Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, các giao dịch kinh doanh, thương mại, dân sự ngày càng phát triển đa dạng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Nhu cầu vay vốn của các cá nhân, doanh nghiệp để phát triển kinh doanh, sản xuất ngày càng tăng đã làm cho thị trường tín dụng trở nên sôi động. Từ nhu cầu thực tế cần có một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, pháp luật nước ta đã có những quy định khá cụ thể về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng tín dụng.

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ngày càng phong phú, đa dạng, một trong số những biện pháp phổ biến mà các tổ chức tín dụng áp dụng để hạn chế rủi ro, bảo đảm việc thực hiện hợp đồng tín dụng là biện pháp bảo lãnh. biện pháp bảo lãnh đã được quy định trong (03) ba Bộ luật dân sự năm 1995, 2005 (đã hết hiệu lực), Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành về giao dịch bảo đảm như “Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chinh phủ về giao dich bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐCP ngày 22/01/2012 về sửa đổi, bổ sung môt số điều của Nghi ̣đinh ̣ 163/2006/NĐCP, Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đăng ký giao dich bảo đảm và Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 về đăng ký giao dich bảo đảm”.

Trải qua hơn 17 năm thi hành, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP đã góp phần tích cực hoàn thiện hành lang pháp lý về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, làm tăng cơ hội tiếp cận cho người dân trong tham gia quan hệ nghĩa vụ, trong tìm kiếm nguồn vốn và thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ kinh tế – xã hội liên quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh Bộ luật dân sự năm 2015 và hệ thống pháp luật có liên quan có nhiều chính sách, quy định mới trong điều chỉnh quan hệ dân sự, sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng, có tính hội nhập ngày càng cao của kinh tế – xã hội và một số quy định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP còn những điểm chưa thực sự phù hợp dẫn tới một yêu cầu khách quan được đặt ra là cần sửa đổi Nghị định này để bảo đảm hơn nữa về sự đồng bộ, thống nhất, về bảo đảm hiệu lực và tính khả thi trong quy định của pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Tại Phiên họp thường kỳ tháng 4 năm 2020, Chính phủ đã quyết nghị thống nhất thông qua Đề nghị xây dựng về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ “nhằm kịp thời hướng dẫn áp dụng cơ chế pháp lý thi hành quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật khác liên quan về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; khắc phục kịp thời những vướng mắc, bất cập phát sinh trong quy định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; tạo điều kiện thuận lợi, giảm rủi ro pháp lý, chi phí cho các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và các chủ thể khác có liên quan”.

Pháp luật về biện pháp bảo lãnh nói chung và biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng nói riêng, qua một thời gian ban hành và thực hiện trên thực tế thì cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho các chủ thể khi xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và nghĩa vụ phát sinh trên thực tiễn, cũng như gây lúng túng cho các cơ quan chức năng khi áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp.

Tác giả chọn phân tích những vụ việc phát sinh thưc tế nhằm phản ánh rõ nét thực trạng thi hành pháp luật, đánh giá nguyên nhân và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng. Đây là một công việc cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong thực tế và lý thuyết ở thời điểm hiện tại.

Vì các lý do trên mà tác giả chọn “Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế của mình. Hy vọng đề tài sẽ có những đóng góp về mặt lý luận và cũng như hoàn thiện khung pháp lý về biện pháp bảo đảm trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với các hợp đồng tín dụng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến bảo lãnh, đã có những công trình ở các cấp độ khác nhau, nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, hoặc đi sâu vào nghiên cứu các quy định về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, bảo lãnh vay vốn tại ngân hàng cũng như phương hướng hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Trên thực tế đã có một số tài liệu, bài viết, bình luận, nghiên cứu liên quan đến biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng như: Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Sách “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong của tổ chức tín dụng Việt Nam và một số nước trên thế giới” của tác giả Lê Thị Thu Thủy, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016. Quyển sách trình bày những vấn đề lý luận về rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm tai nước ta.

Sách “Chín biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng” của tác giả Trương Thanh Đức, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2019. Trong quyển sách này, tác giả đã phân tích, luận giải các biện pháp bảo đảm cả về quy định pháp lý và khả năng áp dụng trên thực tiễn, đồng thời gợi mở phương pháp thực hiện cho các chủ thể tham gia giao dịch này.

Bài viết của tác giả Nguyễn Thùy Trang “Một số nội dung pháp lý liên quan tới bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng”, đăng trên Tạp chí Ngân hàng Số 10/2012, tr.26-31. Bài viết phân tích một số quy định về chế định bảo lãnh, những vấn đề pháp lý như khái niệm, đặc điểm của biện pháp này và một số vướng mắc khi áp dụng trên thực tiễn được các nhà nghiên cứu và áp dụng pháp luật quan tâm. Bên cạnh những vướng mắc khi áp dụng biện pháp bảo lãnh, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong hợp đồng bảo lãnh; đảm bảo nguyên tắc áp dụng luật được thống nhất trong quá trình xét xử.

Bài viết của tác giả Hồ Quang Huy “Hoàn thiện các quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và  Pháp luật – Bộ Tư pháp, số chuyên đề tháng 5/2017, tr. 18-21. Tác giả nêu lên một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn thi hành pháp luật trong hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng liên quan đến khía cạnh pháp lý của biện pháp bảo lãnh trong thời gian qua. Đồng thời, tác giả đề cập đến kinh nghiệm của một số nước như Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, Campuchia và Thái Lan trong việc quy định về biện pháp bảo lãnh. Qua đó đề xuất những giải pháp để góp phần khắc phục vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lãnh.

Bài viết của tác giả Đoàn Thị Phương Diệp và Dương Kim Thế Nguyên “So sánh chế định bảo lãnh trong Bộ luật dân sự năm 2015 và pháp luật dân sự Pháp”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp, 2018, Số 7 (359), tr. 22-28. Bài viết trình bày sự khác biệt giữa quy định của pháp luật nước ta và luật của Cộng hòa Pháp khi so sánh mối quan hệ về thực hiện nghĩa vụ giữa bên có quyền với bên có nghĩa vụ và bên bảo lãnh.

Bài viết của tác giả Phan Huy Hồng “Bảo lãnh trong Bộ luật dân sự Đức và mấy liên hệ với bảo lãnh trong Bộ luật dân sự Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo quốc tế, Trường Đại học Luật TP. HCM, 2014, tr. 215-229. Bài viết giới thiệu những nội dung cơ bản của chế định bảo lãnh trong luật Đức, trên cơ sở phân tích và trình bày các nội dung cơ bản của chế định bảo lãnh trong Bộ luật dân sự Đức, bài viết góp phần chỉ ra các nguyên nhân của sự tồn tại bền vững của quy định pháp luật ở Đức làm kinh nghiệm cho các nhà lập pháp Việt Nam.

Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng – thực trạng và giải pháp” của tác giả Thân Thị Kim Nga (2016), Đại học Cần Thơ. Đề tài của tác giả Thân Thị Kim Nga đi sâu vào phân tích, so sánh các quy định pháp luật Việt Nam, đưa ra những bất cập hạn chế trong việc bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng và một số giải pháp hoàn thiện. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Luận án Tiến sĩ Luật học “Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh” của tác giả Phạm Văn Đàm (2016), “Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam”. Tác giả nghiên cứu về lý luận nội hàm của biện pháp bảo lãnh, cũng như pháp luật liên quan đến bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng thông qua biện pháp bảo lãnh.

Nghiên cứu này tập trung vào bản chất pháp lý của biện pháp đối nhân và tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng hiện tại để đề xuất các giải pháp hoàn thiện  quy đinh ̣ pháp luật.

