Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Các vấn đề pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương tại một số quốc gia dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái niệm và lý thuyết pháp lý về Tiền số Ngân hàng trung ương

2.1.1. Định nghĩa và đặc điểm Tiền số Ngân hàng trung ương 

Khái niệm Tiền tố NHTW trong quan điểm của các NHTW cũng như các định chế tài chính quốc tế (WB, IMF, BIS) có những điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác nhau.

Trong báo cáo của mình gửi tới công chúng NHTW Mỹ đưa ra định nghĩa Tiền số NHTW  (CBDC) là một khoản nợ (được ghi nhận dưới dạng số) của NHTW đối với công chúng, và dưới dạng hình thái bằng số, có ý nghĩa tương tự tiền giấy. Tiền số NHTW sẽ là một dạng tài sàn số an toàn nhất được đưa ra cho công chúng sử dụng mà không có bất kỳ rủi ro tín dụng hay thanh khoản nào.

Ngân hàng Trung Ương Anh định nghĩa: Tiền số NHTW là một dạng diện tử của tiền NHTW, được sử dụng bởi các hộ gia đình và doanh nghiệp nhằm mục đích thanh toán và cắt trữ giá trị.

Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc định nghĩa: Tiền số Nhân dân tê là một phiên bản số của tiền pháp định được phát hành bởi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và vân hành bởi các tổ chức được cấp phép. Nó là phương tiện thanh toán hỗn hợp giữa việc dựa trên giá trị, có sử dụng tài khoản và không sử dụng tài khoản.

IMF định nghĩa: Tiền số NHTW là một dạng mới của tiền, được phát hành số bởi NHTW và được sử dụng làm công cụ thanh toán pháp định. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

WB định nghĩa: Tiền số NHTW là một khoản nợ của NHTW, được tạo lập theo phương thức số và được lưu trữ trên hệ thống sổ cái tập trung, hoặc phân tán, được yết bằng đơn vị tiện tệ hiện hữu, dễ dàng được người nắm giữ chuyển đổi thành tiền mặt, thành tiền trên tài khoản ngân hàng thương mại, hoặc thành bất kỳ hình thái tiền nào khác tại các thực thể được cấp phép, trao quyền.

Từ những định nghĩa trên, ta thấy tiền số NHTW sẽ có những đặc điểm sau:

  • Tiền số NHTW là tiền do NHTW phát hành, có tính pháp định và được dùng trong thanh toán
  • Tồn tại dưới dạng số và đóng vai trò như tiền mặt, hình thành nên cơ sở tiền M0.
  • Tiền số NHTW là khoản nợ mà NHTW phải trả cho người nắm giữ.
  • Tiền số NHTW có đầy đủ các chức năng và đặc điểm của Tiền theo kinh tế học, bao gồm: phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ giá trị và đơn vị giá trị.

So sách các đặc tính của Tiền số NHTW dưới các hình thức tiền như sau

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2. Những tác động của Tiền số Ngân hàng trung ương

Theo dòng lịch sử phát triển dịch vụ thanh toán, dễ nhận thấy những nỗ lực phát triển về các công tụ thanh toán phát hành như thẻ, séc, hối phiếu, thương phiếu v.v… được tạo ra nhằm mục đích hỗ trợ các cá nhân việc sử dụng tiền mặt nhanh hơn, nhưng cuối cùng lại trở thành phương thức sử dụng tiền thay thế cho tiền mặt. Các công cụ tiền phát hành bởi lĩnh vực tư nhân (có thể bao gồm dưới dạng tiền gửi tại NHTW, tiền điện tử hoặc tiền số) có đặc trưng là khá rủi ro. Các rủi ro này liên quan đến việc mất thanh khoản, hoặc khả năng thanh toán của chính tổ chức trước sự rút tiền ồ ạt, hoặc do công chúng mất niềm tin về những rủi ro đạo đức, gian lận của tiền điện tử tư nhân. Một số quốc gia mong muốn phát hành Tiền số NHTW như là một cách chống lại sự phổ biến của Tiền số do tư nhân phát hành. Đây là động lực lớn nhất nhằm bảo vệ quyền lực nhà nước, chủ quyền tiền tệ quốc gia trước sự bành chướng và đi lên của các đồng tiền số, tiền mã hóa do tư nhân phát hành.

Các tác động của Tiền số NHTW nếu được phát hành bao gồm: Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Một là, tăng độ phủ và khả năng tiếp cận sử dụng tiền (một loại hàng hóa công cộng đặc biệt):  Bằng cách tạo ra Tiền số, NHTW cũng sẽ giảm lượng tiền mặt lưu thông bằng cách tạo ra một thứ tương đương tiền mặt. Thông qua nắm giữ Tiền số NHTW (là hình thức tương đương với tiền mặt, nhưng ở trạng thái số), người tiêu dùng có một cách thức thay thế so với việc phải gửi tiền vào tài khoản thanh toán của hệ thống các NHTM. Khi tiền số NHTW được phổ biến trong trên phạm vi toàn lãnh thổ, nó sẽ tác động lớn đến cách thức sử dụng các công cụ thanh toán điệnt tử, và có xu hướng lái xã hội tới một xã hội không sử dụng tiền vật lý. Tiền số NHTW cũng sẽ đảm bảo quyền độc quyền phát hành tiền của NHTW và khiến cho mọi giao dịch bán lẻ phải sử dụng tiền số do NHTW phát hành. Tiền số NHTW sẽ tái định vị lại các công cụ thanh toán có tính pháp định, và trở thành công cụ chính, an toàn nhất để thực hiện giao dịch và lưu trữ giá trị.

Hai là, hỗ trợ cho sự đổi mới, sự sáng tạo trong xây dựng sản phẩm thanh toán, sản phẩm và dịch vụ số. Một hệ thống thanh toán Tiền số NHTW kết nối tất cả các đơn vị chấp nhận thanh toán trong nền kinh tế để có thể thực hiện thanh toán xuyên suốt, nhanh chóng, theo thời gian thực, an toàn, hiệu quả, chi phí giao dịch bằng không, sử dụng được mọi lúc mọi nơi, trong bất kỳ thời điểm nào sẽ là thước đo cho sự thành công của Tiền số NHTW so với các công cụ thanh toán khác. Hơn thế, do giao dịch bằng tiền số NHTW có chi phí bằng không, các đơn vị thanh toán, nhà cung cấp dịch vụ/ phương tiện thanh toán trong lĩnh vực bán lẻ sẽ phải rất hiệu quả và phải đổi mới sản phẩm để duy trì cơ sở khách hàng của mình. Hạ tầng thanh toán quốc gia theo đó sẽ ngày càng hiệu quả, giúp cho tất cả công chúng ở nhiều nơi có điều kiện tiếp cận với một loại hàng hóa công cộng đặc biệt.

Ba là, trong hoạt động thu chi của chính phủ, Tiền số NHTW sẽ là phương tiện, là nền tảng hỗ trợ rất hiệu quả để cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức thực hện các nghĩa vụ và quyền lợi của mình, đặc biệt trong những trường hợp khẩn cấp. Ví dụ: các vụ thiên tai, dịch bệnh, ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống dân cư tại khu vực địa lý, chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc đưa tiền cứu trợ cho người dân. Quá trình thực hiện này sẽ trở nên dễ dàng hơn với sự tham gia của NHTW để chuyển Tiền số NHTW trực tiếp tới người được cứu trợ, thay vì phải qua các cơ quan nhà nước trung gian hoặc đơn vị xã hội thực hiện, hoặc theo cơ chế giảm thuế, phí phải đóng. Cách làm này sẽ tạo hiệu quả nhanh chóng, tức thì và có ý nghĩa thiết thực đối với các đối tượng cần giúp đỡ. Bên canh đó, vào những thời điểm khủng hoảng, NHTW có thể thực hiện các gói hỗ trợ kích cầu trực tiếp tới các hộ gia đình và doanh nghiệp, giúp vượt các hộ gia đình và doanh nghiệp có thêm nguồn tài chính để duy trì hoạt động và kinh doanh, tạo ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Bốn là, Tiền số NHTW khi được phát hành sẽ cho phép khu vực công và tư nhân khai thác lợi thế so sánh của mỗi bên, cụ thể: các NHTW có thể tập trung vào việc đảm bảo sự tin cậy, ổn định và tính toàn vẹn trong thanh toán, trong khi đó, các NHTM và trung gian thanh toán sẽ tập trung vào dịch vụ với khách hàng cá nhân và mảng bản lẻ, nơi sự sáng tạo về dịch vụ và trải nghiệm là điều rất quan trọng. Việc cạnh tranh công khai, công bằng sẽ giúp giảm các hành vi độc quyền và lạm dụng của một số các định chế trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ, tăng cường bảo vệ lợi ích người sử dụng.

Năm là, thiết kế kỹ thuật của Tiền số NHTW sẽ có khả năng tác động đến hiệu quả của chính sách tiền tệ. Cụ thể, nếu Tiền số NHTW có trả lãi suất, tác động sẽ rất lớn đến sự dịch chuyển từ công cụ thị trường tiền tệ ngắn hạn sang tiền số NHTW, đặc biệt khi xảy ra khủng hoảng, hoặc rủi ro lớn trên thị trường tài chính. Hơn thế, nếu những người không cư trú dễ dàng sử dụng Tiền số NHTW ở trong nước và ngoài nước thì tiền giấy sẽ dần biết mất, và cả hoạt động mua bán ngoại hối cho mục đích đổi tiền cá nhân sẽ không cần thiết.

Như vậy Tiền số NHTW càng được thiết kế với những đặc điểm hấp dẫn thì mức độ truyền tải chính sách tiền tệ sẽ càng nổi bật hơn. Trong một số trường hợp đặc biệt, tại một số quốc gia có đang phát triển, nơi có hạ tầng kém, và tài chính phi chính thức phổ biến và phát triển mạnh mẽ sẽ có thể làm giảm mức độ truyền tải chính sách tiền tệ thông qua Tiền số NHTW. Việc thay đổi đặc tính kỹ thuật để làm mạnh/ hoặc làm suy yếu mức độ truyền tải chính sách tiền tệ sẽ phụ thuộc vào những mục tiêu mà chính phủ và ngân hàng trung ương mong muốn. Thông thường, sẽ có hai cách mà Tiền số NHTW có thể kiểm soát chính sách tiền tệ, gồm:

  1. Sử dụng lãi suất danh nghĩa âm: là việc NHTW sẽ quy định lãi suất để theo đó bên gửi tiền sẽ phải trả thêm một khoản tiền nếu họ gửi tại NHTW. Điều này sẽ không khuyến khích việc giữ tiền và thúc đẩy việc chi tiêu. So với Tiền số NHTW, tiền giấy bạc không có lãi suất sinh ra từ tiền và cũng không thể áp dụng lãi suất âm trên tiền giấy. Do vậy, chính sách tiện tệ nêu trên sẽ không khả thi.
  2. Sử dụng Tiền số NHTW (theo cơ chế ghi sổ tài khoản) sẽ giúp NHTW chuyển nhanh chóng quỹ trực tiếp vào tài khoản của các cơ quan nhà nước hoặc đơn vị được ủy nhiệm thực hiện. Việc này sẽ thực hiện hiệu quả hơn so với các biện pháp định lượng. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Sáu là, vai trò trung gian tài chính và sự ổn định của thị trường tài chính có thể thay đổi đáng kể nếu Tiền số NHTW trở nên quá hấp dẫn. Một lượng lớn tiền gửi bán lẽ sẽ chảy vào kênh Tiền số NHTW có thể gây ra thiếu hụt phần vốn chi phí giá thấp và ổn định, khiến các NHTM phải tìm cách nâng lãi suất và tìm kiếm các biện pháp để thay thế nguồn huy động này. Các NHTM có thể phải cắt giảm quy mô bảng cân đối của họ. Việc sử dụng Tiền số NHTW ngày một nhiều cũng khiến cho việc giảm lượng tiền mặt nắm giữ và các NHTW có thể sẽ nắm ít hơn các chứng khoán rủi ro hơn, do đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng tự vận hành điều chỉnh của thị trường, và do vậy phải phải hỗ trợ thanh khoản, tín dụng và kéo dài thanh khoản cho hệ thống NHTM. Việc này lại có thể khiến NHTW tham gia tác động lớn hơn về điều kiện tín dụng và điều kiện tài chính.

Trên phương diện quốc tế, việc phát hành Tiền số NHTW và có được sử dụng bởi các chính phủ, tổ chức, cá nhân các quốc gia khác cũng sẽ là một việc quan trọng đòi hỏi các quốc gia lưu ý khi xây dựng về hạ tầng và các quy định pháp luật. Đối với những nước có đồng tiền được chuyển đổi và giao dịch ngoài phạm vi lãnh thổ nước phát hành sẽ phải luôn đảm bảo khả sử dụng và định đoạt hợp pháp của chủ thể khác.

