Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở tỉnh Bình Dương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát về tỉnh Bình Dương

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý: tỉnh Bình Dương thuộc vùng Ðông Nam Bộ, nằm ở toạ độ địa lý 10o69′ -11o,30′ vĩ độ Bắc, 106o6′- 107o kinh độ Ðông, cách thủ đô Hà Nội 1.749 km về phía Nam. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 2.695,54 km2, chiếm 0,82% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Ðông giáp tỉnh Ðồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương.

Các đường giao thông quan trọng như quốc lộ 13, 14, tuyến đường sắt Bắc – Nam, đường xuyên Á và là đầu mối giao lưu của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên theo quốc lộ 13, 14 về thành phố Hồ Chí Minh.

Thủy văn: Hệ thống sông ngòi chính trên địa bàn gồm có 3 con sông chính là sông Bé, sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn. Hiện tại, các sông đang được khai thác để dùng cho thuỷ điện Trị An và thuỷ lợi Dầu Tiếng. Các con sông này cùng với nguồn nước ngầm tạo nên nguồn nước dồi dào đủ cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, cho các nhu cầu sản xuất khác và dân sinh.

Ðịa hình: tỉnh Bình Dương nằm ở vị trí tiếp giáp giữa đồng bằng và cao nguyên nên địa hình chủ yếu là dạng đồi núi trung bình, thấp, tương đối bằng phẳng có độ dốc trung bình từ 2 – 5 độ, nền đất cao từ 20 – 25 m so với mặt biển.

Khí hậu: tỉnh Bình Dương nằm trong vùng cận xích đạo gió mùa, nóng ẩm, không có mùa đông lạnh với lượng mưa trung bình cả năm từ 1.600 – 1.650 mm, mưa nhiều từ tháng 4 cho đến tháng 11; từ tháng 1 đến 3 ít mưa, thời tiết khô nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 – 27o C; số giờ nắng trong năm từ 2.500 – 2.700 giờ; độ ẩm trung bình là 79 – 80%. Hàng năm có 8 tháng nhiệt độ trung bình 25o C.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1.2. Tài nguyên nhiên nhiên

Tài nguyên đất: diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 269.600 ha. Có 7 nhóm đất chính, trong đó đất xám chiếm 52,45% diện tích tự nhiên, đất đỏ vàng 24%, đất dốc tụ 12,09%, đất phù sa 5,79%, các loại đất khác chiếm tỷ lệ không đáng kể. Đất đai Bình Dương thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và phát triển giao thông đô thị.

Tài nguyên rừng: Bình Dương có 13 nghìn ha rừng, trong đó có gần 10 nghìn ha rừng tự nhiên, 3.430 ha rừng trồng. Rừng Bình Dương có vai trò quan trọng về phòng hộ và ổn định về môi trường sinh thái. Đây là vành đai xanh của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản của tỉnh không phong phú, chủ yếu là khoáng sản phi kim loại. Tập trung ở phía nam tỉnh là cao lanh, trữ lượng 256 triệu tấn, được khai thác làm gốm sứ và chất phụ gia công nghiệp. Ở Bến Cát, Tân Uyên có sét gạch ngói, trữ lượng khoảng 629 triệu m3. Đá xây dựng tập trung ở Tân Uyên, Thuận An, trữ lượng khoảng 220 triệu m3, cát xây dựng tập trung ở sông Sài Gòn, cù lao Bình Chánh, cù lao Rùa và sông Thị Tính, trữ lượng khoảng 25 triệu m3.

2.1.3. Dân số

Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2021, dân số của Bình Dương là 1.481.550 người. Do kinh tế phát triển nhanh, trong thời gian qua Bình Dương thu hút nhiều dân nhập cư từ các địa phương khác. Kết quả điều tra dân số năm 2021 cho thấy: trong 10 năm từ 2011 – 2021 dân số tỉnh Bình Dương đã tăng gấp đôi, là tỉnh có tốc độ tăng dân số cao nhất nước với tỷ lệ tăng trung bình 7,3%/năm. Theo số liệu Tổng cục thống kê năm 2023 thì dân số Bình Dương là 1.691.413 người và mật độ dân số là 628 người/km².

Trên địa bàn Bình Dương có 15 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh và sau đó là người Hoa, người Khơ Me.

2.1.4. Kinh tế

Vùng đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai. Bắt đầu những năm 90, với chính sách trải thảm đỏ chào đón các nhà đầu tư, Bình Dương phút chốc trở thành địa phương phát triển năng động nhất trong tứ giác kinh tế trọng điểm của cả nước. Trong bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm, Bình Dương liên tục đứng ở vị trí số 1.

Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất hiện nay tại Việt Nam, tính đến tháng 10/2018, tỉnh đã có 1.285 dự án FDI với tổng số vốn 6 tỷ 507 triệu USD. Năm 2019, tỉnh Bình Dương đặt mục tiêu thu hút trên 900 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng hơn 2,5 lần so với năm ngoái. Vào năm 2018, một cuộc điều tra về “Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)” đã được gửi tới 31.000 doanh nghiệp trên phạm vi 64 tỉnh, thành và nhận được sự hợp tác rất tích cực từ các doanh nghiệp, đã thực sự phản ánh sát thực nguyện vọng của các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Bình Dương có 28 khu công nghiệp đang hoạt động, trong đó nhiều khu công nghiệp đã cho thuê gần hết diện tích như Sóng Thần I, Sóng Thần II, Đồng An, Tân Đông Hiệp A, Việt Hương, VSIP – Việt Nam Singapore, Mỹ Phước 1, 2, 3, 4 và 5. Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỉ đồng. Hiện nay, tỉnh đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp mới để phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh nhằm tăng thu hút đầu tư.

Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì nông nghiệp giảm xuống còn 15 – 16%, công nghiệp và xây dựng 43 – 44%, dịch vụ 40 – 41%. Với tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức cao như hiện nay là 35%/năm (2013 – 2017), thì Bình Dương sẽ là một trong những tỉnh về đích trước và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.

Dự kiến đến năm 2020 Bình Dương sẽ là một trong những đô thị hiện đại nhất Việt Nam.

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch tỉnh Bình Dương

2.2.1. Tài nguyên du lịch

Hệ thống tài nguyên du lịch của Bình Dương khá đa dạng, phong phú. Về  tài nguyên du lịch tự nhiên có Hồ Dầu Tiếng, hệ thống sông ngòi cùng với miệt vườn trái cây tạo ra tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, nghỉ ngơi. Đặc thù văn hóa gắn liền với 3 dòng sông huyền thoại của vùng Đông Nam bộ gồm sông Mêkông, sông Bé, sông Đồng Nai thuận lợi phát triển du lịch sông nước. Về  tài nguyên du lịch nhân văn, toàn tỉnh có 38 di tích và danh thắng đã được xếp hạng, trong đó có 11 di tích cấp quốc gia và 27 di tích cấp tỉnh. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có gần 500 di tích phổ thông chưa được xếp hạng. Đa số là các loại đình, chùa, miếu, tịnh xá, tịnh thất, hơn 50 ngôi nhà cổ cùng nhiều mộ cổ và danh lam thắng cảnh như núi Cậu, núi Châu Thới, hồ Than Thở, Cù lao Rùa, nhà tù Phú Lợi… Ngoài ra, Bình Dương có 32 làng nghề với 9 nghề truyền thống như sản xuất gốm sứ, sơn mài, gỗ điêu khắc,… Tiêu biểu như làng sơn mài Tương Bình Hiệp, làng gốm Tân Phước Khánh, làng gốm Lái Thiêu,… là cơ hội thuận lợi để Bình Dương khai thác và phát triển loại hình du lịch làng nghề đang được đông đảo du khách lựa chọn hiện nay.

2.2.2. Các nhân tố kinh tế – xã hội, chính trị Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.2.2.1. Dân cư và lao động

  • Dân cư

Về quy mô dân số: Bình Dương là tỉnh có quy mô dân số khá lớn ở Đông Nam Bộ. Kể từ khi tái lập đến nay, quy mô dân số Bình Dương tăng gấp đôi, sự gia tăng này có phần đóng góp đáng kể của nguồn lao động nhập cư. Quy mô dân số lớn và tăng nhanh là một yếu tố thuận lợi để phát triển du lịch, đó sẽ vừa là lực lượng lao động và vừa là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm của ngành du lịch.

Bảng 2.1: Quy mô dân số và mật độ dân số tỉnh Bình Dương giai đoạn 20122023

Về phân bố dân cư và mật độ dân số: Bình Dương có 7 đơn vị hành chính, gồm 3 thị xã và 4 huyện. Phân bố dân cư giữa các thành phố, thị xã, huyện không đồng đều và có sự chênh lệch rất lớn. Sự khác biệt này là do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa của tỉnh. Từ năm 2012 đến nay, cùng với sự gia tăng dân số, mật độ dân số của tỉnh cũng không ngừng tăng lên, song song đó là khoảng cách ngày càng khác biệt về phân bố dân cư do các huyện thị có sự phát triển không đồng đều. Năm 2023, thị xã Dĩ An có dân số là 334.592 người và mật độ dân số là 5.581 người/km², cao nhất so với các huyện thị trong tỉnh. Thị xã Thuận An có dân số đông nhất, 428.953 người và mật độ dân số đứng thứ hai, 5.125 người/km², Thành phố Thủ dầu một xếp vị trí thứ ba với các con số tương ứng là 251.992 người và 2.123 người/km². Trong khi đó huyện Phú Giáo chỉ có 88.501 người và mật độ là 163 người/km². Các thị xã có dân số đông và mật độ dân số cao cũng đồng thời là nơi có các tài nguyên du lịch nhân văn phong phú.\

Về vấn đề dân tộc: ngoài thành phần chính là người kinh, trên địa bàn Bình Dương còn có khoảng 18 dân tộc ít người như Hoa, Tày, Nùng, Mường, Chăm, Khơme, K’Ho, Châu Ro, Thái… với quy mô gần 20.000 người, chiếm gần 1% dân số của tỉnh (năm 2023). Địa bàn cư trú của các đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu tại 4 huyện phía bắc, hầu hết sống đan xen hòa đồng cùng với cộng đồng các dân tộc khác của tỉnh. Các chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc nghèo được thực hiện thường xuyên, đời sống nhân dân được nâng cao, các dự án hỗ trợ chăn nuôi, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đường giao thông, trường học tạo điều kiện giao lưu hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển; công tác xóa đói, giảm nghèo cho các dân tộc thiểu số đạt được những kết quả cao, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn tỉnh. Sự thu hẹp khoảng cách về đời sống giữa các dân tộc tuy không đóng vai trò chủ đạo, nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển du lịch của tỉnh bởi nhu cầu du lịch ngày càng tăng và khá đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh.

Về vấn đề tôn giáo: hiện nay, toàn tỉnh có 268 cơ sở tôn giáo, 544 chức sắc, 494 tu sĩ và trên 156.000 tín đồ các tôn giáo, chiếm gần 11% dân số toàn tỉnh. Phần lớn các vị chức sắc, nhà tu hành và đồng bào tín đồ các tôn giáo đều đồng thuận và tin tưởng vào chủ trương, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Các vị chức sắc, nhà tu hành và đồng bào tín đồ các tôn giáo tỉnh Bình Dương đã và đang có những đóng góp tích cực trong sự phát triển, đi lên của một Bình Dương công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

  • Lao động

Về nguồn lao động: nguồn lao động là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế và du lịch cũng không ngoại lệ. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển công nghiệp, nguồn lao động của tỉnh cũng không ngừng tăng lên.

Bảng 2.2:  Nguồn lao động tỉnh Bình Dương giai đoạn 20122023

Qua bảng trên, ta thấy trong vòng 11 năm nguồn lao động của tỉnh đã tăng lên hơn 3 lần, trong khi dân số chỉ tăng hơn 2 lần (Bảng 2.1). Đây là một trong những thuận lợi về nhu cầu nhân lực cho sự phát triển du lịch của tỉnh.

Về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế: số lượng và tỉ lệ người lao động trong hoạt động sản xuất và dịch vụ càng đông gắn liền trực tiếp với kinh tế du lịch. Trong giai đoạn 2012 – 2023, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch rõ nét. Điều này thể hiện rõ rệt qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế tỉnh Bình Dương

Tỉ trọng lao động trong công nghiệpxây dựng và dịch vụ ngày càng tăng là một trong những động lực phát triển mạnh mẽ cho ngành du lịch. Đây chính là bộ phận gắn bó trực tiếp với hoạt động du lịch thông qua việc tạo ra các sản phẩm phục vụ ngành du lịch, đồng thời chính họ là những người có mức sống cao và nhu cầu du lịch lớn.

Về nhân lực cho du lịch nhân văn: Vấn đề nhân lực đối với khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch vốn khó hơn khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên. Bởi các tài nguyên nhân văn luôn hàm chứa trong nó những dấu ấn về bàn tay, khối óc con người và các giá trị văn hóa mà chỉ khi có hướng dẫn viên chuyên nghiệp giới thiệu, giải thích du khách mới “thấm” hết những điều thú vị, hấp dẫn trong đó. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Vấn đề nguồn nhân lực đáp ứng cho lĩnh vực du lịch hiện đang được Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch quan tâm rất nhiều. Hiện tại, nguồn nhân lực du lịch của tỉnh đang thiếu và yếu. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 2 cơ sở chính quy đào tạo nhân lực du lịch đó là trường Đại học Bình Dương và trường Trung cấp Văn hóa – Nghệ thuật – Du lịch Bình Dương. Với hệ thống đào tạo còn khá mỏng này, việc thiếu hụt nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế là điều tất yếu.

Không chỉ yếu về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kĩ năng mà lực lượng lao động du lịch còn bị hạn chế về trình độ ngoại ngữ, chưa theo kịp những đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động du lịch trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy mà nhiều đơn vị du lịch phải sử dụng nguồn nhân lực chưa qua đào tạo.

Hạn chế này đã kìm hãm đáng kể hiệu quả của việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch, khiến cho một số điểm tài nguyên có tiềm năng lớn vẫn chưa được khai thác, phát triển tương xứng với tiềm năng.

