Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch Việt Nam được mệnh danh là “con gà đẻ trứng vàng” bởi nguồn lợi to lớn mà ngành mang lại cho đất nước. Đặc biệt, khi đời sống của con người ngày một nâng cao thì nhu cầu hưởng thụ của họ ngày càng nhiều dẫn đến xu hướng đi du lịch phát triển mạnh mẽ. Mặt khác, sự bùng nổ các khu đô thị, khu công nghiệp trong những thập niên gần đây đã làm cho con người ngày càng xa rời với thiên nhiên. Con người thường xuyên sống và làm việc trong môi trường công nghiệp với cường độ áp lực cao. Điều này đã thôi thúc mọi người đua nhau tìm về với thiên nhiên, nhu cầu tìm về những nơi có không gian yên tĩnh, bầu không khí trong lành, mát mẻ và cảnh quan thiên nhiên còn hoang sơ, mộc mạc để nghỉ ngơi, thư giãn, tái tạo sức khỏe của con người ngày càng tăng. Đây chính là cơ hội để Du lịch Nông thôn phát triển.
Phát triển nông nghiệp nông thôn và nâng cao đời sống của người dân nông thôn là đòi hỏi bức bách nhằm tăng khả năng hoà nhập của người dân nông thôn trong làn sóng phát triển kinh tế đất nước và tạo sự ổn định cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Có rất nhiều giải pháp được áp dụng để giải quyết vấn đề này. Mô hình phát triển kinh tế nông thôn gắn với du lịch sẽ góp phần phục vụ công tác xoá đói giảm nghèo tại khu vực nông thôn, nhất là khu vực có điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hoá phù hợp phát triển du lịch. Phát triển du lịch gắn với nông nghiệp sẽ giúp cho nông thôn tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội. Với tổng diện tích 424km2, dân số hơn 265 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao), toàn huyện có 31 xã, thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi, một xã giữa sông Hồng. Phía đông giáp thị xã Sơn Tây, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ và phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc.
Ba Vì được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cả bức tranh sơn thuỷ hữu tình, với hệ sinh thái phong phú, thảm thực vật đa dạng, được coi là “lá phổi xanh” phía Tây thủ đô Hà Nội, là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước. Đó chính là Vườn Quốc Gia Ba Vì. Nơi đây có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: Núi, rừng, Thác, suối, Sông, Hồ cùng với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Ao Vua, Khoang Xanh – Suối Tiên, Hồ Tiên Sa, Thiên Sơn – Suối Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Thác Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ – Đầm Long, Đồi cò Ngọc Nhị…Đặc biệt nơi đây còn có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp phong phú.
Bước vào thời kì hội nhập, nông nghiệp và nông thôn ở Ba Vì có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội tại địa phương. Xuất phát từ việc khảo sát thực tế, tôi nhận thấy Ba Vì là một huyện có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn nhưng du lịch nông thôn ở đây lại chưa phát huy được hết những tiềm năng đó nên tôi đã chọn “Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội” là đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình, góp phần đáp ứng được yêu cầu cấp thiết và có tính lý luận, thực tiễn. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự phát triển của du lịch nông nghiệp và nông thôn đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới.
Tác giả Curtis E. Beus (2015) trong cuốn ”Agritourism: Cultivating tourists on the farm – Small FarmsTeam, Washington State University, 2015” đã nghiên cứu khái quát về du lịch nông nghiệp, bài học kinh nghiệm tại Châu Âu, một số kết quả đạt được tại bang Vermont và Kentucky đề xuất mô hình phát triển các trang trại theo hướng du lịch nông nghiệp tại Mỹ.
Ngoài ra Duncan Hilchey (1993) trong cuốn ”Agritourism in New York State: Opportunities and challenges in farm-based recreation and hospitality – Farming Alternatives Program, Department of Rural Sociology, Cornell University, 1993” đã nghiên cứu về du lịch nông nghiệp và cũng đã đạt được một số kết quả nhất định ở các bang New York, California của Mỹ.