2.1.3. Tiền số Ngân hàng trung ương dưới giác độ pháp lý 

2.1.3.1. Sự khác biệt giữa Tiền, Tiền tệ và Phương tiện thanh toán về phương diện pháp lý

Sự phân biệt giữa các khái niệm Tiền (Currency), Tiền Tệ (Money)Phương tiện thanh toán (Payment instruments) dưới góc độ pháp lý là rất cần thiết, để qua đó làm cơ sở đánh giá và thiết lập khái niệm tiền mã hóa kỹ thuật số (cryptocurrency) cũng như Tiền số

NHTW. Về ý nghĩa, 3 “công cụ” này dù khác nhau về phương diện pháp lý, nhưng lại đều được dùng cho mục đích thay toán, trao đổi giá trị tài chính giữa các chủ thể. Quan trọng hơn, bản chất pháp lý của 3 công cụ này cũng không hẳn trùng khớp với khái niệm tiền tệ của kinh tế học (nghĩa là đảm bảo 3 đặc tính: thước đo giá trị, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ giá trị). Sự phân định giữa ba khái niệm pháp lý này có thể được tóm lược như sau:

  • “Tiền” (Currency) được định nghĩa là phương tiện thanh toán chính thức của một nhà nước hoặc một liên minh tiền tệ, được thừa nhận bởi luật pháp về tiền tệ. Hầu hết các luật/ đạo luật về tiền tệ đều đề cập Tiền gắn liền với giấy và kim loại được phát hành bởi NHTW. Tiền, do vậy, luôn luôn được ấn định là đơn vị tiền tệ chính thức. Khái niệm “phương tiện thanh toán pháp định” (hay còn gọi là “đấu thầu hợp pháp”/ “legal tender”) là một đặc trưng của Tiền, vì pháp luật cho phép bên có nghĩa vụ trả nợ có thể thanh toán các nghĩa vụ tài chính bằng cách đưa Tiền cho chủ nợ của họ (dùng để trả tiền thuế và các nghĩa vụ tài chính phải trả cho Chính phủ). Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.
  • “Tiền tệ” (Money), mặc dù không có bất cứ định nghĩa pháp lý chính thức, được hầu hết mọi người thừa nhận rằng khái niệm này có nghĩa rộng hơn rất nhiều so với Tiền (Currnecy). Trong rất nhiều các quốc gia, bên cạnh tiền tồn tại giữa hình thức giấy bạc, hoặc bằng kim loại (xu, xèng) thì Tiền tệ còn bao gồm một số loại tài sản hoặc phương tiện có thể dễ dàng chuyển đổi/ hoán đổi thành Tiền. Ví dụ điển hình nhất là tiền ghi sổ (book money) nằm trong tài khoản tại các ngân hàng thương mại hoặc tại NHTW (gọi chung là số dư trên tài khoản). Các dạng tiền tệ sổ sách này có thể dễ dàng được chuyển đổi sang tiền, hoặc được chuyển nhượng bằng những công cụ thanh toán hoặc qua hệ thống thanh toán. Tại một số quốc gia, tiền điện tử (electronic money) cũng là một hình thái của tiền tệ hợp pháp.
  • “Phương tiện thanh toán” (Payment instruments) là một hình thái trung gian, nó không phải Tiền và cũng không phải Tiền Tệ, nhưng lại được sử dụng hợp pháp để thực hiện thanh toán đối với tiền trên sổ của NHTM hoặc bằng tiền mặt, ví dụ gồm: séc, ủy nhiệm chi, hối phiếu nhận nợ, hối phiếu đòi nợ, lãnh phiếu, giấy chuyển tiền, giấy chuyển khoản v.v…

2.1.3.2. Đạo luật điều chỉnh hoạt động phát hành tiền Số NHTW

Nghiên cứu của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (2020) về các vấn đề pháp lý đối với tiền số NHTW đã đưa ra các khía cạch phân tích cơ sở pháp lý của tiền số NHTW dưới giác độ Đạo luật Ngân hàng Trung ương (Central Bank Law)Đạo luật tiền tệ (Monetary Law), trong đó có ba kết luận đang lưu ý mà các cơ quan nghiên cứu, xây dựng pháp luật tham khảo, đó là:

  • Nếu một quốc gia có ý định phát hành Tiền số NHTW thì sẽ cần rà soát đầy đủ khuôn khổ pháp lý cho cả Đạo luật NHTW và Đạo luật Tiền tệ (nếu có) nhằm đảm bảo các khía cạnh pháp lý của tiền số NHTW thực sự được quyết định rõ ràng dựa trên các lựa chọn về chính sách và thiết kế kỹ thuật. Đồng thời, quốc gia đó cũng cần xem xét các phương diện pháp lý khác của những đạo luật/ luật trong hệ thống luật công và luật tư có liên quan.
  • Việc phát hành tiền số NHTW sẽ đặt ra những câu hỏi trong lĩnh vực luật thuế, luật tài sản, luật hợp đồng, luật quy định về hệ thống thanh toán, luật về bảo vệ dữ liệu, luật tư pháp quốc tế…. Hơn nữa, tiền số NHTW cần được thiết kế một cách thận trọng nhằm đảm bảo triển khai hiệu quả khuôn khổ phòng chống rửa tiền và phòng chống tài trợ khủng bố.
  • Việc phát hành tiền số NHTW mà không có cơ sở pháp lý vững chắc sẽ khiến không chỉ NHTW mà còn các chủ thể khác trong xã hội cũng gặp rủi ro về pháp lý, tài chính.

Điều chỉnh hoạt động phát hành tiền bằng Đạo luật Ngân hàng Trung ương

Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều dùng Đạo luật Ngân hàng Trung Ương, như là một luật cơ sở để thành lập, quy định về vị trí, vai trò, chức năng, mục tiêu, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này. Trong những quyền hạn rất quan trọng, thì quyền phát hành tiền là một quyền rất đặc biệt, chiếm vị trí trung tâm, quyền lực về chính trị và pháp luật của một Nhà nước có chủ quyền. Lý do là vì quyền này thể hiện việc NHTW có quyền được phát hành nghĩa vụ Nợ nhân danh nhà nước đó một cách hợp pháp và là phương tiện thanh toán pháp định có tính chất bắt buộc với tất cả các chủ thể. Việc thống nhất đồng tiền như một hàng hóa công cộng, độc quyền duy nhất được sử dụng trên phạm vi lãnh thổ quốc gia, giúp đảm bảo cho chính phủ quốc gia đó kiểm soát toàn bộ các hoạt động quan trọng khác của nhà nước như: thu thuế, chi tiêu, đầu tư công và vay nợ quốc gia. Nếu việc phát hành tiền không được thừa nhận về mặt pháp lý thì sẽ rất rủi ro về tài chính cho NHTW nói riêng và, rủi ro chính trị với chính phủ của quốc gia đó nói chung. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Liên quan tới việc phát hành tiền số NHTW, nhóm nghiên cứu Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF (2020) nhận định có 2 chức năng rất quan trọng cần được luật hóa trong các Đạo luật đến NHTW bao gồm:

Chức năng Phát hành tiền: Một chức năng căn bản và có tính lâu đời của NHTW đó là phát hành tiền quốc gia. Chức năng này được hiểu rằng NHTW có quyền phát hành mọi hình thái tiền, bao gồm cả tiền kỹ thuật số mã hóa do NHTW phát hành (tiền số NHTW). Đồng thời, các quy định cũng nêu rõ việc nghiêm cấm các tổ chức tư nhân, cá nhân được phép pháp hành tiền dưới bất kỳ hình thức nào mà đại chúng có thể hiểu lầm và sử dụng đồng tiền này thay thế vai trò của tiền pháp định. Ngoài ra, Đạo luật NHTW của một số quốc gia (trong đó có Việt Nam) chỉ đề cập đến chức năng phát hành tiền giấy và tiền kim loại mà chưa đề cập đến việc phát hành tiền điện tử thông qua các 3 nhóm hoạt động như nêu ở trên (cấp tín dụng, mua chứng khoán từ chính phủ và mua bán ngoại tệ). Vì vậy, trong thiết kế khung pháp lý, nhóm nghiên cứu IMF đề xuất việc phát hành tiền dưới hình thái kỹ thuật số mã hóa (token- based CBDC) cần được quy định một cách rõ ràng, mịnh định trong Đạo luật NHTW.

Chức năng vận hành và giám sát hệ thống thanh toán: Đây là một chức năng cũng khá truyền thống với NHTW, vì việc phát hành bất cứ hình thái tiền tệ nào cũng sẽ bao hàm việc phải có cách thức chuyển giao giá trị tiền tệ đó giữa các chủ thể. Trong trường hợp đối với hình thái tiền vật lý (giấy, polyme, kim loại)  thì việc chuyển giao dễ được nhận diện. Đối với những hình thái phi vật lý, thì việc chuyển giao này luôn cần được thực hiện thông qua một hoặc nhiều “hệ thống” phần mềm và phần cứng có liên quan, gọi chung là hệ thống thanh toán (payment systems). Đối với hình thái tiền số NHTW, nếu việc phát hành thực hiện trực tiếp tới công chúng (tức là tới cả các cá nhân và thể nhân) thì các Đạo luật về NHTW cũng cần phải điều chỉnh lại phạm vi đối tượng được mở tài khoản và thực hiện giao dịch với NHTW.

  • Điều chỉnh hoạt động phát hành tiền bằng Đạo luật Tiền tệ

Tại nhiều quốc gia trên thế giới, Đạo luật Tiền tệ là khuôn khổ pháp lý và quy định cung cáp nền tảng pháp lý căn bản cho việc sử dụng giá trị tiền tệ trong xã hội, trong hoạt động kinh tế và trong hệ thống pháp luật. Nguyên tắc cơ bản của Đạo luật này đề cập tới việc: một quốc gia có chủ quyền sẽ có quyền xác định và thiết lập hệ thống tiền tệ riêng của mình. Trong hợp tham gia liên minh, ví dụ Liên minh Châu Âu, chủ quyền tiền tệ của các nước thành viên sẽ được ủy thác cho một cơ quan đại diện (Ngân hàng trung ương liên minh Châu Âu, ECB), thay mặt các thành viên quyết định về các vấn đề của tiền tệ của cả khu vực liên minh. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Thực tế, có một số quốc gia đưa các quy định, các điều khoản, các quy phạm pháp luật liên quan tới tiền tệ vào ngay trong Đạo luật NHTW, coi các quy định/ điều khoản/ quy phạm này là một cấu phần quan trọng của Đạo luật NHTW, ví dụ: Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia khác lại thiết lập riêng một Đạo luật Tiền tệ, tách bạch với Đạo luật NHTW nhằm quy định sâu rộng hơn các vấn đề về quản lý tiền tệ, ví dụ Canada, Mexico, Sirilanka.

Dựa trên các nguyên tắc về luật quốc tế và luật hiến pháp, các Đạo luật Tiền tệ thường quy định về hai vấn đề sau: a) Đơn vị tiền tệ chính thức của quốc gia/ liên minh tiền tệ là gì? Giá trị của nó được xác định như thế nào? b) Các phương tiện thanh toán chính thức của quốc/ liên minh tiền tệ đó là gì?

Hai khái niệm Đơn vị tiền tệ chínhPhương tiện thanh toán chính thức là hai khái niệm pháp lý có mối quan hệ mật thiết qua lại với nhau. Cụ thể, phương tiện thanh toán cần được thể hiện bằng đơn vị tiền tệ chính thức. Trong khi đó, để thực hiện các nghĩa vụ tài chính, bằng cách chuyển giao các giá trị tiền tệ, thì phải dùng các công cụ thanh toán chính thức/có tính pháp định để thực hiện, ví dụ: phải dùng tờ tiền giấy, tiền kim loại, thẻ, séc… (là phương tiện thanh toán) để thực hiện chi trả tiền thuế, phí, trả nợ vay, thanh toán tiền mua hàng (nghĩa vụ tài chính) bằng một lượng đơn vị tiền tệ nhất định (đơn vị tiền tệ chính thức). Đối với tiền số NHTW, dưới giác độ Đạo luật Tiền tệ, một số câu hỏi cơ bản bao gồm:

  1. Tiền số NHTW có phải là một Đơn vị tiền tệ chính thức mới hay chỉ là một phương tiện thanh toán?
  2. Đạo luật Tiền tệ cần phải có những quy định gì để tương ứng cho với câu trả lời (i) trên.?

Để trả lời cho hai câu hỏi đó, Đạo luật Tiền tệ cần phải thiết lập các khái niệm pháp lý đơn vị tiền tệ chính thức của một quốc gia/ hoặc một liên minh tiền tệ và phương tiện thanh toán chính thức để các chủ thể sử dụng cho việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính với nhau. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Về phương diện đơn vị tiền tệ chính thức, các Đạo luật Tiền tệ thường đề cập các vấn đề như: i) tên gọi đồng tiền và đơn vị đồng tiền và ii) cơ sở hình thành nên giá trị của đồng tiền quốc gia và iii) phạm vi và giá trị sử dụng trên một phạm vi lãnh thổ. Ví dụ: đồng Dollar Mỹ tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đồng Euro tại Liên Minh Châu Âu, đồng Yên tại Nhật Bạn, đồng Nhân dân tệ tại Trung Quốc, đồng Đồng tại Việt Nam. Trong lịch sử, giá trị các đồng tiền này thường được đo lường bởi bằng một lượng dự trữ giá trị của một hoặc nhiều tài sản có giá khác (ví dụ: bằng Vàng dưới chế độ bản vị Vàng Bretton Woods), hoặc bởi lượng dự trữ những ngoại tệ mạnh (ví dụ: đồng tiền trong rổ tiền tệ G7 hoặc quyền rút vốn đặc biệt SDR) và phụ thuộc nhiều vào chính sách kinh tế, tài khóa, tiền tệ, ổn định chính trị của quốc gia đó. Việc xác lập các nội dung này một cách minh định và luật hóa sẽ giúp tách biệt đồng tiền của quốc gia với những đồng tiền do tư nhân phát hành (ví dụ các đồng tiền Bitcoin, Libra, Ethereum hay Ripple) . Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Về phương diện phương tiện thanh toán chính thức, các Đạo luật Tiền tệ cũng đề cập rõ các phương tiện thanh toán được nhà nước thừa nhận và cho phép sử dụng để thực hiện thanh toán, trong đó tiền giấy và kim loại là sự phổ biến nhất, gọi chung là “Tiền”. Nhà nước đảm bảo việc sử dụng tiền của quốc gia thông qua 5 cơ chế pháp lý quan trọng, gồm: i) Nhà nước hoặc cơ quan thuộc nhà nước độc quyền phát hành, ii) công chúng bị bắt buộc phải chấp nhận, iii) tính pháp định cho thanh toán, iv) đặc quyền trong luật tư (nghĩa là đồng tiền sử dụng chính/ duy nhất trong giao dịch giữa cá chủ thể, ngoại trừ một số trường hợp) và v) được bảo vệ bởi bởi các quy định pháp luật hình sự.