Luận án Tiến sĩ Luật học “Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng từ thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao” của tác giả Phạm Văn Lợi (2020), “Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam”. Tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng quy đinh ̣ pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy đinh ̣ pháp luật.

Những năm gần đây, bên cạnh sự phát triển của pháp luật dân sự nước ta thì quy định về biện pháp bảo lãnh cũng có những thay đổi, nhưng hiện nay vẫn còn tồn tại những vướng mắc, cách hiểu và áp dụng vẫn chưa được thống nhất, đặc biệt trong bảo đảm thực hiện các hợp đồng tín dụng. Do đó, cần thiết phải có những nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống pháp luật về biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng cả về lý luận lẫn thực tiễn.

3. Mục tiêu của luận văn Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

3.1. Mục tiêu tổng quát:

Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh bằng tài sản. Nêu lên thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về vấn đề này. Trên cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng.

3.2. Mục tiêu cụ thể:

Nhằm đạt được mục tiêu tổng quát, luận văn xác định rõ mục tiêu cụ thể như sau:

  • Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với hợp đồng tín dụng.
  • Làm rõ thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với hợp đồng.
  • Đề xuất những định hướng và giải pháp đối với những quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với hợp đồng tín dụng.

4. Câu hỏi nghiên cứu:

Để đạt được mục tiêu đặt ra khi nghiên cứu đề tài, luận văn cần trả lời được một số câu hỏi sau:

  • Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng được quy định như thế nào? biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng có gì khác so với bảo lãnh ngân hàng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác?
  • Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng trong thời gian qua đã ổn định và hiệu quả chưa? Những bất cập, vướng mắc nào phát sinh trong khi áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng vào thưc tiêñ ? Nguyên nhân phát sinh này là gì?
  • Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng cần hoàn thiện theo nguyên lý nào? Để hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng cần những giải pháp cụ thể nào?

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là những khái quát pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng (BBL dùng tài sản của chính họ thế chấp, cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, có thể hiểu là “bảo lãnh đối vật trong đối nhân”); hệ thống pháp luật và thực trạng thi hành pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng.

5.2 Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này người viết tập trung vào nghiên cứu những vấn đề pháp lý về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng mà ở đây là hợp đồng cho vay được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo lãnh. Bao gồm các nội dung như: chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh, phạm vi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, hình thức và hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh, trách nhiệm của bên bảo lãnh và xử lý tài sản bảo đảm cho nghiã vụ bảo lãnh.

Giới hạn nghiên cứu của đề tài là biện pháp bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng trong nước, không mang yếu tố nước ngoài; giữa các cá nhân, tổ chức và các tổ chức tín dụng đối với các khoản vay phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Không bao gồm bảo lãnh hợp đồng dân sự giữa các cá nhân hay giữa các cá nhân và pháp nhân không nhằm mục đích sinh lời.

Luận văn sử dụng các quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn hiệu lực ở thời điểm nghiên cứu.

Thông qua đề tài này, người viết sẽ phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật về bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng; thực trạng áp dụng pháp luật ở thời điểm hiện nay; góp phần phát huy giá trị của biện pháp bảo lãnh trong các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết tốt các nội dung của nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

  • Phương pháp phân tích – tổng hợp: Thông qua phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi thành các nhóm vấn đề, được phân tích, khái quát thành các luận điểm về tình hình nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật. Phương pháp này được sử dụng hầu hết ở các Chương 1, 2, 3.
  • Phương pháp luật so sánh: Sử dụng phương pháp này để xây dựng các khái niệm, phân tích các quy định pháp luật. Phương pháp này được sử dụng trong Chương 1 của luận văn.
  • Phương pháp phân tích tình huống – bản án: Thông qua nghiên cứu một số trường hợp thực tế để đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với hợp đồng. Phương pháp này được sử dụng trong Chương 2 của luận văn.
  • Tác giả đã áp dụng phương pháp nghiên cứu và so sánh các quy định pháp luật trong quá trình nghiên cứu về lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam. Mục tiêu của phương pháp này là tìm hiểu các hạn chế và vấn đề chưa hoàn thiện trong lĩnh vực bảo lãnh pháp luật của Việt Nam và từ đó đưa ra các giải pháp để khắc phuc̣ và hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành. Phương pháp này đã được áp dụng để nghiên cứu nội dung trong Chương 1 và Chương 2.
  • Phương pháp phân tích đã được tác giả áp dụng trong toàn bộ ba chương. Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích các khái niệm và đặc trưng pháp lý liên quan đến bảo lãnh và quy định của pháp luật hiện hành về bảo lãnh trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng. Trong Chương 2 và Chương 3, tác giả tiếp tục sử dụng phương pháp phân tích để nghiên cứu và phân tích một số tình huống cụ thể liên quan đến vấn đề bảo lãnh bằng tài sản nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng. Qua việc phân tích này, tác giả tìm hiểu và làm rõ những khó khăn và vướng mắc từ tình hình thực tế và thực tiễn trong việc thực hiện bảo lãnh. Từ đó, tác giả rút ra nguyên nhân và điều kiện dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong việc bảo lãnh để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng tại Việt Nam. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất sửa đổi và bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh bằng tài sản, nhằm đảm bảo hiệu quả trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.
  • Tác giả cũng sử dung ̣ phương pháp tổng hợp trong toàn bộ luận văn để tổng hợp, khái quát lại những vấn đề đã nêu ra, làm cơ sở đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng.

7. Đóng góp của luận văn

Luân văn đa  it nhiều làm rõ khái quát về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng. biện pháp bảo lãnh trong hợp đồng tín dụng là áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự. Bảo lãnh là sự cam kết của người bảo lãnh để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng, dựa trên nguyên tắc trái quyền và dựa trên thỏa thuận giữa người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Trách nhiệm tài sản của người bảo lãnh chỉ được áp đặt khi người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của người nhận bảo lãnh, pháp luật cũng cần có các quy định cụ thể và linh hoạt về vấn đề này.

Luân văn giúp đánh giá thực trạng quy đinh pháp luật và áp dụng pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng, xác định các hạn chế và nguyên nhân liên quan đến nhận thức và quá trình thực thi pháp luật. Đề xuất môt ṣố giải pháp nhằm cải thiện và tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo lãnh tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng.

8. Bố cục của luận văn

Ngoài lời mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương:

  • Chương 1: Khái quát biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
  • Chương 2: Thực trạng pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
  • Chương 3: Kiến nghi ̣hoàn thiện các quy đinḥ pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng

CHƯƠNG 1. KHÁ I QUÁ T BIỆN PHÁP BẢO LÃNH BẰNG TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

HĐTD là một dạng cụ thể của hợp đồng vay có tài sản đảm bảo đã được quy định trong Bộ luật dân sự. Vì vậy, hợp đồng tín dụng vừa chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự, vừa phải chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về tín dụng ngân hàng. Theo Quy chế về hoạt động cho vay kèm theo Thông tư số 39/2016/TT- NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

Khác với quan hệ cho vay thông thường, quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng tiềm ẩn độ rủi ro cao như rủi ro phát sinh do khách hàng vay không thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng … nên hợp đồng tín dụng ngân hàng phải có những điều kiện chặt chẽ về chủ thể, hình thức hợp đồng, thời hạn, mục đích sử dụng tiền vay và luôn có lãi suất.

  • Các điều kiện được áp dụng với các đối tượng bao gồm:

Điều kiện chung: chủ thể là pháp nhân và cá nhân có năng lực hành vi và năng lực pháp luâṭ: giấy tờ, tài liệu xuất trình (quyết định thành lập, điều lệ, đăng

ký kinh doanh, người đứng đầu, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, …); có mục đích vay vốn hợp pháp ghi trong hợp đồng và được thẩm định.