Du lịch nông thôn (DLNT) bây giờ không còn xa lạ với chúng ta nữa bởi cụm từ này được xuất hiện khá nhiều trên các phương tiện truyền thông: đài, báo, website (vietnamtourism.gov.vn, kinhtenongthon.com.vn,…) nhằm quảng bá và nêu lên thực trạng về DLNT ở nước ta hiện nay. Đồng thời đây cũng là đề tài gây nhức nhối của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học. Tuy nhiên hướng khai thác chủ yếu là đặt DLNT trong sự phát triển mạnh mẽ của đô thị hóa – công nghiệp hóa nông thôn ở vùng miền nhất định như đề tài: Phát triển DLNT để thúc đẩy hiện đại hóa nông thôn ở Hà Nội của nhóm tác giả: Nguyễn Văn Mạnh – Trần Huy Đức ở khoa Du lịch và khách sạn, Đại học kinh tế quốc dân. Nội dung bài nghiên cứu không chỉ nêu lên những nhận thức về DLNT, thuận lợi và khó khăn trong sự phát triển DLNT mà còn đề xuất giải pháp và kiến nghị để phát triển loại hình du lịch này ở Hà Nội dưới góc độ kinh tế du lịch.
Các bài viết của Bùi Thị Lan Hương: Du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn, Một số nhận định ban đầu về khách du lịch nông thôn ( Nội san nghiên cứu khoa học, Trường cán bộ quản lí nông nghiệp và phát triển nông thôn 2, thành phố Hồ Chí Minh, 1/2019 ) với mục đích là cung cấp đầy đủ và đúng đắn cơ sở lý thuyết về DLNT, tránh nhầm lẫn với loại hình DLNN, tác giả đã giúp người đọc hiểu đúng nghĩa thế nào là DLNT.
Với Bùi Xuân Nhàn, “Phát triển du lịch nông thôn ở nước ta hiện nay”, trên tạp chí Cộng Sản (số 16,17,18 năm 2018) đã đưa ra sự xuất hiện và phát triển của du lịch nông thôn trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bài viết cũng phần nào đưa ra được các giải pháp để phát triển loại hình du lịch này ở Việt Nam.
Lê Anh Tuấn trong bài viết “Kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn ở một số quốc gia trên thế giới” – Tạp chí Du lịch Việt Nam số 2/2019 đã nghiên cứu về sự phát triển du lịch nông thôn ở một số quốc gia như Vương quốc Anh, Cộng hòa liên bang Đức, Pháp. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Ngô Kiều Oanh (Trang trại đồng quê Ba Vì) có bài viết: Mô hình du lịch nông nghiệp gắn với làng nghề trên trang web dcrd.gov của Cục kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn nhưng chỉ cung cấp nhưng thông tin chung chung về loại hình du lịch nông thôn đang được khai thác ở một số địa phương, cũng như đưa ra những tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở Ba Vì. Tuy nhiên, bài viết mới chỉ đề cập tới một khía cạnh nhỏ của du lịch nông thôn là du lịch nông nghiệp gắn với làng nghề.
Luận văn:” Phát triển du lịch nông thôn ở Ba Vì – Hà Nội” có đặc điểm riêng khác với các công trình nghiên cứu trước. Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về phương hướng và giải pháp góp phần phát triển bền vững DLNT tại huyện Ba Vì, trong đó bao gồm cả nghiên cứu, tìm hiểu về tiềm năng và tài nguyên của DLNT cũng như hiện trạng phát triển của loại hình ở đây. Luận văn đã cố gắng nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn nhằm cung cấp cái nhìn tổng hợp và đầy đủ hơn so với các công trình trước đây. Qua đó giúp thấy được tính cấp thiết, thực tiễn và nội dung mới của đề tài.