2.2.2.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế

Trong giai đoạn 20122023, GDP của Bình Dương có sự gia tăng mạnh mẽ, nhất là trong công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu GDP theo ngành cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Sự phát triển này góp phần đáng kể trong việc tạo điều kiện cho sự ra đời của các nhân tố thúc đẩy du lịch phát triển khác như nhu cầu nghỉ nghỉ ngơi, giải trí, mức thu nhập, thời gian rỗi…

Bảng 2.3: GDP theo ngành kinh tế tỉnh Bình Dương giai đoạn 20122023

Trong vòng 11 năm GDP của tỉnh tăng hơn 10 lần, giá trị nông nghiệp tăng hơn 2 lần, công nghiệp  xây dựng tăng hơn 10 lần còn dịch vụ tăng hơn 13 lần. Cuối năm 2023, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Sự gia tăng và chuyển dịch của các ngành sản xuất đã làm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo ra nhiều sản phẩm, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng… làm nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch trong tỉnh. Sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp  xây dựng trong giai đoạn này chính là đòn bẫy mạnh nhất để đưa tài nguyên du lịch đến với gần với du khách hơn thông qua việc tạo ra những công trình nhân tạo độc đáo, quy mô lớn cùng sự cải thiện, nâng cấ cơ sở hạ tầng, hệ thống nhà hàng, khách sạn, đường giao thông… phục vụ tốt nhất các nhu cầu của du khách.

2.2.2.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Cùng với sự phát triển nhu cầu du lịch nhân văn trên cả nước, số lượng người có nhu cầu về loại hình du lịch này của phần lớn người dân trong tỉnh cũng có xu hướng tăng đáng kể do ưu thế về tài nguyên du lịch nhân văn. Tuy không có số liệu nghiên cứu chính thức và chính xác về số người có nhu cầu du lịch của tỉnh trong từng năm, nhưng sự gia tăng về số lượt khách du lịch, sự nở rộ về dịch vụ ăn uống, lưu trú, bán lẻ hàng hóa và các lễ hội du lịch văn hóa ở các địa điểm du lịch là bằng chứng rõ ràng về sự phát triển của nhu cầu du lịch của người dân trong và ngoài tỉnh.

2.2.2.4. Cách mạng khoa học kĩ thuật

Kể từ khi tái lập tỉnh vào năm 2009, tỉnh đã thực hiện chủ trương “Trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư, trải thảm đỏ mời gọi trí thức”. Nhờ chủ trương đúng đắn này, công nghiệp của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc. Sự có mặt của các dự án đầu tư nước ngoài với những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của tỉnh. Song song đó, để phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp, cơ sở hạ tầng của tỉnh cũng được cải thiện tốt hơn. Cũng từ đây, ngành du lịch có một “khung đỡ” vững chắc để có thể tạo điều kiện thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu đi lại, lưu trú của du khách. Bên cạnh đó, sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật trong sản xuất cũng góp phần đáng kể trong việc nâng cao năng suất lao động, cải thiện thu nhập của người lao động (năm 2009, khi tái lập tỉnh, thu nhập bình quân đầu người 5,8 triệu đồng; năm 2023 thu nhập bình quân đã tăng 6,4 lần với 36,9 triệu đồng/người), làm tăng thêm khả năng thực tế tham gia hoạt động nghỉ ngơi du lịch, tạo điều kiện cho du lịch có bước phát triển nhanh và vững chắc.

2.2.2.5. Đô thị hóa Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Đô thị hóa có những đóng góp to lớn trong việc cải thiện điều kiện sống cho nhân dân về phương diện vật chất và văn hóa. Trình độ của người dân tăng lên làm nảy sinh ngày càng nhiều nhu cầu nhận thức, khám phá những nơi khác ngoài nơi ở và làm việc vốn dĩ quá quen thuộc. Song song đó, nhịp sống bận rộn, áp lực công việc, bầu không khí ngột ngạt… trong các đô thị làm nảy sinh nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí.

Là một địa phương có quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ, những năm gần đây Bình Dương có tốc độ đô thị hóa thuộc vào loại cao trong cả nước.

Bảng 2.4: Cơ cấu dân số phân theo thành thị và nông thôn tỉnh Bình Dương giai đoạn 20122023

Những năm đầu của quá trình công nghiệp hóa, tỉ lệ dân thành thị của tỉnh tăng chậm nhưng luôn ở mức cao hơn trung bình của cả nước. Đến những năm 2022, 2023, cùng với sự mở rộng về quy mô đô thị, tỉ lệ dân thành thị đã có bước tăng vọt, năm 2023 tỉ lệ dân thành thị đã cao gần gấp 2 lần dân nông thôn. Với tỉ lệ dân thành thị này, lối sống thành thị được mở rộng, nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của người dân ngày càng tăng lên, góp phần đáng kể vào việc tạo động lực cho sự phát triển của ngành du lịch.

2.2.2.6. Điều kiện sống

Nhờ những thành tựu của quá trình công nghiệp hóa mà điều kiện sống của đại bộ phận người dân của tỉnh Bình Dương được cải thiện đáng kể. Điều này được thể hiện qua biểu đồ sau:

Năm 2009, khi mới tái lập tỉnh, Bình Dương có thu nhập bình quân đầu người chỉ 5,8 triệu đồng/năm, đến năm 2017, tỉnh Bình Dương là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế xã hội và thu nhập bình quân đầu người, đạt 15,4 triệu đồng/năm (xấp xỉ 1.000USD/năm), năm 2021 con số này tăng lên là 21,5 triệu đồng/năm và năm 2023 là 36,9 triệu đồng/người.

Bên cạnh sự gia tăng về thu nhập bình quân đầu người, chính sách đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh cũng được thực hiện khá tốt, tập trung nhiều nguồn lực để chăm lo đời sống người dân nhất là các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, công nhân và người lao động. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Những thành tựu trên đã cải thiện và nâng cao đáng kể điều kiện sống của người dân, tạo điều kiện cho các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí được nhân rộng, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của ngành du lịch tỉnh Bình Dương.

2.2.2.7. Thời gian rỗi

Để đảm bảo sức khỏe và quyền lợi của người lao động, Bình Dương rất chú trọng đến các chế độ nghỉ phép cho mọi tầng lớp lao động trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh kết hợp với các ban ngành, doanh

nghiệp… ra các văn bản tuyên truyền, tổ chức các buổi tư vấn chuyên đề về chế độ nghỉ phép, lễ, tết trong năm đến toàn thể các đối tượng lao động để người lao động nắm bắt rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong thời gian lao động tại tỉnh. Chế độ nghỉ phép của tỉnh dựa trên điều 73, 74, 75 của Bộ luật lao động ngày 23/06/2006 của Chính phủ. Trong đó với đối tượng lao động là công nhân tại các khu công nghiệp, xí nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước, thì ngày nghỉ phép năm có thể quy đổi ra tiền, tiền công vào ngày nghỉ là 200% và ngày lễ là 300%. Chính sách này được phổ biến rộng rãi và thường xuyên để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động, qua đó tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người lao động với các doanh nghiệp.

Cùng với quá trình công nghiệp hóa, năng suất lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh Bình Dương có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, thời gian làm việc của hầu hết người lao động vẫn còn cao, thời gian rỗi không tăng nhiều do đặc thù là tham gia vào sản xuất công nghiệp. Qua biểu đồ 2.1, ta có thể thấy rằng năm 2023 có 65,7% lao động làm việc trong khu vực công nghiệp – xây dựng. Điều này cho thấy thời gian rỗi cho du lịch dài ngày là không nhiều. Đến cuối năm 2023, toàn tỉnh có 718.000 công nhân đang làm việc trong 24 khu công nghiệp, trong đó lao động nữ chiếm gần 70%, lao động ngoài tỉnh chiếm khoảng 85%. Đa số công nhân lại có tâm lý là làm việc và tăng ca để kiếm nhiều tiền trang trải cuộc sống hoặc gửi về phụ giúp gia đình, nên không có thời gian rỗi nhiều. Vì lẽ đó, việc nghỉ ngơi, giải trí thường ít kéo dài, loại hình tham quan trong thời gian ngắn, phạm vi gần là một lựa chọn phù hợp  cho hầu hết người lao động trong tỉnh.

2.2.2.8. Các nhân tố chính trị

Hòa bình là nhân tố tạo điều kiện cho sự thông suốt trong hoạt động của ngành du lịch. Và ngược lại thông qua du lịch, nhất là du lịch nhân văn, con người được bồi bổ thêm cái nhìn về giá trị của hòa bình. Hòa bình ở đây không chỉ là vấn đề về chính trị mà còn bao hàm cả sự ổn định về các vấn đề dân tộc và tôn giáo

Là một tỉnh có nhiều dân tộc, tôn giáo, tỉ lệ dân nhập cư ngày càng tăng, phát sinh một số vấn đề xã hội do tác động tiêu cực của đô thị hóa nhưng trong giai đoạn 2012 – 2023, Bình Dương luôn giữ vững được an ninh xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút du khách thập phương đến tham quan.

2.2.3. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.2.3.1. Cơ sở hạ tầng

  • Ưu điểm

Giao thông của tỉnh Bình Dương khá thuận tiện, có tuyến quốc lộ 13 và quốc lộ 14 xuyên suốt tỉnh, nhiều đường liên tỉnh nối liền các vùng. Về giao thông công cộng, hiện nay tỉnh có 9 tuyến xe buýt hoạt động xuyên suốt tỉnh và các tỉnh lân cận. Ngoài ra, hệ thống đường sông cũng có giá trị giao thông lớn, có khả năng khai thác phục vụ du lịch. Đây là một thế mạnh để mọi tầng lớp du khách có thể tham quan các địa điểm du lịch một cách thuận tiện, dễ dàng với rất nhiều sự lựa chọn.

Song song đó, cùng với quá trình công nghiệp hóa, cơ sở hạ tầng của tỉnh không ngừng được mở rộng và nâng cấp. Ngày 5-6-2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành Quyết định số 81/2019/QĐ – TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2015 – 2020”. Theo quy hoạch, kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà chủ yếu là giao thông phát triển đường bộ theo hướng kết nối với hệ thống quốc lộ hiện đại với sân bay quốc tế và cụm cảng biển Thị Vải – Vũng Tàu và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác. Tập trung phát triển các trục giao thông đường bộ từ Đại lộ Bình Dương đi cửa khẩu Hoa Lư, từ Đại lộ Bình Dương đi Đồng Xoài, từ Đại lộ Bình Dương đi Dầu Tiếng, đường cao tốc Mỹ Phước – Tân Vạn. Ngoài ra, hệ thống Metro (tàu điện ngầm) từ trung tâm TP. HCM sẽ được kết nối đi Thủ Dầu Một.

Như vậy, với quy hoạch này, Bình Dương sẽ hoàn toàn “thay da đổi thịt” trở thành một đô thị hiện đại, giao thông nối kết, thuận lợi. Chính hạ tầng đã góp phần “thổi” một làn gió mới cho du lịch Bình Dương, mang du khách đến với các địa điểm du lịch nhanh chóng và thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian di chuyển đồng thời đảm bảo sức khỏe để du khách có thể tận hưởng hết những điều thú vị tại các điểm du lịch.

  • Hạn chế Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Hệ thống đường giao thông vào tận nơi của một số điểm du lịch còn không ít hạn chế, gây khó khăn cho việc khai thác và phát triển du lịch. Tại nhà cổ Trần Công Vàng, con đường vào ngôi nhà cổ hiện nay vẫn còn tồn tại cảnh bán buôn chen lấn của các tiểu thương gây không ít khó khăn cho hoạt động du lịch. Tại các làng nghề, hệ thống đường chưa được đầu tư đúng mức, mặt đường chưa được tráng nhựa, lồi lỏm khó khi. Bên cạnh đó, khu sản xuất sản phẩm nằm một nơi trong khi phòng trưng bày các sản phẩm hoàn chỉnh lại nằm một nẻo. Trong trường hợp nếu như có du khách nào muốn mua sản phẩm mình ưng ý thì buộc phải đi bộ một quãng đường khá xa.

2.2.3.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật

Trong những năm gần đây, do nhu cầu phát triển của ngành du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch của tỉnh đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch đồng bộ nên hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật chưa thật sự hoàn chỉnh để giúp khai thác tối đa các tài nguyên du lịch của tỉnh.

Các cơ sở phục vụ lưu trú

  • Ưu điểm

Theo báo cáo “Công tác quản lý nhà nước về du lịch  ước thực hiện năm 2023 phương hướng nhiệm vụ năm 2024” của Sở VHTT&DL  tỉnh Bình Dương, đến 31/10/2023, các đơn vị động kinh doanh khách sạn – nhà nghỉ chủ yếu theo các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có loại hình hộ kinh doanh cá thể, với ngành nghề kinh doanh: nhà nghỉ trọ, nhà nghỉ bình dân, lưu trú trong thời gian ngắn… Đến cuối tháng 10/2023 trên địa bàn tỉnh có 169 cơ sở (hoạt động theo loại hình hộ kinh doanh cá thể), với  2.281 phòng, với số vốn đăng ký khoảng 63,9 tỷ đồng.

Bảng 2.5: Tình hình phát triển cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú Bình Dương  giai đoạn 2019 – 2023

Để kiểm soát chất lượng dịch vụ lưu trú phục vụ du lịch, Sở VHTT&DL  cũng thường xuyên tiến hành thẩm định phân loại xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch theo Bộ Tiêu chuẩn Quốc gia do Bộ Khoa học – Công nghệ ban hành.

  • Hạn chế

Các hộ kinh doanh này có cơ sở vật chất trang thiết bị, tiện nghi có chất lượng thấp, đơn giản chưa đảm bảo các điều kiện theo quy định để phục vụ khách đến lưu trú dài ngày, hầu hết đều phục vụ lưu trú trong thời gian ngắn. Số lượng cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú trên cơ bản đáp ứng được nhu cầu lưu trú của du khách. Tuy nhiên, do chưa được đào tạo nhiều trong công tác quản lý, chăm sóc khách hàng và kinh doanh chuyên nghiệp nên công suất sử dụng phòng của các khách sạn, nhà nghỉ trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, bình quân khoảng 55% (trong đó các khách sạn xếp hạng 3 sao, công suất sử dụng phòng đạt 65-70%, các khách sạn xếp hạng 1 đến 2 sao công suất sử phòng khoảng 55- 60%, còn lại các nhà nghỉ công suất sử dụng phòng bình quân khoảng 50%). Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Hầu hết các cơ sở lưu trú nằm ở Thành phố Thủ dầu một, Thuận An, Dĩ An – nơi có tài nguyên du lịch nhân văn phong phú và hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ.

