Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước cả về kinh tế và xã hội, tình hình tội phạm cũng diễn biến phức tạp, nhiều vụ án xảy ra với tính chất, hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính đều tăng đáng kể, phức tạp và đa dạng. Do đó, số lượng các loại vụ án ngành Tòa án nhân dân đang phải giải quyết đã tăng rất nhiều. Nhìn chung, về cơ bản các vụ án đã được xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các Hội đồng xét xử cũng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, thận trọng, tỉ mỉ khi điều tra, truy tố, xem xét áp dụng pháp luật trong từng vụ án cụ thể. Song bên cạnh đó, vẫn còn nhiều vụ án xét xử oan sai, nhiều vụ án bị hủy, bị cải sửa nghiêm trọng do một số cán bộ Tòa án tha hóa, biến chất, cố ý ra bản án trái pháp luật. Trong thực tiễn, hiện tượng ra bản án trái pháp luật xảy ra rất nhiều và rất nghiêm trọng nhưng việc phát hiện để điều tra, truy tố và xét xử còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Do đó, số lượng vụ án mà các Tòa án đã thụ lý và xét xử về loại tội phạm này không nhiều. Bên cạnh đó, dư luận xã hội cũng đang không khỏi băn khoăn đối với một số trường hợp ra bản án trái pháp luật nhưng không bị truy tố và xét xử hoặc hình phạt không đủ sức răn đe, không tương xứng với hành vi phạm tội. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu đề tài Tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự Việt Nam là rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Thể hiện qua những mặt sau đây:
Về mặt lý luận: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là một chương quan trọng trong Bộ luật hình sự năm 1999 với 23 điều luật, trong đó Tội ra bản án trái pháp luật đã được quy định thành một điều khoản riêng, với đầy đủ những quy định về định tội, định khung và quyết định hình phạt. Tuy nhiên đến nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có nhiều bài viết, công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về mặt lý luận cũng như thực tiễn về loại tội phạm này. Vì vậy, đặt ra một yêu cầu cần thiết và cấp bách đòi hỏi phải nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng, nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như đưa ra được những giải pháp hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này, đồng thời nâng cao chất lượng xét xử của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nói riêng và hệ thống Tòa án nhân dân nói chung. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Về mặt lập pháp: Tội ra bản án trái pháp luật lần đầu tiên được quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985, cùng với loại “Tội ra quyết định trái pháp luật”. Tuy nhiên, đến lần pháp điển hóa lần thứ hai Tội ra bản án trái pháp luật được quy định thành một loại tội phạm riêng, với những quy định tương đối đầy đủ và hoàn thiện tại Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 295 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm…”. Điều này thể hiện việc xây dựng luật đã sự điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ở một số nơi tình hình tội phạm ra bản án trái pháp luật vẫn đang xảy ra, có nhiều dư luận không tốt đến hoạt động xét xử của Toà án. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải có những nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời để đảm bảo giữ vững sự nghiêm minh của pháp luật, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
Về thực tiễn: Qua các báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân trong thời gian qua cho thấy, tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và Tội ra bản án trái pháp luật nói riêng đang có những diễn biến hết sức phức tạp. Một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án chưa công minh, nhiều nơi nhân dân bức xúc, khiếu nại tố cáo rất nhiều. Một số đối tượng đã bị đưa ra điều tra, truy tố, xét xử song quyết định hình phạt chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Tội phạm này đã gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, là nguyên nhân khởi đầu cho các loại tội phạm về tham nhũng như: tội nhận hối lộ (Điều 297); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để trục lợi (Điều 283); tội giả mạo trong công tác (Điều 284) …. Những mối nguy hiểm tiềm tàng ấy nếu không được khắc phục và ngăn chặn sẽ gây nên sự bất bình mạnh mẽ trong nhân dân, giảm sút công bằng xã hội, đổ vỡ cả một hệ thống tư pháp mà chúng ta đang dầy công xây dựng. Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn thì tình hình loại tội phạm này vẫn tiếp tục gia tăng theo chiều hướng phức tạp và tinh vi hơn. Điều này xuất phát từ tình hình đấu tranh phòng chống tội ra bản án trái pháp luật chưa cao, công tác điều tra, truy tố, xét xử về loại tội phạm này chưa triệt để. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Như vậy, Tội ra bản án trái pháp luật trong khoa học luật hình sự Việt Nam còn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện. Do đó, trong tình hình chúng ta đang từng bước thực hiện công cuộc cải cách tư pháp như hiện nay, có thể nói việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về tội ra bản án trái pháp luật là một việc hết sức quan trọng và cấp thiết. Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu về lý luận, mà còn việc giúp cho việc áp dụng thực tiễn được hoàn thiện hơn, tránh được những thiếu sót và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật. Mặt khác, việc nghiên cứu còn có tính tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, đưa ra những biện pháp để từng bước hạn chế hiện tượng ra bản án trái pháp luật. Chính vì vậy mà học viên quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu
Tội ra bản án trái pháp luật là một loại tội trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định trong chương XXII Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên trên thực tế, có rất ít các bài viết hay công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách sâu sắc hay cụ thể về loại tội phạm này. Nếu có thì cũng chỉ mới phân tích được các dấu hiệu pháp lý và chỉ phản ánh được một phần cơ sở lý luận của Tội ra bản án trái pháp luật mà chưa đưa ra được nguyên nhân, điều kiện phạm tội hay hậu quả của loại tội phạm này. Chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào với tên gọi: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về Tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự Việt Nam”. Do vậy, việc nghiên cứu Tội ra bản án trái pháp luật theo tổng thể lịch sử hình thành và phát triển từ khi có BLHS 1999 đến nay, tổng kết đánh giá thực tế xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng và ngành Tòa án nhân dân nói chung là hết sức cần thiết trong việc nhận diện được những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, khó khăn trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, cũng như đưa ra được những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng xét xử của hệ thống Tòa án, từ đó củng cố lòng tin của nhân dân về hệ thống tư pháp, đặc biệt là những cơ quan xét xử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về Tội ra bản án trái pháp luật, đề tài đề xuất những kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để xét xử và đấu tranh phòng chống Tội ra bản án trái pháp luật, cũng như kiến nghị những giải pháp nhằm giảm mạnh hiện tượng có những bản án trái pháp luật trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự Việt Nam
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu so sánh các quy phạm luật hình sự Việt Nam với các quy phạm luật hình sự của một số nước trên thế giới về tội ra bản án trái pháp luật.
- Làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội ra bản án trái pháp luật theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
- Nghiên cứu làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về Tội ra bản án trái pháp luật và những tồn tại, hạn chế trong áp dụng và những nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó.
- Đề xuất một số các kiến nghị, giải pháp khả thi nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về tội ra bản trái pháp luật.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng xét xử của hệ thống Tòa án, hạn chế hiện tượng ra bản án trái pháp luật.
4. Đối tượng và phaṃ vi nghiên cứu Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử về Tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự Việt Nam thông qua những tài liệu, công trình nghiên cứu về tội xâm phạm hoạt động tư pháp và những bản án án đã xét xử các bị cáo bị truy tố về Tội ra bản án trái pháp luật.
4.2 Phạm vi và thời gian nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Do tính phức tạp của loại tội phạm này nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và đặc biệt là thực tiễn xét xử Tội ra bản án trái pháp luật tại ngành Tòa án nhân dân.
Thời gian nghiên cứu
Luận văn giới hạn việc nghiên cứu thực tiễn xét xử Tội ra bản án trái pháp luật từ khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực pháp luật.
5. Cơ sở lý luâṇ vàc ác phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Là quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản về xây dựng nhà nước pháp quyền; các nghiên cứu khoa học, các quan điểm pháp lý cũng như các kiến giải lập pháp, các chuyên khảo về Tội ra bản án trái pháp luật; các bản án và các báo cáo tổng kết công tác xét xử về Tội ra bản án trái pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Luận văn dùng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp…
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn:
Đây là một trong các công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ về một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác xét xử Tội ra bản án trái pháp luật ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học. Luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:
- Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về Tội ra bản án trái pháp luật.
- Khái quát lịch sử về Tội ra bản án trái pháp luật từ khi có BLHS 1985 đến nay, để rút ra những nhận xét, đánh giá làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Dựa trên số liệu xét xử cụ thể của Tội ra bản án trái pháp luật tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng như ngành Tòa án nhân dân từ khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực pháp luật. Từ đây rút ra những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đặc biệt là đưa ra được những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu trang phòng, chống Tội ra bản án trái pháp luật. Đồng thời, kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, hạn chế hiện tượng ra bản án trái pháp luật.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
- Ý nghĩa lý luận : Luâṇ văn nghiên cứu và góp phần hoàn thiện một số điểm trong pháp luật hình sự Việt Nam về Tội ra bản án trái pháp luật. Qua đó, tìm ra những hạn chế và đưa các giải pháp để khắc phục tình trạng khó khăn trong việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, cũng như giữ vững sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội.