Đồng thời, đề tài luận văn còn muốn gợi mở cho việc áp dụng thực tiễn. Hy vọng những cơ sở lý luận của luận văn này sẽ góp phần là nền tảng bước đầu cho hướng khai thác loại hình du lịch còn khá mới mẻ này ở Việt Nam nói chung và huyện Ba Vì nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn, đạt hiệu quả tốt nhất và bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu các tiềm năng phát triển du lịch nông thôn của huyện Ba Vì từ đó đề xuất giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại huyện Ba Vì.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: từ năm 2019 đến năm 2023
- Huyện Ba Vì – Thành phố Hà Nội
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên việc tiến hành những phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp thu thập, xử lý và kế thừa tài liệu
Để có được những cơ sở lý luận xác thực, người thực hiện phải tiến hành thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài phát triển bền vững và Du lịch nông thôn. Trên cơ sở đó mới thấy được những mối liên hệ, những quy luật có liên quan, chi phối thực trạng của DLNT và đề ra các phương hướng, giải pháp để góp phần phát triển loại hình này.
- Phương pháp so sánh
Người viết có sự so sánh tình hình phát triển DLNT trên thế giới và ở Việt Nam, so sánh sự phát triển mạnh mẽ của du lịch Việt Nam qua một số năm để thấy rõ những cơ hội, lợi thế mà DLNT sẽ có và đạt được.
- Phương pháp phỏng vấn Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Với đối tượng được phỏng vấn khá rộng là các cấp chính quyền, các cơ quan ban ngành, nhân dân địa phương, khách du lịch nội địa và quốc tế… nhằm phục vụ cho việc đánh giá tiềm năng và sự phát triển của DLNT.
- Phương pháp thực nghiệm
Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong thời gian tác giả thực hiện nghiên cứu tại địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội: Ba Vì, Quốc Oai… nhằm khảo sát thực tế hiện trạng tiềm năng du lịch nông thôn. Các điểm thực nghiệm cũng đều là những vùng nông thôn có tiềm năng cho du lịch, có vị trí tương đối gần nhau nên có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế xã hội. Tuy nhiên, mỗi vùng lại có sự phát triển về du lịch nông thôn khác nhau, thực trạng khai thác khác nhau, nên từ đó tác giả có thể nhận định, so sánh để khai thác các tiềm năng hiệu quả nhất cho địa phương mình nghiên cứu, từ đó đưa ra giải pháp hiệu quả sát thực hơn để phát triển loại hình du lịch này.
- Phương pháp mô hình, mô phỏng
Tác giả cũng dựa trên những mô hình DLNN, DLNT đã thực hiện ở một số nước trên thế giới và một số vùng ở ba miền Bắc – Trung – Nam để rút ra những thành công cũng như hạn chế của những mô hình này.
- Phương pháp sử dụng sơ đồ, biểu đồ
Tác giả cũng thông qua bản đồ du lịch để định vị các tài nguyên DLNT và xác định điểm du lịch phù hợp với điều kiện phát triển của địa phương. Nhằm làm phong phú cho bài viết, khóa luận cũng sử dụng một số sơ đồ, biểu đồ để giúp người đọc có ấn tượng và hiểu được về sản phẩm du lịch này.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH NÔNG THÔN
1.1. Khái quát chung về du lịch nông thôn
1.1.1.Khái niệm, sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn
- Khái niệm:
Theo từ điển du lịch Encyclopedia of tourism, 2000, Routledge, trang 514 – 515 thì khái niệm du lịch nông thôn được giải thích như sau: Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Du lịch nông thôn là loại hình khai thác các vùng nông thôn như một nguồn tài nguyên và đáp ứng nhu cầu của dân đô thị trong việc tìm kiếm không gian yên tĩnh và giải trí ngoài trời hơn là chỉ liên quan đến thiên nhiên. Du lịch nông thôn bao gồm các chuyến thăm vườn quốc gia và công viên công cộng, du lịch di sản trong khu vực nông thôn, các chuyến đi thăm quan danh lam thắng cảnh và thưởng thức cảnh quan nông thôn, và du lịch nông nghiệp. Nói chung, khu vực nông thôn hấp dẫn nhất với khách du lịch là những vùng ven khu nông nghiệp, thường là vùng dân cư thưa thớt, vùng biệt lập hoặc những vùng cao, miền núi ít được biết đến. Du lịch nông thôn cung cấp một nguồn thu nhập thêm, đặc biệt là cho phụ nữ, và đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ suy giảm dân số nông thôn. Đầu tư du lịch nông thôn có thể bảo tồn các công trình lịch sử, và các hoạt động truyền thống như lễ hội làng có thể được phục hồi thông qua sự quan tâm của khách du lịch.