  • Các cơ sở phục vụ ăn uống

So với các cơ sở phục vụ lưu trú, cơ sở phục vụ ăn uống rất khó thống kê vì quy mô kinh doanh rất khác nhau và không chịu sự quản lý trực tiếp của Sở VHTT&DL  tỉnh. Song với sự phát triển công nghiệp nhanh và mạnh của tỉnh như hiện nay, mạng lưới các cơ sở phục vụ ăn uống cũng ngày càng dày đặc và phong phú về loại hình, quy mô. Trong số đó, loại hình kinh doanh nhà hàng cũng bước đầu có tín hiệu lạc quan kịp thời phục vụ nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của du khách.

Về phân bố, cũng như các cơ sở phục vụ lưu trú, các nhà hàng chủ yếu tập trung ở những nơi có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển cao và sự phát triển du lịch mạnh mẽ.

2.3. Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở tỉnh Bình Dương Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.3.1. Hiện trạng khai thác các điểm di tích lịch sử

2.3.1.1. Địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát

  • Khái quát về Địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát

Địa đạo Tam giác sắt Tây nam Bến Cát (gọi tắt là Địa đạo Tam giác sắt) nằm trên vùng đất 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An thuộc khu vực phía Tây nam huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, cách trung tâm Thành phố Thủ dầu một 15 km về phía nam. Địa đạo được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử – Văn hóa cấp Quốc gia ngày 18/3/2008, có tổng diện tích 23ha.

Tên “Tam giác sắt” đã trở nên quen thuộc với nhiều người trong trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược trước đây. Ngày nay, nhiều người hiểu “Tam giác sắt” rất khác nhau. Có người cho rằng “Tam giác sắt” là vùng Tây Nam Bến Cát, cũng có người cho rằng nó bao gồm phần đất Tây nam Bến Cát – Dầu Tiếng – Long Nguyên. Rộng hơn nữa, có người cho rằng nó kéo dài từ Long Nguyên (Bến Cát) – Trảng Bàng (Tây Ninh) và Củ Chi (thành phố Hồ Chí Minh). Tất cả đều đúng, vì địa danh “Tam giác sắt” cùng phát triển theo bước phát triển của cuộc chiến tranh. Duy chỉ có một điều ít ai nghĩ tới là nguồn gốc ban đầu của “Tam giác sắt” lại chính là địa bàn của 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An (3 xã Tây Nam của huyện Bến Cát , tỉnh Bình Dương).

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, vùng đất 3 xã Tây Nam Bến Cát sớm được nổi danh với chiến khu An Thành. Vào năm 1948, hệ thống địa đạo đầu tiên xuất hiện từ vùng đất này. Sau đó năm 1960, du kích Củ Chi đến học tập kinh nghiệm và xây dựng hệ thống địa đạo ở địa phương mình.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù đã nhiều lần càn đi xát lại, nhưng chúng không khuất phục nổi lòng dân ở đây. Sau những thất bại liên tiếp, kẻ thù đành bất lực, chúng phải gọi vùng này là vùng “Tam giác sắt”.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử – Văn hóa cấp Quốc gia từ năm 2008, tức là trước khi tái lập tỉnh 1 năm, nhưng đến nay Địa đạo Tam giác sắt vẫn là một điểm tài nguyên, chưa được khai thác hiệu quả vào phục vụ du lịch.

Trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh, Địa đạo Tam giác sắt luôn được giới thiệu một cách chi tiết về lịch sử, tự hào về truyền thống. Song về khả năng khai thác du lịch mãi chưa được đánh thức tương xứng với tiềm năng.

Khách tham quan đến đây chủ yếu là các đoàn du lịch công vụ của cơ quan nhà nước, dưới hình thức tham quan bồi dưỡng về chính trị. Tính đến năm 2023, Địa đạo Tam giác sắt vẫn là một điểm tài nguyên về di tích lịch sử, chưa trở thành điểm du lịch, chưa có ban quản lý và định hướng kinh doanh cụ thể. Do vậy, số liệu về số khách du lịch và doanh thu du lịch gần như không có. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.3.1.2. Núi Cậu – Lòng Hồ Dầu Tiếng

  • Khái quát về Núi Cậu – Lòng Hồ Dầu Tiếng  

Núi Cậu – Lòng Hồ Dầu Tiếng thuộc ấp Tha La, xã Định Thành, huyện Dầu Tiếng, cách trung tâm thị trấn Dầu Tiếng 7km. Núi Cậu – Lòng Hồ Dầu Tiếng là di tích danh thắng đẹp hàng đầu của tỉnh Bình Dương, đã được công nhận di tích danh thắng cấp tỉnh, ngày 17/8/2019.

Quần thể Núi Cậu có tổng diện tích hơn 1600 ha, gồm 21 ngọn (7 ngọn lớn và 14 ngọn nhỏ), ngọn núi có dạng hình chữ U. Ngọn núi cao nhất là núi Cửa Ông cao 295m, núi Ông cao 285m, núi Tha La cao 198m và núi thấp nhất cao 63m là núi Chúa. Bốn ngọn núi này gắn liền với nhau tạo thành một dãy núi nhấp nhô kéo dài nằm chếch về hướng Bắc – Đông Bắc và Nam – Tây Nam.

Trên đỉnh núi cũng có một ngôi miếu thờ “Cậu Bảy” và nhiều tảng đá tạo thành những hình tượng vô cùng hấp dẫn. Dưới chân núi có ngôi chùa Thái Sơn do hoà thượng Thích Đạt Phẩm (thế danh: Đinh Văn Trên) (Thầy sáu) xây dựng vào năm 1988, tổng diện tích trên 5 hecta.Trong kháng chiến vùng núi hiền hòa này đã che chở cho hòa thượng Đạt Phẩm và các đồng chí hoạt động cánh mạng.

Lòng hồ là một công trình thủy lợi với diện tích rộng trên 27000 hecta và 1,5 tỷ m3 nước phục vụ nông nghiệp. Những nhà quản lí công trình, những kỹ sư và công nhân ngành thủy lợi đã đầu tư trí tuệ, sức lực và lòng quyết tâm đạt được mục tiêu hồ có khả năng tưới tiêu cho hơn hàng trăm ngàn hecta đất ruộng và hoa màu của một vùng rộng lớn từ Tây Ninh đến Bình Dương qua Long An về thành phố Hồ Chí Minh.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Được công nhận di tích danh thắng cấp tỉnh từ năm 2019, Núi Cậu – Lòng hồ Dầu Tiếng đã không ngừng thu hút khách du lịch gần xa. Tuy nhiên, hiện nay tiềm năng của khu du lịch này vẫn chưa được khai thác triệt để, nên chưa có sức hút mạnh mẽ đối với du khách nội địa và quốc tế. Trong giai đoạn 2020 – 2023, số lượt khách đến tham quan chùa Thái Sơn trên núi Cậu hàng năm luôn đạt mức vài chục nghìn lượt người, chủ yếu từ các tỉnh, thành lân cận như Long An, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình  Phước, một số tỉnh miền Tây Nam Bộ và Tp. Hồ Chí Minh. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Hàng năm, vào các ngày rằm lớn (tháng giêng, tháng bảy, tháng mười), đặc biệt là các ngày giỗ của Cậu (mùng 4, 5, 6 tháng 5 âm lịch) và các ngày lễ “Mẹ” (ngày 13, 14, 15 tháng tám âm lịch), hàng nghìn lượt người đến viếng chùa để cầu an và nghỉ ngơi, tham quan.

Theo Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Dầu Tiếng, chỉ tính riêng trong dịp Tết 2023, điểm du lịch này đã thu hút hơn 40.000 nghìn lượt khách tham quan, doanh thu gần 150 triệu đồng.

Lòng hồ Dầu Tiếng thuộc phần giáp ranh của 2 tỉnh Bình Dương và Tây Ninh nên công tác thống kê có phần gặp khó khăn. Khách đến tham quan từ hướng Bình Dương sẽ không bỏ qua cảnh sắc hùng vĩ của Lòng hồ Dầu Tiếng, khách đến tham quan từ hướng Tây Ninh sẽ không ngại đường xa để đến dâng hương chùa Thái Sơn. Do vậy, về số khách tham quan và doanh thu du lịch của khu di tích – danh thắng này chỉ có tính tương đối trong một giới hạn nhất định.

2.3.1.3. Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh

  • Khái quát về Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh

Di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh nằm ở địa điểm thuộc ấp 1 xã Minh Tân (trước là xã Minh Thạnh) huyện Dầu Tiếng. Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 11/5/2022.

Di tích mặc dù là một cơ quan tạm thời (trong thời gian từ 26/4-30/4/1975), nhưng đã thể hiện được vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong chiến lược chiến tranh của thời đại mới, mà trực tiếp là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sở dĩ gọi là di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Mình là vì Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập ở căn cứ quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại ấp Tà Thiết Krom – Lộc Thành – Lộc Ninh, Sông Bé.

Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh có tổng diện tích là 6182.96m2 ở vị trí tọa độ 11023’32” độ vĩ Bắc, 106030’40” độ kinh đông. Vì di tích là một cơ quan tạm thời nên các lán trại, hầm hào tại đây chủ yếu được làm bằng vật liệu là gỗ có sẵn, sau thời gian dài mưa nắng phá hủy chỉ còn lại những vết tích khá mờ nhạt, chỉ có hố bom nơi đồng chí Văn Tiến Dũng lấy nước để sinh hoạt là còn khá nguyên vẹn. Hiện nay, cảnh quan khu vực này đã thay đổi rất nhiều so với trước, rừng cao su bạt ngàn bao quanh khu vực di tích. Những dấu vết còn lại như: hố bom lấy nước sinh họat, dấu vết các hầm hào cũng đã mờ, phải rất khó khăn mới tìm được những dấu vết cũ do cỏ cây che khuất. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Năm 1987 đại tướng Văn Tiến Dũng cùng một số đồng chí cán bộ miền về thăm và xác định vị trí trên cơ sở những dấu tích còn lại. Sau đó huyện đội Bình Long và nhân dân xã Minh Thạnh đã xây dựng bia làm mốc đánh dấu tại nơi đây. Bia được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép, có độ cao 3m, rộng 2,5m, trên bia có gắn ngôi sao, dưới ngôi sao có ghi dòng chữ Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, 30 tháng 04 năm 1975, xã Minh Thạnh. Đến ngày 20/8/2002, Bảo Tàng Quân Khu 7 xây dựng bia khác cách tấm bia cũ khoảng 3m, có chiều cao 15m, chiều ngang 1,5m, bia cũng được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép. Đến năm 2017 được trùng tu lại bằng đá hoa cương cho đến nay.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Theo chiều dài lịch sử của Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh, ta thấy, di tích này có từ năm 1975 nhưng mãi đến năm 1987 mới được xác định lại vị trí và xây cột mốc khi đại tướng Văn Tiến Dũng về thăm, đến năm 2017 được trùng tu lại bằng đá hoa cương và năm 2022 mới được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Trong suốt khoảng thời gian đó, di tích này hầu như không được khai thác du lịch do không có nhà đầu tư, đường vào khu di tích khó khăn do rừng cao su bạt ngàn bao quanh… Các đoàn tham quan đến di tích này hầu hết là các cơ quan, đoàn thể, chính quyền làm công tác công vụ. Do vậy, số liệu về khách du lịch, doanh thu du lịch hoàn toàn không có trong báo cáo tổng kết năm của Phòng Văn hóa – Thông tin,  Phòng Văn hóa – Thể thao – Du lịch của huyện Dầu Tiếng nói riêng và Sở VHTT&DL  tỉnh Bình Dương nói chung.

2.3.1.4. Chiến khu Đ

  • Khái quát về Chiến khu Đ

Khu di tích lịch sử Chiến khu Đ là di tích cấp quốc gia đã được Bộ Văn hóa  –  Thể thao – Du lịch công nhận ngày 11/5/2022. Địa danh “Chiến Khu Đ” chỉ vùng căn cứ ra đời vào cuối tháng 2/1946, chủ yếu từ hạt nhân 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An thuộc quận Tân Uyên tỉnh Biên Hòa – Nay thuộc tỉnh Bình Dương.

Chiến khu Đ là căn cứ địa của chiến khu 7 – một tổ chức hành chính – quân sự của các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn, do Trung tướng Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng và Trần Xuân Độ làm chính trị ủy viên khu. Ban đầu, Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ của khu. Dần dần về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả vùng chiến khu rộng lớn ngày càng phát triển ở miền Đông Nam Bộ.

Thời kỳ 9 năm chống Pháp, Chiến Khu Đ được hình thành khởi đầu vào tháng 2/1946, chủ yếu từ hạt nhân 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An thuộc quận Tân Uyên tỉnh Biên Hòa – nay thuộc tỉnh Bình Dương. Từ năm 1948, trở đi, Chiến Khu Đ được mở rộng ra, phát triển mãi lên phía Bắc và Đông Bắc.

Sang thời kỳ chống Mỹ, do đặc điểm về quy mô của cuộc chiến tranh, từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), trung tâm căn cứ chuyển dần lên phía đông bắc. Đến đầu năm 1975, căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vi phát triển đến mức cao nhất. Toàn bộ căn cứ địa nằm ở phía bắc sông Đồng Nai, phía tây giáp địa giới hai tỉnh Bình Long và Phước Long cũ, phía bắc giáp biên giới Việt Nam – Căm-Pu-Chia và phía đông giáp địa giới ba tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đắc Lắc; hiện nay, kéo về rừng Cát Tiên phía thượng nguồn sông Đồng Nai bên hữu ngạn.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Hiện nay, phần lõi của Chiến khu Đ được khai thác phục vụ du lịch thuộc địa phận xã Đất Cuốc, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương và xã Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Ở Chiến khu Đ thuộc địa phận Đồng Nai, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng khu di tích lịch sử và Khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Chiến khu Đ. Sau một thời gian triển khai, đến cuối năm 2014, khu di tích đã hoàn thành một số công trình như trùng tu di tích địa đạo Suối Linh, các cơ sở sinh hoạt và chiến đấu trong căn cứ Khu ủy, tượng đài chiến thắng Chiến khu Đ… Song song đó, tỉnh còn xúc tiến dự án Trung tâm sinh thái – văn hóa – lịch sử Chiến khu Đ với  tổng kinh phí đầu tư là trên 61 tỷ đồng.

