp xã: Theo quy định tại Điều 30 của Luật năm 2015 thì HĐND cấp huyện, cấp xã ban hành nghị quyết; UBND cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay việc hiểu thế nào là “luật giao” để từ đó xác định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp huyện vẫn còn lúng túng và thiếu tính nhất quán. Chẳng hạn như các quyết định quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; các nghị quyết về phát triển kinh tế – xã hội… Ngoài ra, một số nội dung Luật không giao, nhưng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp huyện, cấp xã và cần thiết phải ban hành các văn bản để điều chỉnh. Do vậy, việc ban hành văn bản trong trường hợp này gặp rất nhiều vướng mắc, còn nhiều quan điểm khác nhau. Nếu ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì trái với quy định của pháp luật, do chưa được Luật giao; còn ban hành văn bản áp dụng thì lại chứa các quy phạm pháp luật. Đối với giải pháp này, trong thời gian đến cần sửa đổi, bổ sung Luật năm 2015 theo hướng cụ thể vấn đề được “luật giao” như thế nào và cần quy định thẩm quyền cho cấp huyện, cấp xã ban hành văn bản trong trường hợp một số nội dung Luật không giao, nhưng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp huyện, cấp xã và cần thiết phải ban hành các văn bản để điều chỉnh. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về đăng tải dự thảo trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh: Theo quy định của Luật năm 2015 thì dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND tỉnh phải được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh trong thời hạn 30 ngày để các tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến. Tuy nhiên, việc đăng tải này chỉ mang tính hình thức, thủ tục bắt buộc, vì thời gian qua không có cá nhân, tổ chức nào tham gia đóng góp ý kiến trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh. Đồng thời, việc lấy ý kiến tham gia góp ý chỉ thực hiện đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan, chưa thực sự lấy ý kiến rộng rãi đối với các cá nhân là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, để khắc phục tình trạng này cần phải sửa đổi, bổ sung nội dung này một cách chặt chẽ, ràng buột trách nhiệm và phát huy hiệu quả.

Thứ sáu, sửa đổi quy định về thời hạn thẩm định đối với dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh theo quy định tại Điều 121 Luật năm 2015 là chậm nhất là 20 ngày trước ngày UBND tỉnh họp, cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo quyết định đến Sở Tư pháp để thẩm định và báo cáo thẩm định phải được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Sở Tư pháp nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định. Như vậy, thời gian dành cho Sở Tư pháp thẩm định được hiểu là 10 ngày. Thời gian này bao gồm các khâu: tiếp nhận xử lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ, tổng hợp cơ sở pháp lý, lấy ý kiến chuyên gia, luật gia và đặc biệt đối với dự thảo quyết định liên quan đến nhiều lĩnh vực thì Giám đốc Sở Tư pháp thành lập hội đồng tư vấn thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học…. Như vậy, với khoảng thời gian như vậy thường là không đủ cho việc thẩm định, nhất là thẩm định các dự thảo quyết định có nội dung phức tạp, liên quan đến các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, khoáng sản… hoặc đối với dự thảo còn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Trong khi đó, lực lượng làm công tác thẩm định của Sở Tư pháp nhìn chung rất mỏng, hầu hết đều đảm nhiệm các mảng công tác khác ngoài hoạt động thẩm định. Điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Để khắc phục sự không phù hợp trong quy định thời gian thẩm định như nêu trên, luật cần nghiên cứu quy định cụ thể thời gian dành cho hoạt động thẩm định theo hướng quy định tối thiểu ít nhất 12 ngày làm việc, trong đó quy định rõ đối với những trường hợp dự thảo liên quan đến nhiều lĩnh vực thành lập hội đồng thẩm định thì 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thẩm định.