Các công trình bỏ hoang trong các ngôi làng xuống cấp hoặc đang có dấu hiệu xuống cấp có thể được phục dựng để trở thành ngôi nhà thứ hai cho cư dân đô thị. Sự phát triển đó mang lại sự thịnh vượng mới cho các vùng nông thôn nghèo, nhưng cũng có thể phá hủy các đặc trưng cảnh quan mà ban đầu đã thu hút khách du lịch. Việc gia tăng sự hiện diện của người dân đô thị đã thay đổi tính chất xã hội của các làng, lưu lượng dày đặc của xe ô tô và các đoàn khách gây ra ùn tắc giao thông trên các tuyến đường làng chật hẹp và cản trở sự di chuyển của gia súc. Ô nhiễm giao thông, vật nuôi thả rông, sự thiếu kiểm soát du khách ra vào có thể gây tổn thương vật nuôi và cây trồng. Sự trùng hợp của mùa vụ nông nghiệp và du lịch cũng dễ dẫn đến xung đột về nguồn nhân lực. Vì vậy, cán cân giữa chi phí và lợi ích từ du lịch nông thôn không phải lúc nào cũng mang đến kết quả tích cực, nhưng tại một số vùng nông thôn, du lịch được xem là một hoạt động hiển nhiên”.
Một trong những định nghĩa phổ biến nhất về du lịch nông thôn được nhiều học giả trích dẫn là của tác giả Bernard Lane (1994) đúc kết trong bài viết “Du lịch nông thôn là gì?” đăng trên tạp chí Du lịch Bền vững, quyển 2, số 1-2, tại trang 14.
Theo đó, du lịch nông thôn với hình thức thuần túy nhất là loại hình du lịch:
- (1)Được diễn ra ở những khu vực nông thôn;
- (2)Thiết thực cho nông thôn – hoạt động dựa trên những đặc điểm tiêu biểu của những khu vực nông thôn với quy mô kinh doanh nhỏ, không gian mở, được tiếp xúc trực tiếp và hòa mình vào thế giới thiên nhiên, những di sản văn hóa, xã hội và văn hóa truyền thống ở làng xã
- (3)Có quy mô nông thôn – bao gồm các công trình xây dựng cũng như quy mô khu định cư thường có quy mô nhỏ (thôn, bản)
- (4)Dựa trên đặc điểm, yếu tố truyền thống, phát triển chậm và được tổ chức chặt chẽ, gắn kết với các hộ dân địa phương. Được phát triển và quản lý chủ yếu bởi địa phương phục vụ lợi ích lâu dài của dân cư trong làng xã
- (5)Với nhiều loại hình, thể hiện đặc tính đa dạng về môi trường, kinh tế, lịch sử, địa điểm của mỗi nông thôn.
Như vậy, có thể nói du lịch nông thôn là loại hình du lịch trong đó nông nghiệp, sinh hoạt, nghề truyền thống, cảnh quan, v.v vốn chưa được xem là tài nguyên du lịch, giờ được sử dụng như những tài nguyên du lịch dành cho du khách tiếp xúc, trải nghiệm với đời sống nông thôn. Việc này phụ thuộc vào phương pháp phát triển nhưng có nghĩa là tất cả mọi nông thôn đều có khả năng trở thành điểm đến du lịch. Trong tâm trí mỗi người ắt sẽ xuất hiện hình ảnh du lịch thực tế của những người thành thị chưa từng tiếp xúc với cuộc sống nông thôn bình thường đến trải nghiệm nông nghiệp, ăn những thức ăn tươi ngon từ các loại rau do mình hái, hoặc ngồi nghe người dân nói về đời sống nông thôn. Đối với người dân nông thôn thì đó chỉ là cuộc sống và sinh hoạt thường ngày, nhưng chỉ cần thêm vào một chút dịch vụ giá trị gia tăng nào đó cho phù hợp với du lịch thì có thể làm thành điều hấp dẫn thú vị cho du khách và cư dân thành phố. Thêm vào đó, nhờ có du lịch mà nhu cầu về nông nghiệp tăng lên, các giá trị văn hóa có hướng kế thừa, nên có thể nói du lịch nông thôn giúp cho việc gia tăng thu nhập (biểu đồ 1.1). Nói cách khác, du lịch nông thôn là cơ hội mở rộng kinh doanh ở khu vực nông thôn đó thông qua du lịch. Mặt khác, một khi du lịch phát triển thành công tại địa phương thì cũng có thể phát sinh các vấn đề thay đổi về mặt xã hội và môi trường ở địa phương đó. Vì thế, cần phải cân nhắc từ phương diện xã hội và môi trường khi phát triển du lịch nông thôn.
