Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: thực tiễn công tác xét xử tội ra bản án trái pháp luật và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của tòa án dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về “Tội ra bản án trái pháp luật

3.1.1 Khái quát chung về hoạt động xét xử hiện nay của hệ thống Tòa án

Tổng kết công tác xét xử của các Tòa án nhân dân cấp huyện trong vài năm gần đây cho thấy về số lượng các vụ án phải thụ lý, giải quyết hàng năm trong cả nước có sự gia tăng đáng kể, hầu như năm sau đều tăng so với năm trước. Năm 2009, các Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý 223.394 vụ án các loại, đã giải quyết 206.845 vụ; năm 2010, các Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý 242.602 vụ án các loại, đã giải quyết 223.114 vụ; năm 2011, các Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý 261.105 vụ án các loại, đã giải quyết 240.739 vụ; năm 2012, các Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý 288.369 vụ án các loại, đã giải quyết 265.371 vụ. Như vậy, số lượng vụ án các Tòa án nhân dân cấp huyện phải thụ lý, giải quyết tăng hàng năm khoảng 18.500 vụ/ năm (chiếm tỷ lệ 7%). Trong đó các vụ án hình sự chưa giảm, các tranh chấp dân sự, hành chính tiếp tục tăng về số lượng, phức tạp về tính chất tranh chấp như tranh chấp về thừa kế đất đai, nhà ở; tranh chấp các loại hợp đồng, chứng khoán, tài chính, tín dụng … Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của người dân với chính quyền diễn ra gay gắt do nền kinh tế phát triển đa dạng, tốc độ đô thị hóa nhanh và trên diện rộng …

Tuy nhiên, việc xét xử, giải quyết các loại vụ án của các Tòa án hiện nay còn nhiều hạn chế. Báo chí, dư luận xã hội đưa tin nhiều về chất lượng xét xử của một số Thẩm phán chưa cao. Có Thẩm phán trong công tác xét xử tỷ lệ án hủy cao hoặc áp dụng án treo không đúng hoặc để hồ sơ quá thời hạn; giải quyết khiếu nại, tố cáo không triệt để; bản án quyết định không rõ ràng, phải giải thích, đính chính hoặc bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; ban hành bản án chậm; … Nguyên nhân chủ yếu là do do năng lực trình độ, tinh thần trách nhiệm, ý thức chính trị của một số Thẩm phán chưa theo kịp quá trình đổi mới; biên chế chưa đầy đủ; cơ sở vật chất, trang bị phục vụ công tác còn thiếu thốn, đời sống của cán bộ, công chức ngành Tòa án còn khó khăn; trình độ dân trí ngày càng được nâng cao; nhiều văn bản pháp luật mới về hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, hành chính và tố tụng hành chính chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể, Thẩm phán chưa có nhiều kinh nghiệm áp dụng trong thực tiễn… Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Đặc biệt, trong thời gian qua, cá biệt có những Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án vi phạm kỷ luật, thậm chí vi phạm pháp luật và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Năm 2009, có 22 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 04 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Năm 2010, có 25 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 05 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Năm 2011, có 26 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 05 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Năm 2012, có 29 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 04 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Các vi phạm xảy ra ở nhiều dạng như: Vi phạm chế độ kỷ luật, nội quy cơ quan; vi phạm chế độ quản lý và sử dụng kinh phí; vi phạm chế độ công tác nghiệp vụ, nhận hối lộ, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án, ra bản án trái pháp luật, làm mất tang vật vụ án…

Chính vì vậy, hàng năm, Tòa án nhân dân tối cao nhận được số lượng đơn thư tố cáo khá lớn của công dân, của đương sự tố cáo Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án có những sai phạm như xét xử không khách quan nhằm trục lợi, nhận tài sản của đương sự, lợi dụng việc xét xử để mua bán đất đai hưởng lợi… Đối với các đơn thư này, Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các cơ quan chức năng kiểm tra, xác minh, kết luận từng nội dung tố cáo. Thông qua kiểm tra, kết luận thì thấy tuy có những nội dung tố cáo chưa có đủ cơ sở kết luận, nhưng việc tố cáo của công dân và đương sự đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngành, là những hiện tượng không bình thường, là cảnh báo cho Thẩm phán, cán bộ, công chức của ngành khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Nghiêm trọng hơn, trong thời gian gần đây, báo chí đã phản ánh một số trường hợp Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án có lối sống không lành mạnh, vi phạm phẩm chất đạo đức, như các vụ việc xảy ra tại một số Tòa án nhân dân địa phương. Thông qua việc kiểm tra, xác minh, xử lý của các Đoàn kiểm tra ở các Tòa án nhân dân địa phương có vi phạm nêu trên cho thấy những nội dung mà báo chí phản ánh là có cơ sở hiện tượng của sự việc. Tòa án nhân dân tối cao đang chỉ đạo các địa phương có cán bộ vi phạm xử lý nghiêm theo thẩm quyền và đề nghị các cấp có thẩm quyền kỷ luật về Đảng và chính quyền, tùy theo mức độ vi phạm của họ. Mặc dù số Thẩm phán, cán bộ Tòa án có hành vi vi phạm không nhiều, nhưng đã ảnh hưởng tới uy tín của ngành và lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng.

Tòa án nhân dân tối cao cũng có những cơ chế xử lý hết sức nghiêm khắc đối với các vi phạm liên quan đến việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp người Thẩm phán như:

Đối với những Thẩm phán có những hành vi tiêu cực thì lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao kiên quyết xử lý nghiêm hoặc không can thiệp vào việc xử lý của các cơ quan tố tụng khác.

Hàng năm khi bình xét thi đua, nếu đơn vị và Thẩm phán nào để số lượng án bị hủy quá 1,16% và án bị sửa quá 4,2% do lỗi chủ quan của Thẩm phán thì đơn vị đó không được xét thi đua và Thẩm phấn đó sẽ phải làm kiểm điểm và cũng không được bình xét thi đua. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Trong một nhiệm kỳ 5 năm Thẩm phán nào án bị cải sửa, bị hủy án quá tỷ lệ quy định hoặc cho bị cáo hưởng án treo không đúng, gây dư luận không tốt tại địa phương thì Thẩm phán đó sẽ không được bổ nhiệm lại làm Thẩm phán.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.1.2 Thực tiễn xét xử Tội ra bản án trái pháp luật và những tồn tại, hạn chế

Qua các báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân trong thời gian qua cho thấy, tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng đang có những diễn biến hết sức phức tạp. Một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án chưa công minh, nhiều nơi nhân dân bức xúc, khiếu nại tố cáo rất nhiều. Một số đối tượng đã bị đưa ra điều tra, truy tố, xét xử song quyết định hình phạt chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Dù các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp trong hơn 11 năm qua không có những biến động đột biến về số lượng nhưng tính chất phức tạp của các vụ án không hề giảm, đặc biệt là những đối tượng phạm tội có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tư pháp có xu hướng gia tăng đặc biệt là các đối tượng có thâm niên công tác lâu năm, nắm rõ các quy định của pháp luật. Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn thì tình hình loại tội phạm này vẫn tiếp tục gia tăng theo chiều hướng phức tạp và tinh vi hơn. Điều này xuất phát từ tình hình đấu tranh phòng chống tội ra bản án trái pháp luật chưa cao, công tác điều tra, truy tố, xét xử về loại tội phạm này chưa triệt để.

Cũng chính vì việc chứng minh khó nên thực tiễn xét xử đối với loại tội phạm này ít bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây cũng là một vấn đề mà xã hội đang quan tâm. Chưa có một công trình điều tra tội phạm học nào nhưng ai cũng thấy tội phạm ẩn trong lĩnh vực tham nhũng và trong lĩnh vực hoạt động tư pháp còn cao. Có nhiều tội quy định trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trên thực tế có thể xảy ra, thậm chí xảy ra nhiều nhưng rất ít bị phát hiện và bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Biểu đồ 3.3: Số lượng các vụ án đã bị truy tố, xét xử về Tội ra bản án trái pháp luật

Trong 11 năm, kể từ năm 2001 đến nay, trên cả nước, 8 đối tượng đã bị truy tố về Tội ra bản án trái pháp luật, song chỉ có 02 bị cáo bị đưa ra xét xử, các bị cáo còn lại được miễn TNHS hoặc đình chỉ điều tra do không đủ căn cứ cấu thành tội phạm. Đồng thời, mức án đối với 02 bị cáo chỉ là án treo. Điều đó cho thấy việc điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này chưa mạnh mẽ, hiệu quả phòng ngừa tội phạm chưa cao, không đủ sức răn đe, tuy về mặt chính quyền, các đối tượng nêu trên đã bị kỷ luật về đảng, buộc thôi việc, cấm đảm nhiệm chức vụ, phải bồi thường thiệt hại. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Bảng 3.1: So sánh tình hình Tội ra bản án trái pháp luật và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp phổ biến

So sánh tình hình Tội ra bản án trái pháp luật với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp khác có thể thấy tỷ lệ số tội phạm ra bản án trái pháp luật đã bị truy tố và xét xử là quá nhỏ. Trong thực tế thì vẫn thấp do việc điều tra, truy tố đạt tỷ lệ còn rất thấp. Điều này làm cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm ra bản án trái pháp luật tuy có cố gắng nhưng vấn chưa đạt yêu cầu. Để cải thiện tình hình này, không chỉ cần có sự cố gắng của ngành Tòa án mà còn cần tới cả sự góp sức của toàn xã hội. Nếu duy trì tỷ lệ này trong khi tội phạm vẫn ngày một gia tăng sẽ không những gây mất trật tự an toàn xã hội mà còn làm tăng thêm thái độ xem thường và chống đối pháp luật, thiếu lòng tin của người dân vào pháp luật và lực lượng bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho hành vi phạm tội leo thang, có mức độ trầm trọng hơn. Đồng thời, là nguyên nhân khởi đầu cho các loại tội phạm về tham nhũng như: tội nhận hối lộ (Điều 297 BLHS); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để trục lợi (Điều 283 BLHS); tội giả mạo trong công tác (Điều 284 BLHS) …. Những mối nguy hiểm tiềm tàng ấy nếu không được khắc phục và ngăn chặn sẽ gây nên sự bất bình mạnh mẽ trong nhân dân, giảm sút công bằng xã hội, đổ vỡ cả một hệ thống tư pháp mà chúng ta đang dầy công xây dựng.

3.1.3 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong xét xử Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Đã có nhiều vụ ra bản án trái pháp luật bị phát hiện, khởi tố điều tra, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần làm giảm các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi ra bản án trái pháp luật chưa tương xứng với tình hình. Số vụ tội phạm ra bản án trái pháp luật được khởi tố còn ít, trong 11 năm mới chỉ có 8 vụ án (đối với 8 bị can) được khởi tố; quyết định hình phạt còn chưa đủ sức răn đe, trong 02 vụ án đưa ra xét xử thì cả 02 bị cáo mới đều được hưởng án treo. Việc giải quyết còn nhiều khó khăn, vướng mắc và kéo dài gây hoài nghi trong nhân dân về các cơ quan bảo vệ pháp luật. Những tồn tại và hạn chế này xuất phát từ một số nguyên nhân chính sau:

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về cấu thành Tội ra bản án trái pháp luật chưa thực sự hoàn chỉnh và đầy đủ..

Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hấu hiệu “biết rõ là trái pháp luật” hiện nay là không hợp lý, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh người đã ra bản án trái pháp luật có phạm tội hay không. Thông thường, người phạm tội thường cho là do chủ quan nóng vội, do chưa hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp luật, chứ ít ai cho rằng mình biết rõ pháp luật. Trong khi đó, người Thẩm phán trước hết phải là người có trình độ hiểu biết pháp luật, không thể nói là không biết pháp luật. Và do chính họ là người có hiểu biết pháp luật nên trước và sau khi ra bản án trái pháp luật đã có nhiều thủ đoạn hoặc hành vi gian dối để hợp thức hóa việc ra bản án trái pháp luật của mình. Vì vậy mà khi các cơ quan điều tra vào cuộc thì các tài liệu, chứng cứ có thể đã không còn hoặc không thể xác định được.

Thẩm phán, Hội thẩm nào cố ý ra bản án trái pháp luật là phải chịu TNHS. Nhưng trên thực tế không phải tất cả các trường hợp Thẩm phán ra bản án trái pháp luật đều phải chịu TNHS. Đa phần Thẩm phán có án bị hủy hoặc bị sửa hiện nay chỉ bị kiểm điểm, xem xét thi đua hoặc nặng hơn là xử lý kỷ luật. Thẩm phán chỉ bị đưa ra truy cứu TNHS khi xét thấy hành vi ra bản án trái pháp luật đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là: gây hậu quả nghiêm trọng; gây hậu quả rất nghiêm trọng; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi ra bản án trái pháp luật nói riêng hay do hành vi trái pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Vì vậy, dẫn đến cách hiểu và vận dụng từng ngành, địa phương có khác nhau, dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Thứ hai, Trách nhiệm của Ngành Tòa án nhân dân trong việc điều tra, kết luận khi bản án bị hủy mà biết rõ là trái pháp luật hiện nay còn bỏ ngỏ; bộ phận có chức năng thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo với cán bộ, công chức trong ngành Toà án nhân dân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kỷ luật, phẩm chất đạo đức còn bị động và chưa có biện pháp chuyên môn hiệu quả để phát hiện tội phạm.

Hiện nay việc làm rõ hành vi của Thẩm phán hoặc Hội thẩm “biết rõ là trái pháp luật” là rất khó khăn, trừ khi hành vi này cấu thành tội phạm theo các điều của BLHS. Đồng thời yếu tố “lỗi” của người có thẩm quyền cũng không được quy định rõ ràng, bởi nếu bản án, quyết định bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm thì trong các quyết định đó cũng không có nhận định là người ra bản án, quyết định có hành vi trái pháp luật. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính thì cấp giám đốc thẩm chỉ có thẩm quyền xem xét đối với kết luận của bản án, quyết định bị kháng nghị có phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hay không; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hay không, mà không có thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, kết luận các sai sót của bản án, quyết định bị kháng nghị là do lỗi cố ý hay do trình độ, năng lực của những người tiến hành tố tụng. Cơ quan nào có trách nhiệm điều tra, kết luận khi ra bản án, quyết định bị hủy mà biết rõ là trái pháp luật – Điều này Luật còn bỏ ngỏ. Do đó, rất hạn chế trong việc phát hiện và truy tố những trường hợp có hành vi ra bản án trái pháp luật.

Hiện nay, việc xem xét trách nhiệm của Thẩm phán đối với vụ án bị hủy do Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện, nhưng mục đích chủ yếu để phục vụ công tác quy hoạch, bổ nhiệm hoặc thi đua khen thưởng. Còn việc xem xét, đánh giá hành vi ra bản án của Thẩm phán có bị xem xét phải chịu TNHS hay không thì không có chưa có bộ phận chuyên trách nào.

Tòa án nhân dân tối cao, Ban Thanh tra Tòa án nhân dân tối cao có chức năng thực hiện việc thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo với cán bộ, công chức trong ngành Toà án nhân dân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kỷ luật, phẩm chất đạo đức nhưng bị động trong việc phát hiện tội phạm do số lượng cán bộ quá ít và chưa có chuyên môn. Vì chỉ khi nào có khiếu nại, tố cáo có dấu hiệu hành vi ra bản án trái pháp luật thì mới thanh tra, kiểm tra; đến khi kiểm ra thì đối tượng vi phạm có thể đã hợp thức hóa hồ sơ, dẫn đến không điều tra được. Hơn nữa, Ban thanh tra chỉ có ở trụ sở Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội nên không thể giải quyết và xem xét sâu sát, thường xuyên các đơn vị Tòa án nhân dân trong cả nước.

Thứ ba, trong một vài vụ án việc điều tra, thu thập chứng cứ còn chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa áp dụng hết các biện pháp mà pháp luật cho phép để điều tra. Dẫn đến việc phát hiện, điều tra các vụ án ra bản án trái pháp luật thực tế có nhiều khó khăn, vướng mắc. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Đối tượng phạm tội ra bản án trái pháp luật là những người có hiểu biết về pháp luật hoặc có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội và che giấu tội phạm. Các vụ án ra bản án trái pháp luật thường xảy ra sau một thời gian khá lâu mới bị phát hiện, đối tượng đã cất giấu, hợp lý hóa hoặc đã hủy tài liệu dẫn đến việc thu thập tài liệu gặp nhiều khó khăn. Việc điều tra các vụ án về tội phạm ra bản án trái pháp luật phải chấp hành nghiêm chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phải báo cáo xin ý kiến giải quyết nhiều cấp, nhiều ngành. Trong khi đó, năng lực của Điều tra viên và công tác lãnh đạo chỉ huy chỉ ở mức độ hạn chế và bị can thiệp, cản trở bởi nhiều yếu tố.

Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng có nơi, có lúc không được chặt chẽ, mạnh ai người đó làm, còn có tư tưởng “quyền anh, quyền tôi”, thậm chí còn vô hiệu hóa hoạt động của nhau, nhất là việc đánh giá chứng cứ, có tội hay không có tội, đủ chứng cứ buộc tội hay chưa đủ chứng cứ buộc tội… dẫn đến việc trả đi, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, làm cho việc điều tra bị kéo dài. Do đó, xảy ra tình trạng có đủ căn cứ để khởi tố vụ án nhưng hết thời hạn điều tra phải đình điều tra chỉ do không xác định được đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm hoặc đã khởi tố điều tra vụ án, khởi tố điều tra bị can nhưng sau đó phải đình chỉ do miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Mà nguyên nhân chủ yếu là sự không hợp tác, phối hợp trong điều tra của đơn vị Tòa án chủ quản của người phạm tội. Họ đôi khi dùng mọi quan hệ xã hội để tác động, gây trở ngại đến hoạt động điều tra, xử lý vụ án. Vì nếu có cán bộ trong cơ quan phạm tội, sẽ ảnh hưởng xấu đến uy tín, thành tích của cơ quan tư pháp chủ quản, đến trách nhiệm của người lãnh đạo cơ quan, bởi vậy, một số Tòa án dễ này sinh tâm lý muốn “gói kín” sự kiện phạm tội, để xử lý nội bộ. Người phạm tội cũng muốn dựa vào cơ quan để lẩn tránh trách nhiệm, đối phó với Cơ quan điều tra. Do đó, đơn vị Tòa án của đối tượng phạm tội thường không tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra, thậm chí họ còn gây ra các trở ngại cho hoạt động điều tra như: không cho cán bộ có liên quan làm việc với Điều tra viên; không cung cấp tài liệu cho Cơ quan điều tra; không phối hợp thực hiện một sổ hoạt động điều tra cần có sự tham gia của họ… Có trường hợp, cơ quan tư pháp chủ quản của đối tượng phạm tội còn phản ứng đến các cơ quan cấp trên làm phức tạp hoá vấn đề, tạo ra những thông tin, dư luận trái chiều trong công luận. Từ chỗ chỉ là quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra với đối tượng phạm tội, dễ trở thành vấn đề căng thăng giữa hai cơ quan, đơn vị. Khi đó, việc điều tra, xử lý vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn, không đạt hiệu quả cao trong công tác giáo dục, phòng ngừa chung. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Thứ tư, theo quy định tại Điều 18 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự và theo quy định tại Điều 4 Quy chế tổ chức và hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 1169/2010/QĐ-VKSTC-C6 ngày 19/08/2010 của Viện trưởng, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao thì Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Cục 6 có thẩm quyền, trách nhiệm tiến hành điều tra các vụ án hình sự về một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, trong đó có Tội ra bản án trái pháp luật.

Tuy nhiên, Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự trung ương là cơ quan duy nhất của ngành Kiểm sát (không có các đơn vị cấp dưới theo ngành dọc), có thẩm quyền điều tra trên phạm vi toàn quốc, không phụ thuộc vào thẩm quyền xét xử của Tòa án nhưng chỉ có trụ sở duy nhất tại Hà Nội. Còn tình hình tội phạm lại diễn ra trên phạm vi cả nước, ở tất cả các cấp hành chính, mà phần lớn các vụ việc phải tiến hành điều tra, xác minh ở địa phương, xa trụ sở cơ quan, xa nhà nên việc đi lại điều tra xác minh của các điều tra viên mất nhiều thời gian, tốn kém tiền của, không thể có sự chỉ đạo sát sao, thường xuyên của lãnh đạo đơn vị… Do đó, việc theo dõi quá trình phân loại, xử lý thông tin, phát hiện, điều tra về tội phạm là rất khó khăn. Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác động điều tra loại án nêu trên.

3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

3.2.1  Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về Tội ra bản án trái pháp luật

Những quy định trong Bộ luật hình sự và pháp luật hình sự có liên quan có ý nghĩa quan trọng và quyết định trực tiếp đến việc truy cứu TNHS, xác định đối tượng và phạm vi chứng minh đối với các trường hợp có hành vi ra bản án trái pháp luật. Vì vậy, việc sửa đổi, hoàn thiện Bộ luật hình sự và sửa đổi, bổ sung pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là pháp luật hình sự sẽ lấp được những “lỗ hổng”, tránh được những sơ hở, khiếm khuyết của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả điều tra, xử lý tội phạm.

So với Bộ luật hình sự năm 1985, các Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng trong Bộ luật hình sự năm 1999 đã được bổ sung, sửa đổi đáng kể, đánh dấu một bước phát triển trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Quy định về Tội ra bản án trái pháp luật trong Bộ luật hình sự năm 1999 thể hiện sự nhận thức, xác định đúng đắn về tính chất hành vi, chủ thể và khách thể của loại tội phạm này, tạo ra cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống lại Tội ra bản án trái pháp luật đạt hiệu quả cao.