- Ý nghĩa thưc̣ tiêñ : Luâṇ văn nghiên cứu tinh̀ hinh̀ thực tiễn xét xử Tội ra bản án trái pháp luật tại ngành Tòa án nhân dân. Từ đây chỉ ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội, cũng như những khó khăn trong việc xét xử của Tòa án về Tội ra bản án trái pháp luật. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những giải pháp để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự có liên quan, góp phần trong công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm. Đặc biệt hơn là đưa ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác đấu trang phòng, chống Tội ra bản án trái pháp luật và đưa ra được những kiến nghị nhằm hạn chế hiện tượng ra bản án trái pháp luật ở một số Tòa án.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như công tác xét xử của ngành tòa án, công tác giáo dục và cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Tội ra bản án trái pháp luật.
- Chương 2: Các quy định về Tội ra bản án trái pháp luật theo BLHS năm 1999.
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về Tội ra bản án trái pháp luật và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân.
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÔỊ RA BẢN ÁN TRÁI PHÁP LUÂṬ
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định Tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
1.1.1 Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định trong Chương XXII Bộ luật hình sự 1999 là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tuy nhiên, hiện nay, về mặt lý luận và thực tiễn, có các quan niệm khác nhau về cơ quan tư pháp tuỳ theo cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Quan niệm thứ nhất, liên quan đến việc xem xét cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp, có tác giả đã đưa ra khái niệm về tư pháp hình sự như sau: “Tư pháp hình sự trong Nhà nước pháp quyền là dạng thực hiện quyền lực nhà nước của hệ thống cơ quan có thẩm quyền nhân danh công lý (cơ quan tài phán – Toà án) để xét xử và đưa ra phán quyết đối với vụ án hình sự nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân, cũng như hoà bình và an ninh của loại, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chống tội phạm, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà nước pháp quyền vào đời sống thực tế” [14, tr107]. Hoặc “quyền tư pháp là khả năng và năng lực riêng có của các cơ quan Toà án chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực hiện để tác động đến hành vi của con người, đến các quá trình xã hội”.[44, tr32]. Từ các định nghĩa này có thể thấy, cơ quan tư pháp chỉ là Toà án.
Quan niệm thứ hai tiếp cận cơ quan tư pháp theo nghĩa rộng có tính hệ thống, theo đó khái niệm tư pháp không chỉ được xây dựng cho Tòa án, mà còn cả các cơ quan Nhà nước khác thực hiện chức năng có liên quan đến việc xét xử của Tòa án. Ngoài Tòa án, các cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án cũng được coi là các cơ quan tư pháp. Quan niệm thứ hai này phản ánh nhận thức khá phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay.
Việt Nam, các cơ quan tư pháp được thiết lập ngay từ những năm tháng đầu tiên khi xây dựng nền tư pháp còn non trẻ. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Đến nay, ở nước ta đó có 4 bản Hiến pháp (Hiện pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992). Mỗi lần Hiến pháp được sửa đổi bổ sung là một lần tổ chức bộ máy cơ quan Nhà nước cũng sửa đổi, bổ sung, theo đó nội hàm khái niệm cơ quan tư pháp đó được thu nhận thêm những thành tố khác như cơ quan công tố, điều tra, thi hành án. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Trong Bộ luật hình sự 1999 có một chương riêng quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có nhiều điều luật quy định về các tội phạm cụ thể như: Tội truy cứu trách nhiệm người không có tội (Điều 293); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295); Tội dùng nhục hình (Điều 298); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300); Tội không thi hành án (Điều 305), Tội cản trở việc thi hành án (Điều 306)… Và tại Điều 292 BLHS quy định khái niệm Tội xâm phạm hoạt động tư pháp như sau: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Như vậy, có quan điểm cho rằng, bằng việc thông qua BLHS năm 1999, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó công nhận khái niệm cơ quan tư pháp theo nghĩa rộng, bao gồm: Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Từ những cơ sở này, có thể định nghĩa các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là: những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Và hoạt động tư pháp là: hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án thực hiện, thông qua hành vi của những người tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án; Cảnh sát tư pháp và Chấp hành viên.
Mới đây, trong Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các Ban dự thảo Hiến pháp đã quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Đây là một thay đổi rất lớn trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, thể hiện rõ: Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ là cơ quan hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp, tức sẽ là cơ quan tư pháp. Quy định này là phù hợp với xu thế chung, đảm bảo tính độc lập của Tòa án. Nếu quy định này của Dự thảo Hiến pháp được thông qua, Hệ thống Tòa án sẽ có sự thay đổi theo hướng tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính và giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tư pháp. Khi đó, nội hàm của khái niệm cơ quan tư pháp có thể sẽ có sự thay đổi căn bản, trở về như quy định của Hiến pháp năm 1946. Tức là cơ quan tư pháp sẽ theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm Tòa án. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Một số dấu hiệu pháp lý cơ bản của các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp:
Khách thể của các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và những hoạt động có liên quan hoặc hỗ trợ cho việc xét xử của Tòa án.