Trong bối cảnh Tiền số NHTW sử dụng công nghệ sổ cái phân tán (công nghệ chuỗi mã hóa số), việc luật hóa và nêu rõ quyền hạn của NHTW trong việc phát hành tiền này sẽ tạo ra ra cơ sở pháp lý vững chắc. Nguyên nhân là phần lớn các Đạo luật NHTW chỉ đề cập đến quyền hạn vấn phát hành tiền giấy và tiền kim loại. Trường hợp NHTW quyết định sử dụng công nghệ tiền ghi sổ để phát triển Tiền số NHTW, việc luật hóa này cũng cần được thực hiện, vì phần lớn các Đạo luật NHTW chưa đề cập thẩm quyền để NHTW cung cấp dịch vụ tài khoản trực tiếp tới công chúng (đặc biệt là cho cá nhân).

Ngoài ra, đứng trên phương diện quản lý tiền tệ, nhóm nghiên cứu IMF (2020) cho rằng: Tiền số NHTW sẽ chỉ là một phương tiện thanh toán mới, thay vì là một đơn vị tiền tệ chính thức, vì các thiết kết kỹ thuật của đồng tiền này không làm thay đổi bản chất và chức năng của tiền tệ quốc gia (gồm: phương tiện cất trữ giá trị, phương tiện thanh toán pháp định và thước đo gia trị) mà chỉ là dùng công nghệ mới để giúp các chủ thể chuyển giao các giá trị.

Sau cùng nhóm nghiên cứu IMF đánh giá rằng, nếu một quốc gia có ý định phát hành tiền số NHTW thì sẽ phải rà soát đầy đủ khuôn khổ pháp lý cho cả Đạo luật NHTW và Đạo luật Tiền tệ (nếu có) nhằm đảm bảo các khía cạnh pháp lý của tiền số NHTW thực sự được quyết định rõ ràng dựa trên các lựa chọn về chính sách và thiết kế kỹ thuật. Đồng thời, quốc gia đó cũng cần xem xét các phương diện pháp lý khác của những đạo luật/ luật trong hệ thống luật công và luật tư liên quan.

2.1.4. Thiết kế kỹ thuật của Tiền số Ngân hàng trung ương và ảnh hưởng pháp lý  Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Hình thái công nghệ khác nhau biểu hiện cho Tiền sẽ ảnh hưởng tới phương diện pháp lý chứng minh về quyền sở hữu Tiền ở các dạng hình thái công nghệ đó. Đây là một điều đáng quan tâm khi đưa ra các quyết định lựa chọn thiết kế cho tiền số NHTW, cụ thể:

Với hình thức công nghệ là vật hữu hình (tiền giấy, tiền kim loại, hoặc vật tượng trưng có tính pháp định của tiền), thì việc nắm giữ vật hữu hình đó cho phép người nắm giữ đó được định đoạt số tiền mà vật hữu hình đại diện. Triết lý ở đây là: Tôi là người nắm giữ, và do vậy tôi là người sở hữu. Trường hợp này, nếu không nắm giữ một cách vật lý vật hữu hình này, người sở hữu thực của tiền sẽ không có cách nào chứng minh vật hữu hình đó là của mình.

Với hình thức công nghệ là tiền ghi sổ (tiền trên tài khoản NHTM và NHTW), việc xác thực danh tính cá nhân nắm giữ tài khoản sẽ cho phép người nắm giữ tài khoản đó được quyền tiếp cận và định đoạt số tiền trên tài khoản. Triết lý ở đây là: “Tôi là tôi, và do vậy tôi là người sở hữu”. Trong trường hợp này, ngay cả khi chủ sở hữu không nhất thiết nắm giữ mật khẩu để truy cập vào tài khoản, chỉ cần chứng minh danh tính của họ khớp với thông tin lưu trong hệ thống của ngân hàng, họ sẽ được bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của mình.

Với hình thức công nghệ là chuỗi số mã hóa (token) (công nghệ chuỗi khối, ký tự số được mã hóa, khóa cá nhân) thì người nắm giữ chuỗi số mà hóa này là người sở hữu. Triết lý ở đây là: Tôi là người biết mã khóa cá nhân, và do vậy tôi là người sở hữu). Cũng tương tự như hình thái vật hữu hình, nếu chủ sở hữu thực sự bị quên, hoặc mất password, hoặc mất vật hữu hình lưu trữ khóa cá nhân, mật khẩu thì cũng coi như bị mất quyền sở hữu đối với tiền của họ. Các ghi nhận giao dịch trên sổ cái phân tán luôn được bảo đảm, nhưng việc xác thực danh tính là ai sẽ gần như không thể bởi chính đặc trưng của nó.

Wouter Bossu và các công sự (2020) nêu ra bốn cặp phương diện đối lập nhau cần được xem xét kỹ khi thiết kế tiền số NHTW (vì mỗi thiết kế sẽ ảnh hưởng tới các quy định pháp lý kèm thiết kế kỹ thuật đó) gồm: Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Tiền số NHTW được thiết kế dựa trên cơ chế Tài khoản (account) hoặc dựa trên cơ chế Mã hóa số (token): Một vài NHTW có thiên hướng cấu trúc Tiền số NHTW của họ dựa trên cơ chế số hóa số dư tài khoản thanh toán tại sổ sách NHTW. Một số NHTW khác thì đang nghiên cứu dưới dạng mã hóa số mà không cần có bất kỳ sự liên hệ nào giữa NHTW và người nắm giữ. Đứng dưới giác độ pháp lý, sự phân biệt theo hai cơ chế này này là rất căn bản. Địa vị pháp lý của tiền trên tài khoản NHTW được phát triển đầy đủ và rất dễ hiểu dưới cả luật công và luật tư. Ví dụ: tiền trên sổ được chuyển từ người chủ tài khoản bằng bút toán ghi nợ và bút toán ghi có vào tài khoản thanh toán của người nhận tiền. Đối với tiền dựa trên cơ chế mã hóa số, do mới phát triển gần đây nên địa vị pháp lý của nó trong cả luật công và luật tư đều còn nhiều điều mập mờ và không rõ ràng.

Tiền số NHTW thiết kế cho đối tượng sử dụng Bán buôn (giữa các định chế) hoặc Bán lẻ (giữa các cá nhân và công chúng), hay hỗn hợp cả hai: Một số NHTW dự tính phát hành tiền số NHTW cho những định chế đang quan hệ trực tiếp trong hệ thống thanh toán toàn cầu của họ. Phần lớn các định chế này là các ngân hàng lớn, đóng vai trò là trung gian bù trừ thanh toán hoặc chính phủ/ NHTW các quốc gia khác. Một số NHTW khác lại đang cố gắng mở rộng và đang tìm cách để đưa tiền số NHTW tới công chúng (khu vực bán lẻ), mà không dành cho mhóm định chế. Một số khác lại muốn cung cấp tới cho cả hai. Về phương diện pháp lý, sự phân biệt này sẽ rất cần thiết khi nhiều NHTW trên thế giới quy định việc chỉ có các định chế tài chính mới mở được tài khoản tại NHTW, trong khi không cho phép cá nhân mở tài khoản tại đây.

Tiền số NHTW thiết kế vận hành theo cơ chế Trực tiếp (một cấp) hay Gián tiếp (hai cấp): Một số NHTW có kế hoạch phát hành tiền số NHTW theo hình thức trực tiếp tới người sử dụng, theo đó, NHTW sẽ quản lý cả việc phát hành và giám sát quá trình lưu thông. Trong khi đó, một số NHTW khác lại muốn theo hình thức hai cấp, theo đó, NHTW sẽ phát hành tiền số NHTW và cung cấp cho NHTM để NHTM cung cấp lại cho người sử dụng cuối cùng. Nếu theo hình thức này, về mặt pháp lý sẽ cần phân biệt giữa tiền số NHTW phát hành với tiền điện tử do NHTM phát hành (thông qua hình thức cấp tín dụng cho khách hàng, cũng bằng đơn vị tiền tệ của quốc gia) theo hình thức ghi sổ. Với trường hợp dùng cơ chế mã hóa số (digital token), việc luật hóa tiền số NHTW trên sổ của NHTM cũng rất cần thiết.

Tiền số NHTW thiết kế theo cơ chế Tập trung và Phi tập trung: Các NHTW đang thảo luận liệu việc lưu thông tiền số NHTW có nên được thực hiện tập trung hóa hay phi tập trung bằng cách sử dụng công nghệ sổ cái phân tán. Đối với việc ứng dụng công nghệ sổ cái phân tán, các cân nhắc lựa chọn về mô hình hoạt động theo hướng “được cấp phép” (permissioned) và “không cần cho phép” (permissionless). Vì khả năng tác động theo hướng không mong muốn của cơ chế “không cần cho phép” lên khả năng kiểm soát cung tiền của mình mà  NHTW gần như sẽ chỉ áp dụng công nghệ sổ cái phân tán theo cơ chế “được cấp phép”. Các hệ quả pháp lý của việc lựa chọn này đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần làm rõ và thiết lập một cách đầy đủ và toàn diện.

Để đánh giá đầy đủ sự khác biệt về mặt pháp lý giữa tiền số NHTW dựa trên cơ chế tài khoản và dựa trên cơ chế chuỗi số mã hóa được xử lý theo công nghệ sổ cái phân tán (dưới dạng “được cấp phép”, hay “không cần cho phép”), cần phải rõ sự khác biệt giữa tài khoản thanh toán tiền mặt và tài khoản sổ cái chung. Chính vì điều này, nếu NHTW quyết định phát hành tiền số NHTW dựa trên chuỗi số mã hóa bằng công nghệ sổ cái phân tán, thì các điều khoản quy định trong Đạo luật NHTW và/ hoặc Đạo luật tiền tệ sẽ phải được quy định rất khác với cách được quy định dựa trên công nghệ tiền ghi sổ trên tài khoản NHTM.

Để đánh giá đầy đủ sự khác biệt về mặt pháp lý giữa tiền số NHTW dựa trên cơ chế tài khoản và dựa trên cơ chế chuỗi số mã hóa được xử lý theo công nghệ sổ cái phân tán (dưới dạng “được cấp phép”, hay “không cần cho phép”), cần phải rõ sự khác biệt giữa tài khoản thanh toán tiền mặt và tài khoản sổ cái chung. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Tài khoản thanh toán tiền mặt: đây là tài khoản kỹ thuật của ngân hàng và thể hiện mối quan hệ pháp lý hợp đồng giữa ngân hàng và chủ tài khoản. Theo kỹ thuật này, các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể sẽ được thực thi theo hợp các điều khoản và điều kiện hợp đồng về dịch vụ tài khoản. Các quy định pháp luật và nguyên tắc pháp lý chung cũng được áp dụng. Mặc dù số tiền được ghi có vào tài khoản cá nhân và được gọi là “tiền gửi”, các ngân hàng/ tổ chức tài chính không bắt buộc phải giữ số tiền ở nguyên đó mà họ sẽ dùng để đem đi cho vay và kinh doanh tiền. Số tiền ghi trên tài khoản cá nhân thực chất gọi là tiền ghi sổ, một nghĩa vụ trả nợ của ngân hàng đối với khách hàng.

Tài khoản sổ cái chung: là một thiết kế kỹ thuật tài khoản về mặt kế toán, chứ không thể hiện về nghĩa vụ về mặt hợp đồng. Bản chất nó là sự tập hợp số liệu dựa trên hệ thống sổ kế toán, bao gồm các số liệu đại điện cho tài sản, nợ phải trả, thu nhập, chi phí. Mục đích chính là để giúp chủ thể này lập báo cáo tài chính để theo dõi sức khỏe tài chính của mình. Tài khoản sổ cái không thiết lập hoặc đại diện cho mối quan hệ pháp lý giữa chủ thể lập báo cáo, cũng như không tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa chủ thể lập báo cáo với các bên khác.

Sự khác biệt về mặt pháp lý này rất quan trọng vì nó khẳng định, trong trường hợp áp dụng công nghệ sổ cái phân tán, sẽ không tồn tại mối quan hệ về quyền theo hợp đồng trực tiếp nào giữa NHTW với người nắm giữ chuỗi số mã hóa (đại diện cho quyền sở hữu tiền số NHTW của người dùng), ngoại trừ việc ghi nhận về khả năng dùng chuỗi số mã hóa này trong hoạt đông thanh toán, tương tự như khả năng của tiền giấy, tiền kim loại.

2.2. Phân tích các vấn đề pháp lý liên quan tới Tiền số NHTW tại một số quốc gia Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

2.2.1. Tiền số Nhân dân tệ của Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC)

Năm 2019, Trung Quốc tiến hành dự án tên gọi “Hệ thống thanh toán tiền điện tử” với mục tiêu xây dựng Tiền số NHTW Trung Quốc (gọi là Tiền số Nhân dân tệ, viết tắt là e-CNY). Ý tưởng tổng quát đằng sau e-CNY là tạo ra tiền số dựa trên thuật toán mã hóa, song song tiếp tục duy trì việc phát hành tiền giấy bạc và cho phép e-CNY trở thành một phần của cung tiền M0. E-CNY được phát hành và bảo đảm bởi NHTW Trung Quốc (PBOC), đại diện cho nghĩa vụ nợ của PBOC đối với đại chúng và giá trị của nó được bảo đảm bằng mức tín nhiệm quốc gia, được pháp luật thừa nhận về khả năng thanh toán các khoản nợp. Tiền e-CNY sẽ được vận hành bởi các tổ chức do PBOC ủy quyền và cấp phép.

