Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng thực thi pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em tại Việt Nam và các giải pháp đề xuất dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trẻ em là tương lai của đất nước, là mầm non, là hạnh phúc của mỗi gia đình. Thông điệp “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” luôn được nhắc đến trên toàn thế giới nhằm nhấn mạnh nỗ lực chăm sóc và bảo vệ trẻ em vì tương lai của nhân loại. Với quan điểm trẻ em là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, xác định đây là chiến lược và sự nghiệp của toàn xã hội. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” [23, Điều 65].

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, năm 2001, của Đảng đã nêu rõ:

Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; trẻ em mồ côi, bị khuyết tật, sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập và vui chơi [5, tr. 107].

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI lại một lần nữa khẳng định trong đường lối, chính sách của Đảng là: “Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em” [6, tr. 80-81].

Việt Nam là nước có nền kinh tế chưa thật phát triển, nhưng đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về việc thực hiện các quyền của trẻ em. Và cũng do nền kinh tế chưa thật phát triển, nên một số trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đang sớm phải bán sức lao động để mưu sinh. Dù rất không muốn nhưng phải thừa nhận rằng: đó là một thực tế. Trẻ em lao động mặc dù đem lại một số lợi ích vật chất cho gia đình và cho bản thân các em, nhưng nếu không được bảo vệ tốt về mặt luật pháp sẽ dễ bị lạm dụng, gây ra những hậu quả xấu về thể lực, trí lực, nhân cách, ảnh hưởng không tốt tới nguồn lực tương lai của đất nước. Nhà nước đã có những biện pháp để bảo vệ trẻ em, trong đó có biện pháp pháp luật.

Trong quá trình đổi mới đất nước, trong lĩnh vực pháp luật, Bộ luật Lao động được thông qua ngày 23.6.1994, có hiệu lực từ ngày 01.01.1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007) cùng nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn khác đã góp phần tích cực bảo vệ quyền lợi của người lao động, người sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, không phải tất cả mọi người đều có khả năng như nhau khi tham gia vào quan hệ lao động. Bên cạnh những người có ưu thế có nhiều cơ may, là những người yếu thế có ít cơ may. Do vậy, bên cạnh những quy định áp dụng chung, Bộ luật lao động cũng có những quy định dành riêng cho một số lao động có đặc điểm riêng, hay còn gọi là lao động đặc thù, trong đó có lao động của người chưa thành niên. Những quy định về “Lao động chưa thành niên” tại Mục I, Chương IX của Bộ luật lao động đã kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó trong lĩnh vực lao động trẻ em, cũng như lao động là người chưa thành niên. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Trong thời gian qua, trên thực tế đã có nhiều đơn vị, cơ sở, cá nhân là người chấp hành tốt những quy định pháp luật dành cho người lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, cũng còn không ít cơ sở, cá nhân,… nhất là các cơ sở tư nhân thực hiện các quy định pháp luật đối với lao động chưa thành niên chưa tốt, nên quyền lợi của lao động chưa thành niên chưa thực sự được bảo đảm. Tình trạng sử dụng lao động trẻ em xảy ra ngày càng có chiều hướng gia tăng. Mặt khác, thực tiễn cho thấy công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này còn buông lỏng: thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được chú trọng thường xuyên; việc xử lý những vi phạm còn bị coi nhẹ; việc tuyên truyền phổ biến pháp luật trong lĩnh vực này còn chưa thường xuyên và chưa sâu rộng. Điều này đòi hỏi một số quy định pháp luật lao động, pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em…cần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng tình hình thực tế đang diễn ra ngày một phức tạp và đa dạng về lao động trẻ em.

Cộng đồng quốc tế coi trẻ em là tương lai của thế giới ngày mai nên đã quyết tâm cùng bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm hại, bóc lột, lạm dụng và khỏi các hình thức đối xử tồi tệ. Vì thế, cộng đồng quốc tế đã ban hành các điều ước quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về bảo vệ trẻ em nói chung, về xóa bỏ lao động trẻ em nói riêng.

Ở các nước: Lao động trẻ em cũng là vấn đề được quan tâm đặc biệt vì nó có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đối với cá nhân, cộng đồng. Những nước phát triển như Mỹ, nước có nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc là những nước điển hình cần nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm để giải quyết vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam.

Trên đây là những lý do khiến chúng tôi chọn vấn đề “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn của chế độ pháp lý đối với xóa bỏ lao động trẻ em ở nước ta.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Thời gian gần đây, từ những góc độ khác nhau, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo thường kỳ, các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề, bài viết về thực trạng lao động trẻ em, lao động chưa thành niên, đáng chú ý như:

Luận văn Thạc sĩ với đề tài: “Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam” của Phan Văn Hùng, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002; tập trung nghiên cứu pháp luật Việt Nam về lao động chưa thành niên.

Luận văn Thạc sĩ với đề tài: “Quyền lao động trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” của Vũ Hương Liên, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006; tập trung tìm hiểu các quy định cơ bản về quyền lao động thể hiện trong các điều ước quốc tế quan trọng về việc làm và bảo đảm các điều kiện làm việc và pháp luật Việt Nam.

Luận văn Thạc sĩ với đề tài: “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên ở Việt Nam” của Lê Thị Huyền Trang, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008; tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên.

Vấn đề lao động trẻ em” của Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000, tập trung nêu vấn đề lao động trẻ em trên thế giới và vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay, các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề lao động trẻ em trong nền kinh tế thị trường. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn” của Bộ Lao động – Thương bình – Xã hội, phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) biên soạn, Nhà xuất bản Lao động – Thương bình – Xã hội, Hà Nội, năm 2000 gồm hệ thống những quan điểm chỉ đạo của Đảng, cũng như chính sách pháp luật của Nhà nước, đối với từng nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Báo cáo quốc gia lần thứ ba và thứ tư Việt Nam thực hiện công ước quốc tế quyền trẻ em giai đoạn 2002 – 2007” của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội, phối hợp với các bộ, ngành liên quan, UNICEF biên soạn, Hà Nội 2008 cập nhật tình hình thực hiện Công ước Quyền trẻ em giai đoạn 2002 – 2007.

Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình ở Hà Nội“, do nhóm nghiên cứu của khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển tại Việt Nam (Save the Children Sweden) thực hiện, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000.

Một số hội nghị, hội thảo chuyên đề về trẻ em cũng được tổ chức, như: “Hội nghị bàn biện pháp phòng ngừa, giải quyết tình trạng trẻ em lang thang ở các vùng trọng điểm” ngày 06.10.1998; “Hội thảo Quốc gia thực hiện Công ước số 182 về lao động trẻ em” ngày 28.6.2001.

Ngoài ra, có một số bài báo, tạp chí cũng đề cập đến vấn đề lao động trẻ em, như: “Lao động trẻ em: SOS” của Cao Hùng – Dương Minh Đức đăng trên Báo Lao động số ra ngày 22.8.2000; “Trẻ em lao động ở Vĩnh Long” của Văn Kim Khang đăng trên Báo Giáo dục và Thời đại số ra ngày 03.5.1998, “Giúp trẻ thoát khỏi các hình thức lao động tồi tệ: cần sự chung tay của toàn xã hội” của Anh Nguyễn đăng trên Báo Giáo dục và Thời đại số 22 ra ngày 30.5.2010, “Bí sử nơi sản xuất trái bóng” của Nguyễn Minh đăng trên Báo Cảnh sát toàn cầu số 14 ra ngày 01.7.2010, “Trẻ em đường phố, con đường nào để thành người lương thiện?” của Việt Hùng đăng trên Báo Phụ nữ Việt Nam số 146 ra ngày 07.12.2011…

Các công trình hoặc bài nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào đối tượng trẻ em và lao động trẻ em mà không đi sâu nghiên cứu vấn đề xóa bỏ lao động trẻ em. Cho nên, có thể nói đề tài: “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em” của chúng tôi là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, tương đối toàn diện về xóa bỏ lao động trẻ em dưới góc độ pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Mục đích của luận văn nghiên cứu pháp luật quốc tế, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, pháp luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em. Đánh giá xem xét các quy định về xóa bỏ lao động trẻ em theo các công ước mà Việt Nam là thành viên được thực hiện như thế nào?

Sau đó, đặt trong tương quan so sánh xem pháp luật Việt Nam quy định về xóa bỏ lao động trẻ em đã thực sự phù hợp, tương đồng với pháp luật quốc tế chưa, cần học hỏi kinh nghiệm gì ở pháp luật nước ngoài, những tồn tại, khiếm khuyết cần khắc phục.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Từ những mục đích đó, đề tài xác định nhiệm vụ là:

  • Làm rõ về mặt lý luận về lao động trẻ em và xóa bỏ lao động trẻ em
  • Phân tích và đánh giá những quy định pháp luật hiện hành của quốc tế, nước ngoài và Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em, thực tiễn kết quả thực hiện xóa bỏ lao động trẻ em hiện nay, đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại để hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định có liên quan về xóa bỏ lao động trẻ em của pháp luật trong nước đảm bảo phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
  • Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em cho phù hợp với yêu cầu thực tế.