Tuy vậy quy định Tội ra bản án trái pháp luật trong Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn bộc lộ một số điểm chưa hợp lý về phương diện hình sự, chưa tạo cơ sở pháp lý trong việc phân hóa tội phạm, cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt nên việc chứng minh tội phạm và xử lý tội phạm còn kém hiệu quả. Mặc dù các nhà lập pháp và các nhà nghiên cứu đều thấy sự thiếu sót, chưa phù hợp của luật nhưng việc sửa đổi luật nhưng việc xét xử loại tội phạm này hiện nay còn quá ít nên chưa đánh giá và rút ra được nhiều biện pháp để khắc phục. Hiện còn nhiều ý kiến khác nhau cả về nội dung cần bổ sung, sửa đổi và kỹ thuật lập pháp. Theo quan điểm của tôi, những vấn đề chủ yếu cần bổ sung, sửa đổi, gồm một số vấn đề chính sau:

Điều luật quy định chỉ khi “biết rõ là trái pháp luật” thì Thẩm phán, Hội thẩm mới có thể bị truy tố, xét xử về Tội ra bản án trái pháp luật. Cho nên thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều bản án trái pháp luật ở mức độ khác nhau, trong đó có không ít bản án bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thẩm huỷ để điều tra xột xử lại, thậm chí có bản án kết án oan người vô tội nhưng hầu hết những Thẩm phán ra bản án này thường chỉ nhận là do nhận thức, do trình độ nghiệp vụ non kém, chứ không có ai nhận là “biết rõ là trái pháp luật”. Đây là một trong những vấn đề khó khăn và bất cập khi điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này. Nó mâu thuẫn với đặc trưng của chủ thể, là Thẩm phán, Hội thẩm, là những người có trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng thì không thể nói khi giải quyết vụ án họ “không biết rõ là trái pháp luật”. Theo tôi, để tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử được chính xác, trong cầu thành của tội ra bản án trái pháp luật vẫn phải khẳng định rõ yếu tố chủ quan “lỗi cố ý” của người phạm tội như pháp luật hình sự Trung quốc. Vì tình tiết “ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật” hàm ý cũng thể hiện ý thức chủ quan “lỗi cố ý” trong việc ra bản án trái pháp luật. Song chủ thể của loại Tội phạm này là chủ thể đặc biệt, là Thẩm phán, Hội thẩm, phải là những người có trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng, nên việc “biết rõ là trái pháp luật” là điều tất yếu. Do đó, Thẩm phán, Hội thẩm nào cố ý ra bản án trái pháp luật là phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật theo quy định tại Điều 295 BLHS. Vì vậy, Điều 295 BLHS nên quy định Tội phạm này như sau: “Thẩm phán, Hội thẩm nào cố ý ra bản án trái pháp luật là phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật”. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Tuy nhiên về nguyên tắc, có trường hợp dù Thẩm phán có không thừa nhận thì vẫn có thể buộc họ là “biết rõ là trái pháp luật”, như: không xét xử mà ra bản án, người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên toà thì bản án lại ghi là có mặt; Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là ông A thì bản án lại ghi là ông B; Biên bản nghị án thống nhất phạt tù giam bị cáo thì bản án lại ghi là phạt tù nhưng cho hưởng án treo, … [35, tr222]

Ngoài ra, thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp mặc dù bản án bị hủy, yêu cầu phải điều tra, xét xử lại do vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật, tức là quyết định của bản án không đúng pháp luật nhưng các Tòa án có cách thức xử lý khác nhau. Có Tòa án thì nghiêm khắc nhắc nhở và kiến nghị biện pháp khắc phục, nhưng có Tòa án chỉ rút kinh nghiệm qua loa, cho rằng chỉ là sai sót nhỏ hoặc do khách quan do pháp luật còn chưa quy định rõ trong trường hợp nào thì hành vi ra bản án trái pháp luật chỉ bị xử lý hành chính, trong trường hợp nào phải truy cứu TNHS. Chỉ khi có đơn tố cáo và các cơ quan chức năng vào cuộc thì nhiều trường hợp mới bị phát hiện và xét xử. Vì vậy, để không bỏ sót tội phạm và tạo cơ sở pháp lý cho việc truy tố, xét xử loại tội phạm này, cần có những quy định và hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào, vi phạm nghiêm trọng đến mức độ như thế nào thì phải truy cứu TNHS.

BLHS cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể nào để xác định trong trường hợp nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn trong việc truy tố, xét xử và quyết định khung hình phạt. Vì vậy, trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, cần có hướng dẫn cụ thể về các tình tiết để xác định trường hợp nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Mặt khác, để xác định việc ra bản án, quyết định trái pháp luật (không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật) do cố ý hay do trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng là điều không dễ dàng. Thực tế cho thấy, số vụ án cố tình xử trái pháp luật bị phát hiện chỉ là một phần nhỏ. Phần lớn các trường hợp xét xử sai do cố tình đổi trắng thay đen (có tiêu cực) bị cấp giám đốc thẩm xử hủy án nhưng khi kiểm điểm để xét tái bổ nhiệm lại đỗ lỗi cho là do trình độ, năng lực hạn chế. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Vậy, để có cơ sở cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thì ai, cơ quan nào có trách nhiệm điều tra, kết luận khi ra bản án, quyết định bị hủy mà biết rõ là trái pháp luật – Điều này Luật còn bỏ ngỏ. Do đó, số lượng người được bồi thường do hành vi ra bản án trái pháp luật hiện nay còn ở số lượng rất hạn chế. Thiết nghĩ, nếu Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước quy định trong mọi trường hợp xử sai (trừ trường hợp xử sai vì lý do khách quan) đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thì không chỉ bảo đảm sự bình đẳng và triệt để trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại mà còn góp phần hạn chế tiêu cực trong hoạt động xét xử.

Theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước thì người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay khi cho rằng Tòa án đã ra bản án trái pháp luật, mà đòi hỏi phải có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định Thẩm phán, Hội thẩm đã có hành vi cố ý ra bản án trái pháp luật. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính thì cấp giám đốc thẩm chỉ có thẩm quyền xem xét đối với kết luận của bản án, quyết định bị kháng nghị có phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hay không; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hay không, mà không có thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, kết luận các sai sót của bản án, quyết định bị kháng nghị là do lỗi cố ý hay do trình độ, năng lực của những người tiến hành tố tụng. Như vậy, cơ sở cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do bản án trái pháp luật gây ra còn chưa được quy định đầy đủ và cụ thể. Theo tôi, Luật Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước nên quy định trong mọi trường hợp xử sai, gây thiệt hại cho đương sự thì Tòa án đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Như trong quy định của pháp luật hình sự của Liên bang Nga, Thẩm phán ra bản án trái phát luật thì trong mọi trường hợp là đầu tiên phải bị phạt tiền, sau đó tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị phạt tù hay không. Có vậy mới bảo đảm sự bình đẳng và triệt để trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và góp phần hạn chế tiêu cực trong hoạt động xét xử. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện những quy định của BLHS về Tội ra bản án trái pháp luật, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa đối với tội phạm này, cũng cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự và về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và pháp luật liên quan khác để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng theo hướng xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm đúng theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương đã đề ra.

3.2.2 Ngành Tòa án nhân dân phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kỷ luật công vụ của cán bộ, công chức ngành Tòa án.

Trong đó trong tâm kiểm tra đối với công tác xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm; khi phát hiện có hành vi ra bản án trái pháp luật phải có thái độ nhất quán, kiên quyết, nghiêm khắc xử lý các đối tượng cố ý ra bản án trái pháp luật

Để đảm bảo không xảy ra tình trạng cố ý ra bản án trái pháp luật hoặc giam, tha trái pháp luật, lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp phải có kế hoạch, chương trình công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kỷ luật công vụ của cán bộ, công chức ngành Tòa án, trong đó trọng tâm là kiểm tra chất lượng công tác xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm; đồng thời, phải tăng cường công tác quản lý cán bộ, quản lý tiến độ công việc để phát hiện kịp thời và ngăn chặn mọi biểu hiện “Chạy án” hoặc các biểu hiện tiêu cực khác vi phạm đạo đức, lối sống của người cán bộ Tòa án.

Đồng thời, phải kiểm tra chặt chẽ, làm rõ các trường hợp cán bộ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn mà có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thái độ thiếu tôn trọng nhân dân hoặc tố cáo về hành vi tham nhũng.

Công tác kiểm tra phải tiến hành nghiêm túc, thường xuyên, đúng thủ tục. Nếu có vi phạm thì cần khẩn trương tiến hành xác minh để kết luận và xem xét mức độ sai phạm. Việc xử lý vi phạm phải chính xác, khách quan và công tâm. Kiên quyết xử lý nghiêm những Thẩm phán, cán bộ Tòa án có vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, chuyển cơ quan có thẩm quyền để xem xét TNHS đối với những trường hợp có dấu hiệu phạm tội. Không xuê xoa cho là không có căn cứ hoặc sơ hở để xảy ra tham nhũng trong đơn vị; phải gắn trách nhiệm của người lãnh đạo trực tiếp và người đứng đầu cơ quan đã để xảy ra tình trạng cán bộ, công chức trong đơn vị mình có hành vi vi phạm, tham nhũng.

3.2.3 Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp là phản ánh nhu cầu khách quan của việc giám sát nhằm bảo đảm hoạt động xét xử của các cơ quan Tòa án theo đúng các quy định của pháp luật, đồng thời cũng là phản ánh quan điểm chính thống của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cụ thể như sau:

Một là, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện quyền giám sát của các cơ quan dân cử

Nhà nước ta không áp dụng máy móc học thuyết phân quyền, nên luôn luôn đề cao vai trò của cơ quan đại diện thay mặt nhân dân để giám sát đối với hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án nói riêng.

Hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được quy định rõ trong Điều 32 Bộ luật tố tụng hình sự. Sự giám sát của các cơ quan dân cử, bao gồm: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trong thời gian qua đã được tăng cường, thông qua hoạt động giám sát, tiếp xúc với cử tri đã phát hiện những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử của một số Tòa án. Hoạt động này đã có tác động tích cực đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và hoạt động điều tra xử lý các vụ án hình sự nói riêng. Do vậy cần đổi mới, nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn của của các Đại biểu Tòa án tại các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân nhằm tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp.

Hai là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án.

Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm đảm bảo các hoạt động này tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vì vậy, tăng cường chức năng kiểm sát các hoạt động xét xử của Viện kiểm sát đối với Tòa án sẽ đảm bảo cho hoạt động xét xử được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần mở hộp thư “Tố giác tin báo tội phạm” trên Trang tin điện tử này, để nhân dân cung cấp tin báo tội phạm cho Viện kiểm sát, nhất là tin báo tội phạm về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng; trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình Viện kiểm sát sẽ phối hợp với cơ quan chức năng có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn tội phạm kịp thời, giữ vững an ninh quốc gia.