Chính Phủ Trung Quốc đưa ra 3 mục tiêu lớn khi quyết định thông qua chủ trương tiến hành thử nghiệm để phát triển và phát hành Tiền số Nhân dân tệ, gồm:

Thứ nhất là để đa dạng hóa các dạng hình thái tiền tệ NHTW cung cấp cho đại chúng, nhằm thỏa mãn nhu cầu tiền mặt số và hỗ trợ tài chính toàn diện. Một hệ thống tiền điện tử Nhân dân tệ sẽ giúp cho các dịch vụ tài chính được dễ dàng tiếp cận, đảm bảo tiền Nhân dân tệ được sử dụng trong nhiều tình huống bởi phần đông dân số.

Thứ hai là hỗ trợ sự cạnh tranh công bằng, hiệu quả và an toán hệ thống thanh toán bán lẻ. Tiền điện tử Nhân dân tệ sẽ cung cấp cho công chúng một hình thức tương tác mới về thanh toán, giúp đa dạng hóa công cụ thanh toán và làm cho hệ thống thanh toán trở nên đơn giản và hiệu quả hơn..

Thứ ba là đảm bảo cho thích ứng với các sáng kiến quốc tế và tìm kiếm sự cải tiến trong thanh toán quốc tế và thúc đẩy quốc tế hóa Nhân dân tệ. PBOC sẽ chủ động ứng đối kịp thời các sáng kiến của G20 và các tổ chức quốc tế về việc cải thiện hệ thống thanh toán xuyên quốc gia, nghiên cứu các khả năng áp dụng Tiền số NHTW trong mậu dịch và thương mại đa phương. Dựa trên kinh nghiệm của các thử nghiệm nội địa và nhu cầu quốc tế, PBOC nghiên cứu và thử nghiệm các chương trình thanh toán đa biên và sẽ làm việc với các NHTW có liên quan và các cơ quan tiền tệ để thiết lập một hệ thống hối đoái và cơ chế hợp tác pháp lý về tiền pháp định số. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

2.2.1.1. Các nguyên tắc trong thiết kế và đặc điểm Tiền số Nhân dân tệ

Theo Báo cáo cập nhật về nghiên cứu và phát triển Tiền số Nhân dân tệ của nhóm chuyên gia tại NHTW Trung Quốc (2021), để đảm bảo thực hiện chính sách và quản lý nhà nước về tiền, PBOC thống nhất đưa ra các nguyên tắc trong thiết kế e-CNY, gồm:

  • Tuân thủ với pháp luật và các quy định về quản lý tiền Nhân dân tệ nói chung, phòng chống rửa tiền và phòng chống tài trợ chung bổ, quản lý ngoại hối, và bảo vệ dữ liệu, tính riêng tư cá nhân. Toàn bộ các hoạt động của tiền số Nhân dân tệ sẽ phải nằm trong khuôn khổ pháp luật;
  • An toàn và thuận tiện, nhằm hỗ trợ và thích ứng với nhiều hoạt động thanh toán trực tuyến (online) và phi trực tuyến (offline), đặc biệt ở những nơi chưa có độ phủ về viễn thông, mạng internet: và
  • Tính mở và khả năng tương thích. PBOC tận dụng các lợi thế về kinh nghiệm và năng lực hạ tầng của các đơn vị vận hành được cấp phép, cũng như nâng cấp công nghệ tiên tiến thông qua khuyến kích cạnh tranh công nghệ và nâng cấp theo các nguyên tắc nhằm trách rủi ro tập trung quá mức của rủi ro vận hành hệ thống. Hệ thống e-CNY hỗ trợ sự tương tác qua lại với hệ thống thanh toán điện tử truyền thống. Nó sẽ sử dụng toàn bộ hạ tầng tài chính hiện tại để kết nối ví điện tử của nhiều tổ chức vận hành, cũng như kết nối ví tiền số Nhân dân tệ với tài khoản ngân hàng, qua đó hoàn thiện khả năng tương hỗ qua lại của các công cụ thanh toán.

Các đặc điểm của tiền e-CNY bao gồm:

Một là, e-CNY là tiền pháp định được phát hành bởi NHTW Trung Quốc: E-CNY có các chức năng cơ bản của tiền, như: phương tiện thanh toán, phương tiện cất giữ giá trị và thước đo giá trị. Giống như tiền giấy Nhân dân tệ, e-CNY là công cụ được pháp luật thừa nhận dùng về khả năng thanh toán các khoản nợ và nó có định dạng là điện tử. Việc phát hành và lưu thông tiền e-CNY là giống như tiền giấy Nhân dân tệ, chỉ là được thực hiện theo hình thái số và trên môi trường điện tử/ môi trường số. Sự biểu hiện này là kết quả tiến hóa về cả mặt khoa học, công nghệ và sự phát triển của các hoạt động kinh tế.

Hai là, e-CNY áp dụng mô hình quản lý tập trung và hệ thống vận hành hai cấp:

Quyết định phát hành tiền e-CNY thuộc về nhà nước và PBOC đóng vai trò trung tâm của hệ thống này. E-CNY sẽ được phát hành cho những tổ chức do PBOC cấp phép và ủy quyền vận hành (thường là các ngân hàng thương mại) để quản lý e-CNY trong suốt chu kỳ tồn tại của đồng e-CNY. Những tổ chức vận hành này sẽ trao đổi và lưu thông e-CNY với công chúng. Một điểm rất cần ghi nhớ là trong mọi trường hợp, e-CNY là nghĩa vụ nợ trực tiếp của PBOC với công chúng (tương tự như tiền mặt). Do vậy, việc ghi nhận nghĩa vụ nợ của PBOC với từng người nắm giữ e-CNY sẽ dựa trên phương pháp ghi nhận trực tiếp giữa PBOC và người nắm giữ (dù có hay không có sự hỗ trợ của các hệ thống trung gian của các tổ chức vận hành được cấp phép). Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Ba là, e-CNY sẽ chủ yếu thay thế cho tiền mặt trong lưu thông (M0), và sẽ tồn tại đồng thời song song với tiền giấy Nhân dân tệ: Cả tiền điện tử e-CNY và tiền giấy đều là nợ của NHTW Trung Quốc đối với công chúng, với cùng trạng thái pháp lý và giá trị kinh tế giống nhau. Về mặt thực tế, tiền mặt vẫn chiếm vị trí quan trọng và không thể thay thế bởi các phương tiện thanh toán khác. Chừng nào còn có nhu cầu về tiền giấy Nhân dân tệ, PBOC vẫn sẽ tiếp tục phát hành loại này.

Bốn là, e-CNY là Tiền số NHTW bán lẻ (Retail CBDC), phục vụ chủ yếu cho hoạt động thanh toán nội địa: E-CNY là Tiền số NHTW bán lẻ được phát hành cho đại chúng. Với hệ thống thanh toán nội địa tiên tiến và hiện đại tại Trung Quốc, việc phát hành e-CNY sẽ đáp ứng đầy đủ khả năng sử dụng của công chúng, cải thiện hiệu quả và giảm thiểu chi phí của hệ thống thanh toán bán lẻ.

Năm là, trong hệ thống thanh toán bán lẻ tương lai, e-CNY và tiền trong tài khoản điện tử của các tổ chức vận hành sẽ có khả năng tương tác qua lại và đều có thể thay thế cho tiền mặt trong lưu thông. Các ngân hàng thương mại và các trung gian thanh toán được cấp phép đạt được các yêu cầu về tuân thủ về phòng chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố và các yêu cầu pháp luật khác về quản lý rủi ro có thể được tham gia hệ thống thanh toán tiền số Nhân dân tệ và được ghi nhận và hỗ trợ bởi PBOC. Họ có thể hoàn toàn tham gia hệ thống thanh toán hiện tại hoặc các hạ tầng khác trong khi tiếp tục duy trì dịch vụ thanh toán bán lẻ cho các khách hàng.

Trong nghiên cứu của mình, Xia Mian (2021) đã có những phân tích và nhận định về sự khác biệt của e-CNY với tiền kỹ thuật số mãy hóa Bitcoin và Tiền số Libra do Facebook phát hành, nhằm chỉ ra những điểm mạnh của tiền này và ủng hộ cho PBOC thực hiện phát hành e-CNY.

2.2.1.2. Các vấn đề pháp lý được Ngân hàng trung ương Trung Quốc nhận diện 

Tính tới thời điểm 30/06/2021, tiền điện tử Nhân dân tệ đã thực hiện hơn 1.32 triệu kịch bản, bao gồm nhiều hoạt động như thanh toán dịch vụ điện nước, dịch vụ ăn uống, vận chuyển, mua sắm và dịch vụ của chính phủ. Hơn 20.8 triệu ví điện tử cá nhân và hơn 3.51 triệu ví điện tử tổ chức được mở với khoang 70.75 triệu giao dịch với giá trị khoảng RMB 34.5 tỷ. Được hỗ trợ bởi chính quyền địa phương, một vài thành phố đã phân phối tiền điện tử Nhân dân tệ cho khách hàng. Một số thử nghiệm đã có sự tham gia của các khách hàng thực tế và thực hiện với các kịch bản khác nhau, các kiểm thử quy mô lớn cũng được thực hiện theo các đợt. Các chương trình thử nghiệm đã kiểm tra thiết kế kỹ thuật và kinh doanh để xem tiền điện tử Nhân dân tử có ổn đinh, thân thiện và các kịch bản có thực tế hay không. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Việc này cũng giúp công chúng hiểu rõ hơn triết lý trong thiết kế tiền điện tử Nhân dân tệ.

Sau quá trình triển khai thử nghiệm, NHTW Trung Quốc xác định được một số vấn đề pháp lý cần phải thực hiện thay đổi, bổ sung, nhằm tạo điều kiện cho e-CNY được ra đời, sử dụng phổ biến và an toàn trong lĩnh thanh toán bản lẻ, như sau:

Cần bổ sung trong Luật NHTW Trung Quốc về việc POBC là cơ quan duy nhất được phát hành tiền Nhân dân tệ dưới cả dạng vật lý (tiền giấy, tiền kim loại) và tiền điện tử/ tiền số e-CNY. Hiện Điều 18 của Luật này mới quy định: “Giấy bạc và tiền kim loại Nhân dân tệ được in, dập và phát hành bởi Ngân hàng nhân dân Trung Hoa”.

Việc này có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo tính hợp pháp về quyền của PBOC đối với việc phát hành e-CNY, cũng như tạo tiền đề cơ bản để e-CNY trở thành công cụ thanh toán pháp định trên phạm vi lãnh thổ Trung Quốc tương tự như tiền giấy Nhân dân tệ. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Sự ra đời của e-CNY cũng mở rộng vai trò của PBOC lên nhiều lần, khi PBOC phát hành và quản lý dữ liệu, tài khoản tiền số trực tiếp với đại chúng. PBOC sẽ không chỉ là “ngân hàng của các ngân hàng” mà sẽ trở thành “ngân hàng của đại chúng” trên phương diện cung ứng dịch vụ tiền số e-CNY và chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nợ trực tiếp. Như vậy, Luật NHTW phải mở rộng quy định về khía cạnh này, nhằm tạo tiền đề cho các quy định pháp luật khác về nghĩa vụ pháp lý của NHTW đối với các “khách hàng cá nhân” của họ (ví dụ: mất mát tiền trên tài khoản e-CNY), cũng như sự ràng buộc chính PBOC trong thực thi một số luật khác, như Luật Chống rửa tiền (tương tự như cách các NHTM đang phải tuân thủ).

Với sự ra đời của e-CNY, các phương pháp làm tiền giả số sẽ rất khác biệt so với cách làm giả tiền giấy. Do vậy, các quy định về quản lý về thiết kế, chống làm giả, phát hành và lưu thông tiền cũng sẽ cần được quy định cho e-CNY, cụ thể hơn là cần điểu chỉnh/ bổ sung Điều 19 của Luật NHTW Trung Quốc và Chương II và Chương III của Thông tư về Quản lý Nhân dân tệ. Ví dụ: định nghĩa pháp lý hiện tại về “Giả mạo là hành vi làm tiền giả và giả mao như tiền thật thông qua các kỹ thuật như cắt dán, tách lớp, in lại v.v…”. Những định nghĩa này không thể áp dụng đối với tội phạm làm giả e-CNY, về bản chất là một chuỗi số được mã hóa không có hình thức vật chất. Mở rộng định nghĩa về Giả mạo để bao gồm mọi hoạt động: i) tạo dữ liệu trái phép đại diện cho e-CNY, ii) bất kỳ thao tác trái phép nào đối với dữ liệu tiền e-CNY do PBOC tạo ra và phân phối. Tương tự, một loại các định nghĩa trong các Luật chống rửa tiền, Luật Dân sự, Luật bảo vệ thông tin cá nhân cần được sửa đổi cho phù hợp.

Việc làm giả, trao đổi Tiền e-CNY hoặc can thiệp trái phép vào các hệ thống máy tính của PBOC hoặc các tổ chức được cấp phép vận hành e-CNY sẽ có tác động nguy hại gấp nhiều lần so với việc làm giả tiền giấy (do khả năng nhân rộng và lan truyền nhanh chóng của tiền số giả). Do vậy, Luật hình sự cần quy định cụ thể hơn với loại tội phạm này nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với những hành vi nguy hiểm về làm giả, lưu thông e-CNY và làm sai lệch các thông tin trên các hệ thống máy tính của hạ tầng trung gian thanh toán.

Các quy định của pháp luật của PBOC cần đạt được sự cân bằng giữa việc bảo vệ pháp lý về tính ẩn danh và xác định các chủ thể giao dịch bằng tên thật để tuân thủ quy định của pháp luật trong phòng chống rửa tiền (AML) và chống tài trợ khủng bố (CTF). Tính ấn danh toàn bộ của e-CNY sẽ khiến nó trở thành thiên đường kỹ thuật số cho các hoạt động rửa tiền và các hành vi bất hợp pháp, trong khi hệ thống xác định rõ ràng sẽ danh tính thật trên quy mô lớn sẽ làm trầm trọng thêm việc rò rỉ dữ liệu của các bên trung gian (đặc biệt là thông tin tại PBOC) cho các bên có ý đồ xấu.