3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận văn tập trung nghiên cứu quy định cơ bản của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em, trong đó có phân tích, so sánh với pháp luật một số nước như Trung Quốc, Hoa Kỳ.

Phân tích, đánh giá việc thực thi các vấn đề trên trong thực tiễn ở Việt Nam. Những kết quả đã làm được và những vấn đề còn tồn tại.

Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về lĩnh vực này, đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc, giáo dục trẻ em và bảo đảm các quyền trẻ em.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

4.1. Cơ sở lý luận

  • Các điều ước quốc tế quy định về trẻ em và xóa bỏ lao động trẻ em: – Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945;
  • Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948;
  • Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989;
  • Các điều ước quốc tế của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về xóa bỏ lao động trẻ em: Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu được phép đi làm việc, Công ước số 182 của ILO về việc cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất…

Văn bản pháp luật trong nước:

  • Đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước về xóa bỏ lao động trẻ em;
  • Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi);
  • Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007);
  • Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004;
  • Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2005);
  • Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009);
  • Các văn bản dưới luật liên quan đến xóa bỏ lao động trẻ em.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp so sánh đối chiếu và phương pháp xã hội học cụ thể.

5. Điểm mới của luận văn

Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và hệ thống các quy định của quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em, nghiên cứu, đánh giá những điểm tích cực và hạn chế của quy định về xóa bỏ lao động trẻ em của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Việt Nam… Từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật trong nước, các giải pháp hạn chế tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Luận văn làm rõ một số nội dung cơ bản về lao động trẻ em và xóa bỏ lao động trẻ em trong pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam và các công ước mà Việt Nam là thành viên. Nêu một số vấn đề tồn tại cần sửa đổi, bổ sung vào pháp luật Việt Nam hiện hành tạo cơ sở pháp lý hoàn thiện hơn trong thực hiện tốt các quyền trẻ em cũng như việc xóa bỏ lao động trẻ em ở Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau:

  • Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về xóa bỏ lao động trẻ em
  • Chương 2: Pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về xóa bỏ lao động trẻ em
  • Chương 3: Thực thi pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em tại Việt Nam và các giải pháp đề xuất.

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM

1.1. KHÁI NIỆM TRẺ EM, LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM

1.1.1. Khái niệm trẻ em

Để hiểu khái niệm xóa bỏ lao động trẻ em, trước hết cần làm rõ khái niệm trẻ em.

Các xã hội thường nhìn nhận trẻ em theo các góc độ, đó là tình thương, lòng nhân đạo, sự phát triển và vì sự sống còn và phát triển của trẻ.

Tình thương: Ở góc độ này trẻ em được coi như những chủ thể phải được hưởng tình thương của xã hội. Nó biểu hiện ở những hành động nhân ái, kêu gọi ý thức trách nhiệm và bảo vệ trẻ em khỏi những hoàn cảnh đói rách, bệnh tật và các đau khổ khác. Những hành động kiểu này thường dễ dàng được dấy lên trong xã hội về các hình ảnh về các hoàn cảnh đau khổ mà trẻ em phải gánh chịu, thường có tác động rất mạnh mẽ đến lòng trắc ẩn của mọi người. Tuy nhiên, do những hành động kiểu này thường chỉ được xuất hiện khi trẻ em gặp những hoàn cảnh khó khăn nên chúng chỉ có tác dụng tức thời nhằm giải quyết các tình huống đó. Nói cách khác, tác dụng của các hành động kiểu này thường mang tính giai đoạn, không liên tục. Sau khi giải quyết xong những tình huống khó khăn mà trẻ em phải gánh chịu, những nhà từ thiện cảm thấy hài lòng và họ cảm giác rằng vấn đề đã được giải quyết. Nhưng thực tế không phải như vậy, bởi lẽ những hành động tức thời đó chỉ mới khắc phục được những vấn đề tạm thời, trước mắt mà không giải quyết được những nguyên nhân chủ yếu của các vấn đề mà trẻ em gặp phải và không đưa ra được những giải pháp dài hạn, triệt để. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Nhân đạo: Dưới góc độ này, trẻ em được coi là đối tượng cần sự bảo vệ. Mục tiêu chính là cứu cuộc sống của trẻ em và bảo vệ trẻ em khỏi những nguy cơ xâm hại, đặc biệt khi trẻ em rơi vào những hoàn cảnh nguy hiểm. Điều làm cho quan niệm ở góc độ này khác với quan niệm ở góc độ tình thương là ở tính chất của những vấn đề mà nó giải quyết. Đó là những trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, điểm giống nhau giữa quan niệm ở góc độ nhân đạo và góc độ tình thương là cách thức giải quyết vấn đề. Trong cả hai góc độ, các hành động đều chỉ nhằm chấm dứt tức thời những nỗi đau khổ và nguy cơ mà trẻ em phải gánh chịu, thay vì tập trung giải quyết những nguyên nhân gây ra các nỗi đau khổ và nguy cơ đó.

Phát triển: Quan niệm ở góc độ này cho rằng trẻ em cần phải có các điều kiện thích hợp để phát triển và trưởng thành, trở thành những công dân chín chắn, hữu ích, có năng lực như người lớn. Do vậy, các nhu cầu của trẻ em thường được xem xét từ quan điểm của người lớn.

Sự sống còn và phát triển: Cách tiếp cận này bao gồm các yếu tố của các cách tiếp cận từ góc độ Nhân đạo và Phát triển.

Mặc dù có những yếu tố hợp lý nhất định, xong các cách tiếp cận kể trên đều bị chỉ trích. Người ta cho rằng các cách tiếp cận này đều xem xét trẻ em trong sự tách biệt khỏi bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể. Điều này có nghĩa là môi trường chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà trẻ em sống trong đó có ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của xã hội về trẻ em. Ví dụ, ở một số nước, có quan điểm cho rằng, càng để cho trẻ em “lăn lộn” ngoài xã hội sớm và gặp những hoàn cảnh khắc nghiệt thì mới tạo cho chúng năng lực. Điều đó cũng giải thích tại sao trong các chính sách kinh tế, xã hội của các quốc gia lại cần thiết phải có những chương trình đặc biệt dành cho trẻ em.

Bên cạnh đó, khái niệm trẻ em còn có thể tiếp cận từ các góc độ khác như từ sự phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hoặc về vị thế xã hội… xong, các cách tiếp cận đó đều tương đối trừu tượng, khó áp dụng phổ biến. Vì vậy, người ta thường sử dụng cách tiếp cận theo độ tuổi. Điều đó có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Tuy nhiên, các xã hội cũng có quan niệm khác nhau về độ tuổi được coi là trẻ em. Thực tế cho thấy, nhận thức về độ tuổi được coi là trẻ em ở các xã hội dao động trong một biên độ khá rộng và ít nhiều bị ảnh hưởng của sự phân biệt về giới tính. Ví dụ, trong các xã hội phương Đông truyền thống, thông thường trẻ em gái từ 13 tuổi trở nên có thể được xây dựng gia đình (điều này cũng được coi là dấu mốc của sự trưởng thành), còn với trẻ em trai, độ tuổi đó là 16. Tại một số xã hội thuộc các châu lục khác, độ tuổi trưởng thành có thể lập gia đình với trẻ em gái là từ 14 tuổi, trẻ em trai từ 17 tuổi…

Sự ra đời của các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em đòi hỏi phải quy định cụ thể về độ tuổi được coi là trẻ em để đảm bảo các văn kiện đó được áp dụng một cách thống nhất. Trước kia, các văn kiện pháp luật quốc tế có liên quan xác định trẻ em là những người dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 đưa ra quy định mới, theo đó: “Trẻ em có nghĩa là người dưới mười tám tuổi” [16]. Bởi công ước này được coi là điều ước quốc tế toàn diện, tiến bộ nhất về vấn đề quyền trẻ em tính đến thời điểm hiện nay nên quy định kể trên có thể coi là định nghĩa chung về trẻ em trên thế giới.

Nhưng công ước có đưa ra trường hợp ngoại lệ: “trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [16].

Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam có sử dụng khái niệm trẻ em và được quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [29]. Còn theo Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [30]. Trong khi đó, trong pháp luật lao động, người chưa thành niên được coi là những người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi; trong pháp luật hình sự, bị can, bị cáo, người bị hại chưa thành niên là những người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi…

Tuy nhiên, tất cả các cách ngành luật kể trên đều lấy giới hạn dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Giới hạn này bằng với mức quy định độ tuổi được coi là trẻ em trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và Công ước 182 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

Như vậy, pháp luật Việt Nam công nhận người thành niên là người đủ 18 tuổi trở lên, khi chưa đủ 18 tuổi tức là người chưa thành niên. Còn khái niệm trẻ em theo quy định của pháp luật Việt Nam không hoàn toàn trùng với quy định của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, thì trẻ em theo quan niệm của Liên hợp quốc (dưới 18 tuổi) tương ứng với khái niệm “người chưa thành niên” (dưới 18 tuổi) của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, do chúng ta sử dụng đồng thời cả hai thuật ngữ này, nên đã gây ra khá nhiều rắc rối trong việc áp dụng cũng như nghiên cứu luật.