Trong một số trường hợp cụ thể, các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn xâm phạm đến quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, vì các quyền này được Nhà nước bảo vệ thông qua các cơ quan tư pháp và người phạm tội thông qua đó mà xâm phạm đến hoạt động tư pháp. Ví dụ: Tội dùng nhục hình, người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người nhưng thông qua việc xâm phạm đó mà người phạm tội đã xâm phạm đến hoạt động tư pháp.
Chủ thể của các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp đa phần là những người tiến hành tố tụng như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Cảnh sát tư pháp và Chấp hành viên. Ngoài ra còn những người không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là công dân bình thường đối với một số tội như: không chấp hành án; khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu; mua chuộc, cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; vi phạm niêm phong, kê biên tài sản; che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm; … Trong số những người này, đa số là người tham gia tố tụng. Như vậy, chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp không chỉ do những người tiến hành tố tụng thực hiện mà còn do những người khác thực hiện. Có thể phân chia chủ thể của các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp thành 4 nhóm sau:
Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp do những người những người tiến hành tố tụng thực hiện (như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án …) và Chấp hành viên;
Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp do những người trong các cơ quan trợ giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện (như: giám định viên, phiên dịch viên) hoặc những người trong các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ phải giúp đỡ các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện;
Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của những người có nghĩa vụ phải thi hành các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện (như: bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, tạm giam, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) và những người tham gia tố tụng khác có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện; Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của mọi công dân có nghĩa vụ phát hiện, tố giác tội phạm (như hành vi che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm) [35, tr172, tr173].
Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng thực tiễn xét xử không nhiều. Không phải vì các tội phạm này không xảy ra trong thực tế mà là do việc điều tra chứng minh rất khó khăn. Có lẽ đây là một đặc điểm nổi bật nhất đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể lại chính là những người trong các cơ quan tư pháp, có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp. Ví dụ: Một Thẩm phán làm sai lệch hồ sơ vụ án nhưng để phát hiện và chứng minh là họ phạm tội thì không phải là đơn giản. Hoặc bị can, bị cáo khai là mình bị bức cung, bị nhục hình nhưng việc xác định họ có bị bức cung, bị nhục hình hay không cũng rất khó khăn, v.v..
Mặt khách quan của các Tội phạm hoạt động tư pháp được thể hiện qua hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động tư pháp.
Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các các Tội phạm hoạt động tư pháp có thể biểu hiện dưới dạng hành động như bức cung, dùng nhục hình, ra bản án trái pháp luật, làm sai lệch hồ sơ vụ án, …; hoặc dưới dạng không hành động như: không bị truy cứu TNHS người có tội, thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn [12, tr718, tr719].
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà các Tội phạm hoạt động tư pháp gây ra có thể bao gồm những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần. Do phần lớn các Tội phạm hoạt động tư pháp có cấu thành hình thức nên dấu hiệu hậu quả không được quy định là dấu hiệu định tội, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định khung hình phạt.
Mặt chủ quan của các Tội phạm hoạt động tư pháp được chủ yếu được thể hiện thông qua hình thức lỗi cố ý, chỉ có Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 301 BLHS 1999), mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện ở lỗi vô ý.
Người phạm tội thực hiện hành vi của mình với nhiều động cơ khác nhau như vì thành tích, vì vụ lợi, tham nhũng, vì thù tức, vì nể nang hoặc vì động cơ khác. Song động cơ và mục đích thực hiện hành vi của chủ thể không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm các tội này mà chỉ có thể được coi là một yếu tố xem xét khi quyết định hình phạt..
1.1.2 Khái niệm Tội ra bản án trái pháp luật Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Bản án là một văn bản tố tụng do Hội đồng xét xử (Thẩm phán, Hội Thẩm nhân dân) ban hành, gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án kinh doanh thương mại, bản án hành chính và bản án lao động; các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Theo các quy định pháp lý hiện hành trong tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính, khái niệm chung về bản án của Tòa án nhân dân các cấp được hiểu là “văn bản pháp lý được Tòa án có thẩm quyền tuyên xử hoặc quyết định theo một trình tự tố tụng do luật định về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc quan hệ pháp luật phát sinh từ một vụ án cụ thể”. [43]
Các bản án của Tòa án có các đặc điểm cụ thể như sau:
- Nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các bản án của Tòa án là sự biểu hiện ra bên ngoài của quyền lực Nhà nước, trong sự phân công của bộ máy tư pháp. Chính với sự nhân danh quyền lực Nhà nước này đã định ra giá trị pháp lý hay hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án, buộc mọi cá nhân, tổ chức phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, đồng thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Đây là một đặc trưng bao trùm, quyết định đến nội hàm của khái niệm bản án, quyết định của Tòa án
- Do Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và tuyên án công khai tại phòng xử án.