Trái ngược với Chiến khu Đ của Đồng Nai đã và đang được khai thác phục vụ du lịch, Chiến khu Đ của Tân Uyên, Bình Dương vẫn còn là một tài nguyên ở dạng tiềm năng. Tại đây, chưa có ban quản lý di tích, công trình mỹ thuật cũng như kỹ thuật, hạ tầng nào phục vụ du khách tham quan. Do vậy, các số liệu về số khách và doanh thu du lịch gần như không có.

2.3.1.5. Chùa núi Châu Thới

  • Khái quát về Chùa núi Châu Thới

Chùa núi Châu Thới là ngôi chùa xưa nhất của Bình Dương, hình thành sớm vào hàng đầu ở Nam bộ (ở nửa sau thế kỷ XVII), có kiến trúc hoành tráng, một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng của đất Gia Định xưa được giữ gìn, tôn tạo và phát triển cho đến ngày nay. Chùa được xây trên ngọn núi Châu Thới cao 82m ở xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên có tên chùa núi Châu Thới. Chùa núi này cách thành phố Biên Hòa 4km, Thành phố Thủ dầu một 20km, Tp. Hồ Chí Minh 24km và đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định số 451VH-QĐ ngày 21/4/1989.

Cổng chùa bằng đá dưới chân núi có đề tên chùa bằng chữ Hán “Châu Thới Sơn Tự”, bước lên 220 bậc thềm sẽ đến cổng tam quan có ba mái cong và bánh xe pháp luân nằm ở giữa đỉnh, hai bên cửa có mấy chữ “Từ bi – Hỷ xả”.

Đến nay, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu và xây dựng, ngôi chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1954, cổng tam quan được xây dựng năm 1970. Ngôi chùa mang nét kiến trúc đặc trưng của phương Đông.

Nét nổi bật về trang trí kiến trúc của chùa là dùng nhiều mảnh gốm sứ màu sắc gắn kết đắp thành hình con rồng dài hơn cả mét đặt ở đầu đao của mái chùa và có đến 9 hình rồng như thế hướng về nhiều phía. Ngoài việc có niên đại hình thành khá sớm cách đây trên 300 năm, chùa còn có nhiều giá trị về đặc điểm cấu trúc cũng như về nghệ thuật thao tác tạo hình như đúc, nung, điêu khắc, chạm trổ qua các tranh tượng vật dụng, tự khí bằng đồng, gỗ, đất nung.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Với những vẻ đẹp cổ kính, huyền bí, nhẹ nhàng, từ khi được xây dựng đến nay, Chùa núi Châu Thới đã thu hút nhiều du khách thập phương đến viếng chùa, lễ Phật. Những ngày đầu năm mới, du khách các tỉnh đến chùa bắt đầu đông dần từ tháng chạp năm trước đến hết tháng giêng, ngoài ra vào những ngày rằm tháng 4, rằm tháng 7 (Lễ Vu Lan) lượng khách đến chùa cũng tăng mạnh, ước tính có thể lên đến vài ngàn người. Bình quân hàng năm có vài trăm nghìn lượt người đến tham quan và chiêm bái.

Về doanh thu, do đặc thù của chùa là không bán vé tham quan và mở các dịch vụ ăn uống, lưu trú…nên không có doanh thu cụ thể. Khách tham quan đến dâng hương thường góp công đức để làm kinh phí hoạt động cho chùa. Con số này cũng không thể xem là doanh thu. Về thực chất, hiệu quả khai thác du lịch từ điểm du lịch này chính là lợi nhuận của các dịch vụ ăn uống, bán lẻ hàng hóa, lưu trú… của một bộ phận người dân địa phương. Vào các dịp lễ, tết, ngày rằm, khi hàng ngàn du khách đến chùa tham quan, cầu an, hoạt động dịch vụ ăn theo lại nở rộ, góp phần đáng kể vào việc tăng thêm thu nhập cho cộng đồng địa phương.

2.3.1.6. Nhà tù Phú Lợi

  • Khái quát về Nhà tù Phú Lợi

Nhà tù Phú Lợi là một trong những nhà tù lớn của Mỹ – Diệm ở miền Nam được dựng lên năm 1957 để giam cầm và tra tấn các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước lúc bấy giờ, và tồn tại suốt tám năm (1957-1964). Nhà tù Phú Lợi được xây dựng từ giữa năm 1957, bố trí ngay bên khu căn cứ quân sự với tổng diện tích khoảng 12 ha. Đây là di tích lịch sử nổi tiếng hàng đầu của tỉnh, được công nhận là là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định số 92VH-QĐ ngày 10/07/1980.

Chế độ khắc nghiệt của Nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi, sống bẩn thiểu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai bệnh tật không thuốc chữa trị và những đòn điều tra đánh đập dã man. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Năm 1958, sự kiện thảm sát Phú Lợi đã gây chấn động dư luận cả nước. Đó là vụ đầu độc vào ngày chủ nhật 30/11/1958 với bánh mì và các thức ăn khác. Vụ đầu độc này đã khiến hàng loạt tù nhân bệnh nặng và tử vong.

Với tinh thần kiên cường bất khuất, Đảng ủy trại giam quyết định đấu tranh công khai trực tiếp, các tù nhân Phú Lợi đã đoàn kết anh dũng đấu tranh như: tung nóc nhà giam, phát loa phóng thanh kêu cứu trong ngày bi thảm 01/12/1958. Nhanh như chớp, tin địch đầu độc tù nhân đã được lan truyền khắp nơi trong cả nước, làm dấy lên phong trào hướng về Phú Lợi.

Nhà tù Phú Lợi là một bằng chứng về tội ác của Mỹ – Ngụy tại miền Nam Việt Nam, nơi đây là biểu tượng cho lòng dũng cảm của cán bộ đảng viên, các đồng chí cách mạng và đồng bào yêu nước đã ngã xuống trong nhà tù vì độc lập, tự do, hoà bình, hạnh phúc cho quê hương đất nước.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Hiện nay nay khu di tích Nhà tù Phú Lợi là di tích được chọn làm nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Di tích thường xuyên mở cửa và có nhân viên thuyết minh túc trực để đón khách đến tham quan, tìm hiểu vào các ngày trong tuần. Nhiều ban ngành đoàn thể,trường học, đơn vị, cựu chiến binh… trên địa bàn tỉnh và các địa bàn lân cận đã chọn nơi đây làm điểm để tổ chức các chương trình về nguồn, cắm trại, sinh hoạt truyền thống. Vào các ngày lễ lớn của dân tộc nhất là ngày 01-12 hàng năm – ngày truyền thống “Phú Lợi căm thù” tưởng nhớ những

người đã hy sinh tại Nhà tù Phú Lợi, lượng khách tham quan lại tăng mạnh.

Được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1980, Nhà tù Phú Lợi thu hút hàng ngàn du khách tham quan mỗi năm. Trong giai đoạn 20122023 cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền hoạt động văn hóa về nguồn và xu hướng du lịch nhân văn trong và ngoài tỉnh, di tích Nhà tù Phú Lợi đã thu hút ngày càng đông đảo khách tham quan thuộc mọi tầng lớp, trong đó, đông đảo nhất vẫn là học sinh, sinh viên. Giai đoạn 20212023, số khách đến đây đã tăng lên đáng kể, cụ thể như sau:

Bảng 2.6: Số khách du lịch đến tham quan Nhà tù Phú Lợi giai đoạn 20212023

Về doanh thu, do di tích Nhà tù Phú Lợi mở cửa miễn phí, không bán vé tham quan và không có dịch vụ kinh doanh đáng kể nên doanh gần như không đáng kể.

2.3.2. Hiện trạng khai thác các điểm di tích văn hóa nghệ thuật

2.3.2.1. Chợ Thủ Dầu Một

  • Khái quát về Chợ Thủ Dầu Một Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Chợ Thủ Dầu Một lúc khởi nguồn được gọi là chợ Phú Cường, tọa lạc trên một vị trí tương đối bằng phẳng, nằm sát sông Gài Gòn và các con đường bao quanh chợ; phía Bắc giáp với đường Nguyễn Thái Học, phía Nam giáp đường Bạch Đằng, phía Tây giáp đường Đoàn Trần Nghiệp, Đông giáp đường Trần Hưng Đạo. Chợ là trung tâm có vị trí khá thuận lợi cho việc trao đổi và buôn bán.

Chợ do người Pháp xây dựng từ năm 1935 trên cơ sở phục hồi và biến đổi hoàn toàn chợ Phú Cường mô phỏng theo kiểu các ngôi chợ xưa ở Pháp có cấu trúc gần giống chợ Nam Vang (Campuchia) và chợ Bến Thành (Sài Gòn). Điểm đặc biệt của mô hình trên là họ vẫn tôn trọng, giữ nguyên vị trí cũ. Năm 1938, chợ Thủ được khánh thành với mô hình mới, kiến trúc phóng khoáng, trang nhã, vào thời đó và có lợi thế hơn nhiều nơi khác.

Chợ được phân thành bảy khu lớn nhỏ (khu Thương Xá, khu ăn uống, khu chợ Đồng Hồ…) và được xây dựng theo kiểu hình chữ nhật gồm ba căn nhà tách biệt nhau. Phía ngoài chợ là Tháp Đồng hồ – biểu tượng nổi tiếng của vùng đất Thủ. Tháp Đồng hồ được xây dựng theo kiểu hình lục giác gắn liền với nhà dãy chợ, có chiều cao 23.72m, gồm bốn lầu. Trên đỉnh tháp được gắn 4 chiếc đồng hồ. Chính từ những chiếc đồng hồ được bố trí theo Đông – Tây – Nam – Bắc, đã tạo nên một dấu ấn đặc sắc, hình thành tình cảm quen thuộc, sâu sắc của người dân Bình Dương.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Khác với các tài nguyên du lịch nhân văn hiện có ở Bình Dương, chợ Thủ Dầu Một vừa là công trình kiến trúc cổ có tiềm năng phát triển du lịch vừa là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động du lịch của Bình Dương. Nếu những năm cuối thế kỉ XIX, Chợ Thủ Dầu Một nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh và đi vào câu ca dao:

  • Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
  • Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
  • Đưa về chợ Thủ bán hũ, bán ve
  • Bán bộ đồ chè, bán cối đâm tiêu.

thì ngày nay, chợ Thủ Dầu Một là nơi buôn bán sầm uất, là trung tâm thương mại của tỉnh Bình Dương. Song song đó, Chợ Thủ Dầu Một còn thu hút khách du lịch vì giá trị về lòng tự hào quê hương, đây chính là biểu tượng của Bình Dương mà bất kì du khách nào khi đặt chân đến cũng ít nhất một lần ghé thăm. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Với vị trí tọa lạc tại trung tâm của Thành phố Thủ dầu một, gần các di tích tham quan nổi tiếng như Chùa Bà, nhà cổ Trần Công Vàng và Trần Văn Hổ, chùa Hội Khánh; Chợ Thủ Dầu Một là một điểm tham quan, mua sắm lý tưởng mà hầu hết du khách không thể bỏ qua. Bên cạnh đó, vào dịp lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu, rất đông khách hành hương và du khách thập phương kéo về dâng hương, chiêm bái, thường ghé Chợ Thủ Dầu Một để mua mâm quả tế lễ và tham quan.

Về số lượt khách và doanh thu du lịch, theo Ban quản lý Chợ Thủ Dầu Một, chợ là trung tâm thương mại của tỉnh, hoạt động buôn bán diễn ra phức tạp (giữa tiểu thương của chợ với dân địa phương, giữa tiểu thương của chợ với các lái buôn từ nơi khác đổ về…) song song với hoạt động tham quan của du khách nên không thể thống kê được con số cụ thể như Chợ Bến Thành của TP. HCM vốn là chợ chủ yếu phục vụ cho khách du lịch.

2.3.2.2. Nhà cổ ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu) và Trần Công Vàng

  • Khái quát về Nhà cổ ông Trần Văn Hổ và Trần Công Vàng

Nhà cổ ông Trần Văn Hổ và Trần Công Vàng có  độ tuổi hơn 100 năm nhưng vẫn còn nguyên vẹn các giá trị về mặt văn hóa và nghệ thuật kiến trúc. Hai ngôi nhà cổ này đã được người dân địa phương cũng như một số tỉnh thành khác biết tiếng. Chính vì thế, nhiều người mong muốn ít nhất một lần được đến chiêm ngưỡng những tác phẩm hoàn mỹ này như một chứng nhân của thời gian về kiến trúc và cổ vật.

Nhà cổ ông Trần Văn Hổ tọa lạc tại số 18 đường Bạch Đằng, phường Phú Cường, Thành phố Thủ dầu một, Bình Dương. Ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu) – nguyên là Đốc Phủ Sứ thời thuộc Pháp. Ngày 07/01/2005, nhà cổ Trần Văn Hổ đã được công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 43 VH/QĐ.

Căn nhà được xây dựng vào năm 1890 (hiện do Ban Quản lí di tích và danh thắng tỉnh Bình Dương trực tiếp quản lí) có lối kiến trúc theo dạng chữ “Đinh”. Vật liệu chính để làm nên ngôi nhà này phần lớn là các loại gỗ quý như cẩm lai, giáng hương, gõ, sến, mật… Nét độc đáo nổi bật của ngôi nhà có lẽ phải kể đến kĩ thuật chạm khắc rất tinh xảo trên bề mặt của các khuôn cửa. Bên cạnh đó, lối bài trí nội thất ngôi nhà bằng hệ thống hoành phi, câu đối, tràng kỉ, tủ thờ được làm theo lối cổ càng làm tôn thêm vẻ đẹp quý phái và cổ kính vốn có của ngôi nhà. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Nhà cổ Trần Công Vàng tọa lạc tại số 21, đường Ngô Tùng Châu, phường Phú Cường, Thành phố Thủ dầu một, trên một khu đất rộng 1.333m2, riêng phần chính (nhà trên) là 323m2, nhà phụ (nhà dưới) chiếm 119m2, được xây cất và hoàn thành vào khoảng năm 1889 – 1892. Ngôi nhà được công nhận Di tích cấp Quốc gia ngày 07/01/2005.