1.1.2. Khái niệm lao động trẻ em Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Khác với khái niệm trẻ em, khái niệm về “lao động trẻ em” đòi hỏi ngoài góc độ độ tuổi, còn phải tiếp cận từ góc độ tính chất công việc mà chủ thể phải làm.

Về góc độ độ tuổi, trước đây những cuộc điều tra về vấn đề lao động trẻ em trên thế giới chỉ xét đến các đối tượng dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, sau khi Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và Công ước số 182 của ILO được ban hành, trong đó đưa ra định nghĩa trẻ em là những người dưới 18 tuổi thì độ tuổi này được cộng đồng quốc tế coi là mốc chuẩn để xác định phạm vi chủ thể của khái niệm lao động trẻ em.

Về góc độ tính chất công việc, lao động trẻ em bao gồm những công việc có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Nói cách khác, khái niệm này đề cập đến những công việc và điều kiện làm việc không thể chấp nhận được đối với trẻ em.

Trên thực tế, bởi danh giới giữa những công việc và điều kiện làm việc có thể và không thể chấp nhận được đối với trẻ em khá trừu tượng, nhận thức về vấn đề đó phụ thuộc rất lớn vào phong tục tập quán, tâm lý của các dân tộc và hoàn cảnh kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, nên khó có thể đua ra một định nghĩa bao quát tất cả các dấu hiệu của hiện tượng lao động trẻ em. Mặc dù vậy, từ cách tiếp cận kể trên và từ các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan của ILO, có thể định nghĩa như sau:

Lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người dưới 18 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập, vui chơi, giải trí.

Cần phân biệt giữa khái niệm “lao động trẻ em” với một số khái niệm khác có liên quan. Có hai khái niệm thường bị nhầm lẫn với khái niệm lao động trẻ em, đó là khái niệm trẻ em tham gia hoạt động kinh tế và trẻ em tham gia làm việc.

Trẻ em tham gia hoạt động kinh tế là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong công tác điều tra, thống kê về lao động việc làm nói chung và lao động trẻ em nói riêng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một khái niệm chỉ các công việc sinh lợi do trẻ em thực hiện, bất kể các công việc đó có hay không được trả lương, hợp pháp hay không hợp pháp, thường xuyên, thời giờ làm việc ngắn hoặc chọn thời gian. Tuy nhiên, những công việc vặt, không sinh lời mà trẻ em thường làm trong gia đình hoặc ở trường không thuộc phạm trù này, mặc dù trên thực tế, một số trẻ em có thể phải dành nhiều thời gian để làm những công việc đó, làm ảnh hưởng đến thời giờ học tập, vui chơi, giải trí của các em. Về mặt thời gian, để được xem là có tham gia các hoạt động kinh tế, một trẻ em phải làm các công việc sinh lời ít nhất trong một giờ vào bất kỳ ngày nào trong tuần.

Trẻ em tham gia làm việc (child work) là khái niệm được sử dụng trong một số hội nghị, hội thảo quốc tế và khu vực về vấn đề lao động trẻ em do Tổ chức lương thực thế giới (UNICEP) tổ chức. Nhìn chung, đây là khái niệm để cập đến những công việc có thể chấp nhận được với trẻ em, được đưa vào nhằm mục đích phân biệt với khái niệm lao động trẻ em mà được coi là chỉ những công việc không thể chấp nhận được với trẻ em. Cụ thể, theo nhóm công tác khu vực về lao động trẻ em thì trẻ em tham gia làm việc bao gồm các hoạt động không làm hại tới, và có thể góp phần vào sự phát triển lành mạnh của trẻ. Lao động trẻ em bao gồm tất cả những loại công việc do trẻ em đến 18 tuổi thực hiện mà có hại cho sức khỏe, tinh thần, trí tuệ hay sự phát triển về mặt xã hội và ảnh hưởng tới việc học tập của trẻ em. Trong tuyên bố tại Diễn đàn của trẻ em chống lại tất cả các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (tổ chức tại Thái Lan trong các ngày 1-2/9/1997) thì nêu rõ trẻ em tham gia làm việc khác với lao động trẻ em. Trẻ em tham gia làm việc không gây những ảnh hưởng tiêu cực lên sự phát triển của các em vì đó là những việc làm tự nguyện, phi lợi nhuận hay những công việc trong gia đình.Những công việc này cũng mở ra những cơ hội trong cuộc sống và tạo cho trẻ những kinh nghiệm mới mẻ. Trái lại, lao động trẻ em hướng tới lợi nhuận. Trẻ em phải làm việc liên tục suốt ngày trong những ngành công nghiệp làm ra hàng hóa. Nó vắt kiệt sức lực và ảnh hưởng tới tinh thần, thể chất của các em.

Như vậy, khái niệm lao động trẻ em không đồng nhất với các khái niệm trẻ em tham gia hoạt động kinh tế, trẻ em tham gia làm việc. Giữa các khái niệm này có những điểm khác nhau cơ bản là:

Về tính chất, khái niệm trẻ em tham gia hoạt động kinh tế rộng hơn. Đề cập đến cả công việc chấp nhận được và không thể chấp nhận được với trẻ em, trong khi các khái niệm lao động trẻ em và trẻ em tham gia làm việc chủ yếu chỉ đề cập đến một dạng công việc không thể chấp nhận hoặc có thể chấp nhận với trẻ em.

Về phạm vi, khái niệm lao động trẻ em rộng hơn, đề cập đến cả công việc sinh lời và không sinh lời, trong khi khái niệm trẻ em tham gia hoạt động kinh tế chỉ đề cập những công việc sinh lời. Còn khái niệm trẻ em tham gia làm việc chủ yếu đề cập đến những công việc không sinh lời.

Về chủ thể, khái niệm lao động trẻ em được xác định căn cứ vào nhiều mức độ tuổi của chủ thể tham gia lao động trong khi các khái niệm trẻ em tham gia hoạt động kinh tế và trẻ em tham gia làm việc được xác định chỉ cần căn cứ vào yếu tố chủ thể nằm trong độ tuổi được coi là trẻ em.

1.1.3. Khái niệm xóa bỏ lao động trẻ em Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Trẻ em là tương lai của đất nước, là ngày mai của thế giới; cần phải được cả cộng đồng quốc tế dành cho tất cả những gì tốt đẹp nhất. Trẻ em do còn non nớt về thể chất nên cần phải được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục, không phải làm công việc nặng nhọc, độc hại không phù hợp với lứa tuổi để có thể phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. Điều đó có nghĩa là các quốc gia phải bảo vệ trẻ em, loại trừ các công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm ra khỏi đời sống thường ngày của trẻ em. Việc này cần phải được quy định thành pháp luật quốc gia trên cơ sở tương thích với quy định của pháp luật quốc tế.

Xóa bỏ lao động trẻ em là sự loại bỏ tình trạng trẻ em (những người dưới 18 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ;hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập, vui chơi, giải trí.

Tuy nhiên, để việc xóa bỏ lao động trẻ em trở thành hiện thực ở các quốc gia, cần phải có quy định pháp lý ràng buộc để các quốc gia thực hiện một cách tốt nhất trên cơ sở nguyên tắc Pacta sunt servanda.

1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”, tuổi chưa thành niên là độ tuổi các em còn non nớt về thể chất và trí tuệ. Hoạt động đóng vai trò chủ đạo trong độ tuổi này không phải là lao động.

Gọi là hoạt động chủ đạo, vì nó là hoạt động có tác dụng quyết định nhất đối với sự hình thành những đặc điểm tâm lý căn bản, nó quy định những biến đổi chủ yếu nhất trong các quá trình tâm lý và đặc trưng cho giai đoạn lứa tuổi ấy, đồng thời quy định tính chất của các hoạt động khác [7, tr. 58].

Chính vì vậy, việc xóa bỏ lao động trẻ em là vô cùng cần thiết. Vấn đề này dựa trên những cơ sở khoa học bao gồm hai đặc điểm chủ yếu của trẻ em là sinh lý và tâm lý, ngoài ra còn có lý do về mặt gia đình – xã hội.

1.2.1. Đặc điểm về sinh lý

Ở độ tuổi trẻ em, nhất là giai đoạn từ 13 đến 15 – 16 tuổi, là giai đoạn có sự phát triển mang tính đột biến về sinh lý, biểu hiện: trẻ phát triển nhanh, đặc biệt là xương tay, xương chân. “Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối. Chính sự không cân đối làm cho các em có những cử động lúng túng, vụng về” [10, tr. 30]. Các em bắt đầu bước vào tuổi dậy thì (lúc này các em trai có hiện tượng xuất tinh và các em gái có hiện tượng kinh nguyệt). “Hoạt động chủ đạo là học tập và giao tiếp nhóm” [7, tr. 59]. Ở giai đoạn này, nếu lao động với cường độ quá sức hoặc làm việc trong môi trường độc hại, thiếu vệ sinh đều có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển cả về thể lực và trí lực của trẻ em. Đây chính là cơ sở để Bộ luật lao động quy định: “Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội quy định”(Điều 120) [24].