Do các phiên tòa phần lớn diễn ra công khai, là nơi thẩm tra giá trị pháp lý của các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, làm rõ các yêu cầu do các bên đương sự đưa ra nên bản án, quyết định của Tòa án phải được thảo luận và biểu quyết thông qua một cách công khai tại phòng nghị án và được tuyên án tại phòng xét xử.
Ở đây, cần phân biệt, ngoài các quyết định được nêu trong bản án, trong các vụ án hình sự, còn bao gồm cả các quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, thư ký phiên tòa, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo…cũng phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được viết thành văn bản. Ngoài ra, còn một số vấn đề khác cũng có thể được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
- Phải được viết thành văn bản và giao bản án theo đúng quy định của pháp luật.
Bản án, quyết định của Tòa án, về hình thức, phải là văn bản viết (hoặc đánh máy, in). Không có việc tuyên án “miệng” mà sau đó không được thể hiện bằng văn bản. Vì thế, pháp luật về tố tụng ở các lĩnh vực khác nhau đều quy định, sau một thời gian nhất định (15 ngày trong vụ án hình sự, dân sự, 7 ngày trong vụ án kinh tế, lao động, hành chính) sau khi tuyên án, Tòa án phải giao bản sao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, gửi bản sao bản án cho những người bị xử vắng mặt và thông báo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo, đương sự cư trú hoặc làm việc. Pháp luật cũng quy định trong trường hợp xử vắng mặt bị cáo (điểm a hoặc b Điều 162 Bộ luật TTHS), trong thời hạn nói trên, bản sao bản án phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo.
Một bản án bị coi là trái pháp luật là bản án có nội dung không đúng với quy định của pháp luật và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử. Nói chung, bản án trái pháp luật là bản án có những sai lầm nghiêm trọng về việc áp dụng pháp luật và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tới mức phải kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm như:
Kết án một người mà biết rõ là không có tội hoặc không kết án một người mà biết rõ là có tội.Áp dụng không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự theo hướng nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với người phạm tội; áp dụng không đúng loại hình phạt hoặc áp dụng hình phạt quá nặng hoặc nhẹ đối với người phạm tội hoặc cho hưởng án treo không đúng với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự; áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; áp dụng không đúng các biện pháp tư pháp quy định trong Bộ luật hình sự.
Gây thiệt hại cho đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính. Ví dụ: truất quyền thừa kế của người thừa kế theo pháp luật về thừa kế họ có quyền thừa kế; cho ly hôn khi không đủ các điều kiện mà pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định cho ly hôn; hủy hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế khi các hợp đồng đó không vi phạm điều cấm; buộc người sử dụng lao động phải nhận lại người lao động mà người sử dụng lao động đã buộc thôi việc đúng pháp luật về lao động và hợp đồng lao động; bác yêu cầu của người đi kiện về một quyết định hành chính trái pháp luật của Ủy ban nhân dân…
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử, nghị án và ra bản án, như: Thẩm phán và Hội thẩm thuộc trường hợp phải từ chối xét xử hoặc bị thay đổi nhưng vẫn tham gia xét xử, xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng không đúng với quy định của luật tố tụng; tại phiên tòa không thực hiện đúng trình tự các bước cần tiến hành để xét xử một vụ án.
Theo quy định Điều 295 BLHS, Tội ra bản án trái pháp luật là hành của Thẩm phán hoặc Hội Thẩm đã ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật. Tức là, đã áp dụng các quy định mà mình biết rõ là không đúng pháp luật để làm căn cứ giải quyết các quan hệ pháp luật trong vụ án, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Tội ra bản án trái pháp luật có một số đặc điểm cơ bản sau: Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Đó là hành vi ra bản án không đúng với các quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động và pháp luật về tố tụng. Tính chất trái pháp luật được thể hiện ở nội dung phần quyết định của bản án (như: kết án người rõ ràng không có tội; tuyên không có tội đối với người rõ ràng có tội, truất quyền thừa kế, quyền sở hữu của công dân không có căn cứ hợp pháp; v.v…). Bản án có thể sai toàn bộ hoặc sai một phần, phần sai này rõ ràng trái pháp luật.