Điều kiện riêng: Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết; bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi; bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Ngoài ra, cần đảm bảo điều kiện đươc ̣ ghi nhận trong hợp đồng có thỏa thuân trước đó.

Trên cơ sở lý luận chung nhất về hợp đồng trong dân sự và trong lĩnh vực chuyên ngành, có thể hiểu khái niệm về hợp đồng tín dụng như sau:

HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các tổ chức tín dụng (bên cho vay) với pháp nhân, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

Đối chiếu với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng.

Một trong những đặc điểm nổi bật của hợp đồng tín dụng là hợp đồng tín dụng thường có những biện pháp bảo đảm đi kèm muc đ̣ich́ đảm bảo quyền lợi cho bên vay, đảm bảo việc thu hồi vốn vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, đề phòng các trường hợp rủi ro có thể xảy ra. Pháp luật dành quyền chủ động tự lựa chọn biện pháp bảo đảm sao cho phù hợp với nhu cầu của các bên tham gia giao dịch, chỉ có một số tài sản đặc thù pháp luật mới quy định cụ thể biện pháp bảo đảm và biện pháp bảo đảm cũng có thể là điều kiện bắt buộc theo quy định của pháp luật. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Vấn đề đặt ra trước hết là cần phải xây dựng một hệ thống các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng một cách hữu hiệu để ngăn ngừa sự phát sinh những tác nhân có thể gây nên rủi ro tín dụng. Cần thiết phải có đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ pháp lý với kiến thức nghiệp vụ chuyên sâu, nắm vững các quy định của pháp luật, cũng như những nét đặc thù riêng về hợp đồng tín dụng, đồng thời phải có đạo đức và ý thức trách nhiệm cao để tiến đến giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng cũng như hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cho các bên trong quan hệ tín dụng. Ngoài ra, đòi hỏi bên cho vay cần phải áp dụng các biện pháp bảo đảm để thu hồi được tiền vay, dựa vào đó bên có quyền thực hiện được quyền của mình, bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Trừ những khách hàng có uy tín cao, tổ chức tín dụng cho vay cần thông qua các biện pháp bảo đảm để dự phòng cho những trường hợp khách hàng vay không thể trả nợ bằng khả năng tài chính của mình được. Để bảo đảm khả năng thu hồi nợ, chủ nợ thường yêu cầu có sự bảo đảm đối với nghĩa vụ trả nợ của người vay nợ, sự bảo đảm đó có thể do chính con nợ bảo đảm bằng tài sản của mình hoặc do người thứ ba bảo lãnh/dùng tài sản của ho ̣ để bảo đảm cho nghĩa vụ của người vay nợ.

Trước đây, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 ghi nhận các biện pháp bảo đảm tiền vay gồm có cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba. Nhưng đến Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 không ghi rõ biện pháp bảo đảm tiền vay bao gồm những hình thức gì. Nếu căn cứ vào Điều 318 của Bộ luật dân sự năm 2005 và các Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/12/2006, Nghị định số 11/2012/NĐCP ngày 22/02/2012, Nghị định 83/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/7/2010 thì có thêm các biện pháp ký quỹ, đặt cọc hay ký cược.

Đồng thời, Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận thêm các biện pháp bảo đảm như về bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc thiết lập và thực hiện các giao dịch bảo đảm trong thực tiễn. Điều này cho phép các bên có thêm cơ hội lựa chọn các biện pháp đảm bảo tiền vay bằng tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, đồng thời thúc đẩy sự luân chuyển an toàn của nguồn vốn trong xã hội. Tuy nhiên, trong quan hệ tín dụng, các khách hàng là những người đang thiếu vốn và cần vốn. Vi ̀ vâỵ , viêc̣ sử dụng các biện pháp ký quỹ, đặt cọc hay ký cược đều khó thực hiện trên thực tế. Hiện nay ở nước ta, các tổ chức tín dụng sử dụng phố biến các biện pháp: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, trong đó bao gồm: thế chấp, cầm cố tài sản của người thứ ba.

1.1.1. Khái niệm bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng

Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2003 thì bảo lãnh được hiểu theo hai nghĩa: Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

  • “Bảo lãnh là việc đảm bảo rằng một người khác sẽ thực hiện một nghĩa vụ cụ thể và chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện”.
  • “Bảo lãnh là việc sử dụng danh tiếng của mình để bảo đảm hành động và tư cách của người khác”.

Từ định nghĩa trên cho thấy, dưới góc độ kinh tế xã hội, bảo lãnh là việc một người đứng ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của môt ̣ người khác. Trong trường hợp người có nghĩa vụ không thực hiện nghia vu ̣ được thì người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm cho việc không thực hiện đó.

“Bảo lãnh” theo giải nghĩa của từ điển tiếng Việt nêu trên thì vừa có thể là một hành vi pháp lý mang tính chất đối vật (bảo đảm bằng tài sản), vừa có thể là hành vi pháp lý mang tính đối nhân (bảo đảm bằng uy tín). Tính chất đối vật của sự bảo lãnh thể hiện ở chỗ, người đứng ra bảo lãnh có thể cam kết dùng tài sản cụ thể thuộc sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ của một người khác. Còn tính đối nhân của sự bảo lãnh lại thể hiện ở chỗ, người đứng ra bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Theo phương diện pháp lý, khái niệm bảo lãnh được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận như:

  • “Trong luật La mã: Bảo lãnh được hiểu là hợp đồng, theo đó bên thứ ba với mục đích bảo đảm quyền lợi của bên có quyền đã cam kết thực hiện thay nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Nghĩa vụ của bên thứ ba là nghĩa vụ bổ sung với nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ và nó chỉ tồn tại khi nghĩa vụ đó đảm bảo tồn tại trên thực tế”.
  • Điều 2288 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp quy định: “Người nhận bảo lãnh một nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đó đối với người có quyền nếu chính người có nghĩa vụ không thi hành”.
  • Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm bảo lãnh được quy định tại Điều 335 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (BBL) cam kết với bên có quyền (BNBL) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

BPBL là một trong các biên ̣ pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ nói chung và đặc biệt là bảo lanh thực hiện ̃ hợp đồng tín dụng nói riêng. hợp đồng tín dụng đề cập đến mối quan hệ vay mượn giữa một bên là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu vay tiền, và một bên là tổ chức tín dụng cung cấp khoản vay. biện pháp bảo lãnh được áp dụng nhằm đảm bảo rằng bên vay sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Theo đó, bên bảo lãnh, có thể là cá nhân hoặc tổ chức, cam kết với tổ chức tín dụng rằng sẽ đảm nhận nghĩa vụ thay mặt cho bên vay nếu bên vay không thực hiện hoặc không đúng nghĩa vụ trả nợ khi đến thời hạn. Đây là một mối quan hệ đối nhân, trong đó bên bảo lãnh sử dụng uy tín của mình để đảm bảo cho bên vay. bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần nghia vu ̣ hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng cho bên vay.

Từ những phân tích về khái niệm bảo lãnh của hợp đồng tín dụng, biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng có thể được hiểu: “Bảo lãnh hợp đồng tín dụng là việc người thứ ba (BBL) cam kết với bên cho vay (BNBL) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay (BĐBL) nếu khi đến thời hạn trả nợ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Các bên có thể thỏa thuận và cam kết về việc bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. bên bảo lãnh cũng có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ vay cho bên được bảo lãnh”.