Kết quả của các công trình nghiên cứu sự phát triển hình thái thể lực của trẻ em ở trong nước và thế giới cho thấy: đến tuổi 17, mức tăng trưởng hàng năm về chiều cao và cân nặng, hai chỉ tiêu đại diện của hình thái thể lực, giảm tới mức nhỏ nhất (gần bằng 0). Điều này chứng tỏ ở tuổi 17, sự tăng trưởng cơ thể rất ít và từ 18 tuổi trở đi, cơ thể bắt đầu ổn định về mặt hình thái thể lực để bước sang tuổi trưởng thành (đối với trẻ em nam muộn hơn và đối với trẻ em nữ sớm hơn một chút). Lúc này các chỉ tiêu hình thái thể lực mới đạt tới mức khá cao và cơ thể bước vào thời kỳ ổn định của tuổi trưởng thành. Như vậy, ở tuổi này các em đã là là thành niên, có thể tham gia đầy đủ vào một quan hệ lao động để gánh vác những nghĩa vụ và hưởng quyền lực thực sự và đầy đủ của một người lao động.

1.2.2. Đặc điểm về tâm lý Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Do sự phát triển vượt bậc về mặt thể chất, cho nên các em ở lứa tuổi này chưa thành niên thường có những biểu hiện về mặt tâm lý khá phức tạp, đó là: giai đoạn này trẻ em rất dễ tưởng mình là người lớn, và ý thức về bản ngã phát triển mạnh mẽ. Đây là một thời kỳ có nhiều biến động nhanh, mạnh, đột ngột và những đảo lộn cơ bản, các nhà tâm lý thường gọi là giai đoạn “khủng hoảng lứa tuổi” (đây là lần khủng hoảng thứ hai trong cuộc đời một con người sau lần một là ở độ tuổi lên 3). Các em thường có biểu hiện rõ rệt nhất về sự tự ý thức về cá tính của mình và hình thành “cái tôi”; cũng như phẩm chất tâm lý độc lập. Các em thường thể hiện tính bồng bột, dũng cảm, mạnh mẽ, muốn mình như người lớn. “Ở giai đoạn này, quan hệ giao tiếp cũng phát triển mạnh, đặc biệt là quan hệ với nhóm bạn, có thể vượt ra ngoài giới hạn của tuổi học trò, hoạt động có tính độc lập…” [10, tr. 32]. Những đặc điểm về tâm lý này cũng ảnh hưởng đến khả năng học nghề, khả năng lao động của các em, nhất là tâm lý cả thèm, chóng chán, hiếu thắng. Dễ bồng bột phản ứng lại với người dạy nghề, hoặc người sử dụng lao động, nên dễ bị coi là bướng bỉnh. Nếu có bị nhắc nhở, kỷ luật thì thường dễ tự ái, chán nản, bi quan… Chính vì vậy, Điều 120 của Bộ luật lao động cũng có quy định: “Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu” [24]. Cha mẹ hoặc người đỡ đầu ngoài việc giám sát việc tuân thủ pháp luật cũng góp phần khuyên nhủ, bảo ban có tính chất cố vấn tinh thần cho các em trong những trường hợp cần thiết.

1.2.3. Yếu tố gia đình – xã hội

Nguyên tắc bao trùm trong Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 là Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt do còn non nớt về thể chất và trí tuệ.

Bộ luật Dân sự 2005 có những quy định về việc con, cháu chưa thành niên được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà (Điều 41).

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 có quy định rõ trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của gia đình, cha mẹ.

Như vậy, người lớn, bố mẹ là người đã trưởng thành. “Độ tuổi đã phát triển toàn diện về thể chất, tâm lý, ý thức, sáng tạo mạnh mẽ nhất trong giao đoạn lứa tuổi này. Hoạt động chủ đạo là lao động” [7, tr. 60], nên có nhiệm vụ phát triển kinh tế gia đình và chăm lo con cái, thực hiện các nhiệm vụ khác với xã hội. Hoạt động chủ đạo là lao động. Trẻ em do còn chưa hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, ý thức… nhiệm vụ chính là học tập, vui chơi và tích lũy kinh nghiệm của nhân loại.

1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

1.3.1. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945

Trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại, ngày 24 tháng 10 năm 1945 trở thành mốc son đáng ghi nhớ, với sự hiện diện của một tổ chức quốc tế toàn cầu, mà tôn chỉ và mục đích lớn lao là duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, dựa trên nền tảng quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các quốc gia, nhằm hình thành một trung tâm phối hợp các nỗ lực quốc tế vì mục tiêu chung của nhân loại là phát triển bền vững kinh tế – xã hội và các quyền con người cơ bản ở mọi quốc gia.

Tên gọi Liên hợp quốc trở nên quen thuộc trên mọi diễn đàn quốc tế kể từ khi Hiến chương của Tổ chức này chính thức được năm nước Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Trung Quốc và đa số các quốc gia ký kết phê chuẩn. Từ đó đến nay, ngày 24 tháng 10 hàng năm được thế giới lấy làm ngày kỷ niệm Liên hợp quốc.

Tại khoản 3 điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 nêu rõ một trong những mục đích của Liên hợp quốc là đạt được sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, và thúc đẩy, khuyến khích việc tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.

Ngay trong phụ lục Hiến chương Liên hợp quốc đã tuyên bố sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người được thực hiện trong các quốc gia với mục đích khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong một nền tự do rộng rãi.

Mỗi quốc gia phải có nghĩa vụ bảo đảm cho những quyền cơ bản của con người được thực hiện, trong đó có quyền trẻ em.

Liên hợp quốc cho rằng: Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo sẽ thúc đẩy các quan hệ xã hội của con người nói chung, trẻ em nói riêng phát triển trên nền tảng tự do, tự nguyện và công bằng.

1.3.2. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948

Văn kiện này là bản tuyên bố quốc tế đầu tiên về các quyền con người, áp dụng cho tất cả mọi người, không phân biệt về bất cứ yếu tố gì, trong đó có yếu tố độ tuổi. Các điều từ 22 đến 27 đề cập cụ thể đến các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, trong đó có các quyền về lao động, việc làm; quyền về giáo dục; quyền về mức sống thích đáng; quyền về an sinh xã hội; quyền nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí… Trẻ em cũng là chủ thể của các quyền này, đồng thời được coi là đối tượng phải được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Điều 29 của văn kiện này đề cập đến giới hạn của việc hưởng thụ các quyền con người, trong đó, khi thực hiện các quyền và tự do của bản thân mình, mỗi cá nhân phải bảo đảm là việc đó không ảnh hưởng đến việc hưởng thụ các quyền, tự do của người khác hoặc làm tổn hại đến những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội hay phúc lợi chung của cộng đồng (lên hệ với vấn đề lao động trẻ em, sự giới hạn này có ý nghĩa ngăn ngừa việc lạm dụng, bóc lột trẻ em).

1.3.3. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được thông qua và để ngỏ cho các nước ký kết, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 2200A (XXI) ngày 16.12.1966. Công ước này có hiệu lực ngày 03.01.1976 căn cứ theo điều 27 của công ước. Việt Nam ra nhập công ước này vào ngày 24.09.1982.

Đứng trên phương diện bảo vệ các quyền cơ bản về kinh tế – xã hội của con người, công ước đã quy định các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ ban hành các chính sách hoặc có các biện pháp cụ thể để trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và phát triển.

Điều 10 công ước khẳng định:

Thanh thiếu niên phải được bảo vệ để không bị bóc lột về kinh tế và xã hội. Việc thuê thanh thiếu niên làm các công việc có hại cho sức khỏe, trí tuệ hoặc nguy hiểm tới tính mạng hay có hại tới sự phát triển bình thường của các em phải bị pháp luật trừng phạt. Các quốc gia phải định ra những giới hạn tuổi mà việc thuê lao động trẻ em dưới hạn tuổi đó phải bị ngăn cấm và trừng trị trong pháp luật [14].

Điều này cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể cho gia đình, đặc biệt là với các gia đình có trẻ em.

Do trẻ em là đối tượng sống còn phụ thuộc vào gia đình nên trong công ước đã đề cấp đến việc bảo vệ trẻ em còn là bảo vệ các gia đình có trẻ em. Đó là “cần phải giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể được đối với gia đình – một nhóm cơ bản và tự nhiên của xã hội, nhất là đối với việc thành lập gia đình và trong khi gia đình có trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ em sống lệ thuộc vào gia đình” [14]. Nhưng công ước cũng khẳng định không vì lý do cha mẹ… mà con cái chưa thành niên bị phân biệt. Cụ thể: “Cần áp dụng những biện pháp bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt đối với tất cả thanh thiếu niên, không có sự phân biệt đối xử vì các lý do về cha mẹ hoặc các điều kiện khác” [14]. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

1.3.4. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 là hai văn kiện cơ bản nhất về nhân quyền do Liên hợp quốc ban hành. Cùng với Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, hai văn kiện này tạo thành Bộ luật quốc tế về nhân quyền, có ý nghĩa như là các văn kiện nền tảng để xây dựng các văn kiện quốc tế khác trên lĩnh vực nhân quyền hoặc liên quan đến nhân quyền.