2.2.2. Tiền số Dollar Mỹ của Ngân hàng trung ương Hoa Kỳ (FED) Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Bối cảnh thực tiễn khiến của Cục Dự trữ liên bang (FED) tiến hành nghiên cứu khả năng phải triển Tiền số Dollar Mỹ xuất phát từ những tiến bộ và bước đi trong nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai Tiền số NHTW của nhiều quốc gia trên thế giới (đặc biệt là Trung Quốc) sẽ có thể tạo ra nguy cơ thách thức vị trí là “đồng tiền quốc tế dùng trong dự trữ ngoại hối, trong thanh toán thương mại toàn cầu và thị trường tài chính quốc tế” của đồng bạc xanh. Do vậy FED nhận định: “Tiền số NHTW Mỹ, nếu ra đời, sẽ giúp bảo toàn vai trò và vị trí quốc tế của đồng Dollar trên các lĩnh vực hệ thống tài chính, thương mại và đầu tư quốc tế”. Đây là nguyên căn, động lực chính nhất của nước Mỹ, bên cạnh các lý do thường được đưa ra như: Tiền số Dollar Mỹ sẽ đáp ứng nhu cầu về dịch vụ thanh toán trong tương lai, các lợi ích của Tài chính toàn diện; cải thiện hệ thống thanh toán quốc gia v.v… 2.2.2.1. Quan điểm của Ngân hàng trung ương và Chính Phủ Mỹ về Tiền số Dollar Mỹ FED đưa ra định nghĩa Tiền số NHTW (CBDC) là một khoản nợ (được ghi nhận dưới dạng số) của NHTW đối với công chúng, có ý nghĩa tương tự tiền giấy. Tiền số NHTW sẽ là một dạng tài sàn số an toàn nhất được đưa ra cho công chúng sử dụng mà không có bất kỳ rủi ro tín dụng hay thanh khoản nào. FED nhận định rằng, ngay cả khi các NHTM và tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng sẽ tham gia quá trình vận hành các dịch vụ liên quan, Tiền số NHTW vẫn là một nghĩa vụ nợ của FED. Điều này nhằm phân biệt Tiền số Dollar Mỹ với các hình thái Tiền gửi tại NHTMTiền gửi tại các định chế phi ngân hàng, vì hai dạng tiền này là nghĩa vụ nợ của các tổ chức này với người gửi tiền. Nghĩa vụ nợ của các tổ chức này cần có cơ chế bảo hiểm tiền gửi từ Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) và cơ chế dự trữ bắt buộc tại Cục dự trữ liên Bang để duy trì niềm tin của công chúng vào khả năng thanh toán của họ .

FED hiện đang rất chủ động và tích cực nghiên cứu và thử nghiệm Tiền số NHTW và quá trình này được chia làm bốn nhóm: i) thử nghiệm công nghệ, ii) nghiên cứu kinh tế và chính sách, iii) tham vấn và lấy ý kiến các bên liên quan và iv) hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, trong báo cáo công khai về chủ đề này với các cơ quan của Chính Phủ và Quốc Hội, FED nêu rõ quan điểm là “sẽ không tiến hành việc phát hành Tiền số Dollar Mỹ nếu không có một sự ủng hộ rõ ràng từ Chính Phủ (Nhà Trắng) và từ Quốc Hội, theo hình thức một văn bản Luật rõ ràng”.

Để mở đường cho khả năng phát hành Tiền số Dollar Mỹ, tháng 9/2022, chính quyền Tổng Thống Joe Bidden đã xây dựng và công bố văn bản Mục tiêu Chính sách cho Hệ thống Tiền số NHTW Mỹ, nhằm đảm bảo rằng: nếu Hệ thống Tiền số NHTW Mỹ này được đưa vào triển khai/ thực thi, sẽ cần bảo vệ người dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện hệ thống thanh toán, cung cấp khả năng tương thích với các nền tảng tiền số NHTW của các quốc gia khác, thúc đẩy toàn diện tài chính, bảo vệ an ninh quốc gia, tôn trọng quyền con người và phù hợp với các giá trị dân chủ.

Ngoài tuyên bố Mục tiêu Chính sách nêu trên, chính quyền Mỹ cũng ban hành báo cáo đánh giá về Các lựa chọn thiết kế kỹ thuật của hệ thống Tiền số Dollar Mỹ, nhằm chỉ ra những vấn đề then chốt cần quyết định trong thiết kế của đồng tiền số này để đạt các Mục tiêu Chính sách đã đề ra. Các vấn đề trong thiết kế kỹ thuật bao gồm: i) Các bên tham gia hệ thống, ii) Cơ chế quản lý/ quản trị hệ thống, iii) An ninh hệ thống, iv) Cơ chế giao dịch , v) Mô hình Dữ liệu và quản lý lịch sử thông tin, vi) Điều chỉnh hệ thống. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

2.2.2.2. Các vấn đề về chính sách và pháp lý được Ngân hàng trung ương Mỹ nhận diện

Về mặt rủi ro, FED nhận định việc ra đời Tiền số NHTW tạo ra một số rủi ro và thách thức về mặt chính sách và pháp luật, đòi hỏi sự cân nhắc kỹ từ các nhà lập pháp:

Tiền số NHTW sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc ngành tài chính Mỹ, cũng như vai trò và trách nhiệm giữa FED và lĩnh vực tư. Cụ thể, nếu Tiền số NHTW (có trả lãi suất kèm theo) có thể khiến đồng tiền này trở thành kênh thay thế tiền gửi tại NHTM.

Tương tự, Tiền số NHTW cũng có thể thu hút các nguồn tiền hiện đang đầu vào các quỹ tương hỗ, tín phiếu Kho bạc và các công cụ tài chính ngắn hạn khác. Việc này sẽ làm tăng chi phí huy động của NHTM nếu muốn thu hút nguồn tiền gửi này, gây ra việc tăng chi vốn vay đối với cá nhân và doanh nghiệp. Rủi ro này có thể được phòng trừ bằng cách không áp dụng trả lãi suất trong đặc tính tiền số NHTW (tương tự như tiền giấy, tiền kim loại).

Mức độ an toàn và ổn định của hệ thống tài chính Mỹ: Vì tiền do NHTW phát hành có mức độ an toàn cao nhất, nên tiền số NHTW Mỹ, nếu được phát hành rộng rãi tới công chúng, sẽ hút tiền từ những cá nhân, tổ chức trong thời điểm khủng khoảng tài chính từ NHTM về NHTW. Việc này sẽ dẫn đến một cuộc tháo chạy, rút tiền ồ ạt khỏi hệ thống NHTM tư nhân và sẽ có thể làm khủng hoảng tài chính trở nên trầm trọng hơn. Các biện pháp để giảm thiểu tác động bao gồm: tăng cường giám sát hệ thống, đảm bảo hệ thống bảo hiểm tiền gửi, và khả năng tiếp cận thanh khoản của ngân hàng với NHTW khi khủng hoảng xảy ra. Một cách khác là NHTW sẽ giới hạn tổng số lượng CBDC mà những người sử dụng cuối cùng có thể nắm giữ hoặc có thể tích lũy nắm giữ.

Hiệu quả của chính sách tiền tệ, lựa chọn thiết kết Tiền số NHTW sẽ ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ. FED sẽ thực hiện kiểm soát ở Lãi suất quỹ liên bang (lãi suất sử dụng trong giao dịch liên ngân hàng, thành viên của FED và được quy định bởi Ủy ban giao dịch thị trường mở, FMOC) và các lãi suất ngắn hạn khác thông qua cơ chế điều hành của Cục dự trữ liên bang. Cơ chế này không đòi hỏi có sự quản lý chủ động về lượng dự trữ bắt buộc, vì sẽ ít tác động lên Lãi suất quỹ liên bang. Với cách thức vận hành này, một khi Tiền số NHTW được phát hành, nó sẽ ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ và cơ chế kiểm soát lãi suất, thông qua khả năng quản lý cung tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng. FED đặc biệt lưu ý về mối quan hệ giữa Tiền số NHTW và thực thi chính sách tiền tệ sẽ trở nên phức tạp hơn nếu Tiền số NHTW có thêm tính năng để trả lãi suất. Sự phức tạp này sẽ còn lớn hơn trong bối cảnh đồng Dollar được sử dụng phần lớn thương mại, đầu tư của nhiều quốc gia với Mỹ, khi lãi suất ẩn chứa trong Tiền số NHTWcó thể ảnh hưởng đến nhu cầu nắm giữa đồng Dollar.

Từ báo cáo này, các nhà làm luật có được một gợi ý rất quan trọng, đó là cần xem xét và đánh giá kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng luật về Tiền số NHTW, vì rất nhiều yếu tố trong thiết kế tiền số NHTW sẽ ảnh hưởng đáng kể tới các quy định pháp lý trên nhiều lĩnh vực, như: Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

i) Quy định về vai trò chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của NHTW trong phát hành tiền, và quy định về quyền hạn, trách nhiệm của các định chế, trung gian tài chính, trung gian thanh toán tham gia vận hành và lưu thông Tiền số Dollar Mỹ. ii) Quy định về việc sử dụng Tiền số NHTW là một trong những công cụ thực hiện chính sách Tiền tệ quốc gia, và là một công cụ hỗ trợ cho Chính phủ thực hiện thực hiện chính sách tài khóa và chinh sách xã hội (trong những trường hợp cần thiết).

Quy định về tổ chức thị trường, phương thức chuyển giao Tiền số NHTW giữa các bên trong giao dịch và trên các kênh giao dịch khác nhau.

Quy định về phương thức xử lý, giải quyết trách chấp giữa các chủ thể trong giao dịch có sử dụng Tiền số Dollar Mỹ.

2.2.3. Tiền số Ruble của Ngân hàng trung ương Liên Bang Nga 

Theo xu hướng phát triển và phổ biến ngày công nghệ di động tại Nga từ giai đoạn 2010 tới 2020, nhu cầu thanh toán hàng hóa và dịch vụ bằng kênh điện tử cho hàng hóa dịnh vụ của thương mại bán lẻ cũng ngày càng tăng cao. Đây là cơ sở để hình thành nên quá trình số hóa các sản phẩm tài chính số và công cụ thanh toán mới. Trước bối cảnh đi lên của tiền điện tử /tiền ảo tư nhân và việc Mỹ cấm vận kinh tế và đóng băng các khoản thanh toán bằng đồng Dollar Mỹ sau khi sáp nhập bán đảo Crimea năm 2014, chính phủ Nga nhanh chóng nghiên cứu và có những bước đi tiến dần đến quyết định có hay không phát hành Tiền số Ruble. Cụ thể nhất, tháng 10/2020, NHTW Nga đã đưa ra báo cáo để lấy ý kiến đại chúng về các vấn đề phát hành Tiền số Ruble. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

2.2.3.1. Đặc điểm Tiền số Ruble 

Theo NHTW Nga: Tiền số Ruble là một dạng tiền số của tiền quốc gia và có đầy đủ các đặc tính để thực hiện chức năng của tiền và được NHTW Nga phát hành. Tiền số Ruble được thể hiện dưới dạng một chỗi số mã hóa duy nhất lưu trữ trong các ví điện tử cho mục đích sử dụng chuyên biệt. Các chuỗi số mã hóa duy nhất này sẽ được chuyển giao giữa các ví điện tử khi các bên chuyển giao Tiền số Ruble này với nhau. Để có thể có những đặc tính giống với tiền giấy, Tiền số Ruble cũng được sử dụng trong giao đổi vật lý hàng ngày giữa các chủ thể mà không cần có truy cập vào mạng Internet và các kênh liên lạc di động.

Điều này đòi hỏi phải phát triển về hạ tầng thanh toán mới và chuyên biệt.

Về mặt thiết kế, Tiền số Ruble sẽ cần được lưu trữ trong ví điện tử được mở trực tiếp với hệ thống thanh toán của NHTW Nga và các ví này sẽ thể hiện cho những tài khoản nợ của NHTW Nga với những chủ thể nắm giữ tiền trong ví Tiền số Ruble. Thừa nhận vị trí pháp lý và tài chính, Tiền số Ruble có vai trò giống với tiền giấy Ruble và Tiền tài khoản tại các NHTM, nghĩa là một đơn vị Tiền số Ruble sẽ luôn bằng với 1 đơn vị Tiền tệ giấy Ruble và bằng với 1 đơn vị Tiền tệ tài khoản tại các NHTM, và do vậy, việc chuyển đổi tiền Ruble giữa 3 hình thái này luôn bảo toàn giá trị .

NHTW Nga đưa ra so sánh đặc điểm của Tiền số Ruble với các hình thái tiền khác đang tồn tại trong nền kinh tế:

Các lợi thế của Tiền số Ruble bao gồm:

  • Dễ dàng sử dụng, ví dụ như chuyển tiền bằng thiết bị di động từ người này sang người khác.
  • Tốc độ xử lý nhanh, và không chậm hơn việc thanh toán thẻ, chuyển khoản.
  • Chi phí rất thấp đối với người thực hiện chuyển tiền và không được lớn hơn so với các hình thức khác.
  • Tính ổn định cao, gần như không thể xảy ra tình trạng dừng hoạt động.
  • Được tất cả công chúng chấp nhận, tương tự như tiền mặt.
  • Rủi ro giữ tiền trên ví điện từ gần như bằng không, đặc biệt đối với hoạt động tấn công tài khoản.
  • Đơn giản và dễ dàng chuyển đổi Tiền số Ruble sang tiền giấy hoặc tiền tài khoản tại NHTM.
  • Tiền số Ruble sẽ luôn được thanh toán, chuyển khoản từ ví tiền số này sang ví khác, từ môi trường trực tuyến sang môi trường phi trực tuyến.
  • Tích hợp thông suốt với các nền tảng số, như thanh toán, mua bán tài sản số, chứng khoán điện tử, dịch vụ, sản phẩm, hàng hóa trên môi trường ảo. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.
  • Bảo mật thông tin cá nhân người dùng, do ít có dữ liệu liên quan tới Tiền số Ruble được lưu tại các hệ thống thanh toán, nhằm giảm rủi ro việc sử dụng thông tin khách hàng cho các hoạt động quảng bá và bán hàng sản phẩm, cũng như triển khai cơ chế hợp đồng thông minh.
  • Phòng chống hiệu quả các hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế, mua bán vũ khí.
  • Truy cập 24/07 trên tất cả các phạm vi, lãnh thổ, trong ứng dụng của ngân hàng và các ứng dụng có thể truy cập vào Nền tảng tiền số Ruble.