Đây là kiểu nhà chữ Đinh có cải tiến, nghĩa là có bộ phận ngăn cách nhà trên và nhà dưới bằng một nhà cầu nhỏ cắt đôi song con làm hai phần, cửa nhà dưới trổ ra đầu sân thay vì trổ đầu hồi, mới nhìn giống như một số cổng đền của người Hoa, nhưng theo chủ nhân là phỏng theo cổng đền của Ấn Độ.

Có thể nói, ngoài giá trị thẩm mĩ và kiến trúc, nhà cổ họ Trần còn phản ánh khá sâu sắc những yếu tố văn hóa, kinh tế, xã hội của tầng lớp thượng lưu vùng đất Thủ Dầu Một hồi thế kỉ XIX. Vì vậy, nó chính là một loại hình di sản độc đáo của vùng đất này.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Hai ngôi nhà cổ này nằm ở trung tâm của Thành phố Thủ dầu một, rất thuận lợi về địa thế nên được đánh giá mạnh về tiềm năng khai thác du lịch.

Hầu hết các tour du lịch bằng đường sông hoặc đường bộ từ các điểm du lịch như khu du lịch xanh Dìn Ký, khu du lịch sinh thái Phương Nam, các nhà hàng, khách sạn, sân golf đều có thể kết nối với di tích nhà cổ, nhà tù Phú Lợi, chùa Hội Khánh rồi đến Khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến. Chính vì điều này, năm 2020, ngành du lịch đã tổ chức nhiều buổi giới thiệu với các công ty du lịch lữ hành ở Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng Tàu… về các điểm đến của du lịch di tích Bình Dương và được đánh giá cao. Bên cạnh đó, gia đình chủ sở hữu của 2 ngôi nhà cổ cũng luôn sẵn sàng để đầu tư, xây dựng, thậm chí làm người hướng dẫn viên để thuyết trình cho khách tham quan hiểu về ngôi nhà cổ của mình. Thế nhưng, tiềm năng du lịch của 2 nhà cổ này vẫn chưa được phát huy xứng tầm và không thu hút nhiều khách tham quan như mong đợi. Lượng khách đến đây phần đông là các nhà báo, nhà nghiên cứu sử học, các đoàn du lịch công vụ…với số lượng nhỏ lẻ, không tạo được hiệu ứng đám đông vốn rất cần trong du lịch. Việc thống kê số lượt khách đến tham quan cũng chưa được tiến hành thường xuyên và chính xác do chưa  có đội ngũ quản lý chuyên trách. Song song đó, việc tham quan của du khách cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu đội ngũ hướng dẫn, thuyết minh chuyên nghiệp để làm sống lại những giá trị cổ vật tạo được sự hứng thú, tò mò đến những khám phá, bất ngờ, thú vị cho du khách. Các dịch vụ giải trí, vui chơi, ăn uống, mua sắm quà lưu niệm… cũng chưa có nên doanh thu từ việc khai thác du lịch của 2 nhà cổ này gần như không có.

Ngoài những khó khăn trong việc khai thác du lịch chung của nhà cổ như trên, nhà cổ Trần Công Vàng còn gặp một trở ngại lớn trong việc đảm bảo cơ sở hạ tầng đó là vấn đề giao thông. Từ lâu, con đường vào ngôi nhà cổ Trần Công Vàng tồn tại cảnh bán buôn chen lấn của các tiểu thương gây không ít khó khăn cho hoạt động du lịch. Ông Nguyễn Văn Thủy – Trưởng ban Quản lý di tích và danh thắng tỉnh cho biết: trong các tour đến tham quan nhà tù Phú Lợi, rất nhiều đoàn du khách đề nghị đến tham quan nhà cổ nhưng do nhà cổ đang trong quá trình hoàn chỉnh đường sá, quang cảnh nên chưa đưa khách vào.

2.3.3. Hiện trạng khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch các điểm tôn giáo và lễ hội Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.3.3.1. Chùa Hội Khánh

  • Khái quát về Chùa Hội Khánh

Chùa toạ lạc tại số 35 đường Yersin, phường Phú Cường, Thành phố Thủ dầu một, tỉnh Bình Dương, cách thành phố Hồ Chí Minh 25km về phía nam. Chùa được Thiền sư Đại Ngạn (dòng Lâm Tế) khai sơn năm 1741, đời Lê Hiển Tông, ở trên một ngọn đồi cao. Năm 1868, đời Tự Đức, do chùa bị hư hỏng nặng, Hòa thượng Chánh Đắc cho xây dựng chùa mới dưới chân đồi. Năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với diện tích xây dựng 1.211m2. Chùa đã được Bộ VHTT&DL công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia ngày 07/01/2005, theo quyết định số 43 VH/QĐ.

Chùa có kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ và là công trình mang dấu ấn những bàn tay tài nghệ độc đáo của lớp thợ xứ Thủ ở cuối thế kỉ XIX.

Trong những năm 1923 -1926, chùa Hội Khánh Thủ Dầu Một còn là nơi ẩn náu qui tụ các nhân sĩ: nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hoà thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của Bác Hồ), cụ Tú Cúc… Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ 1953, chùa là trụ sở Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến 1983 chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 2007, nơi đây Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương).

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Là ngôi chùa có hơn 200 năm tuổi, từ khi xây dựng đến nay, chùa Hội Khánh là ngôi chùa nổi tiếng nhất Bình Dương và được xem là trung tâm văn hóa Phật giáo Việt Nam của tỉnh. Vì lẽ đó, hàng năm khách hành hương và khách du lịch các vùng lân cận thường đến chiêm bái, tham quan vào các dịp lễ tết, ngày rằm và Phật Đản. Theo trụ trì của chùa, ngoài lượng tăng ni, phật tử trong và ngoài tỉnh về học đạo, hàng năm ước tính có gần 10.000 lượt khách đến tham quan, nghiên cứu, cúng bái. Nhất là trong các dịp lễ lớn như tết Nguyên Đán, rằm tháng giêng, rằm tháng bảy… lượng khách tham quan đến cả ngàn người mỗi ngày.

Năm 2022, chùa Hội Khánh tổ chức Đại lễ khánh thành Trung tâm Văn hóa Phật giáo Bình Dương và công trình Phật nhập Niết bàn dài 52m, cao 12m (cách mặt đất 24m), được xác lập kỷ lục Guiness tượng Phật nằm dài nhất Việt Nam. Sự kiện này đã thu hút hàng ngàn lượt khách tham quan trong các ngày trước và sau lễ khánh thành. Từ đó đến nay, lượng khách đến chùa không ngừng tăng lên. Với vị trí nằm gần chùa Bà, chùa Hội Khánh đã thu hút thêm lượng khách vốn trước đây chỉ viếng chùa Bà vào dịp rằm tháng giêng. Ước tính hàng năm có trên 1.000.000 lượt khách tham quan chùa Bà, do vậy lượng khách đến tham quan chùa Hội Khánh cũng tăng vọt lên vài chục ngàn người. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Trong thời gian tới, khi các đề án về phát triển du lịch Bình Dương được thực hiện hoàn chỉnh, chùa Hội Khánh sẽ thu hút thêm hàng trăm nghìn du khách trong và ngoài tỉnh, xứng đáng với tiềm năng du lịch của một Di tích văn hóa – lịch sử cấp Quốc gia.

2.3.3.2. Chùa Bà Thiên Hậu 

  • Khái quát về Chùa Bà Thiên Hậu

Miếu bà Thiên Hậu “Thiên Hậu Cung” mà người dân quen gọi là Chùa Bà – một cơ sở tín ngưỡng dân gian quan trọng của đồng bào người Hoa trên đất Thủ Dầu Một, Bình Dương. Miếu Bà hiện nay tọa lạc tại số 4 đường Nguyễn Du, Thành phố Thủ dầu một, cạnh bùng binh ngã Sáu. Miếu do các ban người Hoa tạo lập để thờ vị nữ thần hiệu là Thiên Hậu Thánh Mẫu.

Đầu tiên không biết chùa được xây cất năm nào, chỉ biết lúc đầu chùa tọa lạc tại con rạch Hương Chủ Hiếu (nay đã xây dựng lại ngôi miếu trên vị trí ban đầu của xưa kia). Đến năm 1923, bốn Bang người Hoa (Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hẹ) chung sức tái tạo ngôi chùa ở vị trí như ngày nay.

Ngày lễ hội miếu Bà ở Thủ Dầu Một – Bình Dương, được diễn ra ngày Rằm tháng Giêng Âm lịch hàng năm và được chuẩn bị chu đáo của ban tổ chức, lại được sự bảo vệ của các cơ quan chức năng. Ngày lễ hội gồm có các phần: “Thỉnh Lộc Bà” (vào sáng 14 tháng Giêng), rước kiệu Bà và đấu giá lồng đèn làm từ thiện (vào sáng 15 tháng Giêng). Trong đó, rước kiệu Bà là cuộc hội đồng đông đảo và vui nhộn nhất. Ý nghĩa cuộc rước kiệu là để bà thăm viếng dân tình và để bá tánh chiếm bái, cầu phúc.

Ngoài lễ hội chùa Bà vào ngày rằm tháng Giêng, Ban tổ chức còn tổ chức lễ vía Bà rất linh đình vào ngày 25 tháng 3 âm lịch. Ngày ấy chỉ có cúng lễ tế, lễ bái mà không có cuộc rước lễ, diễu hành, đặc biệt là ở các cuộc lễ của người Hoa ở miếu bà không có đọc sớ hoặc văn tế thần như các cuộc cúng đình của người việt.

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch

Ngoài những người đi chùa vì tín ngưỡng, có nhiều người đi viếng cảnh chùa, du xuân đầu năm là chủ yếu.

Từ năm 2012 đến nay, chùa Bà nói chung và lễ hội chùa Bà nói riêng luôn thu hút khách thập phương. Hằng năm, từ những ngày cuối năm đến sau dịp Tết Nguyên đán là du khách từ nhiều nơi lại đổ về thăm viếng chùa Bà. Ước tính mỗi ngày có khoảng 10.000 lượt người trong và ngoài tỉnh cùng bà con Việt kiều đến thăm viếng và chiêm bái. Bên cạnh đó, đến hẹn lại lên, cứ dịp Rằm tháng Giêng, người dân, du khách khắp nơi đổ về Bình Dương để đi lễ hội chùa Bà, khấn nguyện, cầu xin bổng lộc cho một năm mới may mắn, phát đạt. Trong 2 ngày 14 và 15 tháng giêng, số người xem rước kiệu Bà có lúc lên đến hơn 100.000 người. Sau lễ hội, những người chưa dâng lễ tạ ơn Bà hoặc chưa thắp hương được trong ngày lễ chính, còn ở lại vài ngày để cúng bái, thể hiện lòng thành kính đối với Bà. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Cùng với sự gia tăng về số khách du lịch, doanh thu du lịch từ lễ hội chùa Bà cũng tăng lên đáng kể, đóng góp ngày càng nhiều vào tổng doanh thu du lịch của Bình Dương. Do đặc thù là điểm du lịch về tôn giáo, không thu vé tham quan nên doanh thu từ lễ hội chính là sự tiêu dùng của du khách vào các dịch vụ như lưu trú, giữ xe, mua nhang đèn, hoa quả cúng bái…Theo ước tính của Ban quản lý chùa Bà, trong giai đoạn 20122023, doanh thu của các đơn vị, cá nhân trong dịp lễ hội tăng từ 6 đến 9 lần, chủ yếu do sự gia tăng lượng khách và biến động của giá cả thị trường.

Theo số liệu của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Bình Dương, giai đoạn 20142023, số khách đến viếng chùa Bà và tham gia lễ hội chùa Bà đã tăng lên đáng kể. Điều này được thể hiện rõ rệt qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.3: Số khách du lịch tham quan Chùa Bà giai đoạn 2014 – 2023

2.3.4. Hiện trạng khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch các làng nghề truyền thống

  • Khái quát về các làng nghề

Bình Dương là một tỉnh miền Đông Nam Bộ có nhiều làng nghề thủ công truyền thống từ khá lâu đời. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, đến nay toàn tỉnh có 32 làng nghề với 9 nghề truyền thống, trong đó nổi bật nhất là các ngành nghề như sơn mài, gốm sứ, điêu khắc gỗ. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Bình Dương có nhiều chủng loại, mẫu mã phong phú, đa dạng; đặc biệt có một số sản phẩm đạt chất lượng cao mang đậm tính văn hoá truyền thống Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước.Làng nghề sơn mài: Sơn mài Bình Dương nổi tiếng được khách hàng ưa chuộng, bởi từ nguyên liệu gỗ đến khâu cuối cùng của sản phẩm phải trải qua quá trình 25 công đoạn, mỗi công đoạn đòi hỏi một nghệ thuật riêng tỷ mỉ và công phu. Một qui trình sơn mỗi sản phẩm phải mất từ 3 đến 6 tháng mới đảm bảo yêu cầu chất lượng. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Làng nghề sơn mài được biết đến nhiều và tiêu biểu nhất ở Bình Dương, là làng sơn mài Tương Bình Hiệp. Làng sơn mài Tương Bình Hiệp thuộc xã Tương Bình Hiệp, Thành phố Thủ dầu một, cách trung tâm thành phố 7km về phía bắc.

Đến đây, du khách được tận mắt nhìn thấy từng công đoạn của nghề truyền thống độc đáo này. Tùy theo quy mô lớn nhỏ của từng gia đình, mỗi gia đình có thể đảm nhận một khâu hoặc tất cả các khâu để hoàn thành một sản phẩm. Với hàng trăm hộ làm sơn mài, làng Tương Bình Hiệp có thể xem như một xí nghiệp thủ công. Nhiều sản phẩm sơn mài của làng nghề Tương Bình Hiệp đã đứng chân ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Hiện nay, cùng với xu hướng phát triển của du lịch nhân văn, làng nghề Tương Bình Hiệp đang tham gia mạnh mẽ vào hoạt động du lịch. Điều này đã góp phần đáng kể trong việc đưa sản phẩm truyền thống đến gần người tiêu dùng hơn, qua đó phát triển và bảo tồn nghề thủ công quý báu của Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung.

b.Làng nghề điêu khắc gỗ: nghề chạm khắc gỗ mỹ nghệ đã có từ lâu ở vùng Thủ Dầu Một, Lái Thiêu mà ngày nay một số tác phẩm vẫn còn được trưng bày trong các đình chùa, nhà dân. Với quy trình theo hướng chuyên môn hoá cao (mỗi công đoạn điêu khắc gỗ được một nhóm thợ thực hiện như khắc chạm, đánh bóng, mài giũa, phun sơn…) nên có thể đáp ứng ngay những nhu cầu của thị trường. Các sản phẩm của ngành điêu khắc gỗ Bình Dương có mẫu mã khá đa dạng do các nghệ nhân sáng tạo hoặc bảo lưu các phong cách cổ của nhiều nền văn hoá khác nhau. Ngoài cung cấp cho thị trường trong nước, các sản phẩm này còn xuất khẩu, mang lại giá trị kinh tế cao.