Công ước này được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16.12.1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; có hiệu lực ngày 23.3.1976, căn cứ theo Điều 49 của Công ước. Việt Nam gia nhập ngày 24.9.1982.

Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, bên cạnh các quyền khác, đề cấp đến quyền được bảo vệ không bị bắt giữ làm nô lệ hay nô dịch; bị lao động bắt buộc hay cưỡng bức; được tôn trọng và bảo đảm tính mạng, danh dự, nhân phẩm…của tất cả mọi người, trong đó có trẻ em. Điều 24 Công ước này đề cập đến quyền của trẻ em được “gia đình, xã hội và Nhà nước bảo hộ, được đăng ký ngay sau khi sinh ra và có tên gọi; được có quốc tịch” [15]. Đây là những tiền đề rất quan trọng để bảo vệ trẻ em khỏi những hình thức xâm hại, bóc lột và lạm dụng.

1.3.5. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989

Trong số các công ước của Liên hợp quốc có liên quan đến lao động trẻ em, Công ước về quyền trẻ em (đã được Liên hợp quốc thông qua ngày 20.11.1989, có hiệu lực từ ngày 02.9.1990) có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đây là công ước được đông đảo các quốc gia trong cộng đồng quốc tế hưởng ứng. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước này. Công ước về quyền trẻ em là công ước đầu tiên đề cập khá toàn diện và đầy đủ đến các quyền trẻ em theo xu hướng tiến bộ và đầy tính nhân văn. Có thể nói đây là văn kiện toàn diện, tiến bộ nhất về quyền trẻ em tính đến thời điểm hiện nay. Nó xác định một tập hợp các quyền và tự do của trẻ em trên tất cả các lĩnh vực, nhằm mục đích bảo đảm sự sống còn, phát triển toàn diện và bảo vệ trẻ em trước nguy cơ xâm hại. Công ước này vừa là cơ sở lý luận, vừa là công cụ bổ trợ hữu hiệu cho các văn kiện cơ bản của ILO về xóa bỏ lao động trẻ em. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Công ước về quyền trẻ em là một trong gần 30 điều ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc, tập trung đề cập đến các quyền con người của một nhóm đối tượng đặc biệt là trẻ em. Văn kiện này đưa ra những cách thức tiếp cận mới và một nội dung toàn diện hơn hẳn so với các văn kiện quốc tế trước đó về quyền trẻ em.

Xét về nội dung, lần đầu tiên Công ước đưa ra một định nghĩa về trẻ em làm cơ sở cho việc thực hiện các quyền của trẻ em trên toàn thế giới mà không có sự phân biệt về bất cứ yếu tố nào về chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán… Tuy nhiên, quan trọng hơn, Công ước đã đưa ra một tập hợp các quyền trẻ em mà rất nhiều quyền trước đó chưa hề được các văn kiện pháp lý quốc tế đề cập, tạo ra một khuôn khổ các thỏa thuận quốc tế về những tiêu chuẩn tối thiểu cần thiết cho sự sống còn, phát triển và hạnh phúc của trẻ em mà các quốc gia đều phải tuân thủ, thực hiện. Những quy định này có liên quan đến tất cả các khía cạnh của quyền con người, là cơ sở để bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả và được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội.

Xét về đối tượng tác động, Công ước không chỉ đề cập tới trẻ em nói chung, mà còn đề cập đến những nhóm “trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em tàn tật, trẻ em bị mất môi trường gia đình, trẻ em mại dâm, trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em trong xung đột vũ trang” [32]…và yêu cầu các quốc gia phải đặc biệt chú trọng bảo vệ và chăm sóc các nhóm trẻ em này. Thêm vào đó, Công ước còn đề cập đến những thách thức và những vấn đề cấp bách mà trẻ em đang gặp phải như lạm dụng tình dục trẻ em, bóc lột lao động, buôn bán trẻ em, trẻ em bị buộc cầm súng, tác động của ma túy với trẻ em… và xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những thách thức, vấn đề cấp bách đó.

Xét về cách thức tiếp cận, tư tưởng xuyên suốt nội dung Công ước là: trẻ em là những chủ thể của các quyền và của quá trình phát triển chứ không phải là đối tượng được hưởng sự quan tâm, thương hại hay lòng từ thiện thuần túy. Tư tưởng này chi phối toàn bộ nhận thức và hành động của nhân loại về trẻ em và bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Theo tư tưởng này, không chỉ các nhu cầu, mà các quyền của trẻ em cũng phải được thực hiện. Nhà nước, cộng đồng, các bậc cha mẹ, các tổ chức quốc tế… và tất cả các chủ thể khác có liên quan, đều phải có nghĩa vụ pháp lý tôn trọng và thực hiện các quyền trẻ em, chứ không chỉ dừng lại ở những hành động xuất phát từ tình thương hay lòng nhân đạo.

Nếu như các văn kiện pháp lý quốc tế trước kia mới chủ yếu đề cập đến quyền trẻ em ở góc độ các quyền con người thì Công ước khẳng định tính đặc biệt dễ bị tổn thương của trẻ em, khẳng định trẻ em là những cá nhân có những nhu cầu, lợi ích riêng biệt và đưa ra một tập hợp các quyền của trẻ em trên cơ sở kết hợp cả hai nguyên tắc: tôn trọng nhân phẩm, các quyền, tự do của con người và nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc thù của trẻ. Xuất phát từ cách tiếp cận này, Công ước đã gắn liền các quyền của trẻ em với các nghĩa vụ của các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm khác, đồng thời thừa nhận quyền của trẻ em được biểu đạt ý kiến trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống và sự phát triển của các em.

Do nội dung và cách tiếp cận mới kể trên, Công ước đã khắc phục được những hạn chế của các văn kiện quốc tế trước đó về quyền trẻ em và trở thành công cụ pháp lý quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền của trẻ em hiện nay.

Với việc khẳng định vị thế và các quyền con người đặc biệt của trẻ em trong luật pháp quốc tế, Công ước về quyền trẻ em là cơ sở lý luận và pháp lý cho việc xây dựng các văn kiện pháp lý quốc tế khác về bảo vệ trẻ em, trong đó có Công ước số 182 của ILO cấm và hành động ngay lập tức nhằm xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

Không chỉ vậy, bản thân hệ thống các quyền và tự do của trẻ em được nêu trong văn kiện này đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện, có tác dụng phòng ngừa và bảo vệ trẻ em trước những nguy cơ bị bóc lột, lạm dụng và xâm hại. Nếu phân tích một cách chi tiết, có thể thấy rằng, tất cả các quyền và tự do của trẻ em được nêu trong Công ước đều trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần bảo vệ trẻ em khỏi bị lạm dụng và bóc lột, tuy nhiên quan trọng nhất là các quyền được ghi nhận trong các điều từ 28 đến 34, bao gồm: Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

  • Quyền được học tập;
  • Quyền được nghỉ ngơi và giải trí;
  • Quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế và phải làm các công việc có hại với sức khỏe, sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội hoặc ảnh hưởng đến quyền được học tập của trẻ em.
  • Quyền được bảo vệ khỏi bị lôi kéo vào sử dụng, sản xuất, buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy.
  • Quyền được bảo vệ trước các hình thức bóc lột và xâm hại tình dục.

Đặc biệt, để bảo đảm quyền của trẻ em được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế và khỏi phải làm các công việc có hại, Công ước còn yêu cầu các quốc gia phải:

  • Quy định một hoặc nhiều độ tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc;
  • Có quy định thích hợp về thời giờ và điều kiện lao động;
  • Quy định những hình phạt thích đáng hoặc các hình thức chế tài khác nhằm đảm bảo cưỡng chế thi hành hiệu quả các quy định về vấn đề này [16].

Sự liên hệ trực tiếp giữa Công ước về quyền trẻ em và các công ước của ILO về lao động trẻ em thể hiện ở điều 32. Điều này yêu cầu các quốc gia thành viên Công ước phải thực thi các biện pháp cần thiết để bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột về kinh tế, đặc biệt, trên cơ sở tính đến những tiêu chuẩn quốc tế khác có liên quan, phải quy định một hay nhiều mức tuổi tối thiểu được phép thu nhận vào làm công. Khái niệm những tiêu chuẩn quốc tế khác mà có tác dụng ngăn chặn và xóa bỏ lao động trẻ em, song cơ bản là chỉ những tiêu chuẩn quốc tế về lao động trẻ em của ILO.

Ngoài ra, dựa trên cơ sở Công ước về quyền trẻ em, Liên hợp quốc đã ban hành hai Nghị định thư không bắt buộc đề cập đến việc xóa bỏ hai trong số những dạng lao động trẻ em tồi tệ nhất là việc cưỡng bức trẻ em tham gia chiến sự và việc buôn bán, bóc lột tình dục trẻ em. Nội dung của các văn kiện này cũng chính là một phần nội dung của Công ước số 182 của ILO.