Hành vi đó là cố ý, tức là biết rõ là sai mà vẫn làm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm tuyên án. Nếu mới viết ra hoặc mới soạn thảo mà chưa tuyên đọc tại phiên toà hoặc chưa ban hành thì chưa coi là đã “ra bản án”, mà đó chỉ là dự thảo bản án.
Chủ thể của tội phạm này là Thẩm phán, Hội thẩm, tức là người có thẩm quyền ra bản án để giải quyết các quan hệ pháp luật đối với bị cáo hoặc đương sự.
1.1.3 Ý nghĩa của việc quy định Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước cả về kinh tế và xã hội, tình hình tội phạm cũng diễn biến phức tạp, nhiều vụ án xảy ra với tính chất, hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính đều tăng đáng kể, phức tạp và đa dạng. Do đó, số lượng các loại vụ án ngành Tòa án nhân dân đang phải giải quyết đã tăng rất nhiều.
Nhìn chung, về cơ bản các vụ án đã được xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các Hội đồng xét xử cũng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, thận trọng, tỉ mỉ khi điều tra, truy tố, xem xét áp dụng pháp luật trong từng vụ án cụ thể. Song bên cạnh đó, vẫn còn nhiều vụ án xét xử oan sai, nhiều vụ án bị hủy, bị cải sửa nghiêm trọng do một số cán bộ Tòa án tha hóa, biến chất, cố ý ra bản án trái pháp luật. Trong những năm gần đây, ở một số nơi tình hình tội phạm ra bản án trái pháp luật vẫn đang xảy ra, có nhiều dư luận không tốt đến hoạt động xét xử của Toà án. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Trong thực tiễn, hiện tượng ra bản án trái pháp luật xảy ra rất nhiều và rất nghiêm trọng nhưng việc phát hiện để điều tra, truy tố và xét xử còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Do đó, số lượng vụ án mà các Tòa án đã thụ lý và xét xử về loại tội phạm này không nhiều. Bên cạnh đó, dư luận xã hội cũng đang không khỏi băn khoăn đối với một số trường hợp ra bản án trái pháp luật nhưng không bị truy tố và xét xử hoặc hình phạt không đủ sức răn đe, không tương xứng với hành vi phạm tội. Điều này dẫn đến một hệ lụy tiêu cực đối với cá nhân công dân, gia đình và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đặc biệt là giảm lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với các cơ quan tư pháp, đối với sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân.
Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc đấu tranh chống các hành ra bản án trái pháp luật là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để bảo vệ pháp chế, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như bảo vệ hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đồng thời, nhằm tạo lòng tin của nhân dân vào Hệ thống Tòa án, xây dựng Tòa án là chỗ dựa vững chắc của công lý, là nơi bảo vệ công lý, là cán cân công lý.
1.2 Lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định về Tội ra bản án trái pháp luật
Trước khi ban hành Bộ luật hình sự, các Tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Trong Quốc triều hình luật hay còn gọi là Luật hình triều Lê (1440 – 1442) nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại hai chương với 78 điều. Sau năm 1945, Nhà nước ta đã có một số văn bản pháp luật quy định một vài vấn đề để bảo đảm cho sự hoạt động của các cơ quan tư pháp, chống các hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín cơ quan tư pháp như hành vi che giấu tội phạm hoặc dùng nhục hình…
Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân. Trong chương này của Bộ luật hình sự gồm có 17 Điều quy định về các tội phạm cụ thể xâm phạm hoạt động tư pháp. Tội ra bản án trái pháp luật lần đầu tiên được quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985 cùng với loại Tội ra quyết định trái pháp luật. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ hợp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000. Ngày 19 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5 khóa 12 của Quốc hội đã thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự 1999, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2000. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương XXII từ Điều 292 đến Điều 314. Trong đó, Điều 292 quy định về “Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp” và các điều luật còn lại quy định các tội phạm. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung thêm 4 tội. Đó là các tội: Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), Tội không thi hành án (Điều 305), Tội đánh tháo người bị giam giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312). Như vậy, đến lần pháp điển hóa lần thứ hai Tội ra bản án trái pháp luật được quy định thành một loại tội phạm riêng, với những quy định tương đối đầy đủ và hoàn thiện tại Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 295 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm…”. Điều này thể hiện việc xây dựng luật đã sự điều chỉnh kịp thời và phù hợp.
1.3 Những quy định về Tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự một số nước Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
1.3.1 Liên bang Nga
Bộ luật hình sự của Liên bang Nga được Đu-ma Quốc gia thông qua ngày 24/11/1995, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/1996, là Bộ luật hình sự thứ 4 của nước Nga, sau các Bộ luật năm 1922, 1926 và 1960. Bộ luật năm 1995 không phải là Bộ luật sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1960 mà là Bộ luật hình sự mới, có nhiều điểm khác so với Bộ luật hình sự năm 1960.