3.2.4 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật có liên quan đến việc giải quyết các vụ án Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải thích, hướng dẫn pháp luật cũng như việc giải quyết từng vụ án cụ thể là rất quan trọng để việc áp dụng pháp luật bảo đảm tính cách khách quan, toàn diện, là một trong những yếu tố để hạn chế các vi phạm pháp luật của các chủ thể khi tiến hành tố tụng. Do đó, hoạt động đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật cũng đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với các cơ quan Nhà nước khác, các tổ chức đoàn thể xã hội và công dân, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật phải trở thành “hạt nhân” liên kết trong sự phối hợp này.

Đặc biệt, các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Toà án cần quan tâm, chú trọng mối quan hệ liên ngành trong phối hợp phòng chống tội phạm nói chung, Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng, nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên trong cơ quan về tầm quan trọng của quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác phối hợp liên ngành không tách rời với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, trái lại sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Do đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan Các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần có sự tăng cường phối hợp chặt chẽ với nhau. Việc phối hợp tiếp nhận, tố giác, tin báo về các hành vi ra bản án trái pháp luật phải được thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của các thông tư liên ngành về thủ tục, thẩm quyền, thời hạn, hình thức giải quyết các tố giác, tin báo tội phạm, nhất là các quy định của Liên ngành tư pháp Trung ương như: Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sat trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Đối với những tố giác, tin báo về Tội ra bản án trái pháp luật được chuyển đến Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm vào sổ tiếp nhận, theo dõi và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra khi nhận được tố giác, tin báo về hành vi ra bản án trái pháp luật xảy ra do cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến hoặc do Viện kiểm sát chuyển sang phải kịp thời xác minh và giải quyết ngay.

Đồng thời, phải thường xuyên duy trì chế độ Lãnh đạo liên ngành họp bàn giải quyết kịp thời những vụ án phức tạp có vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án để đảm bảo vụ án được giải quyết kịp thời, chính xác.

Song bên cạnh việc tăng cường sự phối hợp, các cơ quan Các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cũng cần có những quy định phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan trong hoạt động tố tụng thực hành quyền tư pháp, trong đó chú trọng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Chấp hành viên để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

3.2.5 Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất chính trị của Thẩm phán

Ngày này, xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ pháp luật cũng vì thế mà ngày càng phức tạp, tranh chấp xảy ra nhiều, có những quan hệ pháp luật mới pháp luật chưa điều chỉnh, đòi hỏi sự hiểu biết tường tận và chuyên môn sâu. Do đó, cán bộ, công chức ngành Tòa án nếu không được được trao dồi và cập nhật kiến thức pháp luật thường xuyên sẽ dẫn đến bị lạc hậu, lúng túng trong việc nghiên cứu đường lối giải quyết vụ án. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm; tích cực rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ ở mỗi cương vị công tác của mình.

Đặc biệt, trước những sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội hiện nay, người cán bộ Tòa án còn bị đứng trước nhiều cạm dỗ, dễ bị lệch lạc, suy thoái đạo đức. Không ít Thẩm phán có lối sống sa hoa, không có văn hóa, vi phạm pháp luật, nhũng nhiễu nhân dân hoặc không dám bảo vệ lẽ phải, làm mất uy tín của ngành.

Nguyễn Minh Tuyên, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã từng chia sẻ: “Người Thẩm phán có trung thực, có tâm trong sáng thì mới có dũng cảm để bảo vệ lẽ phải, có trung thực, trong sáng thì mới không bảo thủ cứng nhắc khi giải quyết công việc được giao”. Và cũng theo ông: “Đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán chính là sự phấn đấu để cố gắng hạn chế và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ, bất hạnh ra khỏi đời sống của con người thông qua các bản án thấu tình đạt lý mang tính giá trị nhân văn cao. Đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán còn thể hiện ở sự vượt qua mọi khó khăn, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân, khắc phục những mất mát, thiệt thòi trong nghề nghiệp, không ngừng học hỏi trau dồi kiến thức chuyên môn, tạo được bản lĩnh vững vàng, có lương tâm, hiểu biết sâu sắc về xã hội, để người Thẩm phán không chỉ có đạo đức mà còn có thể được coi là người Thẩm phán có văn hóa”. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Do đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các đơn vị trong ngành Tòa án nhân dân hiện nay là phải thường xuyên thực hiện nghiêm túc công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị mình, trong đó vấn đề bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức và uy tín nghề nghiệp phải đặt lên hàng đầu. Bởi vì người Thẩm phán là người nhân danh Nhà nước để quyết định một người có phạm tội hay không phạm tội và ra một bản án để trừng trị kẻ phạm tội bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm cho pháp luật của Nhà nước được nghiêm chỉnh thi hành, muốn vậy người Thẩm phán cũng phải hết sức công bằng, vô tư và khách quan.

Nội dung về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống mà Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu, tự giác; không quan liêu tham nhũng, lãng phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Để từng bước cụ thể hóa các nội dung tu dưỡng, rèn luyện đó, các đơn vị phải thực hiện việc công khai, minh bạch các hoạt động của Toà án theo quy định của pháp luật; thực hiện “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng, chống tham nhũng; định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ; triển khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Đồng thời, đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn ngành Toà án nhân dân; tiêu chí hóa lời dạy của Bác Hồ đối với cán bộ Tòa án. Trong phong trào thi đua này lấy cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” là trọng tâm, nhằm xây dựng hình ảnh Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân thực sự gương mẫu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh ở cơ quan và nơi cư trú, để củng cố lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

3.2.6 Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi cán bộ và quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung cho cán bộ và mọi công dân nhằm nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của là một trong những yêu cầu quan trọng của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường dưới nhiều hình thức và biện pháp phù hợp với từng đối tượng theo hướng tập trung về cơ sở, đến tận người dân, đã và đang góp phần quan trọng nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của từng cán bộ, từng người dân, qua đó đội ngũ cán bộ, công chức đã có ý thức nắm vững pháp luật, năng lực vận dụng, thi hành pháp luật được nâng cao một bước rõ rệt. Các cơ quan tư pháp như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã có nhiều hình thức sáng tạo để tuyên truyền giáo dục pháp luật như thông qua xét xử lưu động, thông qua các buổi sinh hoạt của Công an với cộng đồng dân cư… Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật cho mọi tầng lớp cán bộ, nhân dân nhằm nâng cao thức trách nhiệm của mọi người đấu tranh với loại tội phạm này phải được định hướng, xác định một cách có tổ chức, có chủ định tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành cho họ những hiểu biết nhất định về pháp luật, tạo cho họ thói quen tuân thủ pháp luật, có ý thức và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật trong đấu tranh phòng chống, ngăn chặn Tội ra bản án trái pháp luật. Đây là trách nhiệm chung của các tổ chức Đảng và mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, nhưng trước hết thuộc về các cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật nếu được triển khai thực hiện đúng với các yêu cầu, mục đích, nội dung, phương thức sẽ có tác dụng tích cực đến sự hiểu biết của họ trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Muốn cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật có hiệu quả thì các cơ quan chức năng phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể về các vụ việc liên quan Tội ra bản án trái pháp luật đã được giải quyết, làm cho mọi cán bộ, tầng lớp nhân dân nhận thức được: muốn giữ gìn tốt an ninh trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống kinh tế, văn hoá xã hội của mình thì tất yếu phải tôn trọng pháp luật, từ đó có ý thức sống và làm việc tuân theo pháp luật, không những không bao che, che giấu cho tội phạm, mà còn có thái độ kiên quyết đấu tranh lên án những hành vi phạm tội nói chung, Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng, tích cực tố giác với cơ quan bảo vệ pháp luật những phần tử chống đối xã hội, đi ngược lại lợi ích của Nhà nước, nhân dân.

3.3 Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử nhằm hạn chế hiện tượng ra bản án trái pháp luật của Tòa án Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Thực tiễn công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án của ngành Tòa án nhân dân trong thời gian qua cho thấy, tình hình tội phạm và các tranh chấp dân sự còn diễn biến phức tạp với xu hướng gia tăng về số lượng. Mặt khác, với việc mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án theo Luật tố tụng hành chính, thì trong thời gian tới, số lượng các vụ án hành chính mà Tòa án phải giải quyết sẽ tăng lên rất lớn. Bên cạnh đó, việc xác định Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm trong cải cách tư pháp đang đặt ra cho ngành Tòa án nhân dân nhiều nhiệm vụ cải cách tư pháp quan trọng liên quan đến đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án. Do đó, để nâng cao chất lượng xét xử nhằm hạn chế hiện tượng ra bản án trái pháp luật cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau đây:

3.3.1  Đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng

Hiến pháp nước năm 1992 đã xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như hoạt động của từng cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp nói riêng đều được đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các cán bộ thuộc cơ quan tư pháp được thể hiện ở chỗ: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên, chăm lo công tác quy hoạch, tuyển chọn, bố trí sử dụng đúng năng lực của đảng viên cũng như việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp nói chung, Toà án nói riêng là vấn đề có tính nguyên tắc hiến định. Sự lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn hoặc ảnh hưởng tới tính độc lập của Toà án. Nội dung lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng; lãnh đạo về tổ chức cán bộ; lãnh đạo định hướng công tác. Cũng có ý kiến mong muốn thành lập đảng bộ ngành Toà án để lãnh đạo theo ngành dọc từ Toà án nhân dân tối cao xuống đến Toà án sơ thẩm khu vực. Ý kiến này là không thuyết phục, vừa làm cho Toà án nhân dân tối cao thêm “cồng kềnh” vừa dễ mâu thuẫn với nguyên tắc độc lập trong hoạt động của mỗi cấp Toà án. Vì vậy, tổ chức đảng của Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm cần phải gắn bó với cấp uỷ địa phương, nơi có trụ sở của các Toà án này tọa lạc.

3.3.2 Đẩy nhanh công tác xây dựng pháp luật; chú trọng công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho Thẩm phán giải quyết vụ án

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay, việc nghiên cứu để tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hòan thiện các quy định của pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn cũng “chính là một trong nhiều yếu tố cơ bản mà thiếu nó thì việc xây dựng, Nhà nước pháp quyền không thể thành công, vì các quy định của pháp luật chính là những căn cứ pháp lý quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền”, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả, xử lý nghiêm khắc mọi hành vi phạm tội, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần tăng cường pháp chế và trật tự pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước và xã hội.

Đồng thời, để pháp luật được áp dụng, đi vào đời sống xã hội, các cơ quan có thẩm quyền phải hướng dẫn, giải thích pháp luật, tạo điều kiện cho Tòa án nhân dân các cấp trên cả nước áp dụng thống nhất. Tránh hiện tượng nhiều án bị hủy do các cấp xét xử có cách đánh giá chứng cứ khác nhau, áp dụng pháp luật khác nhau. Do đó, công tác hướng dẫn và áp dụng pháp luật là một hoạt động rất quan trọng đối với thực tiễn. Thực tiễn áp dụng pháp luật không thể tránh khỏi những vướng mắc mà các điều luật cũng như các văn bản dưới luật chưa hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể. Thậm chí trong nhiều trường hợp còn có sự chồng chéo, mẫu thuẫn giữa các văn bản của những bộ ngành khác nhau khi hướng dẫn, điều chỉnh cùng một vấn đề.