Có thể tóm tắt về khái niệm du lịch nông thôn như sau:
- Tất cả các yếu tố nông thôn (đời sống, nghề truyền thống, cảnh quan v.v) đều có thể trở thành tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn du khách Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
- Là hướng sinh kế mới cho vùng nông thôn
- Có thể tạo công ăn việc làm mới cho phụ nữ và những người trẻ khác
- Có thể phát triển bằng cách kết hợp hài hòa tài nguyên khu vực nông thôn (nông nghiệp và nghề truyền thống, di sản văn hóa v.v) với du lịch
- Nhờ có sự kết hợp như thế mà có hướng kế thừa nghề truyền thống cũng như các di sản văn hóa
- Được quản lý, khai thác và thực hiện chủ yếu bởi người dân địa phương
- Sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn
Khái niệm du lịch nông thôn (DLNT) đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành đường sắt ở Châu Âu. Tuy nhiên, mãi đến những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới được xem là một loại hình du lịch và được phổ biến ở hầu hết các quốc gia ở Châu Âu như Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển… . Lúc bấy giờ khái niệm du lịch nông thôn được quan niệm tương đồng với các loại hình du lịch nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở nông thôn… Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia đang phát triển và quốc gia phát triển là ở chỗ: Tại các quốc gia đang phát triển, người ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hoá thu nhập từ nông nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc, văn hoá truyền thống và bảo vệ môi trường. Vì vậy du lịch nông thôn ở các nước này phát triển theo chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại.
Do những điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội khác nhau, nên hình thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh thổ. Chẳng hạn, ở Ô-xtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu tại các trang trại lớn; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn; ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại nhỏ; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm sở thích của cộng đồng; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng. Phát triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường; giảm đói nghèo thông qua phát triển kinh tế nông thôn, phát triển ngành, nghề; giúp phát triển du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và góp phần tiêu thụ các sản phẩm địa phương .
1.1.2. Đặc điểm của du lịch nông thôn
- Du lịch nông thôn có các đặc điểm căn bản sau:
Nền tảng của du lịch nông thôn là nông nghiệp. Với hơn 80% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông, có các sản vật phong phú như lúa gạo, khoai, sắn, nho, thanh long, sầu riêng, … Việt Nam có điều kiện rất tốt để xây dựng và phát triển loại hình du lịch này. Khách tham quan sẽ đến các trang trại hoặc làng bản, cùng sinh hoạt, làm việc với người dân bản địa; có thể mặc áo nông dân, xuống ruộng phát cỏ, cấy lúa hoặc lội đồng bắt cá, tôm cua… Không chỉ khách quốc tế mới là đối tượng của loại hình du lịch này mà ngay cả người dân trong nước cũng có thể tham gia, tìm hiểu. Những bài học góp nhặt được trong quá trình trải nghiệm sẽ giúp cho chuyến du lịch trở nên bổ ích hơn và thú vị hơn cho du khách và việc đầu tư khai thác loại hình du lịch này có nhiều tiềm năng mang lại hiệu quả cao. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Mô hình du lịch nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và không gian cho phù hợp với tình hình. Khi xem xét độ dài thời gian của một chuyến du lịch về vùng nông thôn, phần lớn các câu trả lời của khách đều là 2 đến 3 ngày. Thời điểm tổ chức du lịch của du khách có ảnh hưởng lớn đến kết quả và hiệu quả kinh doanh du lịch mà trong du lịch học người ta gọi là tính thời vụ. Ở du lịch nông thôn, lịch thời vụ còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều vì nó liên quan đến thời tiết, khí hậu, mùa màng, hoạt động thường nhật của vùng nông thôn. Du khách đến vùng du lịch nông thôn vào mùa cây trái, mùa lúa chín thì sẽ thấy thú vị hơn những mùa cây ngưng trái hoặc đồng lúa vừa mới gặt xong.