1.1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

  • Đặc điểm của biện pháp bảo lãnh:

Bảo lãnh mang đặc điểm chung của một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự như: phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên, phát sinh từ nghĩa vụ chính và nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ chính, có phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi của nghĩa vụ chính và chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ chính. Bảo lãnh hợp đồng tín dụng mang đầy đủ các đặc điểm của biện pháp bảo lãnh được quy định trong Bộ luật dân sự như:

Thứ nhất, bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thay cho người khác, nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong số bảy biện pháp bảo đảm, có hai biện pháp có sự tham gia trực tiếp của người thứ ba, đó là bảo lãnh và tín chấp. Tuy nhiên, tín chấp có phạm vi chủ thể rất hẹp, cu ̣ thể: bên tín chấp là tổ chức chính trị, xã hội tại cơ sở; bên nhận tín chấp là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng và bên được tín chấp là cá nhân, hộ gia đình nghèo. Còn trong quan hệ bảo lãnh, chủ thể tham gia có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm vừa mang tính đối nhân vừa mang tính đối vật

Nếu căn cứ vào tiêu chí bên bảo đảm có hay không có tài sản bảo đảm và bên nhận bảo đảm được thực hiện những quyền gì đối với tài sản bảo đảm đó để phân biệt các biện pháp bảo đảm là đối nhân hay đối vật, thì so với biện pháp như cầm cố, thế chấp thì bảo lãnh có sự khác biệt lớn. Biện pháp cầm cố, thế chấp là biện pháp trao cho bên nhận bảo đảm quyền đối với tài sản bảo đảm cụ thể. Theo đó, khi xảy ra rủi ro bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được quyền xử lý tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thu nợ từ tài sản bảo đảm cụ thể này, cho dù tài sản đó đang nằm trong tay ai và thực trạng thực tế như thế nào. Quan hệ bảo lãnh cho phép bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng không được cấp quyền đối với một số tài sản cụ thể của bên bảo lãnh. Vì vậy, biện pháp bảo lãnh thực chất là một hình thức bảo đảm đối nhân.

Thứ ba, nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ thứ cấp phát sinh theo nghĩa vụ được bảo lãnh.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, nghĩa vụ bảo lãnh chỉ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh với bên có quyền (BNBL). Nói cách khác, nghĩa vụ bảo lãnh sẽ không tồn tại nếu nghĩa vụ được bảo lãnh đã chấm dứt hoặc không tồn tại. Bên cạnh đó, do bảo lãnh để bảo đảm cho một nghĩa vụ nhất định nên giá trị của bảo lãnh phụ thuộc vào giá trị nghĩa vụ được bảo lãnh và phạm vi bảo lãnh không thể vượt quá phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh.

Thứ tư, nghĩa vụ được bảo lãnh phải là nghĩa vụ có thể chuyển giao

Trong quan hệ bảo lãnh, bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực nghĩa vụ. Như vậy, ở đây có sự chuyển giao nghĩa vụ từ bên được bảo lãnh sang bên bảo lãnh. Về mặt nguyên tắc, ngoài những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân hoặc những nghĩa vụ pháp luật quy định không được chuyển giao thì các bên có thể thỏa thuận về việc chuyển giao thực hiện nghĩa vụ nếu bên có quyền đồng ý. Pháp luật quy định việc chuyển giao thực hiện nghĩa vụ bắt buộc phải có sự đồng ý của bên có quyền nhằm đảm bảo quyền lợi của bên có quyền, hạn chế trường hợp chuyển giao nghĩa vụ cho bên không có khả năng thực hiện. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

  • Đặc điểm của biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với hợp đồng tín dụng:

Ngoài những đặc điểm chung của biện pháp bảo lãnh được quy định trong Bộ luật dân sự thì bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng còn mang những đặc điểm riêng như:

  • BBL là những cá nhân hoặc tổ chức không chuyên trong hoạt động bảo lãnh. Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu chủ thể bảo lãnh là các cá nhân, tổ chức không hoạt động, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, không có hoạt động bảo lãnh. Mặc dù, trên thực tế thì bất kỳ cá nhân, pháp nhân nào đủ điều kiện theo quy định cũng có thể cam kết bảo lãnh nghĩa vụ cho người khác.
  • BNBL là các tổ chức tín dụng. Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017 thì tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. Ở đây, bên nhận bảo lãnh là những chủ thể đặc biệt, hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
  • Nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay, lãi và các nghĩa vụ tài chính phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng: Nghĩa vụ được bảo lãnh trong mối quan hệ này là nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức với tư cách là bên vay tại tổ chức tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng. Như vậy, biện pháp bảo lãnh được đặt ra khi có một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng được xác lập. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chỉ khi đã tồn tại một hợp đồng tín dụng làm phát sinh nghĩa vụ thì các bên mới thỏa thuận biện pháp bảo lãnh đối với nghĩa vụ này. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại hoặc nghĩa vụ hình thành trong tương lai và nghĩa vụ trong tương lai là nghĩa vụ dân sự mà giao dịch dân sự làm phát sinh nghĩa vụ đó được xác lập sau khi giao dịch bảo đảm được ký kết.

1.2. So sánh biện pháp bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

1.2.1 So sánh với Biện pháp cầm cố tài sản, thế chấp tài sản

 Trong quan hệ tín dụng, các tổ chức tín dụng luôn phải đối mặt với các rủi ro có thể xảy ra khi khách hàng mất khả năng thanh toán, không còn khả năng chi trả khoản vay. Khi đó thì bảo đảm tiền vay bắt đầu được quan tâm. Cho vay có bảo đảm là việc ngân hàng thiết lập điều kiện về kinh tế và pháp lý để đảm bảo thu hồi tín dụng đã cấp trong trường hợp người đi vay không thực hiện trả nợ theo quy định, đồng thời giúp ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai. Giao dịch bảo đảm có nhiều loại khác nhau như: bảo lanh,̃ thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp. Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm đối với hợp đồng vay của các tổ chức tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng, tuy không phải là mục đích chính của các tổ chức tín dụng khi họ tiến hành cho vay nhưng đây lại là biện pháp để các tổ chức tín dụng thu hồi nợ vay khi bên vay không trả được nợ. Bên bảo đảm có thể là khách hàng, bản thân người đi vay thỏa thuận với tổ chức tín dụng về việc dùng chính tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo nợ vay hoặc một bên thứ ba nhận bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của bên đi vay. Các biện pháp bảo đảm phổ biến được sử dụng trong hoạt động cho vay giữa các tổ chức tín dụng và bên vay là cầm cố tài sản, thế chấp tài sản và bảo lãnh.  So sánh giữa Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 về quy định biện pháp bảo lãnh, ta thấy sự khác biệt đáng kể. Theo Bộ luật dân sự năm 1995, ngoài biện pháp bảo lãnh không bằng tài sản (không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp), tín chấp vẫn có thể kết hợp với biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản như trước đây, tức là cầm cố (hoặc cầm cố – bảo lãnh) hoặc thế chấp (hoặc thế chấp – bảo lãnh) bằng tài sản của người thứ ba. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2005 đã đưa ra một sự thay đổi, chỉ cho phép một loại bảo lãnh duy nhất không kèm theo tài sản cầm cố hay thế chấp. Điều này có nghĩa là không còn được thực hiện giao dịch bảo lãnh bằng nhà ở, tài sản, hàng hóa nói chung hay quyền sử dụng đất nói riêng. Tuy Bộ luật dân sự năm 2005 khẳng định rằng bảo lãnh vẫn được coi là “bằng tài sản” và không phải là cam kết trống rỗng như biện pháp tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội, song đồng thời, bảo lãnh không gắn liền với tài sản cụ thể và không bao giờ kèm theo việc cầm cố hay thế chấp tài sản như trước đây.