Sau khi văn bản pháp luật được cấp có thẩm quyền ban hành, để chúng được thực thi và đi vào đời sống thì Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn thi hành để áp dụng văn bản pháp luật ấy. Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong việc áp dụng pháp luật, tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cấp xét xử.

3.3.3 Đảm bảo nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) năm 2003. Nó được hiểu dưới hai khía cạnh là: độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong.

Độc lập với các yếu tố bên ngoài là: Khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 222 Bộ luật TTHS quy định “khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”.

Nguyên tắc độc lập xét xử còn đòi hỏi sự độc lập của hội đồng xét xử với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân. Có nghĩa là, khi xét xử, Hội đồng xét xử không có cấp trên. Cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét xử. Hiện nay, Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, phải tách bạch từng mối quan hệ. Trong hoạt động nghiệp vụ, mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới là mối quan hệ tố tụng, chứ không phải là mối quan hệ quản lý hành chính. Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử, nhưng không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể.

Độc lập với các yếu tố bên trong là: Khi xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện.

Để nâng cao tính độc lập trong xét xử của các Hội đồng xét xử, hạn chế tối đa oan sai, tiêu cực; xét xử đúng người, đúng tội, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, theo tôi, cần phải làm tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, cải cách hệ thống Tòa án về cơ cấu, tổ chức theo hướng không nên tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền kết hợp với lãnh thổ mà chỉ theo thẩm quyền xét xử. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Hiện nay cơ cấu tổ chức của ngành toà án có ba cấp: Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao. Với cơ cấu tổ chức này, hiện nay chúng ta có 63 đơn vị Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 695 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện được thành lập theo các đơn vị hành chính. Và trong Toà án nhân dân tối cao còn có 03 Toà phúc thẩm đặt ở ba miền và các Toà chuyên trách. Cấu trúc này làm cho tổ chức hệ thống Toà án nhân dân tối rất “đồ sộ” với biên chế hàng nghìn Thẩm phán. Tổng kết công tác xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương trong nhiều năm qua, ta thấy mô hình tổ chức này hiện nay có một số bất cập như sau:

Thực tế giải quyết các vụ án hành chính đã cho thấy có sự lệ thuộc của Tòa án nhân dân cấp huyện đối với chính quyền địa phương. Do một bên trong vụ án hành chính là cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước nên Thẩm phán tham gia giải quyết vụ án hành chính thường chịu những sức ép nhất định. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án, mà còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng xét xử các vụ án hành chính nói riêng và các loại vụ án khác nói chung chưa cao.

Do số lượng đơn vị hành chính lớn nên cơ sở vật chất, kinh phí, nhân lực của ngành Tòa án bị phân tán, dàn trải. Nhà nước phải trang trải các khoản kinh phí rất lớn để xây dựng trụ sở, trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ. Ở những vùng, khu vực miền núi có số lượng vụ án không đáng kể, nhưng Nhà nước vẫn phải xây dựng, bố trí đủ cán bộ Tòa án theo cơ cấu tổ chức bộ máy nên gây lãng phí nguồn lực và kinh phí.

Do tổ chức theo đơn vị hành chính nên trong nhận thức và quan niệm của các ngành, các cấp thì Tòa án được coi như một cơ quan của Ủy ban nhân dân (Tòa án cấp huyện được coi như một cơ quan cấp phòng của huyện; Tòa án cấp tỉnh được coi như một cơ quan cấp sở của tỉnh). Do đó, việc xác định biên chế, kinh phí, trụ sở, phương tiện và chế độ chính sách đối với các Tòa án nhân dân địa phương không khác với định mức, tiêu chuẩn của các cơ quan hành chính cấp huyện, cấp tỉnh. Vì vậy, không tương xứng với vị trí, vai trò, tính chất hoạt động quan trọng của cơ quan Tòa án trong bộ máy Nhà nước, không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Để khắc phục triệt để những bất cập này, đòi hòi phải có một chiến lược cải cách cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân một cách toàn diện. Đó là, cải cách hệ thống Tòa án về cơ cấu, tổ chức theo hướng không nên tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền kết hợp với lãnh thổ mà chỉ theo thẩm quyền xét xử. Việc cải cách cơ cấu Toà án nhân dân này cần thực hiện theo các nguyên tắc sau:

Phải xuất phát từ yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là đảm bảo tính độc lập của Toà án. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp hiện nay, Cơ quan điều tra tuy hoạt động độc lập theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhưng do do cơ chế tổ chức cán bộ, Thủ trưởng cơ quan điều tra có thể kiêm nhiệm một chức vụ hành chính như Tổng cục trưởng, Phó giám đốc Công an tỉnh, Phó trưởng Công an huyện nên hoạt động điều tra khó tránh khỏi sự chỉ đạo mang tính hành chính. Ở ngành Kiểm sát, do đặc thù của ngành về tính tập trung thống nhất, kiểm sát viên ngoài việc thực hiện thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật, còn bị chỉ đạo mang tính hành chính của Viện trưởng Viện kiểm sát. Vì vậy, cần xây dựng tính độc lập của Toà án như một thành luỹ cuối cùng để giảm thiểu tối đa sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động của Toà án.

Xây dựng mô hình Toà án một mặt tạo thuận lợi cho việc thực hiện quyền lực nhà nước nhưng cũng cần quan tâm đến lợi ích của công dân khi có việc phải hệ luỵ đến chốn pháp đình. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng cơ quan tư pháp phải “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” vẫn cần được quán triệt khi thiết kế phạm vi quản hạt của Toà án. Một người dân khi tham gia tố tụng ở toà án cấp sơ thẩm có phạm vi quản hạt quá lớn là không thích hợp, nhất là ở những nơi còn khó khăn về giao thông. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Cải cách tổ chức Toà án phải đặt ra mục tiêu góp phần làm cho công tác xét xử được “công bằng, liêm khiết”, đảm bảo các phán quyết của Tòa án phải là kết quả tranh tụng công khai và thẩm tra tại phiên tòa.

Trên cơ sở những nguyên tắc này, Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử sẽ được tổ chức như sau: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm được tổ chức ở một đơn vị hành chính cấp tỉnh, có nhiệm vụ chủ yếu xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Như vậy, cơ cấu tổ chức của ngành Toà án sẽ có Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm và Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, để góp phần nâng cao năng lực giải quyết án, tăng cường tính độc lập của mỗi cấp Toà án thì cần để cho các Toà thượng thẩm có một vị trí pháp lý độc lập, không phụ thuộc tổ chức Toà án nhân dân tối cao.

Tính đến thời điểm tháng 9/2012, theo Báo cáo số 159A/BC-BCS ngày 1/9/2012 của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao về việc triển khai thực hiện chủ trương tổ chức Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực của ngành Tòa án nhân dân thì hiện nay 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã triển khai xong bước xây dựng Đề án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực của địa phương mình; trong đó, có 58 địa phương Ban thường vụ Tỉnh ủy đã xem xét, phê duyệt thông qua Đề án. Theo báo cáo tại các Đề án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, thì thống kê được 427 Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, giảm 268 đơn vị. Trong đó, có 191 Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được giữ nguyên từ Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay (chiếm tỷ lệ 44,73%); 207 Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được sát nhập từ 2 Tòa án nhân dân cấp huyện (chiếm tỷ lệ 48,47%); 25 Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được sát nhập từ 3 Tòa án nhân dân cấp huyện (chiếm tỷ lệ 5,9%); 04 Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được sát nhập từ 4 Tòa án nhân dân cấp huyện (chiếm tỷ lệ 0,9%).

Thứ hai: Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương, đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán trong công tác xét xử.

Về cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán: Cùng với việc cải cách mô hình tổ chức Toà án, thì vấn đề cải cách cơ chế bổ nhiệm thẩm phán phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu vì thẩm phán là “linh hồn” của Toà án. Việc chuẩn bị nhân sự cho việc bổ nhiệm thẩm phán cần theo nguyên tắc của Lê-nin “thà ít mà tốt” chứ không thể vì yêu cầu số lượng mà phải vơ vét, tận dụng những lực lượng đã có để bổ nhiệm cho đủ. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh ghi trong tờ trình gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi có Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/2/1946 đã có ý kiến: “Thà không có Thẩm phán còn hơn có người mà vô tài, vô hạnh. Khi lập một hạng người có quyền xét xử người khác, bản bộ thấy rõ trách nhiệm đối với nội trị và cả đối với ngoại giao nữa…”.

Theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm của Tòa án nhân dân đã được sửa đổi bổ sung ngày 19/02/2011 thì Thẩm phán Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: a) Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; b) Thẩm phán trung cấp; c) Thẩm phán sơ cấp; d) Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Với 02 cơ chế bổ nhiệm: Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự khu vực, gồm; Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp; Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương.

Có ý kiến cho rằng cơ chế bổ nhiệm nhiệm hiện nay vẫn mang tính “khép kín”, chưa tạo cơ hội cho người có phẩm chất, năng lực trong hệ thống chính trị trở thành Thẩm phán (nguồn bổ nhiệm chủ yếu vẫn từ khối thư ký Toà án), chưa phát huy được vai trò của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) với tư cách là cơ quan thể hiện chủ quyền nhân dân, chưa gắn công tác giám sát tư pháp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân với công tác cán bộ của cơ quan tư pháp. Mặt khác, việc giao cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán chưa phải là phương án tối ưu để nâng cao chất lượng hoạt động của Toà án, nhất là đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của mỗi cấp Toà án. Vì thế, cần thiết phải có sự điều chỉnh theo hướng giao cho UBTVQH bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương. Sở dĩ cần có sự điều chỉnh này vì hiện nay UBTVQH là cơ quan quyết định biên chế, chế độ tiền lương của ngành Toà án, quyết định một số Thẩm phán làm thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thực hiện giám sát hoạt động của Toà án nhân dân tối cao giữa hai kỳ họp Quốc hội. Đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án thượng thẩm, Thẩm phán Toà án phúc thẩm, Toà án sơ thẩm khu vực nên giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm. Để tập trung cho hoạt động xét xử, sáng tạo án lệ ở cấp cao nhất, không nên giao cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán ở bất kỳ cấp nào.

Hoặc có ý kiến đối với Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp có thể được cử tri địa phương bầu. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và nếu thành lập Tòa án Hiến pháp thì Thẩm phán Tòa án Hiến pháp có thể được Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Các ý kiến và kiến nghị trên thực sự chưa hợp lý. Thứ nhất, nó không đảm bảo tính độc lập trong sự chủ động tổ chức nguồn nhân lực của ngành Tòa án, tạo thêm sức ép cho hoạt động xét xử chịu sự giám sát, kiểm tra của quá nhiều cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Thứ hai, Ủy ban thường vụ Quốc hội không phải là cơ quan có thẩm quyền ký quyết định bổ nhiệm các chức danh, chức vụ mang tính chất quyền lực Nhà nước. Nhiệm vụ chính của UBTVQH là giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; … Thứ ba, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại nên có quyền hạn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Nếu bổ nhiệm cả các chức danh Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp trong cả nước thì số lượng quá lớn và mang tính hình thức, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán sẽ phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều cấp.