Du lịch nông thôn không cạnh tranh với các loại hình du lịch khác, sự phát triển của các ngành khác là tiền đề cho du lịch phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trong ngành thì rất lớn: thu nhập bình quân của nông dân vẫn còn rất thấp. Hầu hết nông dân không có đủ việc làm, vì có ít đất đai (trung bình có 0,5 ha/hộ), ruộng đất lại bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Cơ khí hóa nông nghiệp phát triển rất chậm. Nhìn chung, thế giới càng công nghiệp hóa càng thừa lao động, bởi vì công nghiệp và dịch vụ sử dụng lao động ít hơn nông nghiệp. Nói cách khác, công nghiệp và dịch vụ không thể “nuốt” hết số lao động dôi dư. Thừa lao động nông nghiệp là một trong các kết quả của quá trình phát triển. Ở nước ta, nông thôn thừa khoảng 50% lao động, nhưng lại không phải là kết quả của sự phát triển công nghiệp, mà do họ làm nông nghiệp thì không có đất, không làm nông nghiệp thì chẳng biết dùng họ vào việc gì.
Xuất khẩu lao động cũng chỉ là giải pháp tình thế. Hiện giờ Âu châu hạn chế nhận lao động nước ngoài. Trung Cận Đông, Hàn Quốc và Malaysia bình thường vẫn nhận nhiều lao động di cư vì họ đang có nhu cầu phát triển, nhưng nay khủng hoảng, họ cũng gặp khó khăn. Tương tự, có nhiều việc phải làm để cải thiện giống cây trồng, vật nuôi và áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại. Do vậy, nếu so sánh với nông nghiệp của các nước Đông Nam Á khác như Thái Lan và Phi-lip-pin thì nông nghiệp Việt Nam không hiệu quả và không có tính cạnh tranh. Sự tiếp cận của Việt Nam với thương mại thế giới ngày càng sâu rộng làm cho việc khắc phục những thiếu sót này là đòi hỏi rất cấp thiết [22].
Dễ phát sinh những hình thái biến tấu của du lịch nông thôn. Ở Việt Nam du lịch nông thôn với nhiều tên gọi khác nhau. “Du lịch trang trại”,“Du lịch nông trại”, “Du lịch nông nghiệp”, “Du lịch đồng quê”, “Du lịch miệt vườn”, “Du lịch sông nước”, “Du lịch làng bản”, “Du lịch làng nghề”. Mỗi tên gọi đều phản ánh yếu tố cốt lõi để tạo ra đặc trưng của từng thể loại du lịch trong loại hình du lịch nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, DLNT rất dễ bị đi chệch hướng do sự thiếu quan tâm, tìm hiểu rõ về cơ sở lý luận của loại hình du lịch này.
Có tính liên ngành và liên vùng cao. Bản chất của Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng và xã hội hóa cao. Liên kết chặt chẽ các thành phần liên quan đến hoạt động du lịch (Công ty lữ hành – chính quyền địa phương – người dân – khách du lịch), hợp tác giữa các làng quê để thu hút khách du lịch là góp phần xây dựng nông thôn mới. Chi tiêu du lịch có tác động quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế. Giá trị gia tăng tạo ra trong du lịch được phân bổ cho toàn bộ chuỗi cung cấp sản phẩm du lịch. Chất lượng của chuỗi sản phẩm du lịch phụ thuộc vào từng nhà cung cấp.