Bộ luật hình sự năm 1995 gồm Phần chung và phần riêng và được sắp xếp trong 12 phần, 34 chương và 352 điều. Phần chung quy định nhiệm vụ của luật hình sự, mô tả các dấu hiệu của tội phạm, hệ thống hình phạt, quyết định hình phạt và miễn hình phạt cũng như các biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Phần riêng mô tả các cấu thành tội phạm cụ thể.
Khái niệm tội phạm và sự phân loại tội phạm cũng có những thay đổi cơ bản. Tội phạm được định nghĩa ngắn gọn với 3 dấu hiệu đặc thù: là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện có lỗi và phải chịu hình phạt. Tội phạm được phân ra làm 4 loại (thay vì 2 loại như trước đây): tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trong Bộ luật hình sự Nga, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (chương 31) quy định đầy đủ các hành vi vi phạm, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng được tiến hành đúng pháp luật. Trong đó, Tội ra bản án trái pháp luật được quy định tại Điều 305, cùng với Tội ra quyết định trái pháp luật. Song quyết định trái pháp luật là quyết định của Tòa án, do Thẩm phán ban hành trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, không phải là các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng khác như quy định về Tội ra quyết định trái pháp luật tại Điều 296 BLHS 1999 của Việt Nam.
Điều 305. Ra bản án, quyết định hay các văn bản khác của Tòa án một cách trái pháp luật.
- Thẩm phán ra bản án, quyết định hay các văn bản khác một cách rõ ràng trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 500 lần đến 700 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay khoản thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian từ 5 tháng đến 7 tháng hoặc bị phạt tù đến 4 năm.
- Cũng hành vi đó nếu là bản án phạt tù trái pháp luật hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
Bộ luật hình sự Nga quy định rất đơn giản về cấu thành Tội ra bản án trái pháp luật, dấu hiệu lỗi không phải là tình tiết quan trọng để định tội. Ra bản án rõ ràng là không đúng pháp luật là Thẩm phán đã phải chịu TNHS về Tội ra bản án trái pháp luật, không xét đến đó là hành vi cố ý hay do lỗi khách quan. Các dấu hiệu khác như hậu quả, mục đích, động cơ phạm tội cũng không phải là tình tiết định tội, nhưng có ý nghĩa về mặt định khung. Chỉ có Thẩm phán là chủ thể cơ bản và duy nhất của Tội ra bản án trái pháp luật.
Về hình phạt, hình phạt tiền là một trong những hình phạt chính, không phải là hình thức bồi thường thiệt hại như quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với người bị kết án oan. Mức phạt tiền cũng quy định rất động, Thẩm phán có hành vi ra bản án trái pháp luật phải chịu phạt từ 500 lần đến 700 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay khoản thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian từ 5 đến 7 tháng.
1.3.2 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Bộ luật hình sự của Trung quốc gồm 2 phần, là Phần chung và Phần các tội phạm, với tổng số 452 điều luật. Phần chung gồm 5 chương và 101 điều. Phần các tội phạm gồm 10 chương và 350 điều. Trong đó, Tội ra bản án trái pháp luật được quy định tại Điều 397 trong chương các tội phạm không làm tròn trách nhiệm, chứ không quy định tại chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
Về tội không làm tròn trách nhiệm: xuất phát từ thực tế những năm gần đây, có tình trạng các quan chức nhà nước lợi dụng chức quyền, vô trách nhiệm, gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích của nhân dân và của quốc gia, Bộ luật hình sự Trung quốc sửa đổi năm 1997 đã hình sự hóa trách nhiệm đối với các hành vi xem thường chức vụ, gian trá kiếm lời trong các quy định của Luật dân sự, kinh tế, hành chính từ nhiều năm nay. Các tội không làm tròn trách nhiệm trong quy định của Luật hình sự Trung quốc hiện nay gồm 23 điều. Hình phạt đối với các tội phạm loại này được sửa đổi theo hướng tăng nặng, đặc biệt là những trường hợp bẻ cong pháp luật.
Bộ luật hình sự Trung quốc không có quy định riêng đối với loại tội phạm liên quan đến hoạt động xét xử của nhân viên Tòa án, mà quy định chung trong nhóm chủ thể là nhân viên trong các cơ quan nhà nước hoặc nhân viên công tác tư pháp trong Chương tội không làm tròn trách nhiệm, đó là: Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Điều 397: Nhân viên trong các cơ quan Nhà nước lạm dụng chức vụ quyền hoặc không chấp hành nghiêm các quy định, gây tổn thất lớn cho tài sản công cộng, lợi ích quốc gia và nhân dân, sẽ bị phạt tù đến 3 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm. Trường hợp Bộ luật này còn có những quy định khác, thì dựa theo các quy định đó.