Hiện nay, theo Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm của Tòa án nhân dân thì Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán, hoặc xem xét những trường hợp Thẩm phán được miễn nhiệm Thẩm phán hoặc bị cách chức Thẩm phán. Trong đó, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương gồm có Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là uỷ viên. Thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Sở Nội vụ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia cấp tỉnh là ủy viên. Với cơ cấu như vậy việc tuyển trọn Thẩm phán đã được tiến hành khách quan, đảm bảo chất lượng, không phải được tiến hành “khép kín” hay mang tính hình thức.

Về nhiệm kỳ Thẩm phán: Nhiệm kỳ 5 năm đối với Thẩm phán các cấp hiện nay là quá ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán yên tâm công tác, tận dụng được tối đa kinh nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp, cần kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý tán thành phương án bổ nhiệm không có kỳ hạn đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán cao cấp, các chức danh Thẩm phán các cấp Tòa án nhân dân còn lại thì nên bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, cao nhất là 10 năm để đảm bảo việc nâng cao ý thức rèn luyện và trách nhiệm trong công việc. Nhưng cũng có ý kiến đưa ra nên thực hiện cơ chế bổ nhiệm không có kỳ hạn đối với tất cả các Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp. Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng phân vân về cơ chế bổ nhiệm 1 lần sẽ dẫn đến tâm lý chủ quan, thiếu ý thức phấn đấu, vươn lên nên đề nghị các thành viên Ban chỉ đạo cải cách tư pháp cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán có nhiệm kỳ (5-7 năm là hợp lý) và phải có bộ máy kiểm soát, thanh tra công vụ, bổ nhiệm chặt chẽ.

Các ý kiến đề xuất trên đều có những điểm hợp lý và mang tính thời sự. Song chưa giải quyết được triệt để bài toán khó khăn của ngành Tòa án đang “trăn trở”. Nếu để nhiệm kỳ Thẩm phán của tất cả các cấp là 5 năm như hiện nay, mặc dù có thể thường xuyên đánh giá được chất lượng xét xử của Thẩm phán, tạo thuận lợi cho công tác tổ chức cán bộ. Nhưng với nhiệm kỳ ngắn sẽ tạo tâm lý không yên tâm công tác, sợ án khó, án bị hủy; thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán cũng mất nhiều thời gian và nhân lực. Để góp phần độc lập trong xét xử và tận tâm công tác của Thẩm phán cần nghiên cứu chế độ bổ nhiệm Thẩm phán một lần, không có kỳ hạn (có thể tham khảo chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời của Mỹ), với chế độ chính sách lương cao, kể cả việc trả lương sau khi nghỉ hưu. Nhưng nếu bổ nhiệm Thẩm phán một lần, không có kỳ hạn sẽ khó khăn trong việc xem xét chất lượng xét xử của Thẩm phán; Thẩm phán sẽ không có ý thức rèn luyện và trách nhiệm trong công việc, dẫn đến chất lượng xét xử không đảm bảo. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Theo tôi, nhiệm kỳ Thẩm phán không nên đánh đều cho tất cả Thẩm phán, vì Thẩm phán ở mỗi cấp có những tiêu chuẩn, điều kiện và trình độ khác nhau. Thẩm phán ở cấp cao hơn sẽ có những đòi hỏi khắt khe hơn thâm niên, trình độ, phẩm chất đạo đức. Do đó, nhiệm kỳ Thẩm phán ở cấp cấp cao hơn có thể dài hơn. Hiện nay chúng ta có Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp ở các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự khu vực. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có thể không áp dụng vấn đề nhiệm kỳ Thẩm phán. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm sẽ có nhiệm kỳ suốt đời. Còn Thẩm phán trung cấp là 10 năm, Thẩm phán sơ cấp nhiệm kỳ vẫn nên là 5 năm, nhưng nếu đã hoàn thành nhiệm vụ xét xử 2 nhiệm kỳ Thẩm phán sơ cấp có thể được bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp. Vì hiện nay, Theo pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì Tòa án nhân dân cấp huyện (sau này chuyển thành Tòa sơ thẩm khu vực) có Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Như vậy, Thẩm phán sẽ nỗ lực phấn đấu và chính sách cán bộ được nâng lên, thể hiện sự ghi nhận của ngành Tòa án đối với những Thẩm phán có trình độ và tâm huyết với nghề.

Mặt khác, để thực hiện bổ nhiệm Thẩm phán có chất lượng, phải thực hiện thường xuyên quy trình luân chuyển cán bộ, nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp trên nên là Thẩm phán cấp dưới trong một thời hạn nhất định, nguồn bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp trên nên chú trọng lấy từ các Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp dưới đã làm tốt công tác quản lý, xét xử.

Cần hoàn thiện các quy định để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng lực xét xử yếu kém. Bởi vì, pháp luật quy định người Thẩm phán độc lập trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình

3.3.4 Tổ chức tốt các phiên tòa, đặc biệt là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Thực hiện mọi phán quyết của Tòa án chỉ được quyết định thông qua việc thẩm tra chứng cứ và tranh luận công khai tại phiên tòa, xét xử theo nguyên tắc khách quan vô tư, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Chấp hành và tuân thủ triệt để các nguyên tắc và quy định của luật tố tụng. Nâng cao trách nhiệm trong việc nghiên cứu các hồ sơ hình sự; tích cực điều tra, hòa giải đúng quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động; thận trọng chính xác khi giải quyết các việc khiếu kiện hành chính. Tổ chức tốt các phiên tòa, đặc biệt là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Thực hiện mọi phán quyết của Tòa án chỉ được quyết định thông qua việc thẩm tra chứng cứ và tranh luận công khai tại phiên tòa, xét xử theo nguyên tắc khách quan vô tư, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Nó chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì tầm quan trọng của nó nên Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề cập đến việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án là khâu trung tâm đột phá, quyết định của hoạt động tư pháp, phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Tuy nhiên, trên thực tế tranh tụng tại phiên tòa hiện nay không có đủ các điều kiện và yêu cầu trên. Những khảo cứu lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự từ 1945 đến nay cho thấy hệ thống pháp luật hiện hành còn chưa cụ thể và chưa tạo ra cơ chế hoàn toàn đầy đủ cho quá trình tranh tụng của các bên: Thứ nhất, chưa tạo ra được sự trung lập, trọng tài của Hội đồng xét xử; Thứ hai, Kiểm sát viên và Luật sư vẫn chưa có vị thế bình đẳng với nhau; Thứ ba, những cơ chế bắt buộc, đảm bảo thực hiện tranh tụng với các bên tham gia tranh tụng; Thứ tư, có những văn bản quy định khá hoàn chỉnh và chi tiết về tranh tụng tại phiên tòa (một số gợi ý của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp về việc tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW, Kết luận số 290 của Tòa án nhân dân tối cao về hội thảo “Tranh tụng tại phiên tòa hình sự”) nhưng lại không có tính pháp lý bắt buộc đối với mọi chủ thể giam gia vào quá trình tranh tụng. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò lớn trong việc xác định sự thật khách quan vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội, nhưng quá trình thực thi trên thực tế đã thấy có nguyên nhân, tồn tại làm cản trở tiến trình thực hiện tranh tụng. Vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ và phù hợp để có thể nâng cao hiệu quả tranh tụng góp phần thực hiện thành công cải cách tư pháp. Những giải pháp đó có thể là hoàn thiện nhiều lĩnh vực khác nhau của pháp luật như những sửa đổi trong Bộ luật tố tụng hình sự, trong các văn bản pháp luật khác về các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp, các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, Tòa án.., tạo ra những cơ chế đảm bảo cho thực hiện tranh tụng tại phiên tòa.

Và như vậy, thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa còn diễn ra hình thức và hời hợt, nhiều khi vi phạm tinh thần tranh tụng đã được nêu trong Nghị quyết 08/NQ-TW dẫn đến việc xét xử còn nhiều sai sót nhiều bản án phải hủy, sửa.

3.3.5 Chú trọng giáo dục, rèn luyện, đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là những cán bộ có chức danh tư pháp như Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên

Lao động của Thẩm phán là lao động đặc thù, hoạt động trên cơ sở các quy định của pháp luật. Đối tượng mà Thẩm phán giải quyết là con người, là quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước và nhân dân, phán quyết của Thẩm phán ảnh hưởng đến quyền lợi của mỗi con người cả về chính trị và kinh tế, danh dự và nhân phẩm, đôi khi là cả sinh mạng của con người. Một bản án tử hình đúng pháp luật được thông qua, một mặt sẽ loại ra khỏi cuộc sống một tên tội phạm, mặt khác đó lại là sự sống một con người – là nỗi niềm day dứt của người Thẩm phán. Do vậy, để xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để oan người vô tội, không để lọt kẻ có tội, mang lại công bằng cho nhân dân là một áp lực và thách thức không nhỏ. Do đó, đòi hỏi các cán bộ có chức danh tư pháp phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, phải nắm vững kiến thức pháp luật và các kiến thức liên quan; phải có kinh nghiệm hoạt động xã hội, nắm bắt và hiểu biết thực tiễn để áp dụng trong công tác xét xử, giải quyết các vụ án. Đây là những đòi hỏi rất cao, phải phấn đấu hoàn thiện từng bước.

Nhìn chung về năng lực chuyên môn còn nhiều Thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cải cách tư pháp. Do đó, ngành Tòa án nhân dân trong thời gian tới phải tập trung làm tốt công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án các cấp để tạo nguồn nhân lực có chất lượng với các hình thức như: đào tạo Thẩm phán, đạo tạo cán bộ quản lý, đào tạo chuyên gia pháp luật và đào tạo cán bộ khác. Các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thường xuyên được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được đào tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế. Hàng năm cần phải cử các Thẩm phán đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp lý và kỹ năng xét xử do Tòa án nhân dân tối cao mở, đồng thời Tòa án nhân dân tỉnh phải tổ chức các lớp học chuyên đề hàng quý cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Chuyên viên và Thẩm tra viên để họ nâng cao về kiến thức và cập nhật kiến thức mới ở trong và ngoài nước. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Cùng với việc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng việc đào tạo các kiến thức xã hội; khả năng sử dụng các kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng thực hiện công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán. Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng cường đội ngũ cán bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, còn phải chú trọng giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ ngành Tòa án, nâng cao tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ lẽ phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sáng, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật.