Như vậy, mặc dù không đề cập riêng đến vấn đề lao động trẻ em, nhưng Công ước về quyền trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho các Công ước số 138 và 182 của ILO. Cùng với các công ước có liên quan của ILO, Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc có vị trí rất quan trọng trong việc ngăn ngừa, cấm và xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em trên thế giới.

1.3.6. Các công ước và khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong lĩnh vực điều chỉnh pháp lý quốc tế đối với lao động trẻ em

Công ước đầu tiên của ILO đề cập đến lao động trẻ em là Công ước số 5 năm 1919 về tuổi tối thiểu (trong công nghiệp), trong đó xác định tuổi lao động tối thiếu trong các ngành công nghiệp là 14 tuổi.

  • Công ước số 6 (1919) về công việc ban đêm của người trẻ tuổi (trong công nghiệp).
  • Công ước số 7 (1920) về tuổi tối thiểu làm việc trên biển.
  • Công ước số 10 (1921) về tuổi tối thiểu (trong nông nghiệp)
  • Công ước số 15 (1921) về tuổi tối thiểu (làm việc dưới hầm tàu và lò đốt)…

Hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về lao động của ILO có liên quan đến bảo vệ trẻ em được thể hiện trên 5 lĩnh vực chủ yếu, đó là: quy định tuổi tối thiểu được phép nhận vào làm việc, cấm sử dụng trẻ em làm việc ban đêm, kiểm tra sức khỏe cho người trẻ tuổi, những điều kiện sử dụng trẻ em làm việc dưới lòng đất và xóa bỏ ngay những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

Thuật ngữ các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO thường được sử dụng để chỉ những quy định trong những Công ước và Khuyến nghị của ILO (các văn kiện này được thông qua tại Hội nghị lao động quốc tế, tổ chức hàng năm tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ). Đây là những chuẩn mực tối thiểu mà ILO xác định để làm cơ sở điều chỉnh các quan hệ xã hội (chủ yếu là giữa giới chủ và người lao động) trên lĩnh vực lao động, việc làm.

Các tiêu chuẩn về lao động trẻ em và các tiêu chuẩn của ILO về độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng hoặc được đi làm việc cũng thuộc về phạm trù các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO, bởi lẽ chúng cũng là những quy định trong những Công ước và Khuyến nghị được thông qua tại Hội nghị Lao động quốc tế hàng năm. Xét về phạm vi, khái niệm các tiêu chuẩn của ILO về lao động trẻ em rộng hơn so với khái niệm các tiêu chuẩn của ILO về độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng hoặc được đi làm việc; bởi lẽ khái niệm các tiêu chuẩn của ILO về lao động trẻ em không chỉ bao gồm những quy định về độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng hoặc được đi làm việc mà còn bao gồm những quy định về bảo vệ trẻ em khỏi bị các hình thức bóc lột như các điều kiện sử dụng trẻ em trong các công việc ban đêm, trong các công việc dưới mặt đất, việc khám sức khỏe cho trẻ em lao động, việc cấm và xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất… Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Tuy nhiên, trong hệ thống các tiêu chuẩn của ILO về lao động trẻ em, thì những tiêu chuẩn về độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng hoặc được đi làm việc có ý nghĩa nền tảng.

  • Công ước số 6 của ILO (1919) về công việc ban đêm của người trẻ tuổi (trong công nghiệp).

Nội dung Công ước số 6 là bảo vệ quyền lao động cho trẻ em làm việc trong các cơ sở công nghiệp, nghiêm cấm việc sử dụng lao động trẻ em làm việc vào ban đêm tại các cơ sở này: “Cấm sử dụng trẻ em dưới 18 tuổi làm việc ban đêm trong các cơ sở công nghiệp, công cộng hoặc tư nhân hoặc trong các bộ phận thuộc những cơ sở ấy, không kể những cơ sở chỉ sử dụng thành viên của cùng gia đình.

Khi trẻ em tham gia vào quan hệ lao động chỉ có thể làm những công việc phù hợp với khả năng, thể chất của mình và phải bảo đảm cho việc làm đó không ảnh hưởng tới điều kiện phát triển bình thường của trẻ. Vì vậy, luật pháp lao động các nước có những quy định pháp luật dành riêng cho đối tượng lao động là trẻ em và những đối tượng này được hưởng các ưu đãi riêng như: thời giờ làm việc rút ngắn, thời giờ nghỉ ngơi, chế độ hưởng lương…, người sử dụng lao động có trách nhiệm nghiêm túc, đầy đủ các quy định theo pháp luật khi sử dụng lao động trẻ em.

  • Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc năm 1930

Theo khoản 1 điều 2 của Công ước này, lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc được hiểu là “mọi công việc hoặc dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dưới sự de dọa của một hình phạt nào đó và bản thân người đó không tự nguyện làm” trừ nghĩa vụ quân sự hoặc công việc có tính chất quân sự thuần túy, những nghĩa vụ của công dân nước tự chủ, các nghĩa vụ theo sự bắt buộc của tòa án dưới sự giám sát của nhà chức trách có thẩm quyền, những công việc trong trường hợp khẩn cấp vì lợi ích của cộng đồng… Công ước cũng quy định rằng “Chỉ những thanh niên nâm giới khỏe mạnh ở độ tuổi không dưới 18 và không quá 45 mới thuộc diện phải huy động đi làm việc lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc” (khoản 1 điều 11). Điều đó có nghĩa là, trên lãnh thổ của Quốc gia là thành viên Công ước, bất kỳ người chưa đủ 18 tuổi nào – là trẻ em theo pháp luật quốc tế – đều được quyền từ chối mọi yêu cầu đi làm công việc có tính chất cưỡng bức hoặc bắt buộc của bất kỳ ai và không phân biệt đó là công việc gì.

Xóa bỏ lao động cưỡng bức là một trong những nền tảng nhằm đảm bảo quyền cơ bản tại nơi làm việc của người lao động được cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm. Mức độ hạn chế và tiến tới chấm dứt việc sử dụng lao động cưỡng bức là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ văn minh, tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc quyết định tham gia công ước của Việt Nam cho thấy chúng ta đang rất cố gắng để đạt được những tiêu chí về một quốc gia phát triển và văn minh.

  • Công ước số 138 về tuổi lao động tối thiểu năm 1973 của ILO

Hiện nay có khoảng 11 công ước và khuyến nghị liên quan đến độ tuổi lao động trẻ em. Đáng chú ý là Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu được đi làm việc công và Khuyến nghị 146 quy định tuổi tối thiểu làm công nghiệp, nông nghiệp, các nghề phi công nghiệp, dưới mặt đất và trên biển. Hai văn kiện này bao quát tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế, tất cả các loại công việc có hợp đồng hay không. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Công ước 138 quy định độ tuổi tối thiểu xuất phát từ sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Các mức tuổi lao động tối thiểu áp dụng trong hoàn cảnh thông thường và các mức tuổi lao động tối thiểu áp dụng trong hoàn cảnh đặc thù (tức là với các quốc gia có nền kinh tế và điều kiện giáo dục còn hạn chế, chưa thích hợp để áp dụng các mức tuổi tối thiểu trong hoàn cảnh thông thường).

Xuất phát từ tính đa dạng của các loại hình công việc, Công ước đưa ra ba mức tuổi chính, áp dụng với các công việc nguy hại và công việc nhẹ nhàng. Ngoài ra, tính đến tính chất đặc biệt của một số nghề nghiệp cần phải luyện tập từ độ tuổi còn nhỏ, Công ước còn đề cập đến một độ tuổi ngoại lệ, không thuộc vào các dạng độ tuổi kể trên.

Đồng thời với việc xác định các mức độ tuổi lao động tối thiểu, Công ước số 138 còn đề cập đến những điều kiện trong việc áp dụng các mức tuổi cụ thể.

  • Theo Công ước 138 các mức tuổi lao động tối thiểu áp dụng trong hoàn cảnh thông thường có 3 mức tuổi.

“Ít nhất từ 15 tuổi” (khoản 3 điều 2 Công ước). Đây là mức tuổi tối thiểu phổ biến (hay còn gọi là tuổi tối thiểu chung) mà các quốc gia thành viên phải nêu rõ trong một bản tuyên bố kèm theo văn bản phê chuẩn. Theo công ước từ độ tuổi này có thể được tuyển dụng hoặc làm các công việc không có tính chất nguy hại. Tuy nhiên, mức tuổi này luôn phải kèm theo điều kiện là không thấp hơn độ tuổi hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc mà quốc gia thành viên đã xác định. Điều đó có nghĩa là khi xác định độ tuổi lao động tối thiểu phổ biến, các quốc gia phải căn cứ vào độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và độ tuổi này luôn luôn phải bằng hoặc cao hơn độ tuổi hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc.