3.2.2. Đổi mới việc lập các đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Lập đề xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh được Luật năm 2015 quy định tại Điều 127. Thực tế qua hơn một năm triển khai áp dụng trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh tại Luật năm 2015 thì trong quá trình thực hiện lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện đã gặp nhiều khó khăn như chưa nắm rõ được trình tự để lập đề nghị, vẫn thực hiện như việc đăng ký xây dựng Chương trình văn bản theo Luật năm 2004, nội dung trình bày trong đề nghị xây dựng rất sơ sài, không đảm bảo đầy đủ các nội dung của đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Khoản 2 Điều 127. Thông thường cơ quan tham mưu soạn thảo chỉ thực hiện tham mưu xây dựng, lấy ý kiến chuyển qua Sở Tư pháp thẩm định, bỏ quên giai đoạn lập đề nghị, chỉ khi chuyển qua Sở Tư pháp thẩm định, kiểm tra phát hiện chưa có lập đề nghị trả hồ sơ hay điện với cơ quan soạn thảo hướng dẫn thì cơ quan tham mưu xây dựng văn bản mới biết chưa thực hiện lập đề nghị xây dựng. Bên cạnh quy định về lập đề nghị văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh Luật năm 2015 không quy định rõ hình thức để lập đề nghị là công văn hay tờ trình, trong khi đó đối với nghị quyết của HĐND cấp tỉnh thì quy định cụ thể hồ sơ tại Khoản 2 Điều 117 Luật năm 2015 là tờ trình về đề nghị xây dựng nghị quyết.

Do vậy, để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên trong việc lập đề nghị cần đổi mới trong quá trình lập đề nghị, Luật năm 2015 cần sửa đổi quy định cụ thể hồ sơ lập đề nghị gồm những thành văn bản phần nào, có mẫu hóa chung cho đề nghị xây dựng quyết định của UBND tỉnh và quy định tăng trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc chủ trì tham gia lập đề nghị, bởi vì hiện nay theo quy định tại Luật năm 2015 thì Sở Tư pháp chỉ là cơ quan phối hợp, nên không thể chủ động đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện lập đề nghị của các cơ quan chuyên môn đúng quy định của Luật năm 2015 và tính kịp thời trong tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.

3.2.3. Đổi mới quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, so với hai Luật (Luật năm 2004 và Luật 2008), Luật năm 2015 đã tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, trong đó tập trung quy định về quy trình xây dựng chính sách. Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số cơ quan, người có thẩm quyền khác theo đó bổ sung quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản. Cùng với đó, bổ sung nhiều quy định mới về việc tổ chức lấy ý kiến nhằm mở rộng dân chủ, tăng cường công khai, minh bạch trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi cho Nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, qua hơn một năm triển khai thực hiện xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn, tồn tại trong quá trình khảo sát đánh giá chính sách, thành lập hội đồng thẩm định, thời gian thực hiện lấy ý kiến. Do vậy, để trong thời gian tới phục vụ tốt hơn cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh cần đổi mới trong quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể sau: Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Cần quy định cụ thể việc khảo sát đánh giá, tổ chức tổng kết việc thực hiện những nội dung liên quan đến văn bản cần xây dựng, khảo sát thực trạng là khâu bắt buộc, vì thực tế có những văn bản cơ quan soạn thảo không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chỉ là hình thức. Quy định trách nhiệm của cơ quan tham mưu trong vấn đề này và nếu không thực hiện thì cơ quan trình ban hành có quyền trả hồ sơ, không trình văn bản ra tập thể UBND tỉnh để xem xét, thông qua.