Thay đổi trong Bộ luật dân sự năm 2005 về biện pháp bảo lãnh là một bước tiến tích cực trong việc cải cách và làm rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch. Việc loại bỏ các loại bảo lãnh kèm theo tài sản cụ thể như hàng hóa, tài sản, nhà ở, hoặc quyền sử dụng đất đã giảm thiểu rủi ro cho các bên tham gia giao dịch. Điều này ngăn chặn việc sử dụng tài sản của người thứ ba mà không có sự đồng ý của họ, tạo điều kiện công bằng hơn cho các bên liên quan. Tuy nhiên, việc bảo lãnh vẫn được coi là “bằng tài sản” theo Bộ luật dân sự năm 2005 có thể gây hiểu lầm vì không có sự liên kết cụ thể với tài sản. Điều này có thể tạo ra một sự mơ hồ và khó hiểu về khái niệm và phạm vi của bảo lãnh. Do đó, có thể cần có sự làm rõ và hướng dẫn rõ ràng từ phía các cơ quan quản lý và hệ thống pháp luật để đảm bảo hiểu đúng và áp dụng đúng trong thực tế. Tóm lại, việc loại bỏ các loại bảo lãnh kèm theo tài sản cụ thể trong Bộ luật dân sự năm 2005 là một bước tiến tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên, việc làm rõ và hướng dẫn rõ ràng về khái niệm và phạm vi của bảo lãnh cần được thực hiện để tránh hiểu lầm và sử dụng sai mục đích trong thực tế.

Đến quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì khác với cầm cố, thế chấp và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác, bảo lãnh có sự xuất hiện của một chủ thể thứ ba ngoài bên có quyền và bên có nghĩa vụ đó là bên bảo lãnh. bên bảo lãnh cam kết thay mặt bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nếu bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không đúng nghĩa vụ trong thời hạn. Các bên có thể thỏa thuận rằng bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong quan hệ bảo lãnh không có sự xuất hiện của tài sản bảo đảm, bên bảo lãnh chỉ đưa ra cam kết thực hiện nghĩa vụ thay bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh chỉ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Nếu tính chất bảo đảm trong cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ được gắn liền với tài sản bảo đảm thì trong quan hệ bảo lãnh tính chất bảo đảm được thể hiện thông qua sự cam kết của người thứ ba (BBL) với bên có quyền (BNBL) về thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (BĐBL). Tuy nhiên, biện pháp bảo lãnh cũng có mối quan hệ với các biện pháp bảo đảm khác. Điều này thể hiện qua việc bên bảo lãnh sử dụng tài sản của mình để cầm cố hoăc̣ thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình.

Xét về bản chất của bảo lãnh, bên bảo lãnh sẽ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, khi đến hạn bên được bảo lãnh không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình với bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh, đồng thời đảm bảo nâng cao trách nhiệm, tinh thần thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh, tránh tình trạng ỷ lại, thoái thác nghĩa vụ nên đã quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.

Nhìn chung, khác với các biện pháp mang tính chất đối vật (điển hình là biện pháp cầm cố, thế chấp) thì biện pháp bảo lãnh mang tính chất đối nhân và có sự phân biệt rạch ròi. bên bảo lãnh cam kết cá nhân bằng uy tín sẽ thực hiện thay nghĩa vụ trả nợ cho bên được bảo lãnh bằng tất cả tài sản của họ, do đó bên nhận bảo lãnh có quyền với tất cả tài sản này của bên bảo lãnh.

1.2.2 So sánh với bảo lãnh ngân hàng

Đối với các tổ chức tín dụng, bảo lãnh ngoài là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung, còn là một nghiệp vụ cấp tín dụng cơ bản và riêng có của một số loại hình tổ chức tín dụng.

Các tổ chức tín dụng với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có năng lực tài chính để thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Do đó, pháp luật của các nước đều cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh không chỉ với tư cách là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự thuần túy mà còn với tư cách chủ thể kinh doanh. Việc bảo lãnh của tổ chức tín dụng thường được gọi là bảo lãnh ngân hàng, vì loại bảo lãnh này được xem như một hình thức kinh doanh ngân hàng. Theo quy định tại Khoản 18 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì “BLNH là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

BLNH là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, do vậy mà nó vừa mang đặc thù chung của bảo lãnh vừa mang đặc tính riêng chỉ có trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

“BLNH là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh (là tổ chức tín dụng) cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh”.

Trước hết, với bản chất là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự thì bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng và bảo lãnh ngân hàng chứa đựng những thuộc tính chung sau: Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

  • Đều là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân: Điều này thể hiện ở việc bên có quyền (BNBL) có quyền yêu cầu trực tiếp bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đã cam kết mà không cần phải thực hiện việc đòi nợ thông qua một loại tài sản ưu tiên nào khác. Do vậy mà trong trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết của mình trước bên nhận bảo lãnh thì cam kết đó cũng không bị vì thế mà trở nên vô hiệu.
  • Phạm vi bảo lãnh có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên.

Bên cạnh những điểm chung thì so với bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, bảo lãnh ngân hàng có những đặc thù sau:

  • BLNH là một loại giao dịch thương mại đặc thù. Tính thương mại của hoạt động này thể hiện ở chỗ, hoạt động bảo lãnh ngân hàng vừa do tổ chức tín dụng thực hiện trên “thị trường” nhằm mục đích lợi nhuận vừa có tính chuyên nghiệp như một nghề nghiệp kinh doanh. Do đó mà để thực hiện hoạt động này bắt buộc phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
  • Chủ thể hoạt động bảo lãnh ngân hàng luôn là các tổ chức tín dụng. tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động bảo lãnh với tính chất là hoạt động kinh doanh chuyên nghiệp, được thực hiện thường xuyên và phải được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, các tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động bảo lãnh thường không phải là hoạt động thường xuyên và không có mục đích kinh doanh. Do vậy, hoạt động bảo lãnh của các tổ chức, cá nhân khác không cần thiết phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra, do bảo lãnh ngân hàng có tính rủi ro cao bởi vậy mà hoạt động này phải được thực hiện bởi các chủ thể chuyên nghiệp, có điều kiện về vốn và là các tổ chức tín dụng.
  • Trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người bảo lãnh mà còn có tư cách là nhà kinh doanh, thông qua hoạt động bảo lãnh tổ chức tín dụng tạo lợi nhuận cho mình.
  • Giao dịch bảo lãnh làm phát sinh hai hợp đồng: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh. Hai hợp đồng này vừa gắn kết vừa tách rời, có mối quan hệ nhân quả với nhau nhưng hoàn toàn độc lập với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như hợp đồng này vô hiệu thì không đương nhiên hợp đồng kia bị vô hiệu.
  • Tính chất chứng từ của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chỗ, khi tổ chức tín dụng phát hành cam kết bảo lãnh (thư bảo lãnh) cũng như khi người nhận bảo lãnh thực hiện quyền yêu cầu hay khi tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, các chủ thể này đều bắt buộc phải thiết lập bằng văn bản.
  • Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng quy định, các TCTD là quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô không được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.

Các loại bảo lãnh ngân hàng theo quy định của pháp luật tín dụng ngân hàng hiện hành, bao gồm: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh nộp thuế, bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai và các loại bảo lãnh khác.

Tóm lại, bảo lãnh ngân hàng vừa là một hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, vừa là một hình thức cấp tín dụng và có phạm vi bảo đảm rộng lớn, linh hoạt hơn so với biện pháp bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng thông thường. bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc để bước đầu giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với hợp đồng, đồng thời giúp tăng thêm nguồn vốn cho các doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhờ vào uy tín của ngân hàng bảo lãnh.