Để thực hiện được mục tiêu này, lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp phải tích cực liên hệ với các cơ sở đào tạo, cử cán bộ đi học, đồng thời động viên cán bộ, công chức trong ngành khắc phục khó khăn để đảm bảo vừa học, vừa làm việc. Ngoài ra, phải thường giáo dục tư tưởng, động viên cán bộ, công chức thuộc đơn vị nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần trách nhiệm trong công tác, thực hiện nghiêm túc “Quy tắc ứng cử của cán bộ công chức ngành Tòa án nhân dân”, gắn với việc thực hiện cuộc vân động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngành Tòa án nhân dân là “ Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, tạo cho cán bộ, công chức thường xuyên tư dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, không tiếp đương sự ngoài nơi quy định; cảnh giác đối với hành vi tiêu cực, tham nhũng trong quá trình giải quyết án; phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, không hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân trong quá trình giải quyết án;

Các công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ phải được tiến hành thường xuyên, bởi lẽ trình độ, kiến thức, kỹ năng xét xử không phải là những thứ bất biến, mà chúng cũng phát triển theo sự vận động và phát triển của xã hội. Như vậy, nếu không được đào tạo, bồi dưỡng thì Thẩm phán sẽ bị tụt hậu, không thể hoàn thành nhiệm vụ được giao và ngược lại, nếu được đào tạo, bồi dưỡng và có ý thức phấn đấu vươn lên thì cán bộ Thẩm phán đó sẽ có năng lực chuyên môn vững vàng, nhanh nhạy trong việc giải quyết án. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Vì vậy, một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là chúng ta hải thường xuyên làm công tác xây dựng đội ngũ cán bộ mà đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán có phẩm chất đạo đức trong sáng, tự giác công tác và học tập, làm việc với ý thức và trách nhiệm cao. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của công cuộc cải cách tư pháp.

3.3.6 Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án.

Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo đảm an ninh đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành công vụ

  • Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án:

Một thực tế hiện nay đó là chế độ đãi ngộ đối với cán bộ ngành Tòa án có quá thấp. Do đó, nhiều tuyển dụng được cán bộ, cấp biên chế, song khi phân công công tác thì cán bộ bỏ việc do cơ chế, điều kiện làm việc và đãi ngộ không đủ đảm bảo cuộc sống. Một cử nhân luật muốn làm việc tại Tòa án phải đáp ứng những những tiêu chuẩn khá khắt khe nhưng khi vào làm việc mới thấy đồng lương quá eo hẹp, trong khi áp lực công việc lại cao. Khi ra trường, nhiều cử nhân luật có trình độ và năng lực cao đã không chọn Tòa án hoặc gia đình hướng tìm đến các ngành kinh tế khác. Báo cáo mới đây của Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định: Tình trạng thiếu biên chế ở một số Tòa án địa phương (miền núi, vùng sâu, vùng xa) vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Tại buổi làm việc với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình đã báo cáo: số lượng cán bộ Tòa án địa phương hiện nay thiếu nhiều, do hàng năm số lượng cán bộ đến tuổi nghỉ hưu, chuyển ngành chiếm số lượng không nhỏ (mỗi năm trên 200 người), trong khi đó tuyển dụng cũng khó khăn hơn do nhiều sinh viên không thiết tha với ngành vì chế độ chính sách, tiền lương chưa có nhiều đãi ngộ, nhất là khu vực miền núi.

Tháng 3/2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đồng ý bổ sung 1.713 biên chế cho Tòa án cấp địa phương trong 2 năm 2012 và năm 2013. Cộng với số biên chế chưa sử dụng hết là 684, ngành Tòa án sẽ có 2.397 biên chế phục vụ tuyển dụng trong 02 năm tới. Như vậy, mặc dù chỉ tiêu biên chế không hạn hẹp nhưng vẫn tồn tại một nghịch lý là ngành Tòa án hiện nay vẫn đang rất thiếu cán bộ. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Lương và chế độ chính sách đối với cán bộ công chức nói chung và của cán bộ ngành Tòa án nói riêng cần được tăng lên đáp ứng đủ cho nhu cầu sinh hoạt bình thường của họ và gia đình. Về vấn đề này chúng ta có thể học tập kinh nghiệp của một số nước trên thế giới, tăng lương, tăng phụ cấp nhưng có những chế tài xử lý chặt chẽ, kiên quyết đối với những trường hợp phát hiện vi phạm.

Bảo đảm chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức là yếu tố phòng chống tham nhũng, tiêu cực và là điều kiện thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Tòa án, đảm bảo đội ngũ cán bộ công chức nói chung tận tâm toàn ý với công việc của mình mà thực hiện nhiệm vụ được giao.

  • Chế độ bảo vệ công vụ, bảo đảm an ninh đối với Tòa án, bảo vệ an toàn cho Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và gia đình Thẩm phán.

Do tính chất quan trọng và quyết định trong việc xét xử, Thẩm phán phải chịu nhiều áp lực từ phía các phần tử phạm tội, áp lực từ phía xã hội, công luận, sự giám sát của nhân dân. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm hiện nay cũng hết sức phức tạp, xuất hiện nhiều tổ chức phạm tội xuyên quốc gia, thủ đoạn phạm tội cũng hết sức tinh vi, đôi khi rất liều lĩnh. Không ít Thẩm phán bị đương sự hoặc người nhà bị cáo đe dọa hoặc tấn công, trả thù, ảnh hưởng đến tinh thần và tính mạng không chỉ của bản thân Thẩm phán mà còn của gia đình. Đo đó, để Thẩm phán thực sự an tâm và quyết tâm bảo vệ công lý, Nhà nước cần có chế độ bảo vệ công vụ, bảo đảm an ninh đối với Tòa án, bảo vệ an toàn cho Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và gia đình Thẩm phán trong trong trường hợp cần thiết.

  • Về cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc: Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Đẩy nhanh việc đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc theo hướng hiện đại, kể cả việc xây dựng các phòng xử án; Đồng thời, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, hoạt động xét xử; tiến tới lập trang Website của các Tòa án để thực hiện công khai hóa lịch xét xử các phiên tòa và các bản án. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi đến Tòa án để làm việc hoặc liên hệ công tác, như: nộp đơn khởi kiện qua mạng; lưu trữ bản án, quyết định trên đường truyền mạng nội bộ phục vụ nhanh chóng cho người dân khi có yêu cầu khai thác tài liệu. Đồng thời, qua đó để nhân dân giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Hiện nay, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên thành công trong việc áp dụng công nghệ thông tin trong việc công khai hoạt động tố tụng.

Về trụ sở Tòa án: Trong những năm qua, ngành Tòa án đã được Đảng và Nhà nước quan tâm nên cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của ngành đã được tăng cường, nhưng so với yêu cầu cải cách tư pháp thì vẫn chưa đáp ứng được. “Dự án trụ sở làm việc của cơ quan Tòa án tỉnh Quảng Ninh được xác định là một trong các công trình lớn của ngành Tòa án, được Tòa án nhân dân tối cao đầu tư xây dựng theo tinh thần cải cách tư pháp với thiết kế được phê duyệt gồm khối nhà 5 tầng, tọa lạc trên diện tích gần 10.000m2 với số vốn 74 tỷ đồng”. Đó là thông tin về lễ khởi công xây dựng trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, được đăng trên các báo. Một trụ sở uy nghi, hiện đại như vậy đang là mơ ước của nhiều Tòa án.

Hiện nay, cùng với Đề án “Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa án nhân dân”, Đề án “Tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới” cũng đang được ngành Tòa án xây dựng và triển khai. Trong Chỉ thị số 01/2012/CT-CA ngày 11/01/2012 về việc triển khai, tổ chức thực hiện trọng tâm công tác ngành Tòa án năm 2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã giao Vụ Kế hoạch – Tài chính tăng cường tập trung kinh phí và xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tọa mở rộng trụ sở làm việc cho Tòa án nhân dân các cấp, đảm bảo đáp ứng yêu cầu hoạt động theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị; tăng cường hơn nữa việc bổ sung trang thiết bị làm việc cho Tòa án các cấp. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

3.3.7 Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, bổ trợ tư pháp

Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch… tuy không trực tiếp quyết định các bản án, nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả điều tra, truy tố và khi xét xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa ra phán quyết không đúng pháp luật.

Trong thời gian vừa qua, Quốc hội đã ban hành nhiều luật, bộ luật, pháp lệnh quan trọng về lĩnh vực tư pháp, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp như đã ban hành Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Công chứng, Luật Tương trợ tư pháp, Luật Phòng, chống tham nhũng. Quốc hội cũng đã thông qua Luật Thi hành án dân sự, cho ý kiến Dự án Luật Lý lịch tư pháp. Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) ban hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 9 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, … Nhìn chung, khối lượng văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội, UBTVQH thông qua khá nhiều. Trên cơ sở các quy định của các bộ luật, luật, pháp lệnh, hoạt động của các cơ quan, tổ chức, bổ trợ tư pháp đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; kịp thời đấu tranh phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; tích cực giải quyết các vụ án dân sự, hành chính và thi hành án, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử của Hệ thống Tòa án.

Vì vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, phải hoàn thiện pháp luật về luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch theo hướng công khai, minh bạch, đơn giản và thuận tiện cho người dân.

3.3.8 Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán và cán bộ Tòa án Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Trong hoạt động của Tòa án không thể tránh khỏi những khiếu nại về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng, vì thế khi có khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này thì người có thẩm quyền giải quyết ở các Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết ngay và giải quyết theo đúng pháp luật, không bao che, không bảo thủ, nếu có gây thiệt hại phải dứt khoát bồi thường. Trường hợp đương sự có đơn tố cáo về thái độ của Thẩm phán thiếu vô tư, thiên vị, thì cần xem xét thận trọng khoản 3 Điều 46 “Có căn cứ cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thi hành nhiệm vụ” phải kiểm tra thật kỹ xem quá trình giải quyết, Thẩm phán có sai sót dẫn đến họ làm đơn khiếu nại, tố cáo không, nếu có, thì dù lỗi nhỏ cũng nên thay đổi, vì đã làm đương sự mất lòng tin và họ cho rằng làm sai như vậy là “có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ”;

Trường hợp khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài, khiếu nại đông người, lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo giải quyết khách quan, công tâm, kiểm tra thật kỹ xem các nội dung khiếu nại có đúng không để trả lợi chính xác, khi Tòa án cấp trên giải quyết khiếu nại tiếp theo thì thống nhất nội dung kết luận trả lời khiếu nại của cấp dưới để đảm bảo uy tín của ngành; tránh trường hợp Thẩm phán, Thư ký có sai sót, nhưng cho rằng sai sót không lớn hoặc không có căn cứ nên trả lời khiếu nại không đúng, đương sự sẽ trả lời gay gắt lên Tòa án cấp trên; khi Tòa án cấp trên giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc xem xét vụ án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm xác định có sai lầm nghiêm trọng dẫn đến thay đổi nội dung giải quyết khiếu nại hoặc hủy án là lỗi nặng của cả Thẩm phán và người giải quyết khiếu nại, tố cáo về những vấn đề đã giải quyết, ảnh hưởng đến uy tín của ngành.