Nhân viên trong các cơ quan Nhà nước có hành vi gian trá, phạm tội nêu trên sẽ bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. Trường hợp Bộ luật này còn có những quy định khác, thì dựa theo các quy định đó.
Điều 399:
- Nhân viên công tác tư pháp vì tình cảm riêng mà làm trái pháp luật, truy tố những người biết rõ là vô tội, cố ý bao che không truy tố những người biết rõ là có tội, hoặc trong hoạt động xét xử hình sự cố ý làm trái pháp luật và đưa ra phán quyết vi phạm pháp luật, thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình tiết nghiêm trọng thì sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị phạt tù trên 10 năm.
- Trong hoạt động xét xử dân sự, hành chính, nhân viên công tác tư pháp cố ý làm trái pháp luật, đưa ra những phán quyết sai quy định pháp luật nếu có tình tiết nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.
- Trong hoạt động thi hành phán quyết, quyết định, nhân viên công tác tư pháp vô trách nhiệm nghiêm trọng trọng hoặc lạm dụng chức quyền áp dụng biện pháp tố tụng vi phạm pháp luật, không thực thi quyền hạn theo quy định pháp luật, không thực thi quyền hạn theo quy định pháp luật hoặc vi phạm áp dụng tố tụng, cưỡng chế biện pháp thi hành án, gây cho đương sự hoặc người khác bị tổn thất to lớn, thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động; gây cho đương sự hoặc người khác bị tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.
- Nhân viên làm công tác tư pháp mà nhận hối lộ, có hành vi nêu tại Khoản 3 Điều này, đồng thời lại cấu thành tội theo quy định tại Điều 385 thì sẽ bị xử phạt tương đối nặng. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
Như vậy, Tội ra bản án trái pháp luật trong pháp luật hình sự Trung quốc được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 399, chung với Tội ra quyết định trái pháp luật của nhân viên viên làm công tác tư pháp, giống như quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985. Tuy nhiên, nhà làm luật Trung quốc đã chia Tội ra bản án trái pháp luật trong 02 trường hợp: trường hợp xét xử hình sự và trường hợp xét xử dân sự, hành chính, với những yếu tố cấu thành và định khung khác nhau.
Trong trường hợp xét xử hình sự, hậu quả của hành vi không phải là dấu hiệu định tội, mà chỉ có ý nghĩa về mặt định khung. Người nào cố ý ra phán quyết vi phạm pháp luật là đã cấu thành tội phạm ra bản án hình sự trái pháp luật. Còn trong trường hợp xét xử dân sự, hành chính, thì hậu quả lại vừa là dấu hiệu định tội, vừa là dấu hiệu định khung. Người nào cố ý làm trái pháp luật và đưa ra những pháp quyết sai quy định pháp luật nhưng phải có tình tiết nghiêm trọng thì mới phải chịu TNHS về tội ra bản án dân sự, hành chính trái pháp luật. Về mặt chủ thể, nhà làm luật chưa quy định rõ cụ thể, chỉ quy định chung là nhân viên công tác tư pháp. Hơn nữa, trong Bộ luật hình sự của Trung quốc cũng có chương quy định về các tội xâm phạm hoạt đông tư pháp nhưng loại tội này lại không quy định trong chương các loại tội phạm đó. Do đó, gây khó khăn trong việc xác định và phân loại tội phạm, làm cho việc truy cứu, xét xử loại tội phạm này nhiều khi không đầy đủ và bỏ sót tội phạm.
Kết luận chương 1
Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án thực hiện, thông qua hành vi của người tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án; của Cảnh sát tư pháp và của Chấp hành viên.
Các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Tội ra bản án trái pháp luật là hành vi của Thẩm phán hoặc Hội Thẩm đã ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật. Tội ra bản án trái pháp luật có một số đặc điểm cơ bản sau:
- là hành vi ra bản án không đúng với các quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động và pháp luật về tố tụng. Bản án có thể sai toàn bộ hoặc sai một phần, phần sai này rõ ràng trái pháp luật. Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự.
- Hành vi đó là cố ý, tức là biết rõ là sai mà vẫn làm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm tuyên án.
- Chủ thể của tội phạm này là Thẩm phán, Hội thẩm.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Tội ra bản án trái pháp luật theo bộ luật hình sự

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com