Riêng việc sử dụng Tiền số Ruble trong môi trường phi trực tuyến (không có kết nối với internet), có một số đặc điểm như sau:

  • Giống như tiền giấy, muốn thanh toán Tiền số Ruble mà không cần có bất kỳ đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính trung gian nào, Tiền số Ruble sẽ cần có các thiết bị hỗ trợ thanh toán không dây.
  • Việc thực hiện thanh toán không cần có kết nối internet, thông qua ví điện tử cài trên các thiết bị, cũng yêu cầu việc phải có khả năng khôi phục lại Tiền số Ruble trong trường hợp các thiết bị này bị mất hoặc hư hỏng.
  • Để bảo vệ lợi ích của người sử dụng Tiền số Ruble, một số giới hạn về hạn mức giao dịch cũng được đặt ra, bao gồm: i) hạn mức số tiền trên một giao dịch, ii) hạn mức tổng số tiền được giao dịch trong một khoảng thời gian xác định, iii) giới hạn về số lượng giao dịch có thể thực hiện được trong một thời gian nhất định, iv) giới hạn số tiền được chuyển từ môi trường trực tuyến tới các thiết bị vật lý đầu cuối.

2.2.3.2. Các vấn đề pháp lý đặt ra với Tiền số Ruble

Ngoài những vấn đề pháp lý có tính chất tương tự như NHTW Trung Quốc đưa ra trong báo cáo nghiên cứu, báo cáo của NHTW Nga còn chỉ ra thêm một số những vấn đề pháp lý chi tiết hơn nhằm định hướng công tác xây dựng văn bản luật nếu phát hành Tiền số Rubble:

  1. Các quy định về quản lý nợ công/ dự trự ngoại hối cần được điều chỉnh để phản ánh nghĩa vụ nợ của NHTW Nga đối với các định chế tài chính nước ngoài, hoặc quốc gia khác nắm giữ Tiền số Ruble. Việc này cũng hàm ý rằng phải có giới hạn trần về lượng/ hoặc tỷ lệ Tiền số Ruble được phát hành cho và nắm giữ bởi các tổ chức quốc tế.
  2. Các quy định của pháp luật liên quan đến việc mở và duy trì ví điện tử để lưu giữ

Tiền số Ruble, như xác định danh tính khách hàng, người đại diện khách hàng, người thụ hưởng, người hưởng lợi ích, cập nhật định kỳ thông tin về các thực thể, và xác định các trường hợp bị từ chối mở ví điện tử Tiền số Ruble.

  • Các quy định bảo vệ các chủ thể nắm giữ hợp pháp Tiền số Ruble trong các trường hợp: a) hệ thống của trung gian tài chính hoặc của NHTW Nga và/hoặc công ty được NHTW Nga cấp phép vận hành hệ thống Tiền số gặp sự cố, gây ra mất mát, hoặc sai lệch giá trị Tiền số Ruble của các chủ sở hữu, b) mất các thiết bị vật lý chứa đựng Tiền số Ruble vì lý do chủ quan và khách quan, c) khi các chủ thể nắm giữ Tiền số Ruble chuyển nhầm cho các chủ thể khác.

Ngày 01/01/2023, theo thông tin từ Bitcoin.com, nhóm các nhà lập pháp phụ trách về Tiền số NHTW Nga đã đệ trình tới Quốc Hội Nga (Duma Quốc Gia Nga) dự luật về Tiền số Ruble, tạo cơ sở mở đường cho việc phát hành đồng tiền này chính thức vào 2024. Theo báo cáo thuyết trình cho dự luật, song song với việc ban hành luật này, cơ quan chủ trì cũng đề xuất có những thay đổi trong Luật về Hệ thống thanh toán quốc gia, bổ sung định nghĩa về Tiền số Ruble, luật hóa việc NHTW Nga là cơ quan duy nhất vận hành hệ thống Tiền số Ruble và thiết lập các thủ tục để mở ví Tiền số Ruble với nền tảng do NHTW xây dựng, quản lý và vận hành.  Ngoài những đề xuất sửa đổi trên, cơ quan soạn thảo cũng đề xuất điều chỉnh về Luật dữ liệu cá nhân, trong đó cho phép NHTW Nga được xử lý thông tin cá nhân mà không cần có sự đồng ý hoặc thông báo với cơ quan khác của nhà nước phụ trách bảo vệ quyền của các chủ thể và dữ liệu cá nhân.

2.2.4. Tiền số Thái Bạt của Ngân hàng trung ương Thái Lan Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

2.2.4.1. Quan điểm của Ngân hàng trung ương Thái Lan về tiền số

Cũng giống như các quốc gia khác, việc sử dụng tiền mặt ngày một giảm và sự lên ngôi của tiền điện tử/ tiền số tư nhân mạnh mẽ đã khiến NHTW Thái Lan tiến hành xem xét và cân nhắc việc phát triển tiền số NHTW bán lẻ. Cụ thể, giá trị giao dịch của thị trường tiền số tư nhân của Thái Lan đã tăng 17 lần, từ quy mô USD 143 triệu năm 2018 tới gần USD 2.5 tỷ năm 2020. Không những thế, một số tổ chức tư nhân tại Thái Lan đã bắt đầu thực hiện phương án phát hành đồng tiền giá trị ổn định được đảm bảo bằng tiền Thái Bạt (stablecoins).  Cạnh tranh trực tiếp với tiền Thái Bạt truyền thống của Thái Lan.

Với sự phổ biến và gia tăng nhanh chóng hoạt động tiền ảo, năm 2018, Thái Lan đưa ra Nghị định khẩn về Kinh doanh tài sản số, nhằm điều chỉnh các hoạt động liên quan tới môi giới tài sản số, sàn giao dịch, chào bán tài sản và phát hành tiền mã hóa lần đầu. Đứng trước thực tiễn này, NHTW Thái Lan dự kiến đưa vào dự thảo bản sửa đổi của Đạo luật Hệ thống thanh toán.

Ngân hàng Trung ương Thái Lan bắt tay vào nghiên cứu dự án tiền số NHTW những năm 2018 – 2020 với dự án tên Inthanon, nhằm tạo ra một mẫu tiền số NHTW bán buôn sử dụng công nghệ phân tán sổ cái trong nhiều tình huống, từ việc cho phép thực hiện các quy trình tuân thủ một cách tự động tới việc cắt giảm chi phí chuyển tiền xuyên quốc gia. Cuối 2020, dự án này đã được phát triển theo hướng ứng dụng trong lĩnh vực bán buôn nhằm khám phá xem bằng cách nào tiền số NHTW có thể được phát triển cho các ứng dụng kinh doanh đổi mới, ví dụ: tài trợ hóa đơn và các thanh toán có điều kiện. Về tổng thể, Dự án Inthanon đã chứng minh rằng công nghệ sổ cái phân tán sẽ thực hiện một số chức năng tốt ở hoạt động thanh toán liên quan hàng và xuyên biên giới vì công nghệ này tăng sự tín nhiệm giữa các NHTM và NHTW. Công nghệ sổ cái cũng hỗ trợ dễ dàng các giao dịch giá trí lớn như giao dịch liên ngân hàng và giữa các định chế.

Năm 2021, NHTW Thái Lan đã mở rộng cả hướng nghiên cứu sang tiền số NHTW bán lẻ để đánh giá các lựa chọn về hướng phát triển, qua đó giúp người dân có thêm một hình thức tiền mới để giao dịch an toàn, dễ dàng và tiện lợi. Các nghiên cứu này cũng cố gắng thiết lập nền tảng cho hạ tầng thanh toán an toàn, xây dựng khuôn khổ cho tương tác và hợp tác với tư nhân nhằm thúc đẩy đổi mới tài chính tại Thái Lan. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Thông qua việc phân tích về lợi ích, chi phí, BOT kết luận rằng nhưng lợi ích tích cực của tiền số NHTW cho Thái Lan gồm: i) trở thành tiền điện tử pháp định chính thức, an toàn, tin cậy và dễ tiếp cận bởi công chúng, ii) trở thành hạ tầng thanh toán số mở để hỗ trợ cho tài chính toàn diện và đổi mới tài chính trong kỷ nguyên số.

Tuy vậy, việc phát hành tiền số NHTW cũng đặt ra một số rủi ro, gồm: i) khả năng loại bỏ trung gian tài chính; ii) làm trầm trọng hóa việc rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng trong các đợt khủng hoảng, iii) duy trì các tiêu chuẩn an ninh thông tin cao và đảm bảo niềm tin của công chúng vào hệ thống tiền số NHTW. Tuy nhiên, các quan ngại này có thể được giảm thiểu thông qua các thiết kế tiền số NHTW và các công cụ khác.

2.2.4.2. Đặc điểm thiết kế kỹ thuật của Tiền số Thái Bạt 

Trong thiết kế tiền số bán lẻ, NHTW Thái Lan cho rằng có 6 yếu tố cần đạt được của loại tiền này, gồm: i) tính ẩn danh, ii) lãi suất, iii) khả năng tiếp cận, iv) khả năng  hỗ trợ lập trình, v) chi phí giao dịch và vi) tạo cho người dùng nắm việc nắm giữ, chuyển giao và hoán đổi. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Những đánh giá ban đầu của NHTW Thái Lan cho thấy về phương án thiết kế sẽ bao gồm một số nội dung sau:

  • Mô hình phân phối tiền điện tử hai lớp sẽ thích hợp với tiền số Thái Bạt bán lẻ, điều này cũng giúp duy trì vai trò các trung gian tài chính và các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán, trong khi tiếp tục sử dụng các nguồn lực hiện hữu.
  • Để phòng ngừa việc rút tiền hàng loạt trong giai đoạn khủng khoảng, tiền số Thái Bạt sẽ thiết kế để không trả lãi suất giống như tiền giấy hiện hữu, với giới hạn về nắm giữ, giao dịch và đổi tiền.
  • Chi phí cho người dùng ở mức bằng không (ở rất tối thiểu) khi giao dịch bằng tiền số Thái Bạt .
  • Hệ thống tiền số Thái Bạt sẽ là hệ thống mở để cho khu vực tư nhân phát triển các

ứng dụng để thúc đẩy đổi mới tài chính.

  • Một sự cân bằng giữa tính ẩn danh và việc giám sát theo quy định sẽ là giải pháp tối ưu để các bên liên quan được hưởng lợi từ dữ liệu giao dịch tiền số Thái Bạt.

Về kiến trúc hệ thống, NHTW Thái Lan cũng xem xét các phương án theo 3 phương diện: i) phát hành, ii) phân phối lưu thông và iii) chuyển giao và thanh toán. Đối với hoạt động phát hành, quan điểm của NHTW Thái Lan cũng giống như các NHTW khác trên thế giới là: NHTW Thái Lan là cơ quan quy nhất phát hành tiền điện tử Thái Bạt, thông qua hoạt động tạo lập và tiêu hủy tiền điện tử.

  • Việc phát hành tiền số Thái Bạt có thể tồn tại dưới hai hình thái: i) vật mã hóa (tokenbased) có đặc điểm tương đương tiền và ii) tiền tài khoản (account-based) giống như tiền trên tài khoản ngân hàng.

Với hoạt động lưu thông tiền số điện tử Thái Bạt, các thiết kế cho thấy có thể thực hiện theo phương pháp i) trực tiếp mở ví tiền điện tử với NHTW Thái Lan (mô hình một cấp) hoặc ii) thông qua các định chế được cấp phép (mô hình hai cấp). Mô hình hai cấp đang được cân nhắc áp dụng do tận dụng được lợi thế về nguồn lực, năng lực và hạ tầng của các tổ chức tài chính và trung gian thanh toán.

Sau cùng, NHTW Thái Lan đang cân nhắc sử dụng hỗn hợp giữa công nghệ tập trung hóa hiện nay (centralized) hay phi tập trung hóa bằng cách sử dụng công nghệ sổ cái phân tán (DLT) để xác thực cho hoạt động chuyển giao và thanh toán. Nguyên nhân xuất phát từ việc mỗi mô hình có những lợi thế nhất định, cụ thể: công nghệ tập trung hóa giúp đảm bảo hiệu xuất xử lý giao dịch và tăng trưởng quy mô (vì không dựa vào nguyên lý đồng thuận của tất cả các thành viên), trong khi công nghệ sổ cái phân tán sẽ tăng được an toàn và bảo mật thông tin của giao dịch và người dùng.