Hiện nay, các cơ sở sản xuất điêu khắc của tỉnh phân bố tập trung ở phường Phú Thọ và Chánh Nghĩa. Ở phường Phú Thọ có hơn 200 hộ làm nghề chạm mộc. Các cơ sở có đông công nhân là: Xí nghiệp Tư doanh Hậu Tín và phân xưởng của Xí nghiệp mỹ nghệ Kim Hưng, Công ty Thanh Lễ…

c. Làng nghề gốm sứ: trên đất Bình Dương hiện nay có ba làng nghề sản xuất gốm sứ khá tập trung là: Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) và Chánh Nghĩa (Thành phố Thủ dầu một) với hàng trăm cơ sở sản xuất. Ba làng nghề gốm ở Bình Dương có một nét chung là cùng xuất hiện vào khoảng giữa thế 19, chủ nhân cùng là những lưu dân người Hoa từ miền duyên hải Trung Hoa sang Việt Nam định cư, sinh sống (hiện nay cũng có khoảng vài chục lò gốm có chủ là người Việt, nhưng đa số chủ lò gốm vẫn là người Việt gốc Hoa).

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Các làng nghề tại Bình Dương có tiềm năng khai thác du lịch lớn, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển, du lịch tỉnh trong tương lai. Trong những năm gần đây, Bình Dương đã bắt đầu chú ý đến việc phát triển du lịch làng nghề. Bởi thông qua đó, ngành du lịch tỉnh nhà sẽ có thêm nhiều sản phẩm phù hợp với đa dạng đối tượng du khách, đồng thời còn giúp cho các làng nghề có thêm nhiều cơ hội trong việc quảng bá, kinh doanh sản phẩm truyền thống. Thế nhưng, bên cạnh những thuận lợi sẵn có, cũng giống như các làng nghề khác trên cả nước, du lịch làng nghề Bình Dương vẫn có nhiều khó khăn, trăn trở khiến việc khai thác chưa thực hiện được hết tiềm năng.

Trên thực tế trong thời gian qua, hiệu quả hoạt động của du lịch làng nghề vẫn chưa cao, do còn nhiều bất cập chưa được tháo gỡ. Trong đó sự yếu kém nội tại của các làng nghề chính là nguyên nhân hàng đầu. Hiện tại, hầu hết các làng nghề đều có cơ sở hạ tầng khó khăn, quy mô nhỏ lẻ nên rất khó khai thác du lịch. Tại không ít điểm du lịch làng nghề, du khách phải lắc đầu ngán ngẩm về sự đơn điệu của nó. Các sản phẩm du lịch có nhiều sự trùng lắp giữa các làng nghề. Khách tham quan đi đến làng nghề nào cũng thấy những sản phẩm giống hệt nhau. Đặc biệt, điều thất vọng hơn đối với du khách là khâu thuyết minh ở nhiều làng nghề là gần như không có. Cá biệt, có không ít tour du lịch làng nghề còn thiếu ngay cả cái tối thiểu nhất là cung cấp cho du khách một bản thuyết minh tường tận về lịch sử làng nghề và đặc thù của những sản phẩm trong làng nghề ấy. Bên cạnh đó, tình trạng người dân ở các làng nghề thiếu kiến thức về du lịch và không biết ngoại ngữ cũng là một vấn đề nan giải. Người dân không có hiểu biết về tiếp thị, không được học cách tiếp khách du lịch. Kết quả là khách du lịch đến tham quan nhưng không biết phải tham quan cái gì, không hiểu gì về văn hóa cũng như tập quán sản xuất của nơi tham quan vì không có cơ hội tiếp xúc với người dân và công việc của họ. Vì lẽ đó, số khách du lịch đến với các làng nghề còn nhỏ lẻ, không đáng kể. Ước tính hàng năm, lượng du khách đến tham quan các làng nghề tại Bình Dương chỉ dao động trên dưới vài nghìn người.

Bên cạnh đó, việc kết nối giữa du lịch với các làng nghề hiện nay vẫn còn lỏng lẻo. Trong những năm qua, cũng đã có một số công ty du lịch lữ hành tiến hành khảo sát và đưa các làng nghề trên địa bàn tỉnh vào tour du lịch (như làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp, làng gốm sứ Tân Phước Khánh…). Tuy nhiên, theo đánh giá của các đơn vị du lịch này, hiện các điểm đến chưa thật sự hấp dẫn. Đa phần các điểm đến vẫn chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sản phẩm đặc trưng của làng nghề mà chưa tạo được dấu ấn riêng trong lòng du khách. Do đó nên có nơi cả tháng mới có du khách ghé thăm. Khách đến một lần rồi không bao giờ trở lại. Ngoài phí tham quan do đơn vị lữ hành chi trả, làng nghề không thu thêm được bất kỳ khoản nào từ hầu bao của khách hoặc nếu có thì cũng rất ít… điều này làm cho doanh thu từ hoạt động du lịch làng nghề không đáng kể.

Tại các cơ sở sản xuất sơn mài của làng nghề Tương Bình Hiệp, việc tham quan gặp nhiều khó khăn khi khu sản xuất sản phẩm nằm một nơi trong khi phòng trưng bày các sản phẩm hoàn chỉnh lại nằm một nẻo. Trong trường hợp nếu như có du khách nào muốn mua sản phẩm mình ưng ý thì buộc phải đi ngược trở ra đến hơn 1km.

Tại các cơ sở sản xuất gốm của làng gốm Tân Phước Khánh, Lái Thiêu… các sản phẩm có giá trị thẩm mỹ và tính nghệ thuật cao không được giới thiệu, quảng bá tường tận đến khách tham quan do thiếu đội ngũ thuyết minh và kinh nghiệm hướng dẫn du lịch. Khách đến tham quan thích xem gì thì xem, muốn mở mang hiểu biết thì hỏi người quản lý, muốn xem các công đoạn làm gốm thì lúc được lúc không tùy thuộc vào thời điểm đó có sản xuất hay không.

Sự thiếu chuyên nghiệp trong tổ chức du lịch làng nghề ở Bình Dương đã không phát triển được tiềm năng to lớn vốn có của nó. Khách tham quan dù có tăng theo xu hướng du lịch làng nghề của xã hội nhưng doanh thu không tăng hoặc tăng không đáng kể. Trong tương lai, để du lịch làng nghề thật sự trở thành thế mạnh và đóng góp to lớn vào ngành du lịch thì cần phải có sự phối hợp, gắn kết từ nhiều phía. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.3.5. Hiện trạng khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch ở các điểm danh lam, thắng cảnh

Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Bình Dương đã không ngừng khai thác các danh lam thắng cảnh vào phục vụ du lịch. Cảnh sắc thiên nhiên được con người can thiệp khá sâu để đưa thêm các giá trị nhân văn vào, tạo nên các điểm du lịch hấp dẫn. Một số điểm du lịch tiêu biểu ở Bình Dương từ sự tôn tạo của bàn tay con người đó là Khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn hiến, Khu du lịch Phương Nam, Khu du lịch Dìn Kí và Green eyes resort.

2.3.5.1. Khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn hiến

  • Khái quát về Khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến

Khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến tọa lạc tại phường Hiệp An, Thành phố Thủ dầu một, tỉnh Bình Dương, cách Ủy ban nhân dân thị xã vào khoảng 7km về hướng huyện Bến Cát. Đây là khu du lịch có quy mô lớn nhất Đông Nam Á, với tổng kinh phí khoảng 6.000 tỉ đồng. Được khởi công từ tháng 3/2011 và  đưa vào  phục vụ du khách từ ngày 11/09/2020.

Với tổng diện tích giai đoạn 1 là 261ha, giai đoạn 2 là 450ha, khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến có đủ cả biển, hồ, sông núi và tường thành, với dụng ý làm toát lên vẻ đẹp của đất nước Việt Nam, trong đó điểm nhấn quan trọng nhất là đền thờ Đại Nam Quốc Tự và dãy Núi Bảo Sơn. Ngoài ra, tại khu du lịch còn có nhiều hạng mục quan trọng khác sẽ xây dựng như Việt Nam thu nhỏ rộng 30 ha, thể hiện vẻ đẹp về thiên nhiên cũng như phản ánh những thành tựu nổi bật của 63 tỉnh, thành trong cả nước và những hình ảnh giới thiệu về 54 dân tộc Việt Nam.

  • Số khách du lịch và doanh thu du lịch Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Kể từ khi đưa vào hoạt động đến nay, khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến luôn thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, giải trí. Hệ thống cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tốt, đồng bộ đã giúp khu du lịch này níu chân khách tham quan cũng như tạo ấn tượng lâu dài khiến du khách phải nhiều lần trở lại.

Theo số liệu của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Bình Dương, ngay trong thời gian còn xây dựng, Khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến đã đón khoảng 2.000 lượt khách/mỗi ngày đến tham quan. Ngày 11/09/2020, ngày đầu tiên khai trương, đã có khoảng 10.000 khách đến chiêm ngưỡng. Vào dịp tết Nguyên Đán trung bình mỗi ngày khu du lịch này đón 100.000 khách, cao điểm có ngày lên đến 150.000 khách, khiến cho khu du lịch luôn trong tình trạng quá tải. Giai đoạn 20212023, số khách và doanh thu của, khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến không ngừng tăng lên và luôn chiếm số lượng lớn trong tổng số khách và doanh thu du lịch của tỉnh. Cụ thể như sau:

Bảng 2.7: Số khách và doanh thu của khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến giai  đoạn 2021 2023

Biểu đồ 2.4: Số khách và doanh thu của khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến giai đoạn 2021 – 2023

Với số khách và doanh thu du lịch như trên, khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến hiện là khu du lịch kinh doanh thành công nhất trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Lượng khách lớn đến với khu du lịch này cũng đồng thời tạo cơ hội cho việc khai thác các tài nguyên nhân văn còn lại của tỉnh, do vị trí gần với các di tích lịch sử trên địa bàn Thành phố Thủ dầu một, gần thị xã Dĩ An và Thuận An.

2.3.5.2. Các khu du lịch nghỉ dưỡng Phương Nam, Green eye, Dìn Ký 2012

Khu du lịch Phương Nam: tọa lạc tại 15/12 Khu phố Trung, Phường Vĩnh Phú, Thị xã Thuận An, có diện tích trải rộng trên 3 hecta, cách trung tâm các thành phố lớn như: Tp.Hồ Chí Minh, Thành phố Thủ dầu một, Tp. Biên Hòa với quãng đường 10 – 15km và chỉ cách các khu công nghiệp Việt Nam – Singapore, Việt Hương, Đồng An, Sóng Thần I, Sóng Thần II và Linh Trung… từ 5 – 10km. Khu du lịch Phương Nam được thành lập vào năm 2012. Khu du lịch Phương Nam như là một lá phổi xanh rất lý tưởng để du nghỉ dưỡng, thư giãn và thưởng thức các món ngon đặc sản Âu – Hoa – Việt. Ngoài ra, nơi đây còn là nơi thích hợp nhất để các chuyên gia nước ngoài lưu trú, các công ty tổ chức tiệc chiêu đãi, tổ chức MICE, hội nghị khách hàng, đại hội cổ đông thường niên, tiệc cưới, sinh nhật… Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Phương Nam Resort đã được Tổng cục Du lịch công nhận đạt tiêu chuẩn 3 sao, với đầy đủ các loại hình dịch vụ như: khách sạn, nhà hàng, hồ bơi, câu cá, karaoke, bóng bàn, bida, dịch vụ xe đưa đón khách…, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, cơ sở vật chất tiện nghi cao cấp phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu của du khách.

b.Khu du lịch Green eye (Mắt Xanh): được khởi công xây dựng từ năm 2019 và đưa vào phục vụ du lịch từ cuối năm 2021, rộng hơn 60ha tọa lạc tại ấp Cây Chanh, Xã Tân Định, Huyện Tân Uyên, nằm giữa thung lũng bốn mùa xanh mát bởi rừng cây. Khu du lịch cách TP. HCM 60km về hướng Bắc, Tp. Biên Hòa 45km về hướng Bắc và Thành phố Thủ dầu một 45km về hướng Đông.

Khu du lịch Mắt Xanh có hệ thống phòng ốc sang trọng, hiện đại, tiện nghi, mang hơi thở núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, phong cách châu Âu lãng mạn hay những căn nhà gỗ của nông thôn Nga bình dị, mộc mạc…Mọi phong cách ẩm thực của du khách sẽ được thỏa mãn tại Làng Ẩm thực Việt Nam hay Nhà hàng Xương Rồng với đội ngũ đầu bếp và phục vụ chuyên nghiệp, ân cần. Ngoài ra, khu du lịch Mắt Xanh còn tự hào bởi khả năng đáp ứng dễ dàng và tổ chức hiệu quả các tour du lịch MICE, các chương trình Team Building nhờ không gian rộng lớn, địa hình phong phú, hệ thống phòng chức năng đa dạng.

Bên cạnh hệ thống hạ tầng tốt, cơ sở vật chất kĩ thuật cao cấp, khu du lịch Mắt Xanh còn cung cấp các dịch vụ vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khoẻ đa dạng và hiện đại như bể bơi ngoài trời, tennis, bida, câu cá, spa,… hay du ngoạn bằng thuyền trên sông ngắm bình minh mỗi buổi sáng sớm, hay hoàng hôn mỗi khi chiều về.