Công tác tổ chức, triển khai soạn thảo tuy là một khâu trọng tâm của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, song không ít tổ, nhóm soạn thảo thường hay sử dụng bộ máy tham mưu giúp việc chủ trì soạn thảo, vì vậy xảy ra tình trạng “chấp bút trong phòng kính” hay công chức của một phòng phụ trách về lĩnh vực quản lý đó thực hiện soạn thảo,… Sự phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức trong góp ý và tổ chức tiếp thu ý kiến hoàn thiện dự thảo còn hạn chế và mang nặng tính hình thức. Nhiều trường hợp trả lời chậm, thậm chí không có kiến trả lời dẫn đến làm chậm tiến độ soạn thảo văn bản. Do vậy, cần có quy định cụ thể và gắn trách nhiệm đối với cơ quan tham mưu soạn thảo và cơ quan có liên quan góp ý. Ví dụ như, qua các hồ sơ gửi Sở Tư pháp thẩm định, có kèm theo các văn bản góp ý kiến của các sở, ban, ngành và UBND các huyện trên địa bàn tỉnh thì rất ít sở, ban, ngành có ý kiến sâu vào nội dung của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, thường là có ý kiến thống nhất như dự thảo.

Công tác lấy ý kiến trên cổng thông tin điện tử 30 ngày hiện nay theo Luật năm 2015 quy định, thực tiễn hiện nay cơ bản vấn đề này thực hiện tốt trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên kết quả mang lại không hiệu quả, không có người tham gia ý kiến, chỉ đăng lên cho có hình thức dẫn đến thời gian trình văn bản bị kéo dài. Bên cạnh đó, những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nội dung đơn giản nhưng theo quy trình thì phải thực hiện đăng tải 30 ngày trên cổng thông tin điện tử thì rất tốn thời gian, kém hiệu quả. Do vậy Luật năm 2015 nên sửa đổi rút ngắn lại thời gian khoảng 15 ngày và cần có quy định theo hướng không nhất thiết tất cả các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND cấp tỉnh đều phải đăng tải toàn văn, chỉ những văn bản có phạm vi điều chỉnh rộng, nội dung phức tạp, văn bản liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân thì mới phải đăng tải toàn văn, các văn bản quy phạm pháp luật khác chỉ cần đăng tóm tắt nội dung chính. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Bước thẩm định là một khâu quan trọng để văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành chất lượng, hợp hiến, hợp pháp và thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. So với Luật năm 2004 thì quy trình thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh theo Luật năm 2015 quy định chặt chẽ hơn rất nhiều. Theo đó, đối với dự thảo quyết định liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Giám đốc Sở Tư pháp thành lập hội đồng tư vấn thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học. Tuy nhiên, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chỉ quy định trách nhiệm thành lập hội đồng thẩm định của Sở Tư pháp, thành lập và hoạt động của Hội đồng thẩm định, cuộc họp hội đồng tư vấn thẩm định và báo cáo thẩm định, chưa quy định cụ thể phương thức thành lập hội đồng thẩm định đối với dự thảo do Sở Tư pháp thực hiện soạn thảo, ai là người thẩm định để đưa báo cáo ra tại hội đồng thẩm định vì thực tế hiện nay báo cáo thẩm định những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Sở Tư pháp xây dựng do Phòng văn bản thực hiện thẩm định, sẽ không đảm bảo tính khách, vừa là cơ quan soạn thảo, vừa là cơ quan thẩm định. Do vậy, cần có quy định cụ thể đối với nội dung này.

Ngoài ra, theo Điều 2 Luật năm 2015 “Văn bản có chứa quy phạm, pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật.”, đây là việc khẳng định vấn đề không thực hiện đúng quy trình sẽ không phải là văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên thực tế thì cũng có những văn bản không đúng trình tự vẫn được ban hành, vẫn được thông qua. Do vậy, để đảm bảo quy định này được thực hiện một cách có hệ thống, chặt chẽ với quy trình cụ thể trong xây dựng, ban hành Luật cần quy định rõ dự thảo văn bản khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành không qua cơ quan Tư pháp thẩm định thì sẽ không được xem xét, ban hành để khẳng định giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định và vị trí của cơ quan tư pháp trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