Khuyến nghị số 146 (đoạn 7 khoản 2) khuyến cáo các quốc gia: Ở những nơi mà độ tuổi tối thiểu vẫn dưới 15 tuổi đối với những công việc như quy định tại điều 2 Công ước về độ tuổi lao động tối thiếu năm 1973 thì cần có những biện pháp khẩn cấp để nâng lên 15 bằng với mức quy định của Công ước. Không chỉ vậy, theo (đoạn 7 khoản 1) Khuyến nghị này, các quốc gia thành viên cần đặt ra mục tiêu nâng dần độ tuổi lao động tối thiểu thông thường lên 16 tuổi.

Ít nhất từ 13 hoặc 15 tuổi nhưng chưa hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc. Đây là mức tuổi tối thiểu mà có thể cho phép trẻ em tham gia làm những công việc nhẹ nhàng (ligh work) mà tính chất và điều kiện tiến hành không ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển, việc học tập, học nghề hay các cơ hội giáo dục khác của trẻ (khoản 1, 2 điều 7 Công ước). Để ngăn ngừa việc lạm dụng quy định trên nhằm mục đích bóc lột sức lao động của trẻ em, khoản 3 điều 7 yêu cầu nhà chức trách có thẩm quyền của các quốc gia thành viên phải “xác định những hoạt động nào trong đó việc sử dụng lao động sẽ được phép tiến hành theo đúng các khoản 1, 2 của điều này và quy định số giờ và những điều kiện của việc tuyển dụng hoặc lao động như vậy” [33].

Khác với tuổi lao động tối thiểu phổ biến, mức tuổi tối thiểu này không bị ràng buộc với độ tuổi hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc. Việc xác định các công việc nhẹ nhàng có thể khác nhau giữa các quốc gia, tùy vào hoàn cảnh thực tế của mỗi nước và khi xác định không cần thiết phải tham khảo ý kiến của các tổ chức của người lao động, người sử dụng lao động.

  • Ít nhất từ 18 tuổi. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Theo khoản 1 điều 3 Công ước, với những loại nghề nghiệp hoặc công việc mà tính chất hoặc điều kiện làm việc có thể làm tổn hại tới sức khỏe, sự an toàn hay nhân cách của trẻ em (còn gọi là các công việc nguy hại), thì mức tuổi tối thiểu được tuyển dụng và cho phép đi làm việc phải từ 18 tuổi.

Khuyến nghị số 146 (đoạn 9) khuyến cáo ở những nơi mà độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng hoặc được đi làm những loại hình công việc mà tính chất hoặc điều kiện làm việc có thể làm tổn hại tới sức khỏe, sự an toàn hay nhân cách của trẻ em còn dưới 18 tuổi thì quốc gia thành viên phải có biện pháp khẩn cấp để tăng độ tuổi đó lên bằng mức quy định của Công ước”. Theo đoạn 11 Khuyến nghị này thì các quốc gia thành viên trong khi chưa xác định được ngay phạm vi áp dụng độ tuổi lao động tối thiểu thì phải ưu tiên đặt ra và áp dụng các quy định về độ tuổi lao động tối thiểu hợp lý đối với những công việc hoặc nghề nghiệp nguy hại với thanh, thiếu niên.

  • Các mức tuổi trong hoàn cảnh đặc thù và tuổi tối thiểu có điều kiện.

Theo Công ước, với các quốc gia có nền kinh tế và điều kiện giáo dục còn hạn chế thì có thể hạ thấp một số mức tuổi lao động tối thiểu so với các mức tuổi được áp dụng trong hoàn cảnh thông thường, cụ thể:

  • Ít nhất từ 14 tuổi. Theo điều 2 (4) Công ước:

Mọi nước thành viên mà nền kinh tế và các phương tiện giáo dục chưa phát triển đầy đủ thì sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức hữu quan, nếu có, của người sử dụng lao động và của người lao động thì có thể quy định mức tuổi lao động tối thiểu là 14 tuổi trong giai đoạn đầu [33]

  • (Điều này thay thế cho mức tuổi 15 như quy định trong khoản 2 điều 3).

Theo Điều 2(5), quốc gia nào quy định mức tuổi tối thiểu là 14 theo đoạn trên thì trong các báo cáo theo điều 22 của Điều lệ Tổ chức ILO, phải cho biết:

a, Lý do họ vẫn giữ quy định như vậy;

b, Việc họ từ bỏ quy định như vậy kể từ thời điểm nhất định.

  • Ít nhất từ 12 hoặc 14 tuổi nhưng chưa hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc.

Theo điều 7(4) Công ước, nếu có những điều kiện tương tự như đã đề cập trong điều 2(4) Công ước, các quốc gia thành viên có thể cho phép trẻ em từ 12 hoặc 14 tuổi nhưng chưa hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc tham gia làm những công việc nhẹ nhàng mà tính chất và điều kiện tiến hành không ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển, việc học tập, học nghề hay các cơ hội giáo dục khác của trẻ (thay thế cho các mức tuổi 13 và 15 như quy định trong khoản 1 điều 7).

Ngoài hai mức tuổi tối thiểu áp dụng trong điều kiện đặc thù kể trên, theo điều 3 (3) Công ước, mặc dù theo quy định tại điều 3(1), độ tuổi lao động tối thiểu với các loại hình công việc nguy hại không được dưới 18, nhưng pháp luật quốc gia hoặc nhà chức trách có thẩm quyền vẫn có thể, sau khi tham khảo ý kiến của các tổ chức hữu quan nếu có của người sử dụng lao động và người lao động, cho phép các thiếu niên từ độ tuổi 16 được tuyển dụng hoặc đi làm việc, với điều kiện là an toàn và phẩm hạnh của trẻ phải được bảo đảm đầy đủ, phải có sự hướng dẫn cụ thể và thích đáng, hoặc phải đào tạo nghề cho họ trong công việc tương ứng. Đây có thể gọi là mức tuổi tối thiểu có điều kiện mà các quốc gia trong cả hoàn cảnh thông thường và hoàn cảnh đặc thù đều có thể áp dụng.

  • Công ước số 182 về cấm và hành động ngay để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 của ILO

Cũng như Công ước số 138, Công ước 182 là một trong 8 công ước cơ bản của ILO và là một trong bốn văn kiện quan trọng nhất về vấn đề lao động trẻ em. Trước khi Công ước này được thông qua, ILO đã ban hành nhiều công ước, trong đó có Công ước số 138 được coi là văn kiện có cách tiếp cận toàn diện về vấn đề lao động trẻ em; tuy nhiên, tất cả các công ước đó đều chưa xác định những ưu tiên trong hành động trong cuộc đấu tranh xóa bỏ lao động trẻ em. Trong khi đó, lao động trẻ em là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt là gắn liền với tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nên không thể giải quyết trong thời gian ngắn. Bởi vậy, cần phải xác định những ưu tiên trong hành động để thực hiện dần dần mục tiêu này, cụ thể là phải tập trung xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất – những hoàn cảnh mà đang tác động nghiêm trọng đến sự sống còn, phát triển toàn diện và đặt ra những vấn đề cấp thiết về quyền con người của trẻ em. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Xuất phát từ nhận thức kể trên, Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế, trong phiên họp lần thứ 87 ngày 01.6.1999, đã thông qua Công ước về việc cấm và hành động ngay lập tức để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Công ước có hiệu lực từ ngày 19.11.2000. Hiện nay có 138 nước thành viên, Việt Nam phê chuẩn Công ước này ngày 19.12. 2000.

Bên cạnh sự khác biệt về ưu tiên hành động, còn có một vài điểm khác biệt giữa Công ước số 182 và Công ước 138, cụ thể như:

Nếu như theo Công ước 138, việc giải quyết vấn đề lao động trẻ em là một quá trình lâu dài, phụ thuộc vào hoàn cảnh, mức độ phát triển của mỗi quốc gia thì Công ước số 182 đòi hỏi việc xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất phải được thực hiện ngay, trong một thời gian xác định, bất kể hoàn cảnh và mức độ phát triển của các quốc gia.

Nếu như Công ước số 138 quy định một khuôn khổ chiến lược quốc gia nhằm xóa bỏ lao động trẻ em căn cứ vào hoàn cảnh của mỗi nước thì Công ước số 182 đặt việc xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất lên vị trí ưu tiên cao nhất trong khuôn khổ chiến lược này.

Nếu như Công ước số 138 phân biệt giữa các nước có trình độ phát triển kinh tế và giáo dục khác nhau qua việc đưa ra những mức độ tuổi lao động tối thiểu tương ứng với các hoàn cảnh thông thường và các hoàn cảnh đặc thù thì Công ước số 182 không có sự phân biệt như vậy. “Công ước này áp dụng như nhau cho tất cả các nước, với tất cả trẻ em trai và gái dưới 18 tuổi” [34].