Khu du lịch Dìn Ký: gồm 2 chi nhánh là Dìn Ký Lái Thiêu (nằm trên đường quốc lộ 13, 8/15 Ấp Đông phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận An) và Dìn Ký Cầu Ngang (2/94 Bình Thuận, phường Bình Nhâm, thị xã Thuận An). Khu du Lịch Dìn Ký được thành lập vào năm 2007 tiêu chuẩn 2 sao.

Khu du Lịch Dìn Ký Lái Thiêu có khuôn viên thoáng mát diện tích 3 ha, quang cảnh đồng quê thiên nhiên với những vườn cây thoáng mát, khu du lịch sinh thái sông nước, nhà hàng khách sạn và các dịch vụ vui chơi giải trí hấp dẫn hoàn toàn miễn phí cho du khách khi đến ăn uống và nghỉ khách sạn, đây cũng là cách phục vụ đặt biệt nổi bật của Dìn Ký nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách.

Khu du Lịch Dìn Ký Lái Thiêu mở cửa 24/24 giờ, với khách sạn 90 phòng đầy đủ tiện nghi đạt tiêu chuẩn quốc tế, có nhiều loại phòng cho quý khách lựa chọn, 30 phòng karaoke, 3 nhà hàng với các món ăn Âu, Á, Việt, các món nướng và hải sản tươi sống. Đặc biệt nhà hàng có phòng lạnh lớn, nhỏ phục vụ theo yêu cầu của quý khách, nhà tiệc lớn phục vụ 700 khách, nhà tiệc nhỏ phục vụ 200 khách với âm thanh, ánh sáng và sân khấu hiện đại phục vụ tiệc cưới, họp mặt, sinh nhật, liên hoan, hội nghị …

Khu du lịch Dìn Ký Cầu Ngang trải dài trong không gian rộng, khoáng đãng với diện tích 2ha dọc theo sông Sài Gòn. Khu du lịch đáp ứng nhu cầu ăn uống, vui chơi, giải trí của người dân địa phương, đồng thời sẽ là một bước đệm quan trọng, tạo động lực làm sống lại vườn cây ăn trái Lái Thiêu nổi tiếng một thời, góp phần phát triển ngành du lịch Bình Dương. Sự độc đáo của khu du lịch này là nét dân dã nông thôn của miền quê sông nước Nam bộ được tái hiện sinh động với các dịch vụ chèo xuồng, tham quan đường sông Sài Gòn bằng ca nô, tắm sông, tham quan bè cá, trò chơi dân gian….

  • Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Các khu du lịch nghỉ dưỡng Phương Nam, Green eye, Dìn Ký là 3 khu du lịch kinh doanh sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng có hiệu quả nhất trong giai đoạn 2012 2023. Bằng việc tôn tạo tự nhiên, xây dựng các công trình tham quan, nghỉ dưỡng theo hướng gần gũi với thiên nhiên, mang đậm bản sắc của làng quê Việt Nam, các khu du lịch này đã thu hút được đông đảo khách du lịch trong và ngoài tỉnh.

Khu du lịch Phương Nam và Dìn Ký có thâm niên hoạt động cao nên số khách và doanh thu du lịch khá cao. Trong giai đoạn 2012 2023, khu du lịch Phương Nam thu hút khoảng hàng chục nghìn khách du lịch mỗi năm, doanh thu trung bình dao động trên dưới hàng chục tỉ đồng. Khu du lịch Dìn Ký từ năm 2012 đến gần giữa năm 2023 là khu du lịch có số khách và doanh thu khá cao và ổn định. Trong giai đoạn này trung bình các chi nhánh của Dìn ký đón tổng lượng khách khoảng 600 người/ngày. Doanh thu vài chục tỉ đồng mỗi năm. Tuy nhiên sau tai nạn lật tàu vào ngày 20/05/2023, tình hình kinh doanh của khu du lịch có chiều hướng suy giảm rõ rệt. Việc Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ra quyết định đình chỉ tất cả các hoạt động tại tất cả các chi nhánh của Dìn Ký, một số nhà hàng nổi bị tháo dỡ, các tàu du lịch trên sông không được phép hoạt động, giấy phép kinh doanh bị tạm giữ… nhất là mất lòng tin nơi khách du lịch, làm cho khu du lịch này thiệt hại nặng nề, song song đó, số khách đến tham quan và doanh thu suy giảm rõ rệt.

Khu du lịch Mắt Xanh mới đưa vào hoạt động từ cuối năm 2021 và có khoảng cách khá xa trung tâm tỉnh Bình Dương nên tình hình kinh doanh còn nhiều hạn chế. Được xem là điểm đến mới của du lịch ở Bình Dương nhưng đến thời điểm năm 2023 số khách đến với Mắt Xanh chỉ khoảng gần 8.000 người/năm. Doanh thu chưa được thống kê cụ thể do còn hoàn thiện một số hạng mục kỹ thuật và hạ tầng.

Ước tính doanh thu bình quân của năm 2022 và 2023 trên dưới vài chục tỉ đồng.

2.4. Hiệu quả kinh tế – xã hội, môi trường và chính trị của việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở Bình Dương

2.4.1. Hiệu quả kinh tế

2.4.1.1. Đóng góp vào tổng doanh thu du lịch  Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Cùng với tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Bình Dương đã và đang được khai thác phục vụ cho du lịch. Tuy nhiên, do tài nguyên du lịch tự nhiên không phong phú và bị tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa nên hiệu quả kinh tế không đáng kể (vườn cây ăn trái Lái Thiêu từ năm 2012 đã giảm dần khả năng khai thác du lịch do cây trái chết dần, chết mòn từ tác động tiêu cực của quá trình sản xuất công nghiệp trên địa bàn, đến nay hoạt động du lịch ở đây gần như không còn; Làng tre Phú An mới được khai thác phục du lịch từ năm 2021, Suối trúc mới được du khách các tỉnh thành lân cận biết đến từ năm 2015 và chưa được đầu tư, du lịch trên sông chưa được khai thác độc lập..). Do vậy, có thể nói việc khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tổng doanh thu du lịch của tỉnh, hay nói cách khác doanh thu này có được chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên du lịch nhân văn.

Theo Bà Võ Thị Anh Xuân, Phó Trưởng phòng – Phòng Nghiệp vụ Du lịch, Sở Văn hóa –  Thể thao –  Du lịch Bình Dương, trong giai đoạn 2012 – 2023, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn đóng góp khoảng 75 – 90%  vào doanh thu du lịch của tỉnh. Nhất là từ năm 2020, khi Khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến đi vào hoạt động, doanh thu du lịch của tỉnh tăng vọt và giữ mức khá cao cho đến nay.

Bảng 2.8:  Doanh thu du lịch của Bình Dương giai đoạn 2012 2023

Biểu đồ 2.5: Tổng doanh thu và doanh thu từ khai thác tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2012 – 2023

Như vậy, đối chiếu với tiêu chuẩn về kinh tế của phát triển du lịch bền vững, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở Bình Dương chưa thật sự bền vững vì du khách chủ yếu đến khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi… các địa điểm khác có số khách nhỏ lẻ, doanh thu không cao và rất phân tán.

2.4.1.2. Tác động đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và cơ cấu lao động theo ngành kinh tế

Việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở Bình Dương chỉ mới chuyển biến tích cực trong những năm gần đây, do vậy sự tác động đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và cơ cấu lao động theo ngành kinh tế là có nhưng cũng không đáng kể.

Kể từ khi các di tích – danh thắng được công nhận cấp quốc gia, cấp tỉnh và được đầu tư kinh phí tôn tạo, trùng tu; các khu du lịch, vui chơi, giải trí được đầu tư xây dựng các hạng mục tầm cỡ; lượng khách du lịch tăng vọt; cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở Bình Dương đã có sự thay đổi theo chiều hướng tăng tỉ trọng của lao động trong ngành dịch vụ, kéo theo đó là sự gia tăng tỉ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Theo số liệu của Cục thống kê Bình Dương, trong giai đoạn 2012 2023, số cơ sở kinh doanh du lịch, số người kinh doanh du lịch và đóng góp của ngành du lịch vào GDP của tỉnh đều có sự gia tăng.

Tỉ trọng lao động ngành dịch vụ đã tăng từ 19,5% (năm 2012) lên 23,2% (năm 2023). Song song đó, cơ cấu kinh tế theo ngành cũng có sự chuyển dịch tích cực, tỉ trọng của dịch vụ trong GDP tăng từ 25,2% (năm 2012) lên 33,7% (năm 2023).

Bảng 2.9: Số cơ sở, người kinh doanh du lịch và đóng góp của ngành du lịch  vào GDP Bình Dương giai đoạn 2012 – 2023

Qua số liệu trên ta thấy, đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế của tỉnh vẫn còn thấp, chưa đáp ứng vai trò và vị trí của một ngành kinh tế quan trọng theo định hướng phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, sự gia tăng của ngành du lịch (trong đó có sự đóng góp đáng kể từ việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn) đã kéo theo sự phát triển nhất định của các ngành sản xuất vật chất, thương mại và dịch vụ khác. Từ đó, ít nhiều tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và cơ cấu kinh tế theo lao động của tỉnh.

Đối chiếu với tiêu chuẩn về kinh tế của phát triển du lịch bền vững, hiệu quả kinh tế của việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2012 – 2023, tuy có tăng nhưng còn chậm và thấp. Các tài nguyên chưa thật sự được khơi dậy hết tiềm năng vốn có vào phát triển kinh tế, chưa làm chuyển biến mạnh mẽ bộ mặt kinh tế của tỉnh. Trong tương lai, khi có sự quy hoạch phát triển đồng bộ giữa các yếu tố tác động đến sự phát triển du lịch và với các ngành kinh tế khác, hiệu quả này mới có thể thể hiện rõ rệt và tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.

2.4.2. Hiệu quả xã hội Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

2.4.2.1. Đối với chất lượng cuộc sống

Bắt đầu được chú ý khai thác trong những năm gần đây, tuy không mang lại hiệu quả vượt bậc, song tài nguyên du lịch nhân văn vẫn mang lại ảnh hưởng tích cực nhất định đối với chất lượng cuộc sống của người dân địa phương.

Về mặt thỏa mãn nhu cầu du lịch của người dân trong và ngoài tỉnh: trong giai đoạn 2012 – 2023, nhất là từ năm 2020 đến nay, Bình Dương đã và đang trở thành một điểm đến mới của Đông Nam Bộ. Các tài nguyên du lịch nhân văn từng bước được đánh thức và đầu tư phát triển mạnh mẽ như nhà tù Phú Lợi, chùa Hội Khánh, chùa Thái Sơn – núi Cậu – Lòng hồ Dầu Tiếng, chùa Châu Thới, nhà cổ họ Trần, Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến… đã và đang tạo được tiếng vang đối với du khách gần xa, thỏa mãn được nhu cầu du lịch ngày càng tăng của đại bộ phận người dân trong tỉnh và các tỉnh thành lân cận.

Theo ước tính của Sở Văn hóa –  Thể thao –  Du lịch Bình Dương, trong giai đoạn 2012 – 2023, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh đã từng bước đáp ứng được phần nào nhu cầu du lịch ngày càng tăng của người dân trong tỉnh. Ước  tính hơn một nửa dân số của tỉnh đi du lịch đến các điểm du lịch nhân văn mỗi năm, đông nhất là đến Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến và các chùa nổi tiếng như chùa Bà, chùa Hội Khánh, chùa Châu Thới… Bên cạnh đó, từ khi khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến đi vào hoạt động, đại bộ phận người dân thường quay về tham quan, vui chơi, giải trí tại đây thay vì đến các khu du lịch khá xa của Tp. Hồ Chí Minh, du lịch biển Vũng Tàu… Do khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến có vị trí gần với các di tích – danh thắng, công trình kiến trúc và tôn giáo trên địa bàn Thành phố Thủ dầu một nên khách tham quan khu du lịch này xong thường có xu hướng ghé thăm các địa danh nổi tiếng trên. Điều này làm cho hoạt động du lịch trong tỉnh ngày càng sôi động hơn, qua đó thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu du lịch nói riêng và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trong tỉnh nói chung.

Về mặt tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân: cùng với việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ phát triển du lịch, đời sống của người dân tại các điểm du lịch được cải thiện đáng kể thông qua sự gia tăng về thu nhập và việc làm. Một đặc điểm nổi bật của hầu hết các điểm khai thác tài nguyên du lịch nhân văn của Bình Dương là tạo sự gắn kết với hoạt động kinh tế của cộng đồng địa phương. Để phục vụ hoạt động tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí của du khách, hàng loạt các dịch vụ ăn uống, mua sắm, lưu trú… mọc lên quanh các địa điểm du lịch, tạo việc làm thời vụ hoặc thường xuyên với thu nhập tương đối cao cho mọi tầng lớp tham gia.

Điển hình vào dịp tết Nguyên Đán, tại chùa Bà, chùa Hội Khánh trên địa bàn Thành phố Thủ dầu một, chùa Thái Sơn ở huyện Dầu Tiếng, chùa Châu Thới ở thị xã Dĩ An lượng khách tham quan từ vài chục đến vài trăm nghìn người, kéo theo hoạt động kinh doanh sầm uất của đại bộ phận người dân xung quanh. Các dịch vụ giữ xe, ăn uống, lưu trú, buôn bán… nở rộ tạo việc làm thời vụ cho đông đảo người dân và mang lại thu nhập khá cao. Tại khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến, dịch vụ xe ôm, quán ăn, lưu trú, giữ xe… hoạt động nhộn nhịp vào dịp cuối tuần và các ngày lễ lớn. Do đường dẫn vào cổng khu du lịch dài hơn 2km và thường quá tải chỗ gửi xe vào ngày cao điểm, giá đồ ăn và lưu trú khá cao, nên để đáp ứng nhu cầu của du khách tham quan gần xa hàng loạt dịch vụ ăn theo mọc lên, tạo nhiều việc làm và mang lại thu nhập đáng kể cho người dân địa phương, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Tuy không có con số thống kê chính thức về số lượng người lao động được tạo việc làm và thu nhập tăng thêm từ việc khai thác du lịch tại các điểm tài nguyên du lịch nhân văn, song có thể khẳng định rằng hiệu quả đối với chất lượng cuộc sống của khai thác tài nguyên du lịch nhân văn là tương đối lớn.