3.2.4. Tăng cường các hoạt động thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản

Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay là việc xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây chính là mục tiêu, yêu cầu mang tính tất yếu khách quan và là quan điểm cơ bản, nhất quán được thể hiện trong nhiều văn kiện chính trị – pháp lý của Đảng và Nhà nước. Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Để xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự thì một trong những yêu cầu đầu tiên là phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện ở mức cao, đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, thì việc tăng cường nâng cao chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành là hết sức cần thiết và để thực hiện được điều này thì phải thực hiện tốt các hoạt động liên quan như hoạt động thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Trong các hoạt động này đều có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo thành một mắc xích tác động đến chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật khi tham mưu xây dựng, ban hành. Khi thực hiện tốt hoạt động thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn quy phạm pháp luật ban hành sẽ bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, công khai, minh bạch và có khả thi cao. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Đối với hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật theo Luật năm 2015 thì thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh là một khâu bắt buộc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trước đây, công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa có quy định cụ thể. Kể từ khi Luật năm 2004 ban hành, thì thẩm định là một khâu bắt buộc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND và hiện nay Luật năm 2015 ban hành thì hoạt động thẩm định được khẳng định tầm quan trọng trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp huyện trách nhiệm thẩm định được giao cho cơ quan tư pháp thực hiện. Phạm vi thẩm định thường xem xét những nội dung của dự thảo về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo; ngôn ngữ kỹ thuật trình bày văn bản.

Như vậy, thẩm định là một khâu trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND tỉnh, UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Đây được xem là hoạt động xem xét, đánh giá về nội dung lẫn hình thức nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của dự thảo trong hệ thống pháp luật và việc tuân thủ trình tự, thủ tục soạn thảo của dự thảo; cung cấp thông tin tổng quát về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định ban hành văn bản. Vì vậy, công tác thẩm định có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung. Một trong những công tác có tính quyết định tới chất lượng và hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành và đây được xem là công tác “tiền kiểm” có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng.

Để chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao, trong thời gian tới, cần có sự quan tâm hơn nữa của cấp uỷ và chính quyền địa phương đối với công tác văn bản nói chung và công tác thẩm định nói riêng; chắc chắn sẽ đi vào nề nếp, tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của pháp luật góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước tại địa phương, thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, việc nâng cao nhận thức và tinh thần phối hợp giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan thẩm định cũng có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, thẩm định là công đoạn nằm trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và có mối quan hệ mật thiết với giai đoạn soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Sự phối hợp này góp phần phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cũng như giúp cho cơ quan thẩm định hiểu rõ hơn ý đồ quản lý của cơ quan soạn thảo. Bên cạnh đó, cơ quan, đơn vị khi gửi dự thảo yêu cầu thẩm định cần phải đảm bảo về mặt hồ sơ và thời gian theo quy định. Vấn đề nâng cao hơn nữa trình độ và kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cũng là một nhu cầu rất cần thiết và đầu tư về kinh phí đối với hoạt động này. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước ở địa phương. Trong thời gian qua, công tác kiểm tra đã thực sự góp phần nâng cao dần chất lượng, khắc phục các hạn chế, sai sót trong hoạt động ban hành văn bản của HĐND và UBND tỉnh, HĐND và UBND các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là nhằm xem xét, đánh giá và loại bỏ các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật hoặc không phù hợp, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý và thống nhất của hệ thống pháp luật. Để hạn chế tới mức thấp nhất những văn bản quy phạm pháp luật kém chất lượng, những văn bản vi phạm các quy định của pháp luật thì công tác kiểm tra, xử lý là rất cần thiết. Để tăng cường hoạt động kiểm tra, xử lý trong thời gian tới cần tăng cường và đề cao vai trò tự kiểm tra của các cơ quan tham mưu thuộc lĩnh vực quản lý của cơ quan mình. Việc đề cao trách nhiệm tự kiểm tra của cơ quan tham mưu, xây dựng các văn bản do mình tham mưu cơ quan có thẩm quyền ban hành có những cơ sở lí luận và thực tiễn rõ ràng để theo dõi được ngành lĩnh vực mình sẽ sát thực tiễn. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong đó đội ngũ công chức pháp chế tại sở, ban, ngành và công chức thuộc Phòng văn bản pháp quy thuộc Sở Tư pháp, đây là đội ngũ trực tiếp tham mưu thực hiện công tác tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh. Song song đó vấn đề về kiện toàn tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn hết sức cần thiết và tăng cường đầu tư kinh phí phục vụ cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản.