2.2.4.3. Các vấn đề chính sách và pháp lý được Ngân hàng trung ương Thái Lan quan tâm

Ngoài một nội dung pháp lý tương tự như các NHTW khác đang quan tâm, NHTW Thái Lan nhận định bổ sung về một số vấn đề pháp lý cần chú ý khi xây dựng khuôn khổ pháp lý nếu Thái Lan quyết định phát hành Tiền số Thái Bạt, gồm:

  1. Các tiêu chuẩn về nhà cung cấp dịch vụ và những người sử dụng tiền số Thái Bạt. Những tiêu chuẩn về nhà cung cấp dịch vụ sẽ đảm bảo các dịch vụ được đạt chuẩn và hoạt động cạnh tranh lành mạnh được diễn ra. Những tiêu chuẩn về người dùng sẽ xác định quá trình tham gia và xác thực họ sẽ được tích hợp như thế nào với dịch vụ dữ liệu.
  2. Các tiêu chuẩn tương tác: Nhằm đảm bảo cho tiền số Thái Bạt có thể sử dụng bởi tất cả các nhóm khách hàng, tiền số cần được chuyển đổi dễ dàng sang các dạng tiền, tài sản số khác và ngược lại, cũng như là phương tiện thanh toán trên tất cả hạ tậng và nền tảng. Hơn thế, tiền số Thái Bạt cần phải có khả năng sử dụng trong hoạt động thanh toán xuyên biên giới, và do vậy các tiêu chuẩn cũng quốc tế cũng cần được thực hiện.
  3. Tuân thủ pháp luật: Mức độ ẩn danh của tiền số Thái Bạt sẽ là một vấn đề cân bằng giữa quyền bảo vệ riêng tư về dữ liệu người dùng và phòng chống rửa tiền, phòng chống tài trợ khủng bố. Sẽ cần có một quy định rất rõ về chức năng giám sát và trao đổi thông tin dữ liệu người dùng nhằm đảm bảo cơ chế này một hiệu quả và đúng luật. NHTW Thái Lan nhận thấy.
  4. Các quy định giao dịch ngoại hối cũng sẽ cần có sự điều chỉnh khi tiền số Thái Bạt sẽ có phạm vi hoạt động không giới hạn về quốc gia và lãnh thổ. Việc này có thể tạo ra sự biến động rất lớn trong dòng vốn và rủi ro hệ thống liên quan đến quản lý vốn của quốc gia. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

2.2.5. Phát hành Tiền số NHTW của Cộng hòa Quốc đảo Marshall và Tiền số NHTW của Quốc gia Thịnh vượng chung Bahamas

2.2.5.1. Phát hành Tiền số NHTW Cộng hòa Quốc đảo Marshall. 

Năm 2018, Quốc Hội Cộng Hòa Quốc Đảo Marshall ban hành Đạo Luật Tiền Tệ Quốc Gia 2018 (độc lập với Đạo Luật Ngân Hàng 1987 chính thức quy định về việc phát hành và đưa vào sử dụng đồng tiền số SOV như là một công cụ thanh toán pháp định, hợp pháp cho tất cả các nghĩa vụ nợ, thuế, phí và lệ phí. Tiền số SOV dựa trên công nghệ sổ cái phân tán, với số lượng được phát hành cố định là 24 triệu đồng SOV. Như vậy, bên cạnh Đồng Đô la Mỹ, đồng tiền số SOV là tiền pháp định thứ Hai của đất nước này. Đạo luật này có 12 Điều (đánh số từ 100 tới 112) và quy định các khía cạnh về:

  • Phát hành tiền lần đầu ra công chúng
  • Phân bổ tiền thu được từ phát hành tiền lần đầu của quốc gia.
  • Cơ chế phân bổ và phần trăm giữa các quỹ.
  • Phân bổ các quỹ sau phát hành lần đầu ra công chúng.
  • Các cá nhân và tổ chức được cấp phép
  • Ban hành các quy định và chính sách liên quan.

Dựa trên Phân tích Đạo luật này ta có thể thấy: Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

  1. Nội dung đạo luật khá đơn giản, trong đó thiên về hướng quy định việc phát hành tiền số SOV lần đầu ra công chúng và phân bổ việc sử dụng tiền này cho các quỹ của chính phủ, trong khi các quy định pháp lý về các khía cạnh về bảo vệ quyền của người dùng, hay việc tổ chức, giám sát quản lý tiền tệ của cơ quan quản lý nhà nước không được nhắc tới. Đạo luật quy định Bộ Tài chính được phép ban hành các văn bản để thực hiện nội dung của Đạo Luật này, và được chỉ định/ cấp phép cho tổ chức tiến hành hoạt động phát hành và đưa tiền ra công chúng.
  2. Nguyên tắc phân chia 24 triệu đồng SOV cố định thành 3 phần: a) 12 triệu do Chính phủ nắm giữ, b) 6 triệu còn được phân bổ vào các Quỹ tín thác do Chinh phủ sở hữu và c) 6 triệu bán ra cho công chúng, hàm ý lượng tiền trong lưu thông chỉ nằm trong khoảng 25%-50% và Chính phủ Quần đảo Marshall nắm giữ một tỷ lệ lớn tiền số sẽ giúp công tác kiểm soát giá trị đồng tiền trở nên tốt hơn.
  3. Cung tiền đồng SOV hàng năm được xác định ở mức 4% so với năm liền kề trước và những đồng tiền mới này sẽ được phân bổ theo quyết định của Bộ Trưởng Bộ Tài chính. Với lượng cung tiền này, chính phủ Marshall xác định sẽ đưa vào lưu hành đủ số lượng 24 triệu đồng sau hơn 10 năm phát hành (tính từ 2019).
  4. Hoạt động của Sàn giao dịch Tiền số SOV tại Quốc đảo Marshall sẽ dược điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật liên quan của các cơ quan chức năng nhằm tuân thủ các yêu cầu về phòng chống rửa tiền theo Phần 13 của Đạo luật Ngân hàng.

Tựu chung Đạo luật tiền tệ quốc gia của Quốc đảo Marshall còn khá thô sơ, chưa quy định toàn diện, đầy đủ các vấn đề quan trọng về Tiền số NHTW. Những gợi ý về phương thức tổ chức quản lý Tiền số NHTW cho ta thấy đồng tiền này được thiết kết có những đặc điểm tượng tự như tiền Bitcoin.

2.2.5.2. Phát hành Tiền số NHTW của Quốc gia Thịnh vượng chung Bahamas

Tháng 10/2020, NHTW Quốc đảo Bahamas thực hiện phát hành một phiên bản Đô la Bhamian to một số tổ chức tài chính được chính phủ Bahamas giám sát dưới một sáng kiến tên là “Dự án Sand Dollar”. Đây là một bước đánh dấu ghi nhận sự phát triển và hiện dại hóa hệ thống thanh toán của Quốc đảo này. Mục tiêu của Dự án Sand Dollar nhằm mở rộng khả năng tiếp cận với tiền số pháp định giống như tiền giấy bạc cho dân cư của quốc gia này. Đồng Tiền số Sand Dollar được lưu trữ bằng ví điện tử và được cung cấp tới người dùng thông các NHTW, các trung gian thanh toán, quỹ tín dụng và các doanh nghiệp chuyển tiền (được gọi là “đơn vị cung cấp dịch vụ ví tiền điện tử”). Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Tháng 2/2021, NHTW Bahamas đã đề xuất dự thảo Quy định về Tiền số Đô la Bahamian, nhằm lấy ý kiến của thị trường và đại chúng về khuôn khổ pháp luật cho NHTW phát hành và quản lý việc phát hành tiền. Quy định này đã đề cập các tiêu chuẩn các đơn vị cung cấp dịch vụ ví tiền điện tử phải tuân thủ, cũng như quyền hạn giám sát của NHTW Bahamas đối với các tổ chức này. Quy định này của NHTW Bahamas đề cập về các nhóm vấn đề:

  1. i) Tiêu chuẩn để trở thành đơn vị cung cấp dịch vụ ví tiền điện tử Sand Dollar. ii) Quy trình xin cấp phép để trở thành đơn vị cung cấp dịch vụ ví tiền điện tử.  iii) Khả năng tương thích và tương tác. iv)  Bảo vệ người dùng.
  2. Ổn định hệ thống tài chính.
  3. Tài chính toàn diện. vii) Trách nhiệm của đơn vị cung cấp dịch vụ ví tiền điện tử.  viii) Hạn mức giới hạn của ví tiền điện tử. ix) Quyền hạn của NHTW

Bên cạnh các vấn đề trên, NHTW Bahamas cũng đề xuất những thay đổi trong một số văn bản pháp luật tương ứng đi kèm với với ban hành Quy định này, như:

  • Luật NHTW Bahamas 2020, và một số điều trong Đạo luật Hệ thống thanh toán 2012. Ví dụ như: i) bổ sung định nghĩa về Tiền điện tử do NHTW phát hành (đồng Sand Dollar), thành quy phạm pháp luật, ii) quy định NHTW Bahamas là cơ quan duy nhất có toàn quyền phát hành các đồng Sand Dollars điện tử.
  • Luật chống lạm dụng máy tính (Computer Missue Act 2006), quy định các hành vi vi phạm liên quan đến các hoạt động xâm nhập, xâm phạm, thay đổi thông tin bằng sách sử dụng máy tính để: i) truy cập vào bất kỳ chương trình hoặc dữ liệu nào được lưu trữ trong một máy tính khác; ii) sửa đổi nội dung của bất kỳ máy tính nào; iii) chặn bất kỳ chức năng nào của máy tính nào, iv) tiết lộ thông tin hoặc mã truy cập vào một máy tính hoặc bất kỳ thông tin nào của nó… Trong đề xuất, NHTW

Bahamas đề nghĩa mở rộng khái niệm “máy tính” sẽ bao gồm cả điện thoại di động, máy tính bảng và các thiết bị di động khác, qua đó đam bảo là Luật này quy định những thiết bị sẽ sử dụng cả nền tảng tiền điện tử Sand Dollar.

Tới tháng 8/2021, NHTW Bahamas đã ban hành chính thức ban hành văn bản số No.88.2021, quy định về việc quản lý các đơn vị cung cấp ví điện tiển cho tiền đồng Đô la số Bahamian (viết tắt là “BDDC”)

Phân tích nội dung Quy định về Tiền số Bahamian (gọi tắt là “Quy định”, có nội hàm giống với Nghị Định của Việt Nam), những nhà nghiên cứu lập pháp dễ nhận thấy những giá trị pháp lý rất đáng tham khảo cho xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể: Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Thứ nhất, Quy định này đưa các các điều kiện cụ thể, rõ ràng về điều kiện trở thành Đơn vị cung cấp dịch vụ ví Tiền số Bahamian. Các điều kiện này chặt chẽ, đầy đủ các khía cạnh như: hệ thống, con người, quy tắc quản lý, phòng chống rủi ro, quy định tuân thủ… nhằm đảm bảo các Đơn vị cung ứng dịch vụ đủ điều kiện hoạt động an toàn, bảo mật cho khách hàng. Quy định điều kiện đăng ký và duy trì giấy phép Đơn vị cung cấp dịch vụ ví gồm (Điều 8 của Quy định):

  • Đơn vị có đầy đủ các thành phần phần mềm và phần cứng.
  • Đơn vị đã thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm mục đích bảo vệ tiền của chủ sở hữu ví.
  • Đơn vị có các quy tắc rõ ràng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc cung cấp dịch vụ ví.
  • Đơn vị có hệ thống công nghệ thông tin an toàn và đáng tin cậy và các giao diện phù hợp để đảm bảo khả năng tương tác, truy cập và bảo vệ dữ liệu, cũng như các quy trình khắc phục thảm họa và dự phòng.
  • Đơn vị có các thỏa thuận hiệu quả để bảo vệ tài sản của khách hàng và các khoản tiền phù hợp với bất kỳ quy tắc hoặc hướng dẫn quy định nào do Ngân hàng Trung ương ban hành.
  • Đơn vị có các thỏa thuận quản trị doanh nghiệp hiệu quả phù hợp với bất kỳ quy tắc hoặc hướng dẫn quy định nào do Ngân hàng Trung ương ban hành.
  • Đơn vị có sẵn các hệ thống để ngăn chặn, phát hiện và tiết lộ hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố.
  • Đơn vị Tuân thủ các quy định của Quy định này hoặc bất kỳ luật thành văn nào do Ngân hàng Trung ương quản lý hoặc liên quan đến việc tuân thủ chống rửa tiền hoặc chống tài trợ cho khủng bố và các yêu cầu tài trợ hồ sơ.
  • Đơn vị đang và vẫn tuân thủ các điều khoản liên quan đến các yêu cầu phù hợp và phù hợp theo Quy định Giám sát về Công cụ Thanh toán, 2017 và Đạo luật Quy định về Ngân hàng và Công ty Tín thác;
  • Đơn vị đã đáp ứng các tiêu chuẩn về khả năng tương tác do Ngân hàng Trung ương thiết lập, bao gồm nhưng lưu ý giới hạn ở các tiêu chuẩn cho phép chủ sở hữu ví gửi và nhận tiền bằng phương tiện:
  • Bí danh người dùng duy nhất, độc lập với tên miền đã đăng ký của nhà cung cấp ví.
  • Số tài khoản tiêu chuẩn, phổ biến, duy nhất, độc lập với miền của nhà cung cấp ví 
  • Quét mã QR để gửi và nhận thanh toán
  • Đơn vị đã giao dịch cởi mở, trung thực và hợp tác với Ngân hàng Trung ương;
  • Đơn vị đã cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của mình khi Ngân hàng Trung ương có thể yêu cầu vào từng thời điểm.

Thứ hai, liên quan tới quyền phát hành và phân phối Tiền số Bahamian Điều 13 và Điều 14 của Quy định này xác định:

NHTW là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phát hành Tiền số Bahamian, và bất kỳ tiền điện tử phát hành bởi NHTW sẽ là công cụ thanh toán pháp định tại lãnh thổ Bahamas, bằng giá trị mệnh giá, đối với các hoạt động thah toán với bất kỳ giá trị nào. Không ai, ngoại trừ NHTW Bahamas, được phép phát hành Tiền số pháp định Bahamas. Đồng thời, tổng lượng Tiền số trong lưu thông do NHTW Bahamas phát hành sẽ là nghĩa vụ nợ trên bảng cân đối của NHTW.