1.3. Nội dung của pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với hợp đồng tín dụng Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

1.3.1. Chủ thể của quan hệ bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng

  • Bên bảo lãnh

“Luật pháp nhiều nước có quy định về điều kiện cụ thể của người bảo lãnh, như Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định người bảo lãnh phải có năng lực hành vi đầy đủ và có đủ các phương tiện để thực hiện trái vụ. Tuy nhiên, điều kiện này không áp dụng trong trường hợp người nhận bảo lãnh tự đề cử người bảo lãnh”. Theo Bộ luật dân sự Pháp, trường hợp người có nghĩa vụ bắt buộc phải có người bảo lãnh thì phải giới thiệu một người bảo lãnh có năng lực ký kết hợp đồng, có tài sản đáp ứng đối tượng của nghĩa vụ và phải có nơi cư trú trong quản hạt của Tòa phúc thẩm nơi bảo lãnh (Điều 2295). Khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh được đánh giá bằng những tài sản của họ. Tài sản này cũng không tính tới những bất động sản đang có tranh chấp hoặc bất động sản mà việc kê biên hoặc bán gặp nhiều khó khăn vì ở xa (Điều 2296). Nhìn chung, khả năng thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là một trong những nội dung và yêu cầu đặt ra đối với người bảo lãnh. Do vậy, Bộ luật dân sự Pháp và Bộ luật dân sự Nhật Bản đều nhấn mạnh đến khả năng thanh toán nợ của người bảo lãnh. Đây là vấn đề mà người nhận bảo lãnh cần đặc biệt chú ý và đánh giá trước khi chấp nhận cam kết bảo lãnh.

Theo quy định tại Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 và Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/03/2021 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, có thể xác định các điều kiện sau:

BBL phải là người có đủ năng lực pháp luật, năng lưc hành vi dân sự (nếụ là cá nhân) hoặc phải có đủ năng lực pháp luật dân sự (nếu là pháp nhân). Đối với pháp nhân, để ký kết hợp đồng bảo lãnh cần phải có người đại diện đủ thẩm quyền để thay mặt ký kết. bên bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Trong trường hợp có nhiều người cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ, việc thực hiện bảo lãnh phải được thực hiện theo hình thức liên đới, trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật về bảo lãnh độc lập.  Bên có quyền yêu cầu bất kỳ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện hoặc không đáp ứng đúng nghĩa vụ, trừ khi có thỏa thuận rằng mỗi người bảo lãnh chỉ phải thực hiện một phần nghĩa vụ. Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, người đó có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình. Trong trường hợp một trong số những người bảo lãnh liên đới được miễn khỏi việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thi ̀ những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.

  • Bên nhận bảo lãnh Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

BNBL trong hợp đồng tín dụng là bên cho vay, các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác là bên thụ hưởng một món nợ do người được bảo đảm thanh toán từ một nghĩa vụ trong các hợp đồng, các tổ chức này được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. Muốn trở thành bên cho vay theo Luật các tổ chức tín dụng, tổ chức phải đáp ứng các điều kiện sau: “Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà nước cấp, có điều lệ do Ngân hàng nhà nước chuẩn y, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp, có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng”.

Những điều kiện trên là căn cứ để xác định tư cách pháp lý của bên cho vay cũng như tính hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Qua đó, giúp loại bỏ được các chủ thể không đủ tiêu chuẩn hoạt động tín dụng cũng như bảo vệ quyền lợi cho người đi vay.

  • Bên được bảo lãnh

BNBL là khách hàng vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo pháp luật hiện hành, các chủ thể này bao gồm các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, pháp nhân Việt Nam và các cá nhân, pháp nhân nước ngoài; có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi đầy đủ, đủ điều kiện vay vốn tại các tổ chức tín dụng; có khả năng thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ cam kết với các bên liên quan trong quan hệ bảo lãnh.

Điều kiện vay vốn được thể hiện trước tiên ở năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các chủ thể, tiếp đó là các điều kiện về mục đích sử dụng vốn vay (hợp pháp), khả năng tài chính bảo đảm cho dự án, phương án sử dụng vốn vay khả thi và hợp pháp. Nhìn chung các điều kiện này tương đối đầy đủ và phù hợp với thực tế. Các điều kiện vừa bao quát được các loại chủ thể theo quy định của pháp luật, vừa đưa ra những tiêu chuẩn cần thiết cho đối tượng vay vốn.

Trong quan hệ bảo lãnh, mối quan hệ giữa ba chủ thể bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh cùng tồn tại song song, nhưng cũng có khi chỉ cần có hai bên, đó là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Việc tham gia ký kết của bên nhận bảo lãnh với bên được bảo lãnh không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh. Khi bên thứ ba đưa tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác (khách hàng vay) thì chỉ cần thiết lập hợp đồng thế chấp hoặc hợp đồng cầm cố tài sản giữa hai bên: bên bảo đảm (bên thế chấp) với bên có quyền (bên nhận thế chấp), còn bên được bảo lãnh đã ký kết hợp đồng tín dụng, bởi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính, còn hợp đồng bảo đảm luôn là hợp đồng phụ, mang tính chất dự phòng khi nghĩa vụ bị vi phạm. Chúng được tách thành cam kết riêng giữa hai bên căn cứ vào một văn bản pháp luật cụ thể nào đó hay thực hiện đường lối chính sách của Nhà nước mà không nhất thiết phải lập hợp đồng riêng hoặc có thể bên bảo lãnh tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không biết và bên bảo lãnh cũng không yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hoàn lại. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

1.3.2. Nghĩa vụ bảo lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.

Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định bảo lãnh theo các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình;

BNBL không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn; bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh;

Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ. Trường hợp một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.

Nghĩa vụ của bên bảo lãnh sẽ phát sinh khi bên được bảo lãnh thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Với tinh thần quy định này, bên nhận bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong các trường hợp đó. Nếu các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì việc chứng minh bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thuộc về bên bảo lãnh. Bởi vì khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì bên nhận bảo lãnh sẽ yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp này nếu bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì phải chứng minh bên được bảo lãnh có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

Thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Nghĩa vụ chỉ bị coi là vi phạm khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà một trong các bên không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Do đó, khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.

Khi nghĩa vụ của bên bảo lãnh phát sinh, họ sẽ phải thực hiện nghĩa vụ của mình với bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có quan hệ nghĩa vụ khác với nhau. Theo đó, bên nhận bảo lãnh đang là bên có nghĩa vụ còn bên bảo lãnh là bên có quyền. Theo quy định, nghĩa vụ của hai bên chủ thể này có thể bù trừ cho nhau khi thỏa mãn những điều kiện sau: cả hai nghĩa vụ cùng đến hạn, đối tượng của hai nghĩa vụ cùng loại, nghĩa vụ không có tranh chấp, nghĩa vụ không thuộc trường hợp không được bù trừ.

1.3.3. Phạm vi bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Pham vi ḅ ảo lãnh được quy định tại Điều 336 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó “BBL có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Phạm vi bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Điều này có nghĩa là bên bảo lãnh phải chịu trách nhiệm cho các khoản phí và chi phí liên quan đến nghĩa vụ được bảo lãnh của bên được bảo lãnh. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này có nghĩa là bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh cung cấp tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu cần thiết. Tuy nhiên, khi nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai, phạm vi bảo lãnh không áp dụng cho các nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh qua đời hoặc khi pháp nhân bảo lãnh không còn tồn tại. Điều này có nghĩa là bên bảo lãnh chỉ phải chịu trách nhiệm bảo lãnh cho các nghĩa vụ được bảo lãnh phát sinh trước khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

Có thể thấy pháp luật dân sự luôn đề cao sự thỏa thuận của các bên. Do vậy, đối với quan hệ bảo lãnh, các bên cũng được tự do thỏa thuận, bên bảo lãnh có thể cam kết với bên nhận bảo lãnh việc thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ của bên được bảo lãnh trên cơ sở nghĩa vụ bảo lãnh gồm: tiền nợ gốc, tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả. Trong hợp đồng cho vay, ngoài nghĩa vụ trả tiền vay của bên vay, các bên còn có thể thỏa thuận cam kết thêm về các nghĩa vụ khác có thể phát sinh như: lãi trong hạn, lãi quá hạn, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại … Với sự đa dạng hóa thỏa thuận như thế, đây được coi là dự liệu của pháp luật về phạm vi bảo lãnh.

Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đối với trường hợp nhận bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba (không phải là bên được cấp tín dụng) thì bên nhận bảo đảm cần ghi rõ phạm vi bảo đảm là trả nợ gốc, nợ lãi (trong hạn và quá hạn), tiền phạt và bồi thường thiệt hại (nếu có) để tránh nguy cơ tranh chấp, phức tạp. Việc thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh của các bên xuất phát từ tính chất đối nhân của biện pháp bảo đảm bằng bảo lãnh. Trong khi các bên xác lập mối quan hệ là nhằm hướng tới lợi ích vật chất, quyền của bên nhận bảo lãnh có thỏa mãn được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tài sản của bên bảo lãnh. Do đó, để nâng cao tinh thần trách nhiệm của bên bảo lãnh trong việc nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ của mình, pháp luật dự liệu cho phép các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh. Bởi lẽ, trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh chỉ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ phải thực hiện và bồi thường thiệt hại nếu có mà bên nhận bảo lãnh không có quyền xử lý trực tiếp tài sản của bên bảo lãnh. Quy định này đã khắc phục được bất cập nêu trên, bảo vệ thiết thực kịp thời quyền, lợi ích chính đáng của bên nhận bảo lãnh, quyền được xử lý tài sản của bên bảo lãnh ngay khi bên bảo lãnh có sự vi phạm.

Theo quy đinh ṭ ai Đị ều 336 Bộ luật dân sự năm 2015 thi:̀ “Trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại”. Điều này có nghĩa tổ chức tín dụng sẽ mất biện pháp bảo lãnh đối với các khoản vay xác lập sau thời điểm người bảo lãnh là cá nhân chết hoặc pháp nhân bảo lãnh không còn tồn tại, bởi vì các chủ thể này không còn năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ bảo lãnh nói riêng. Điều này phù hợp với quy định căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự “Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện” . Điều này cũng xuất phát từ tính chất đối nhân của biện pháp bảo đảm bằng bảo lãnh. Chủ thể đã chấm dứt tư cách pháp lý thì không thể tuyên bố một cam kết hay thực hiện cam kết đó. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Tại văn bản 152/TANDTC-PC ngày 19 tháng 7 năm 2017 tại Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu, ghi nhận phạm vi bảo lãnh, quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh như sau: “Về phạm vi bảo lãnh: Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại (Điều 336 Bộ luật dân sự năm 2015). Về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ (Điều 339 Bộ luật dân sự năm 2015)”.

1.3.4. Hình thức của hợp đồng bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng

HĐBL trước hết là hợp đồng giao dịch dân sự, là cách biểu hiện ra bên ngoài của những nội dung của nó dưới một dạng vật chất hữu hình nhất định. Theo đó, những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định, hay nói cách khác hình thức của giao dịch là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định. Trong một số trường hợp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tham gia giao dịch dân sự và nhằm tăng cường tính pháp chế của Nhà nước trong quản lý giao dịch dân sự thì hình thức được coi là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Vì vậy, xuất phát từ tầm quan trọng của hình thức giao dịch dân sự nên pháp luật đã có hành lang pháp lý về vấn đề này.

Theo quy định tại Điều 766 Bộ luật dân sự Đức, để hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực pháp luật thì người bảo lãnh phải có cam kết bằng văn bản, tuy nhiên cam kết dưới hình thức điện tử (elektronische form/electronic form) không có giá trị pháp luật. Luật không quy định cụ thể nội dung cam kết bảo lãnh, nhưng theo khoa học pháp lý và án lệ thì bản cam kết phải chứa đựng các yếu tố cơ bản của một bảo lãnh như nêu khoản nợ chính, khoản tiền bảo lãnh, nêu tên chủ nợ, … trong đó khoản nợ chính ít nhất cũng phải có khả năng xác định được là bao nhiêu. Nếu hình thức văn bản không được đáp ứng thì cam kết bảo lãnh vô hiệu theo quy định tại Điều 125 Bộ luật dân sự. Sự vi phạm quy định về hình thức được coi là được khắc phục, khi người bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nói cách khác, dù cam kết bảo lãnh vi phạm về hình thức, nhưng khi người bảo lãnh đã thanh toán khoản tiền bảo lãnh thì không đòi lại được khoản tiền đó nữa. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Tùy theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của Nhà nước mà pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức của giao dịch. Các hình thức giao dịch bao gồm:

Bằng lời nói: Đối với các giao dịch đáp ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần hàng ngày của cuộc sống và thông thường giá trị tài sản không lớn thì chỉ cần các bên thể hiện bằng lời nói, có sự tự nguyện, thống nhất ý chí của các bên là giao dịch đó có hiệu lực. Thông qua hình thức này các bên chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về những nội dung cơ bản của hợp đồng, thường đối với các giao dịch có tính chất đơn giản, thường xuyên, có giá trị nhỏ. Trong các giao dịch sinh hoạt đời sống hàng ngày, giao dịch bằng lời nói là khá phổ biến. Tuy nhiên, có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc hai bên phải thể hiện bằng văn bản và còn có trường hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

Bằng văn bản: Căn cứ theo quy đinh ṭ ai Đị ều 199 Bộ luật dân sự năm 2015. Các cam kết của các bên trong hợp đồng sẽ được ghi nhận bằng một văn bản. Các giao dịch này thường có tính chất không đơn giản và có giá trị đáng kể. Trong văn bản đó các bên phải ghi nhận lại bằng một văn bản. Các giao dịch này thường có tính chất không đơn giản và có giá trị đáng kể. Trong văn bản đó các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản, thông thường hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản.

Đối với hợp đồng bảo lãnh thì hợp đồng bảo lãnh là một sự thỏa thuận pháp lý giữa bên bảo lãnh, liên quan đến việc thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ bảo lãnh đối với người được bảo lãnh. Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đều quy định hình thức bảo lãnh phải lập thành văn bản. Cụ thể Điều 367 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định “Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” và Điều 362 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực”. Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ quy định hai biện pháp bảo đảm bắt buộc phải được lập thành văn bản là bảo lưu quyền sở hữu và tín chấp.

1.3.5. Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng

“Theo quy định tại Điều 405 của Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 401 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì “Hợp đồng được coi là hợp pháp và có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan quy định khác. Từ khi hợp đồng có hiệu lực, các bên có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể được sửa đổi hoặc hủy bỏ thông qua thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, hợp đồng bảo lãnh nghĩa vụ tiền vay của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng chỉ có hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện bổ sung sau đây:

  • Hợp đồng được ký kết theo đúng trình tự luật định; Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.
  • BBL cam kết bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của bên vay (BĐBL) và nghĩa vụ bảo lãnh này phải gắn với khoản vay do ngân hàng, tổ chức tín dụng đã cho bên được bảo lãnh vay.

Quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh đóng vai trò vô cùng quan trọng, vì chỉ khi hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực, bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh mới có căn cứ pháp lý để thực hiện. Vì điều này, các quốc gia đều có các quy định pháp luật liên quan đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh, bao gồm cả quy định về thời điểm hợp đồng bảo lãnh phát sinh hiệu lực và thời điểm hết hiệu lực. Pháp luật các nước Cộng hòa Pháp và Nhật Bản đều khẳng định hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực từ thời điểm giao kết hợp pháp. Tuy nhiên, hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh chỉ tồn tại khi nghĩa vụ chính được hình thành và duy trì hợp pháp. Do đó, nếu nghĩa vụ chính không được thiết lập hoặc bị chấm dứt, thì hợp đồng bảo lãnh cũng sẽ chấm dứt. Pháp luật của Cộng hòa Pháp và Nhật Bản quy định không thực hiện đăng ký đối với biện pháp bảo lãnh, vì đây là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân (không bảo đảm bằng tài sản cụ thể như biện pháp cầm cố hoặc biện pháp thế chấp)”.

1.3.6. Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh hợp đồng tín dụng

Đây là một trong những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015. Quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh (Điều 369 Bộ luật dân sự năm 2005) đã được bỏ, và đươc thay thế bởi quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh (Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2015).

Việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh được quy định trong Điều 369 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”. Quy định này chưa thực sự đúng với bản chất của biện pháp bảo lãnh, việc bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh có thể dẫn đến cách hiểu bên bảo lãnh phải dùng tài sản cụ thể để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh.

Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2015, trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh được quy định: “Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó; Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”. Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về “trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với nội dung khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”. Đây là sự bổ sung cơ bản, cần thiết để bảo đảm cho bên có quyền có thêm sự lựa chọn về cách ứng xử đối với bên có nghĩa vụ khi bên này vi phạm nghĩa vụ, trong đó bên có quyền có thể lựa chọn buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Quy định này không chỉ có ý nghĩa trong việc giảm thiểu rủi ro, thiệt hại cho bên có quyền, nâng cao trách nhiệm của bên có nghĩa vụ đối với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện mà còn có ý nghĩa làm ổn định các quan hệ nghĩa vụ, nhất là quan hệ hợp đồng.

Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự năm 2015 cũng đã có sự phân biệt rạch ròi giữa biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân như biện pháp bảo lãnh với các biện pháp bảo đảm mang tính đối vật như biện pháp cầm cố, thế chấp. Theo đó, khác với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định bên nhận bảo lãnh có quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh mà chỉ quy định về quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại nếu có.

1.3.7. Chấm dứt bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng

Việc chấm dứt bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015, khi đó bảo lãnh chấm dứt khi có một trong các căn cứ sau:

  • Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt: Nghĩa vụ được bảo lãnh có thể chấm dứt vì nhiều lý do khác nhau như khi bên được bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ này, khi bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh cho bên được bảo lãnh, hoặc trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh.
  • Mục đích sử dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền, và nó mang tính dự phòng cho việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, đồng thời nó cũng ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do sự vi phạm nghĩa vụ của bên nghĩa vụ gây ra. Vì vậy, việc nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt thì việc bảo lãnh cũng chấm dứt là điều đương nhiên vì thời hạn tồn tại nghia vu ̣đươc bảo lãnh là thời hạn tồn tại bảo ̣ lãnh. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.
  • Việc bảo lãnh được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác hoặc đươc ḥủy bỏ. Trong cả hai trường hợp này thì biện pháp bảo lãnh đều chấm dứt. Nhưng chấm dứt việc bảo lãnh trong hai trường hợp này có sự khác biệt. Ở trường hợp chấm dứt việc bảo lãnh khi việc bảo lãnh được các bên thỏa thuận hủy bỏ thì lúc này quan hệ nghĩa vụ giữa bên có nghĩa vụ và bên có quyền trở thành quan hệ nghĩa vụ không có biện pháp bảo đảm. Ở trường hợp chấm dứt việc bảo lãnh do các bên thỏa thuận thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác thì quan hệ nghĩa vụ giữa các bên có nghĩa vụ và bên có quyền vẫn là quan hệ nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm.
  • BBL đã được thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: bên bảo lãnh đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; Cơ quan có thẩm quyền đã cưỡng chế bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Và khi nghĩa vụ bảo lãnh đã được thực hiện xong thì đương nhiên quan hệ bảo lãnh chấm dứt. Trường hợp này, khi bên được bảo lãnh đã thực hiện hợp đồng thì lúc này đối tượng của việc bảo lãnh không còn nữa. Vì vậy việc chấm dứt bảo lãnh là đương nhiên.

Việc bảo lãnh đươc chấm dứt theo thỏa thuận của các bên. Các bên có thể quy định trong văn bản bảo lãnh rằng bảo lãnh chấm dứt trong trường hợp bên nhận bảo lãnh hoặc bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh bổ sung, sửa đổi các điều khoản khác của hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh. Tương tự, các bên có thể thỏa thuận về việc nếu bên nhận bảo lãnh vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào của mình theo bảo lãnh thì sẽ dẫn tới việc chấm dứt bảo lãnh. Việc xác lập biện pháp bảo lãnh là dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên và pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận đó. Vậy khi các bên thỏa thuận chấm dứt việc bảo lãnh thì việc bảo lãnh sẽ chấm dứt. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Đến Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 341 đã quy định hoàn chinh hơn về việc miễn thực ̉ hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà được miễn thì không phải thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, trong trường hợp bên nhận bảo lãnh được miễn việc thực hiện nghĩa vụ, bên bảo lãnh không cần phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, nếu chỉ một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình, thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình. Nếu một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới được miễn phần nghĩa vụ đối với bên bảo lãnh, bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại. Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo lãnh trong trường hợp mà bên bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh, và đồng thời cũng đảm bảo rằng bên bảo lãnh vẫn phải chịu trách nhiệm với các nghĩa vụ bảo lãnh của mình đối với những người nhận bảo lãnh khác.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong Chương 1 tác giả đã trinh b̀ày khái quát biện pháp bảo lãnh bằng tài sản đối với HĐTD. Việc tìm hiểu những vấn đề lý luận chung là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sâu hơn những quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp này đối với hợp đồng tín dụng. Qua đó có thể nhận thấy hợp đồng tín dụng là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, có vai trò nhất định trong nền kinh tế hiện nay. Mặc dù, hợp đồng tín dụng có những nét tương đồng với hợp đồng vay tài sản, nhưng vẫn mang các nét đặc trưng riêng của nó.

Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm truyền thống, pháp luật về biện pháp bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ là một trong những chế định luật được hình thành khá sớm trong hệ thống pháp luật và được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, về cơ bản, pháp luật về biện pháp bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng dựa trên bản chất pháp lý của biện pháp bảo lãnh được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015. Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân và có những điểm khác biệt so với các biện pháp bảo đảm đối vật khác như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản. Bên cạnh đó bảo lãnh còn là một nghiệp vụ cấp tín dụng cơ bản và riêng có của một số loại hình tổ chức tín dụng. Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản.

Về mặt quy định của pháp luật, biện pháp bảo lãnh được quy định tương đối đầy đủ. Cùng với hành lang pháp lý, những điều kiện thủ tục thuận tiện thì biện pháp bảo lãnh được áp dụng khá phổ biến trong các hợp đồng tín dụng hiện nay. Nhưng thực tế, các quy định của pháp luật và việc thi hành đối với biện pháp bảo lãnh hợp đồng tín dụng vẫn còn một số bất cập nhất định, gây khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế. Chương 2 sau đây sẽ làm rõ hơn về vấn đề này.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật về biện pháp bảo lãnh bằng tài sản […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993