Hoạt đồng rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là sự tác động vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thông qua việc xem xét, đánh giá một cách tỷ mỷ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tìm và phát hiện những văn bản, những quy phạm trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tế để loại bỏ chúng khỏi hệ thống pháp luật hoặc đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Hoạt động rà soát, hệ thống hóa có ý nghĩa là một biện pháp hữu hiệu, giúp làm sạch, thiết lập lại trật tự của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Có thể nói, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật cũng chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, cùng với hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản, các cơ quan nhà nước cần phải quan tâm tới hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật nhằm góp phần nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật. Rà soát văn bản quy phạm pháp luật ở mỗi cấp, mỗi ngành có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước. Thông qua hoạt động rà soát, cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản sẽ hệ thống được số lượng văn bản mình đã ban hành trong thời gian qua, văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào hết hiệu lực, văn bản nào cần được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, văn bản nào cần được ban hành mới. Đảm bảo cho nội dung các văn bản do UBND tỉnh khi tham mưu xây dựng, ban hành được phù hợp với các quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh; không chồng chéo trong tổ chức thực hiện, mang tính thống nhất cao; kịp thời loại bỏ những văn bản có nội dung trái pháp luật và không còn phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, đánh giá được toàn diện quá trình ban hành, thực thi các văn bản pháp luật về các lĩnh vực. Điều này sẽ giúp cho cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức và công dân có cơ sở để áp dụng chính xác các quy định của pháp luật đã được ban hành; làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được công khai, minh bạch, rõ ràng, góp phần quan trọng để cải cách thủ tục hành chính, vì phần lớn thủ tục hành chính được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thông qua hoạt động rà soát củng cố và hoàn thiện một cách cơ bản hệ thống văn bản quy phạm về các lĩnh vực do UBND tỉnh ban hành, giúp cho các cơ quan tham mưu xây dựng, ban hành văn bản đúng pháp luật, không xảy ra sai sót, chồng chéo mâu thuẫn. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Tóm lại, tăng cường, liên kết chặt chẽ của các hoạt động thẩm định, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, trong thời gian tới, nếu mỗi cơ quan, cán bộ, công chức phát huy hết khả năng, tinh thần trách nhiệm của mình trong từng công đoạn; phát huy tính chủ động trong việc phối hợp giữa các chủ thể với nhau thì chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật sẽ được nâng cao, việc tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trong cuộc sống sẽ có tính khả thi và đem lại hiệu quả tác động tích cực cho sự phát triển của xã hội.

3.2.5. Đổi mới quy trình lấy ý kiến, thông qua văn bản quy phạm pháp luật

Việc lấy ý kiến của nhân dân vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh là một việc rất cần thiết, bảo đảm tính công khai, minh bạch và tính khả thi của văn bản. Luật năm 2015 quy định việc lấy ý kiến của “Cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định tại Điều 120 của Luật này”, đây là một quy định rất chung chung, nó sẽ gây nên tình trạng có thể có trường hợp cần lấy ý kiến nhân dân nhưng cũng có thể có trường hợp không cần lấy ý kiến nhân dân.Vì thông thường dự thảo được soạn thảo do cá nhân của phòng trực tiếp soạn thảo nên xảy ra tình trạng nhận thức của cá nhân người soạn thảo cho rằng đối tượng tác động này không cần thiết lấy ý kiến nhân dân. Vì thế việc lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh là một điều kiện bắt buộc và thể hiện tính công khai, dân chủ trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, cần phải quy định rõ và lấy ý kiến thực chất, không hình thức.