Phân phối Tiền số Bahamas thực hiện thông qua phương thức : Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

  1. NHTW Bahamas mở một hoặc nhiều tài khoản cho mục đích nhận tiền gửi và thu tiền trên tài khoản của bất kỳ Đơn vị cung cấp dịch vụ ví cho mục đích hỗ trợ việc phân phối Tiền số Bahamas thông qua Đơn vị cung cấp dịch vụ ví.
  2. Các đơn vị cung cấp dịch vụ ví sẽ phải phân phối Tiền số NHTW không chậm trễ, trên cơ sở nhận và trao đổi một lượng tiền tiền pháp định, hoặc các loại tiền điện tử, tiền ảo được chấp nhận với chính Đơn vị cung cấp dịch vụ ví đó.
  3. Cấm Đơn vị cung ứng dịch vụ ví điện tử phân phối hoặc đổi Tiền số Bahamas, theo yêu cầu của người nắm giữ, khác tỷ lệ 1:1 sang Tiền pháp định.

Thứ ba, các Đơn vị cung ứng dịch vụ ví không được phép trả lãi suất cho người sở hữu Tiền số Bahamas, cũng như bất kỳ một lợi ích nào liên quan tới thời gian nắm giữ Tiền số Bahamian (Điều 15 của Quy định). Đây là quy định rất quan trọng, nhằm đảm bảo các công ty cung cấp dịch vụ ví không trở thành các định chế có chức năng huy động, cạnh tranh với hệ thống NHTM, mà chỉ là đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán.

Thứ tư, theo Điều 17 và Điều 18 của Quy định, NHTW Bahamas có toàn quyền quyết định quyết định về lượng Tiền số Bahamian có thể phân phối bởi từng Đơn vị cung cấp dịch vụ ví trong mỗi thời kỳ. Đặc biệt hơn nữa Quy định này cho phép NHTW Bahamas được quyền dừng/ treo/ giới hạn quy mô các khoản rút tiền gửi của khách hàng để chuyển đổi sang thành Tiền số NHTW (nhằm hạn chế gây rủi ro cho sự ổn định của hệ thống tài chính của Bahamas). Thời hạn của việc dừng/ treo/ giới hạn lượng tiền gửi có thể được rút không vượt quá 7 ngày. Trường hợp quá bảy ngày với những lý do đặc biệt, sau khi tham vấn với Thủ Tướng, NHTW có thể thực hiện kéo dài thời hạn thêm, nhưng tối đa không qua 14 ngày.

Thứ năm, NHTW Bahamas sẽ đưa ra quy định định về hạn mức giới hạn lượng Tiền số Bahamian mà các ví Tiền số Bahamian được phép nắm giữ, tương ứng với các mức nhận biệt khách hàng mà Đơn vị cung cấp dịch vụ ví có thể thực hiện cho khách hàng, bao gồm:

  1. Mức cơ bản (còn gọi là Mức 1), Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.
  2. Mức cao (còn gọi là Mức 2, áp dụng cho khách hàng có thêm những yếu tố nhận biết bổ sung mới,
  3. Mức dành cho doanh nghiệp và tổ chức (còn gọi là Mức 3) ở mọi loại hình pháp lý và sở hữu.

Bên canh đó, hạn mức giao dịch hạn mức nắm giữ của từng ví Tiền số sẽ được áp dụng cho các khoản chuyển tiền vào ví, và tất cả các khoản chuyển tiền ra khỏi ví. Nếu số tiền chuyển vào ví Tiền số Bahamian vượt quá hạn mức nắm giữ thì mức tiền vượt sữ được tự động chuyển vào tài khoản tiền gửi đã được chỉ định từ trước đó. Nếu số Tiền số Bahamian giao dịch bị vượt hạn mức giao dịch của ví thì giao dịch sẽ không được thực hiện và số Tiền số Bahamian này vẫn nằm trong ví của người chủ sở hữu ví.

Thứ sáu, Quy định Tiền số Bahamian đưa ra các quyền hạn của NHTW Bahamas trong hoạt động giám sát Tiền số (Chương IV của Quy định này), bao gồm:

  • Điều 20. Mã hóa kỹ thuật số: Cấm bất kỳ ai, nếu không có sự chấp thuận của NHTW, tìm kiếm các thức giải mã/ phá mã, hoặc thậm nhập vào các trao đổi thông tin bảo mật và bí mật về giao dịch liên quan tới Tiền số NHTW
  • Điều 21. NHTW được pháp ban hành/ sửa đổi/ hủy bỏ/ thay thế các quy định và hướng dẫn để áp dụng hạn mức hoặc cấm số dư trên ví Tiền số Bahamian và giá trị của từng nhóm chủ sở hữu ví.
  • Điều 26. Quyền thực hiện điều tra các hoạt động kinh doanh của các đơn vị cung ứng dịch vụ ví Tiền số Bahamian, đơn vị được chỉ định bởi Đơn vị cung ứng dịch vụ ví, hoặc bất kỳ thực thể nào có quan hệ hợp đồng dịch vụ với Đơn vị cung ứng dịch vụ ví, nhằm đảm bảo các hoạt động phải tuân thủ các quy định tại Quy định này, các văn bản luật phòng chống rửa tiền, khủng bố và các luật liên quan khác.

NHTW Bahamas cũng có quyền được chỉ định đơn vị kiểm toán hoặc một bên thứ ba thực hiện các đánh giá về bất kỳ chủ thể nào liên quan, cũng như điều tra và nắm giữ số sách, tài liệu, tiền mặt, các thiết bị truy cập, và các hạng mục khác mà NHTW xét thấy cần có để thực hiện tốt các chức năng của mình.

Thứ Bảy, Quy định này cũng đưa ra các chế tài xử lý hình sự và/hoặc phạt tiền đối việc không tuân thủ các quy định (Điều 27). Các biện pháp xử lý hành chính, cưỡng chế và hình phạt bổ sung cũng được đưa quy định, nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện các kiểm soát mạnh, như: ra văn bản cảnh cáo; đình chỉ điều hành đối với người quản lý; sa thải giám đốc, cán bộ hoặc quản lý cấp cao khác hoặc đối tác chung; ra văn bản yêu cầu Đơn vị cung cấp dịch vụ ví tuân thủ hướng dẫn do NHTW ban hành; cấm một người được bổ nhiệm làm kiểm toán; thực hiện bồi thường; tịch thu lợi nhuận hoặc thu lợi bất chính; hủy tư cách và rút giấy phép Đơn vị cung ứng dịch vụ ví.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Các quốc gia trên khắp thế giới bắt tay nghiên cứu, thử nghiệm và từng bước triển khai Tiền số NHTW với mục tiêu làm đối trọng với tiền kỹ thuật số, tiền điện tử, tiền ảo do tư nhân phát hành. Bên cạnh những nghiên cứu mạnh mẽ của các quốc gia lớn như Mỹ, Trung Quốc, Khu vực Châu Âu, Nhật Bản, Nga, để định hình hướng đi cho tiền số NHTW của các quốc gia, liên mình này, thì đã có hai quốc gia đầu tiên đưa Tiền số NHTW vào lưu thông (Nigeria và Bahamas).

Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những vấn đề kinh tế và kỹ thuật của Tiền số NHTW cần phải được Chính phủ/ NHTW của các quốc gia quyết định và giải quyết một cách toàn diện, thấu đáo, thì các vấn đề pháp lý liên quan tới Tiền số NHTW cũng cần được làm sáng tỏ trên phương diện:

i) Bản chất pháp lý, khái niệm và đặc điểm của Tiền số NHTW. ii) Hoạt động phát hành Tiền số NHTW dưới giác độ Đạo luật của NHTW và Đạo luật Tiền tệ. iii) Ảnh hưởng của thiết kế kỹ thuật Tiền số NHTW tới các vấn đề pháp lý quan trọng như:

  • Chức năng của NHTW là ngân hàng của các tổ chức, hay là ngân hàng của đại chúng.
  • Địa vị pháp lý giữa Người sở hữu Tiền số NHTW với Ngân hàng TƯ
  • Cách thức chứng minh quyền sở hữu Tiền số NHTW
  • Mối quan hệ theo hợp đồng giữa người gửi tiền và NHTW.

Từ các phân tích về tình hình nghiên cứu, phát triển thử nghiệm và triển khai thực tế Tiền số NHTW tại các quốc gia Mỹ, Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Marshall và Bahamas, chúng ta có thể đưa những nhận định khái quát cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất, xu hướng phát triển và phát hành Tiền số NHTW của các quốc gia lớn trên thế giới là một xu hướng rõ ràng và càng ngày càng mạnh mẽ. Động lực chính của các Quốc gia này gồm:

Mang thêm các lợi ích mới cho công chúng khi sử dụng loại hàng hóa công cộng rất đặc biệt, đó là: “Tiền pháp định do nhà nước phát hành, gọi là Tiền số NHTW”, một hình thái mới bên cạnh tiền giấy, tiền kim loại, tiền tài khoản tại NHTM rất vốn được sử dụng quen thuộc.

Làm đối trọng với tiền ảo, tiền điện tử, tiền số do tư nhân phát hành trong hiện tại và tương lai. Củng nố niềm tin của công chúng vào đồng tiền do nhà nước phát hành; khẳng định vị thế làm chủ của nhà nước và quyền lực lực nhà nước trong phát hành, quản lý, lưu thông tiền phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Đối với các cường quốc (Trung Quốc và Nga) việc tạo ra Tiền số NHTW của riêng mình, nhằm quốc tế hóa đồng tiền quốc gia, giảm bớt ảnh hưởng của nước Mỹ vào các chính sách kinh tế, thương mại, chính trị, quan hệ quốc tế, nâng cao cạnh tranh vị thế và sức mạnh tài chính. Đây là bước đi có tính chất chiến lược, tác động dài hạn của Trung Quốc và Nga tới quyền lực của nước Mỹ, khi Dollar Mỹ đã thống trị trong nền thương mại, tài chính, đầu tư toàn trong gần 80 năm (tính từ lúc kết thúc thúc Thế chiến Thứ II tới nay). Đối với Hoa Kỳ, Tiền số Dollar Mỹ sẽ là giải pháp để tiếp tục duy trì vị thế thống trị của đồng bạc xanh trên trường quốc tế, giúp Mỹ có công cụ để áp các biện pháp cấm vận, trừng phạt kinh tế đối với các quốc gia đi ngược lại lợi ích của nước Mỹ. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

Việt Nam cần theo dõi chặt chẽ động thái của các gia này vì một khi Tiền số NHTW của các quốc gia lớn (Mỹ, Trung Quốc, Châu Âu) trở thành hiện thực, thì có thể khiến cho trình trạng “Đô la hóa” ở một số quốc gia có đồng tiền yếu (như Việt Nam) sẽ trở nên trầm trọng vì: a) Tiền số NHTW có đặc tính tương tự như tiền mặt (giá trị được bảo đảm và không có rủi ro vỡ nợ) nên mức độ hấp dẫn đối với chủ thể nắm giữ rất cao; b) Tiền số NHTW dễ dàng lưu giữ với số lượng lớn, vì đặc tính cất trữ điện tử, thay vì phải có kho để chứa các bao tải tiền giấy, tiền kim loại. Việt Nam cần lên các phương án về nâng cấp hạ tầng công nghệ và thiết lập khung pháp lý để quản lý tất các chủ thể (người cư trú và không cư trú) nếu họ sử dụng Tiền số NHTW của quốc gia khác để giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam.

Thứ hai, đặc điểm thiết kế kỹ thuật của Tiền số NHTW có ảnh hưởng tới: phương thức NHTW sử dụng các công cụ kinh tế/ hành chính để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; định hướng cụ thể tới một số quy định pháp luật liên quan việc phát hành, quản lý và lưu thông Tiền số NHTW; kiến trúc, hạ tầng cơ sở của hệ thống thanh toán hiện hữu của Việt Nam; cũng như tới cách thức tổ chức quản lý, vận hành và giám sát hệ thống của cơ quan quản lý nhà nước và thành viên thị trường. Các đặc điểm thiết kế kỹ thuật quan trọng cần lưu ý, gồm:

  • Loại công nghệ sử dụng (công nghệ ghi sổ tài khoản, hay công nghệ chuỗi khối, hay hỗn hợp),
  • Có, hay không có chức năng trả lãi suất (giống tiền giấy/ kim loại, hay giống tiền tài khoản NHTM),
  • Mô hình vận hành hệ thống Tiền số NHTW phân tán, hay tập trung (sử dụng công nghệ sổ cái phân tán trên toàn mạng, hay công nghệ sổ cái phân tán trên một mạng đóng).
  • Phân phối theo mô hình một cấp (phân phối Tiền số trực tiếp từ NHTW tới người dùng) hay mô hình hai cấp (phân phối từ NHTW tới người dùng thông qua các tổ chức/ đơn vị trung gian thanh toán được cấp phép).
  • Chỉ phát hành Tiền số NHTW bán lẻ, hay có cả phát hành Tiền số NHTW bán buôn.

Thứ ba, việc nghiên cứu Tiền số VND hiện nay cấp thiết và nên làm. Đồng thời Việt Nam phát hành Tiền số VND cụ thể thế nào lại cũng rất phụ thuộc vào việc các quốc gia khác trên thế giới thực hiện phát hành Tiền số NHTW ra sao. Luật Tiền số quốc gia Việt Nam (nếu được ban hành thành một văn bản pháp lý riêng) chắc chắn phải có sự tương thích với các quy định về Tiền số NHTW của các quốc gia khác. Mục đích vừa đảm bảo chủ quyền tiền tệ, nhưng vừa phải phù hợp về cả thiết kế kỹ thuật, hạ tầng công nghệ và khung pháp lý hỗ trợ thanh toán song phương trên bình diện quốc tế. Do vậy, Việt Nam cần liên kết, hớp tác, trao đổi kinh nghiệm với các NHTW, tổ chức tài chính quốc tế và cơ quan nghiên cứu uy tín trên thế giới để phối hợp thử nghiệm (trên diện hẹp) Tiền số NHTW tại Việt Nam trong thời gian sớm nhất. Luận văn: Pháp lý trong phát hành tiền số ngân hàng trung ương.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Pháp luật hoạt động phát hành tiền số quốc gia

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993