Vừa qua, đã có một số trường hợp đương sự tố cáo Thẩm phán có quan hệ với đương sự phía bên kia, cung cấp ảnh đương sự phía bên kia đến nhà Thẩm phán, gia đình Thẩm phán đến nhà đương sự… thì phải quyết định thay đổi Thẩm phán để đảm bảo vô tư khi xét xử và tránh khiếu kiện phức tạp; trường hợp tiếp đương sự tại nhà riêng, không đúng nơi quy định, thì phải kiểm điểm trước tập thể và xem xét kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm trên cơ sở ảnh hưởng đến cơ quan, đơn vị, ngành; trường hợp có đơn phản ánh việc Thẩm phán có xử sự không đúng với đương sự khi tiếp họ, phải tổ chức ghi âm công khai các buổi làm việc để theo dõi và phòng ngừa chung, tránh khiếu nại, tố cáo bức xúc. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Đặc biệt, phải thường xuyên tập trung giải quyết đúng và kịp thời đơn khiếu nại, tố cáo, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong đó, ưu tiên giải quyết ngay những khiếu kiện đòi bồi thường oan sai, các đơn khiếu kiện bức xúc, kéo dài hoặc các đơn đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sắp hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; tăng cường hoạt động kiểm tra, giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với các Tòa án cấp dưới để kịp thời phát hiện, uốn nắn những sai sót về nghiệp vụ; không làm phát sinh thêm khiếu kiện, nhất là các khiếu kiện bức xúc, kéo dài, cụ thể như sau:

Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần kiện toàn, nâng cao năng lực công tác của Phòng giám đốc, kiểm tra. Nếu phát hiện có sai lầm nghiêm trọng thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu phát hiện có tình tiết mới theo quy định của pháp luật tố tụng thì phải kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, bảo đảm không để tình trạng có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi phát hiện có căn cứ kháng nghị thì đã quá thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Các Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, gồm: Tòa phúc thẩm, Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình cần tổ chức việc xem xét, giải quyết đơn đề nghị, yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật một cách hợp lý và khoa học.

Ban Thanh tra Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức và tăng cường kiểm tra công tác xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành phải đúng pháp luật.

Ngoài ra, Tòa án cũng phải phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an và Viện kiểm sát để rút kinh nghiệm công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án điểm, án đặc biệt nghiêm trọng, vụ án phức tạp hoặc được dư luận quan tâm. Tăng cường công tác kiểm tra đối với các vụ án đã xét xử không có kháng cáo, kháng nghị rút kinh nghiệm ưu, khuyết điểm.

Kết luận chương 3 Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Trong những năm qua, các cơ quan Tư pháp nói chung, ngành Tòa án nói riêng đang tích cực thực hiện các Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, xác định Tòa án có vị trí trung tâm, việc xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm, là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cải cách của ngành Tòa án nhân dân. Do đó, nâng cao chất lượng xét xử nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế, chính trị – xã hội phát triển là những đòi hỏi thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Nhìn chung, về cơ bản ngành Tòa án nhân dân đã thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó, đáp ứng được yêu cầu của tình hình đổi mới, giữ vững lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật.

Tuy nhiên, qua các báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân trong thời gian qua cho thấy, tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng đang có những diễn biến hết sức phức tạp. Một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án chưa công minh, nhiều nơi nhân dân bức xúc, khiếu nại tố cáo rất nhiều. Một số đối tượng đã bị đưa ra điều tra, truy tố, xét xử song quyết định hình phạt chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Tội phạm này đã gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, là nguyên nhân khởi đầu cho các loại tội phạm về tham nhũng như: tội nhận hối lộ (Điều 297); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để trục lợi (Điều 283); tội giả mạo trong công tác (Điều 284) ….

Những mối nguy hiểm tiềm tàng ấy nếu không được khắc phục và ngăn chặn sẽ gây nên sự bất bình mạnh mẽ trong nhân dân, giảm sút công bằng xã hội, đổ vỡ cả một hệ thống tư pháp mà chúng ta đang dầy công xây dựng.

Tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật và những giải pháp nâng cao chất lương xét xử của ngành Tòa án. Trong đó có các biện pháp quan trọng là tích cực tham gia hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các luật về tố tụng tư pháp và các văn bản pháp luật liên quan tới tổ chức và hoạt động của Tòa án; tổ chức thực hiện tốt việc đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; tiếp tục đổi mới các thủ tục hành chính tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động của Toà án; chú trọng làm tốt công tác quy hoạch, luân chuyển và sử dụng cán bộ, cũng như công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ; đề cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch vững mạnh. Và với tất cả những giải pháp đó có thể chưa chuẩn xác và hoàn toàn đầy đủ nhưng tác giả cũng mong góp một tiếng nói trong việc hoàn thiện pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả và đặc biệt là góp phần nâng cao chất lượng xét xử của ngành Tòa án, xây dựng ngành Tòa án thực sự là cán cân công lý, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

KẾT LUẬN

Cho đến khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, đã có quy định về bản án trái pháp luật và tội bản án trái pháp luật tại Điều 232, đánh dấu bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của Nhà nước ta về loại tội phạm này. Tuy nhiên, Tội ra bản án trái pháp luật còn quy định chung với Tội ra quyết định trái pháp luật nên chưa tạo ra được sự phân hóa chủ thể tội phạm, cũng như phân hóa TNHS và hình phạt. Dẫn đến việc xét xử chưa công bằng, mức hình phạt đôi khi không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định này, trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tội bản án trái pháp luật đã được quy định tại Điều 295 với những nội dung sửa đổi, bổ sung mới phù hợp với tình hình thực tiễn hơn so với quy định tương ứng trong Bộ luật hình sự năm 1985. Tội ra bản án trái pháp luật đã quy định riêng, không cùng với Tội ra quyết định trái pháp luật, với những cấu thành tội phạm đặc trưng của loại Tội phạm này.

Trong thời gian vừa qua, Quốc hội đã ban hành nhiều luật, bộ luật, pháp lệnh quan trọng về lĩnh vực tư pháp, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở các quy định của các bộ luật, luật, pháp lệnh, hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; kịp thời đấu tranh phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; tích cực giải quyết các vụ án dân sự, hành chính và thi hành án, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Qua các số liệu báo cáo thống kê cho thấy, số lượng vụ việc do ngành tòa án thụ lý, giải quyết ngày càng tăng. Chất lượng xét xử cũng được cải thiện, tỷ lệ án oan sai, quá hạn giảm dần. Ðội ngũ cán bộ, thẩm phán tòa án các cấp có bước chuyển biến rõ rệt. Trình độ, năng lực, phẩm chất của những cán bộ “cầm cân nảy mực” từng bước được nâng lên.

Tuy nhiên, hoạt động xét xử của nhiều lúc, nhiều nơi vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều cơ quan Tòa án các cấp chưa khắc phục triệt để những yếu kém, khuyết điểm. Vẫn còn tình trạng án xử dây dưa, kéo dài; có vụ việc xử đi, xử lại gần chục lần chưa dứt điểm. Hiện tượng Thẩm phán tiêu cực, hách dịch, cửa quyền với dân vẫn còn xảy ra ở các địa phương. Đặc biệt, còn để xảy ra tình trạng oan sai trong điều tra, truy tố, xét xử, công dân khiếu nại, tố cáo nhiều. Số lượng án chờ xét xử để quá hạn luật định còn khá lớn. Kết quả thi hành án hình sự, thi hành án phạt tù còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

Hiện nay, tình hình Tội ra bản án trái pháp luật đang có những diễn biến tương đối phức tạp, gây ra nhiều khó khăn, trở ngại và sẽ tiếp tục có những diễn biến, động thái khó lường theo chiều hướng gia tăng trong thời gian tới. Thực tế cho thấy, Tội phạm này đã gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, là nguyên nhân khởi đầu cho các loại tội phạm về tham nhũng như: tội nhận hối lộ (Điều 297); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để trục lợi (Điều 283); tội giả mạo trong công tác (Điều 284) ….

Đồng thời, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát hiện, điều tra khám phá tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây kéo dài thời gian dẫn đến việc giải quyết vụ án không được đúng đắn, cản trở việc đáp ứng yêu cầu cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự kỷ cương, an toàn xã hội, bảo đảm và tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những mối nguy hiểm tiềm tàng ấy nếu không được khắc phục và ngăn chặn sẽ gây nên sự bất bình mạnh mẽ trong nhân dân, giảm sút công bằng xã hội, đổ vỡ cả một hệ thống tư pháp mà chúng ta đang dầy công xây dựng. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu của tình hình trên chính là do người dân chưa nhận thức đúng và đầy đủ về nghĩa vụ của mình trong việc phát hiện, tố giác, đấu tranh tội phạm. Mặt khác, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, những quy định của pháp luật liên quan Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng còn nhiều hạn chế, chưa được đẩy mạnh và kém hiệu quả. Bản thân chính những quy định về Tội ra bản án trái pháp luật trong Bộ luật hình sự còn nhiều bất cập, vướng mắc, khó áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Hơn nữa, các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa chủ động, thiếu kiên quyết, coi nhẹ và không nghiêm khắc trong việc xử lý các hành vi ra bản án trái pháp luật…

Hiện nay, trong bối cảnh nước ta đã và đang tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới, cải cách trên mọi lĩnh vực: hành chính-kinh tế-tư pháp. Mặc dù tình hình kinh tế của từng địa phương cũng như cả nước còn nhiều khó khăn, nhưng các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và nhà nước ta luôn quan tâm đãi ngộ, ưu đãi đối với ngành Tòa án nhân dân. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có quyết tâm chính trị rất cao về đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng. Ngành Tòa án nhân dân cũng đã có những giải pháp cụ thể về phòng chống những hành vi ra bản án trái pháp luật và đẩy mạnh những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử. Để tạo chuyển biến căn bản trong cải cách tư pháp, đã đến lúc cần nghiên cứu tìm giải pháp đột phá về vấn đề này, đó là tiến hành cải cách ở khâu then chốt nhất, cải cách tổ chức Toà án. Bản án công bằng, vô tư luôn tạo ra sức mạnh và tính chính đáng của hệ thống cơ quan tư pháp vì nó được người dân tin tưởng “tâm phục, khẩu phục”. Theo Nghị quyết 49: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Và quan trong hơn hết, chính người Thẩm phán, phải luôn hiểu rõ nghề nghiệp mình đang làm là hết sức cao quý, cần phải trân trọng và mong muốn được làm nghề với tất cả sự tâm huyết, với mong muốn đạt được mục đích duy nhất đó là công bằng xã hội.

Trên cơ sở nghiên cứu quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, cũng như Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự, luận văn đã phân tích khái niệm, các yếu tố, dấu hiệu cấu thành Tội ra bản án trái pháp luật trong Bộ luật hình sự năm 1999. Từ đó, làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của Tội ra bản án trái pháp luật theo luật hình sự Việt Nam cũng như đánh giá về thực trạng Tội ra bản án trái pháp luật; đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống Tội ra bản án trái pháp luật và nâng cao chất lượng xét xử của ngành Tòa án, nhằm góp phần từng bước xây dựng Tòa án nhân dân thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49/NQ-T.Ư của Bộ Chính trị.

Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu và khả năng có hạn, trong khi đó nội dung cần giải quyết của đề tài rộng lớn và phức tạp; chắc chắn kết quả nghiên cứu của đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp để công trình nghiên cứu được hoàn thiện và sâu sắc hơn. Luận văn: Giải pháp xét xử tội ra bản án trái pháp luật.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993