Đối với việc thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh thì Luật năm 2015 tại Khoản 1 quy định “Tùy theo tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định phương thức xem xét, thông qua dự thảo quyết định. Trong trường hợp dự thảo quyết định được xem xét, thông qua tại phiên họp của UBND cấp tỉnh thì theo trình tự sau đây:…”. Thực tế, theo hướng quy định này vẫn chưa quy định cụ thể, xảy ra tình trạng lạm dụng “xem xét tính chất”, cơ quan trình văn bản muốn nhanh thường tham mưu gửi lấy ý kiến của các thành viên UBND, sau đó tổng hợp trình ký ban hành không thông qua cuộc họp tập thể nên dẫn đến văn bản ban hành kém chất lượng sai sót nội dung. Do vậy, để khắc phục tình trạng này, vừa đảm bảo nguyên tắc thông qua văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh, cần có những quy định linh hoạt về phương thức thông qua văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh và cần phân định hai trường hợp: Trường hợp những văn bản có phạm vi, đối tượng điều chỉnh rộng, nội dung phức tạp thì bắt buộc phải trình theo trình tự thông qua tại phiên họp của UBND cấp tỉnh; Trường hợp thứ hai, là đối với những văn bản không thuộc trường hợp nói trên thì có thể áp dụng phương thức lấy ý kiến bằng phiếu của từng thành viên UBND cấp tỉnh.

Cần phải có quy định về trách nhiệm các chủ thể liên quan đối với văn bản quy phạm pháp luật được thông qua bằng hình thức do Lãnh đạo UBND (Chủ tịch, phó Chủ tịch phụ trách lĩnh vực) ký ban hành trực tiếp mà không có ý kiến của các thành viên khác của UBND.

3.2.6. Bảo đảm các điều kiện cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

3.2.6.1. Về phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Phát triển nguồn nhân lực là một trong những điều kiện thiết yếu để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; đồng thời phát triển nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Trong đó, đối với hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hiện nay thì việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động này là hết sức quan trọng. Những đường lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước được triển khai thực hiện tốt, đưa vào đời sống nhân dân thông quan việc tham mưu, xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền đều xuất phát từ nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan , đơn vị có liên quan. Việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ này phải xuất phát từ cơ cấu tổ chức bộ máy và đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, công chức pháp chế tại sở, ban, ngành và đội ngũ làm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp.

Cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định, triển khai và tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước; quyết định sự thành công hay thất bại của đường lối, chính sách do cơ quan, tổ chức vạch ra. Đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực thi các chính sách, kế hoạch của cơ quan, tổ chức; các mục tiêu quốc gia; thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông tin,…) giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về năng lực công tác, kỹ năng nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và thức phục vụ nhân dân. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là một nhiệm vụ quan trọng được xác định trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Về bộ máy tổ chức: Để đảm bảo hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao và phát triển theo hướng chuyên môn hóa, trước hết phải có một cơ cấu tổ chức phù hợp cho hoạt động này, do vậy cần phải thành lập bộ phận chuyên môn phụ trách về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP thì tổ chức pháp chế có nhiệm vụ quyền hạn như: Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp Thủ trưởng cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương; Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp Thủ trưởng cơ quan phối hợp với Sở Tư pháp lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm của HĐND, UBND cấp tỉnh; Chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị liên quan chuẩn bị hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương trình Thủ trưởng cơ quan đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý hoặc đề nghị Sở Tư pháp thẩm định, …. Tuy nhiên tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành không quy định cơ cấu tổ chức bắt buộc có Phòng pháp chế. Do vậy, để phát triển được nguồn nhân lực phục vụ hoạt động xây dựng văn bản được ổn định thì phải củng cố cơ cấu tổ chức mà cụ thể là trong thời gian đến cần sửa đổi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành theo hướng thống nhất trong cơ cấu tổ chức của 14 cơ quan chuyên môn theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP có Phòng pháp chế.