Đối chiếu với tiêu chuẩn về hỗ trợ nền kinh tế địa phương (nguyên tắc số 5), thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương (nguyên tắc số 6) của 10 nguyên tắc phát triển du lịch bền vững, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Bình Dương đã đáp ứng được tính bền vững về xã hội. Trong tương lai, khi các tài nguyên này được đầu tư khai thác mạnh hơn nữa sẽ đóng góp ngày càng cao vào thu nhập bình quân đầu người nói riêng và sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nói chung.

2.4.2.2. Đối với việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa

Hầu hết tài nguyên du lịch nhân văn của Bình Dương là các di tích – danh thắng và các công trình kiến trúc nghệ thuật và tôn giáo. Do vậy, khi khai thác phục vụ du lịch phải chú ý nhiều đến việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa.

Trong giai đoạn 2012 – 2023, ngoài các di tích Địa đạo Tam giác sắt, Chiến khu Đ, Sở chỉ huy tiền Phương chiến dịch Hồ Chí Minh, chưa chính thức được khai thác phục vụ du lịch, các tài nguyên còn lại đã và đang được khai thác ở nhiều mức độ.

Điều này có nghĩa là ba di tích trên vẫn còn lưu giữ được nguyên bản các giá trị lịch sử, hóa ẩn chứa trong nó, chưa hề bị mai một do tác động tiêu cực của hoạt động du lịch. Tuy nhiên, việc giới thiệu, nhân rộng ý nghĩa của các giá trị này đến đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh lại không thực hiện được. Tức là mục tiêu phát huy các giá trị văn hóa vẫn chưa đạt được. Hay nói cách khác, ba di tích này chỉ được bảo tồn chứ chưa được phát huy các giá trị văn hóa ẩn chứa trong nó.

Các tài nguyên còn lại tùy vào mức độ khai thác mà việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa ở những mức độ khác nhau.

Các di tích – danh thắng như nhà tù Phú Lợi, chùa Thái Sơn núi Cậu, chùa núi Châu Thới, tuy đã được khai thác phục vụ du lịch từ lâu nhưng do có ban quản lý và được đầu tư trùng tư, bảo tồn nên vẫn giữ gìn được nét nguyên bản, không làm xâm hại các giá trị vật chất và tinh thần ẩn chứa trong nó. Về khía cạnh phát huy các giá trị văn hóa, các di tích – danh thắng này tuy đã được công nhận cấp quốc gia và cấp tỉnh từ khá lâu nhưng vẫn chưa được nhiều du khách các tỉnh thành lân cận biết đến. Những nét độc đáo về kiến trúc và giá trị lịch sử của chùa Thái Sơn núi Cậu, chùa núi Châu Thới, những bằng chứng lịch sử về tội ác của chế độ Mỹ ngụy ở nhà tù  Phú Lợi vẫn chưa được giới thiệu rộng rãi đến du khách, do chưa được đầu tư đồng bộ về hạ tầng và chưa có chiến lược quảng bá hiệu quả. Do vậy, mục tiêu phát huy các giá trị văn hóa sâu sắc mà các di tích – danh thắng lưu giữ từ bấy lâu nay vẫn chỉ đạt được ở mức độ nhất định, chưa thể xem là thành công được.

Các công trình tôn giáo như chùa Hội Khánh và Lễ hội chùa Bà trong những năm qua không ngừng thu hút khách du lịch. Chùa Hội Khánh không ngừng được tôn tạo nhưng vẫn giữ được nét cổ kính của một trong những ngôi chùa cổ nhất Gia Định. Bên cạnh đó, chùa còn tổ chức nhiều hoạt động Phật giáo nổi bật và có nhiều hoạt động xã hội tích cực nên vừa bảo tồn vừa phát huy các tinh hoa văn hóa vốn được xây dựng và lưu giữ gần 200 năm nay. Lễ hội chùa Bà nổi tiếng khắp vùng Đông Nam Bộ và ngày càng thu hút đông đảo du khách gần xa tham quan, viếng bái. Lễ hội chùa Bà đã giữ gìn nét đẹp văn hóa cho người Bình Dương nói riêng và người Việt Nam nói chung trong việc lễ chùa đầu năm với bao mong muốn tốt đẹp cho một năm mới sắp đến. Tuy nhiên, việc đổi số tiền thật khá lớn để “mượn vàng” của Bà làm ăn và cảnh chen lấn giành lộc của Bà trong đám rước kiệu phần nào làm móp méo ý nghĩa của lễ hội, mai một đi ý nghĩa tốt đẹp vốn có của lễ hội. Hay nói cách khác các giá trị văn hóa chưa được phát huy theo đúng hướng và đúng cách. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Nhà cổ họ Trần đã được công nhận từ năm 2005, có người trông coi và được Ban quản lý di tích danh thắng Bình Dương trực tiếp quản lý. Đến nay, hai ngôi nhà vẫn không ngừng được trùng tư và xây dựng thêm hạ tầng để phục vụ du khách. Kiến trúc và các đồ vật trong nhà luôn được giữ gìn cẩn thận, bảo tồn đến mức tốt nhất những giá trị văn hóa từ hơn 100 năm trước. Song do những hạn chế trong việc khai thác phục vụ du lịch mà đến nay những giá trị độc đáo về kiến trúc và lịch sử của hai ngôi nhà vẫn chưa đến được với đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh. Có thể nói, các giá trị văn hóa tại nhà cổ họ Trần chỉ được gìn giữ chứ chưa được phát huy.

Các làng nghề ở Bình Dương đã có từ lâu đời, bước đầu được khai thác phục vụ du lịch trong những năm gần đây. Do hoạt động du lịch chưa mạnh nên các làng nghề vẫn giữ được nét đặc trưng trong sản xuất. Đây là một yếu tố thuận lợi cho việc giữ gìn những giá trị vật chất và văn hóa nguyên bản của nghề thủ công truyền thống của tỉnh, nhưng cũng là một bước cản lớn trong việc bảo tồn, phát huy để các nghề thủ công này “sống” được cùng với sự phát triển nhanh chóng theo hướng hiện đại của xã hội. Du khách đến hầu hết chỉ tham quan và vẫn chưa được tham quan cặn kẽ, có đầu đuôi quy trình sản xuất gốm, sơn mài, điêu khắc gỗ mà thay vào đó chủ yếu là xem nhà xưởng, các sản phẩm đã hoàn thành, nên chưa hình thành tình cảm và ý thức nhiều về vấn đề bảo tồn và phát triển các nghề thủ công này.

Các khu du lịch vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng như Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến, Phương Nam, Dìn Ký, Green eye được xây dựng theo kiểu gần gũi với làng quê thể hiện lối sống đơn giản gần với thiên nhiên của người Việt Nam. Các khu du lịch này không ngừng được đầu tư và hoạt động có hiệu quả (trừ khu du lịch Dìn Ký) nên đã và đang góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam.

Nhìn chung, các tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Bình Dương đều giữ gìn được những nét truyền thống và bản chất vốn có kể từ khi hình thành. Song việc phát huy các giá trị này vẫn còn nhiều hạn chế do hoạt động du lịch chưa đạt hiệu quả cao. Đối chiếu với nguyên tắc sử dụng nguồn tài nguyên một cách bền vững (nguyên tắc 1), phát triển phải gắn liền với bảo tồn tính đa dạng (nguyên tắc 7),  marketing du lịch một cách có trách nhiệm (nguyên tắc 9), của 10 nguyên tắc phát triển bền vững, việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch của tỉnh Bình Dương vẫn chưa thật sự bền vững.

2.4.3. Hiệu quả môi trường Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Vấn đề bảo vệ môi trường du lịch xanh – sạch – đẹp, hướng tới mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững là vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu trong khai thác tài nguyên phục vụ du lịch. Môi trường có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong phát triển du lịch, bảo vệ môi trường chính là chìa khoá để phát triển du lịch bền vững.

Không nằm ngoài xu hướng chung đó, trong khai thác tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch, Bình Dương luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn 2012 – 2023, nhiều tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh đã và đang  được khai thác có hiệu quả kinh tế nhất định. Vấn đề bảo vệ môi trường trong du lịch cũng được ban quản lý các điểm du lịch chú ý, song hiệu quả đạt được rất khác nhau.

Cụ thể là tại các chùa, khách hành hương và khách tham quan tăng vọt vào các ngày lễ, tết, mang theo mâm quả, nhang đèn cúng bái, cùng sự nở rộ của các dịch vụ ăn uống, bán lẻ hàng hóa… làm cho quang cảnh xung quanh và trong chùa trở nên kém thẩm mỹ.

Tại các làng nghề, nhất là làng nghề gốm sứ, tình trạng ô nhiễm không khí diễn ra khá nghiêm trọng do việc đốt gỗ, củi nung gốm. Sở Tài nguyên – Môi trường và Sở VHTT&DL  tỉnh đã có những văn bản mang tính pháp lý yêu cầu các đơn vị sản xuất di dời ra khu vực xa khu dân cư hoặc chuyển sang dùng gas để nung. Gần đây khi du lịch làng nghề bắt đầu nở rộ, vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường càng được chú ý hơn để phục vụ khách tham quan. Do vậy, về cơ bản tình trạng môi trường ở các làng nghề đã được cải thiện đáng kể.

Tại khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến, dù đón lượng khách lớn, nhưng do có cơ sở hạ tầng tốt, công tác tổ chức quản lý chặt chẽ nên luôn đảm bảo được tình trạng vệ sinh khá tốt. Bên cạnh đó, trong khu du lịch này đã và đang trồng rất nhiều cây xanh để bù đắp lại cho các công trình bêtông cốt thép làm không gian ở đây khá thoáng mát, tạo cảm giác thoải mái cho du khách, đồng thời tác động ít nhiều đến ý thức của du khách về việc giữ gìn mảng xanh cho không khí trong lành.

Tại các khu du lịch Phương Nam, Dìn Ký, Green eye, do đón lượng khách rải rác trong năm và kinh doanh loại hình du lịch gần với thiên nhiên nên vấn đề môi trường được quan tâm hàng đầu. Do vậy, sự trong lành của môi trường ở đây luôn ở trong tình trạng tốt. Du khách đến đây không những được thỏa mãn về nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, mà còn được nâng cao hiểu biết, nhận thức về việc bảo vệ môi trường chung cho cộng đồng. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Đối chiếu với nguyên tắc giảm tiêu thụ quá mức và xả thải nhằm giảm chi phí khôi phục các suy thoái môi trường, đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng du lịch (nguyên tắc 2), của 10 nguyên tắc phát triển bền vững, việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch của tỉnh Bình Dương đã đạt được sự bền vững nhưng ở một mức độ còn hạn chế.

2.4.4. Hiệu quả chính trị

Với nhiều di tích lịch sử và nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch của tỉnh Bình Dương đã và đang mang lại những hiệu quả chính trị khá tốt.

Các di tích gắn với cách mạng như nhà tù Phú Lợi, chùa Thái Sơn… vừa giới thiệu đến du khách tinh thần anh dũng của người dân Bình Dương nói riêng và người Việt Nam nói chung trong kháng chiến, vừa góp phần giúp du khách nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, tự hào dân tộc. Hoạt động du lịch tại các địa điểm này như một thông điệp hòa bình để du khách nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của độc lập tự do và cuộc sống bình yên, không chiến tranh, không mất mát.

Các điểm tài nguyên tôn giáo như chùa Hội Khánh và lễ hội chùa Bà vừa duy trì nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam vừa đóng góp lớn cho lợi ích xã hội thông qua các hoạt động từ thiện thường xuyên và có quy mô lớn. Thông qua việc khai thác phục vụ du lịch, các điểm du lịch này đã và đang góp phần đảm bảo an sinh xã hội, tạo môi trường ổn định để ngành du lịch nói riêng và các ngành kinh tế khác của Bình Dương phát triển ổn định.

Nhìn chung, về hiệu quả chính trị, việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch của Bình Dương đã đạt được thành tựu tương đối lớn, xứng đáng với tiềm năng vốn có của mình.

2.5. Đánh giá chung về hiện trạng bảo tồn và khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở Bình Dương

Từ các kết quả nghiên cứu trên, người nghiên cứu tiến hành đánh giá tổng quan về giá trị nhân văn, hiệu quả kinh tế, văn hóa – xã hội, môi trường của các tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác, qua đó phân nhóm các tài nguyên làm cơ sở cho việc xây dựng định hướng bảo tồn trong tương lai.

Bảng 2.10: Đánh giá chung về hiện trạng khai thác các điểm du lịch

Qua bảng trên, có thể phân các điểm du lịch thành các nhóm sau:

Nhóm 1: các điểm du lịch chưa được đưa vào khai thác, các tài nguyên vẫn còn ở dạng tiềm năng. Hiệu quả kinh tế – môi trường – chính trị thấp. Hiệu quả xã hội về chất lượng cuộc sống cộng đồng địa phương thấp, về giữ gìn các giá trị truyền thống cao nhưng phát huy thấp. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

Nhóm này gồm: Địa đạo Tam giác sắt, Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh, Chiến khu Đ.

Nhóm 2: các điểm du lịch mới được đưa vào khai thác, tài nguyên chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng. Hiệu quả kinh tế – môi trường – chính trị thấp. Hiệu quả xã hội về chất lượng cuộc sống cộng đồng địa phương thấp, về giữ gìn các giá trị truyền thống cao nhưng phát huy thấp.

Nhóm này gồm: các làng nghề truyền thống

Nhóm 3: các điểm du lịch mới được đưa vào khai thác có hiệu quả kinh tế – xã hội – môi trường – chính trị trung bình đến cao.

Nhóm này gồm: khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến, Dìn Ký, Phương Nam, Green eye.

Nhóm 4: các điểm đã đưa vào khai thác khá lâu nhưng do không thu phí nên hiệu quả kinh tế chưa cao, tài nguyên chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng. Hiệu quả kinh tế trung bình, hiệu quả xã hội trung bình đến cao, hiệu quả môi trường thấp, hiệu quả chính trị cao.

Nhóm này gồm: chùa Thới Sơn, chùa núi Châu Thới, chùa Hội Khánh, chùa Bà, nhà cổ họ Trần, nhà tù Phú Lợi, chợ Thủ Dầu Một. Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Giải pháp bảo tồn tài nguyên du lịch ở Bình Dương

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Bình Dương […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993