Tuy nhiên, mặc dù có những khác biệt, song cả hai công ước vẫn liên kết với nhau trong một mục đích chung là giải quyết vấn đề lao động trẻ em. Công ước số 182 không sửa đổi, thay thế hoặc gây bất kỳ ảnh hưởng gì đến việc phê duyệt hay thực hiện Công ước số 138. Công ước 138 vẫn giữ vai trò nền tảng cho việc giải quyết vấn đề lao động trẻ em. Việc ban hành Công ước số 182 chỉ nhằm hỗ trợ cho Công ước số 138 qua việc tập trung xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, coi đó là những mục tiêu ưu tiên so với các hình thức lao động trẻ em khác. Bởi vậy, trong một số trường hợp, việc một quốc gia tham gia Công ước 182 có thể coi là một bước đi tiến tới việc tham gia Công ước số 138, tức là tiến tới cam kết về xóa bỏ hoàn toàn các hình thức lao động trẻ em. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Theo Công ước số 182, những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất thể hiện ở 4 nhóm, đó là:

  • “Mọi hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ, như buôn bán trẻ em, gán nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng bức, bao gồm tuyển mộ cưỡng bức hoặc bắt buộc trẻ em để phục vụ trong các cuộc xung đột vũ trang” [11].
  • “Sử dụng, dụ dỗ, lôi kéo trẻ em làm mại dâm, tham gia sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm” [11].
  • “Sử dụng, dụ dỗ, lôi kéo trẻ em tham gia các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt là hoạt động sản xuất và buôn bán các chất ma túy như đã được xác định trong các điều ước quốc tế có liên quan” [11].
  • “Sử dụng trẻ em trong những công việc mà tính chất và hoàn cảnh làm việc có thể xâm hại đến sức khỏe, sự an toàn và đạo đức của trẻ em “[11]

Liên quan tới nhóm thứ nhất: các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trong nhóm này bao trùm nội dung của các văn kiện pháp lý quốc tế về xóa bỏ chế độ nô lệ hay tương tự nô lệ. Từ “như” trong quy định này hàm ý rằng những hình thức đã được liệt kê (buôn bán, gán nợ, lao động cưỡng bức, lao động khổ sai, tuyển mộ cưỡng bức hoặc bắt buộc trẻ em để sử dụng trong xung đột vũ trang) chưa bao hàm hết phạm vi của khái niệm “các hình thức tương tự như nô lệ”. Các văn kiện pháp lý quốc tế về xóa bỏ chế độ nô lệ hay tương tự như nô lệ chính mà các quốc gia có thể tham chiếu bao gồm:

  • Công ước số 29 năm 1930 của ILO về lao động cưỡng bức.
  • Công ước số 105 năm 1957 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức.
  • Khuyến nghị số 35 của ILO về lao động cưỡng bức (bắt buộc gián tiếp).
  • Công ước về chế độ nô lệ năm 1926 và Nghị định thư sửa đổi năm 1953 (của Liên hợp quốc).
  • Công ước bổ sung về xóa bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các thể chế, tập tục tương tự như chế độ nô lệ (của Liên hợp quốc) năm 1956.

Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang năm 2001.

Liên quan tới nhóm thứ hai và thứ 3: Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trong hai nhóm này bao trùm nội dung các văn kiện pháp lý quốc tế về buôn bán người vào mục đích mại dâm và sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm và chống tội phạm xuyên quốc gia. Các văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu có liên quan mà các quốc gia có thể tham chiếu bao gồm:

Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác của Liên hợp quốc năm 1949.

Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2001. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức liên quốc gia và Nghị định thư bổ sung cho Công ước này về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000.

Liên quan đến nhóm thứ tư: Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trong nhóm này tương tự như khái niệm các công việc nguy hại được nêu trong điều 3 (1) Công ước số 138. Tuy nhiên, xét tổng thể, Công ước 182 yêu cầu các quốc gia có nghĩa vụ cao hơn đối với các công việc nguy hại so với Công ước số 138, thể hiện qua các khía cạnh sau:

Thứ nhất: khác với Công ước số 138, Công ước 182 yêu cầu các quốc gia (hoặc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia) khi xác định các công việc được coi là nguy hại theo điều 3(d) bắt buộc phải tham khảo những tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, đặc biệt là các tiêu chuẩn nêu trong các điều 3 và 4 Khuyến nghị số 190 của ILO.

Thứ hai: Nếu như Công ước số 138 (khoản 3 điều 3) cho phép áp dụng độ tuổi tối thiểu có điều kiện với các công việc nguy hại (có thể là từ 16 tuổi nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định) thì Công ước 182 không có quy định như vậy. Đây là sự không đồng nhất giữa hai công ước và có thể gây khó khăn cho những quốc gia mà đã tham gia cả hai công ước này. Tuy nhiên, Khuyến nghị số 190 (đoạn 4) – văn kiện bổ sung Công ước số 182 – đã giải quyết sự không đồng nhất đó khi gợi ý rằng, các quốc gia có thể cho phép trẻ em từ độ tuổi 16 được làm những công việc nguy hại với các điều kiện tương tự như nêu ở điều 3(3) Công ước số 138.

  • Thứ ba, trong khi Công ước số 182 (điều 4(2,3) quy định:

Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia phải xác định những nơi tồn tại các công việc nguy hại sau khi tham khảo ý kiến của các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động có liên quan và phải định kỳ xem xét, sửa đổi danh mục các công việc nguy hại khi cần thiết [37],

  • Công ước số 138 không có những quy định này.

Liên quan đến việc xác định các loại hình công việc được coi là nguy hại, Khuyến nghị số 190 (đoạn 3) quy định: Khi xác định các loại công việc được để cập trong điều 3 (d) của Công ước và những nơi tồn tại các công việc đó, ngoại trừ những vấn đề khác, cần xem xét các yếu tố sau:

  • Những công việc khiến trẻ em lâm vào tình trạng dễ bị lạm dụng về thể chất, tâm lý hoặc tình dục.
  • Những công việc dưới mặt đất, dưới nước, ở độ cao nguy hiểm hay trong không gian tù hãm.
  • Những công việc sử dụng các loại máy móc, thiết bị hoặc liên quan đến điều khiển thủ công hay vận chuyển hàng hóa nặng.

Những công việc sử dụng các loại máy móc, thiết bị hoặc dụng cụ nguy hiểm hoặc liên quan đến điều khiển thủ công hay vận chuyển hàng hóa nặng. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

Những công việc trong môi trường có hại cho sức khỏe, ví dụ như để trẻ em phải tiếp xúc trực tiếp với các chất và các quy trình độc hại hay nhiệt độ, các mức độ tiếng ồn hoặc độ rung ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ em.

Những công việc trong những điều kiện đặc biệt khó khăn như làm việc nhiều giờ liền, làm việc ban đêm hoặc công việc khiến trẻ em bị giam hãm một cách vô lý trong các nhà xưởng của người sử dụng lao động.

Theo các chuyên gia, đoạn 3 Khuyến nghị số 190 là cơ sở cho các quốc gia xác định các công việc nguy hại được nêu cả trong Công ước số 182 và 138. Trong trường hợp một quốc gia đã phê chuẩn Công ước số 138 nhưng chưa phê chuẩn Công ước số 182, quy định kể trên vẫn được coi là tài liệu tham khảo (cùng với quy định có liên quan trong khuyên nghị số 146) trong vấn đề này.

  • Vấn đề độ tuổi khi xác định những hình thức lao động trẻ em tồit ệ nhất.

Điều 3 Công ước số 182 và đoạn 3 khuyến nghị số 190 mới đề cập đến những điều kiện cần; trong khi đó, điều kiện đủ để xác định những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất là phải làm rõ khái niệm “trẻ em”.

Khác với công ước số 138 không đề cập đến khái niệm trẻ em, Công ước số 182 (điều 2) xác định khái niệm trẻ em căn cứ vào độ tuổi, theo đó, trẻ em là tất cả những ai dưới 18 tuổi. Như vậy, việc sử dụng những người dưới 18 tuổi thực hiện các loại hình công việc được nêu trong điều 3 Công ước số 182 sẽ bị coi là những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Trong trường hợp những người thực hiện các loại hình công việc đó có độ tuổi từ đủ 18 trở lên thì mặc nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước số 182.

Tuy nhiên, như đã đề cập, riêng với các công việc nguy hại được nêu trong điều 3(d) của Công ước, theo quy định tại đoạn 4 Khuyến nghị 190, có thể tuyển dụng lao động từ 16 tuổi trở lên, với điều kiện trước đó phải tham khảo ý kiến của các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời phải có các biện pháp thích đáng để bảo vệ sức khỏe, sự an toàn và đạo đức của trẻ, bao gồm việc chỉ dẫn đầy đủ, cụ thể và đào tạo nghề cho trẻ em trong lĩnh vực tương ứng. Điều này có nghĩa là có một số ngoại lệ khi căn cứ vào mức độ tuổi để xác định các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; theo đó, với các loại hình công việc được nêu trong điều 3(d) Công ước số 182 và được cụ thể hóa trong Khuyến nghị 190, nếu như đáp ứng các điều kiện quy định trong đoạn 4 Khuyến nghị số 190 thì chỉ bị coi là những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất nếu như những người thực hiện các công việc đó chưa đủ 16 tuổi. Luận văn: Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Pháp luật nước ngoài về xóa bỏ lao động trẻ em

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993