Xây dựng và củng cố pháp chế các sở, ban, ngành, đơn vị chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.

Phát huy tốt vai trò của cán bộ pháp chế trong công tác soạn thảo, ban hành văn bản tại cơ quan, đơn vị. Cán bộ pháp chế phải là đầu mối giúp Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phối hợp với Sở Tư pháp, Văn phòng UBND tỉnh tham mưu cho UBND tỉnh trong công tác xây dựng, ban hành văn bản.

Tổ chức pháp chế tại cơ quan, đơn vị được xem như là bộ phận quan trọng nhằm đảm bảo hành lang pháp lý, nhưng chưa có cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ nào đối với cán bộ làm công tác pháp chế, do đó chưa thu hút được đông đảo đội ngũ cán bộ, công chức nhiệt tình tham gia vào công tác này. Để tăng cường và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ pháp chế, thiết nghĩ cần quy định cụ thể các chế độ, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế tại các cơ quan này là vô cùng cần thiết. Có như vậy, cán bộ pháp chế mới an tâm công tác và cống hiến công sức của mình cho ngành pháp chế.

Về biên chế con người: Cần xây dựng một đội ngũ công chức trực tiếp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hùng hậu, bên cạnh có trình độ chuyên môn về ngành lĩnh vực mình công tác còn có trình độ chuyên môn về pháp luật, có tâm huyết và lòng nhiệt tình đối với công tác này. Muốn vậy, trước hết cần kiện toàn, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ổn định, lâu dài và có chiến lược, ưu tiên bổ sung biên chế, có chính sách thu hút người có trình độ chuyên môn sâu. Đặc biệt cần kiện toàn đội ngũ công chức pháp chế của các cơ quan chuyên môn của tỉnh theo hướng ổn định, chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thông qua việc thường xuyên mở các lớp tập huấn bồi dưỡng, chuyên môn, nghiệp vụ. Cùng với đó là đẩy mạnh các cuộc hội thảo, nghiên cứu khoa học, tổng kết đánh giá kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để những người đang làm công tác này có điều kiện nâng cao hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức không chỉ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp mà còn có tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

3.2.6.2. Về tài chính, ngân sách phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Tài chính, ngân sách phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có vai trò ý nghĩa rất quan trọng quyết định đến chất lượng của văn bản cũng như việc kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực. Sư quan tâm bố trí hợp lý kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật khi xây dựng, ban hành. Chính vì vậy, các cơ quan, đơn vị thực hiện xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cần xem xét, đánh giá về nhu cầu đáp ứng về kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm cho việc xây dựng đối với từng văn bản quy phạm pháp luật hoặc từng quy định pháp luật cụ thể; đối chiếu với sự đầu tư trên thực tế, từ đó kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có sự đầu tư một cách phù hợp, đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Trong quá trình phân bổ ngân sách hàng năm cần đảm bảo thực hiện phân bổ ngân sách riêng cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, đơn vị. Vì thực tế hiện nay các các cơ quan, đơn vị chưa được bố trí kinh phí cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Thông tư số 338/2016/TT-BTC. Bên cạnh đó, hiện nay theo Thông tư số 338/2016/TT-BTC thì căn cứ khả năng ngân sách và tình tình thực tế của địa phương HĐND tỉnh quy định mức phân bổ cụ thể đối với từng loại văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện cho phù hợp, theo đó quyết định của UBND cấp tỉnh: 10 triệu đồng/văn bản. Thực tế thì định mức này còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu trong xây dựng văn bản, vì những dự thảo văn bản phức tạp thì chi phí xây dựng rất lớn như khảo sát, thuê chuyên gia, tổng kết, đánh giá… hiện nay tỉnh Quảng Ngãi áp dụng trực tiếp theo Thông tư số 338/2017/TT-BTC chưa có tham mưu cho HĐND tỉnh phân bổ phù hợp với tình hình tại địa phương. Trong thời gian đến cần tham mưu HĐND tỉnh việc phân bổ định mức cho phù hợp để đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND các cấp qua đó nâng cao chất lượng của văn bản khi tham mưu xây dựng, ban hành.

Tóm lại, Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế – xã hội của đất nước. Trong đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ là một trong những nội dung quan trọng và cơ bản. Thời gian qua, để đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và quản lý nhà nước ở địa phương, HĐND tỉnh và UBND tỉnh đã ban hành một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật, góp phần hình thành và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Do vậy, với những giải pháp nêu trên sẽ góp phần đưa hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi từng bước được nâng cao hơn nữa và tạo ra những cơ chế, chính sách nổi trội phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước của địa phương và phục vụ nhân dân.

KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Bước sang thời kỳ đổi mới, Nhà nước ta xác định: Quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế các cơ quan Nhà nước Trung ương và địa phương đã ban hành một lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật để quản lý nhà nước, thể chế hoá và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân. Trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một giai đoạn hết sức quan trọng, chất lượng văn bản sau khi ban hành có chất lượng cao, hiệu lực hiệu quả cao trong quá trình áp dụng, thực hiện đều tùy thuộc vào giai đoạn này.

Hoạt động xây dựng văn bản quy quy phạm pháp luật là một hoạt động phức tạp, mang tính sáng tạo cao, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, kinh phí và nhất là cán bộ phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt, am hiểu về ngành, lĩnh vực mà cần tham mưu, xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đây là một hoạt động chuyển hóa chính sách thành các quy phạm pháp luật để giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội, phục vụ cho quản lý và phát triển. Từ đó khẳng định hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật luôn luôn là một trong những vấn đề quan trọng, nhất là đối với chính quyền địa phương nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.

Trong những năm qua hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi nhìn chung chất lượng ngày càng cao, phù hợp với các quy định của pháp luật và tình hình thực tiễn ở địa phương. Văn bản quy phạm pháp luật được tham mưu xây dựng, ban hành đúng trình tự, thủ tục qua các khâu như: Xây dựng dự thảo; lấy ý kiến tham gia góp ý dự thảo; tổng hợp ý kiến góp ý và gửi Sở Tư pháp thẩm định; trên cơ sở ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp, cơ quan soạn thảo chỉnh lý lại dự thảo và trình UBND tỉnh xem xét ban hành đúng quy định của Luật năm 2004, Luật năm 2015, Nghị định số 91/2006/NĐ-CP, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. Hầu hết các văn bản tham mưu xây dựng khi được ban hành đã kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp và các quy định cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, văn bản ban hành có tính khả thi cao, tác động tích cực đến tình hình kinh tế – xã hội và công tác quản lý nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, do kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các sở, ban, ngành tỉnh Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế, thiếu kỹ năng, trình độ nghiệp vụ trong công tác chuyên môn. Đặc biệt là cán bộ, công chức trực tiếp tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, công chức làm công tác pháp chế trên địa bàn tỉnh phần lớn không thường xuyên thực hiện nhiệm vụ tham mưu xây dựng văn bản, nghiệp vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của đội ngũ này còn nhiều hạn chế; bên cạnh đó hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật lại rất phức tạp đòi hỏi phải có chuyên môn sâu và nắm vững nghiệp vụ, kỹ năng soạn thảo văn bản nên việc thực hiện hoạt động tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thiếu sót. Chính vì vậy, để góp phần làm rõ và khắc phục những những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót này luận văn tìm ra những nguyên nhân, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn: Giải pháp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, do giai đoạn thực hiện nghiên cứu pháp luật áp dụng cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giữa Luật năm 2004 và Luật năm 2015 có sự thay đổi lớn trong trình tự, thủ tục xây dựng văn bản của UBND cấp tỉnh, cho nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô, các đồng nghiệp để đề tài sẽ được nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện hơn.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993