1.1.3. Phân biệt Du lịch nông thôn với Du lịch sinh thái và du lịch nông nghiệp Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Thời gian gần đây, qua thông tin báo đài, các cụm từ “du lịch nông nghiệp” (DLNN), “du lịch nông thôn” (DLNT) được nhắc đến nhiều và dễ khiến người đọc chúng ta hiểu lầm. Để phân biệt được thế nào là du lịch nông nghiệp và thế nào là du lịch nông thôn là điều làm cho nhiều người trong chúng ta không ít băn khoăn.
Trước hết, ta cần phải phân tích rõ những điểm khác biệt giữa DLNN và DLNT.
Sau đây là bảng tóm tắt những điểm khác biệt giữa DLNN và DLNT:
Các điểm khác biệt | Du lịch nông nghiệp | Du lịch nông thôn |
Loại hình du lịch | Là một loại hình du lịch đơn lẻ | Tổng hợp liên kết nhiều loại hình du lịch ở địa phương |
Tài nguyên du lịch | Tài nguyên sản xuất nông nghiệp | Tài nguyên thiên nhiên và nhân văn địa phương và tài nguyên các loại hình du lịch khác ở địa phương |
Chủ thể tham gia du lịch | Nông dân | Chủ cơ sở và cộng đồng dân cư |
Không gian du lịch | Trang trại, đồng ruộng | Tất cả những nơi có tài nguyên du lịch ở địa phương |
Xung đột lợi ích | Có thể gây xung đột lợi ích với cộng đồng | Giải quyết xung đột lợi ích với cộng đồng. Nhấn mạnh vai trò của chính quyền địa phương |
Nguồn: Bùi Thị Lan Hương – Du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn
Không chỉ có sự nhầm lẫn với DLNN mà DLNT còn có lúc gọi sang là DLST. Du lịch sinh thái và du lịch nông thôn cùng là một hướng để đa dạng hóa hoạt động kinh tế nông thôn, đưa khách về vùng thôn quê, tham quan thắng cảnh và thưởng thức những đặc sắc văn hóa, tiếp xúc với người dân ở vùng đó. Thực ra thì DLNT có trước DLST nhưng lại ít được biết đến hơn. Vì đó chỉ là nguồn thu nhập thêm của các trang trại, còn du lịch sinh thái phát triển mạnh đến mức trở thành một hiện tượng của ngành du lịch. Vậy ta cần đặt ra câu hỏi: Tại sao DLST lại có thể phát triển mạnh mẽ, đúng hướng mà DLNT chưa làm được?
Nói tới DLST là: “tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hay đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra và tạo ra lợi ích cho người dân địa phương tham gia tích cực” [4](Ceballos – Lasairain, 1996, tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra – trang 22).
Trong hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển Du lịch sinh thái” (9/1999) đưa ra định nghĩa xác thực hơn như sau: “DLST là loại hình đưa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương” [4] (trang 22).
Du lịch sinh thái ra đời trong bối cảnh hình thành những loại hình du lịch có trách nhiệm với môi trường. Nó đã thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức bảo tồn thiên nhiên và của nhiều quốc gia thế giới. Du lịch sinh thái phát triển mạnh đến mức trở thành một hiện tượng của ngành du lịch. Không dừng lại ở đó, tiếp nối các loại hình du lịch có trách nhiệm với môi trường là các loại hình du lịch có trách nhiệm với cộng đồng ra đời, từ đó chúng ta có các khái niệm du lịch chống đói nghèo, du lịch bản địa, du lịch cộng đồng… Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
1.1.4. Các nguyên tắc phát triển du lịch nông thôn
Từ những đặc điểm trên, phát triển du lịch nông thôn phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính công bằng cho các chủ thể tham gia
- Đem lại lợi ích cho người dân địa phương và phát huy nội lực ở từng địa phương.
- Bảo tồn, phát huy vốn di sản và bảo vệ môi trường.
- Luôn đổi mới và tạo sự khác biệt
- Tăng cường mối liên kết theo chiều dọc và chiều ngang để làm phong phú thêm sản phẩm.
- Giữ gìn bản sắc, xây dựng hình ảnh đẹp trong lòng du khách.
1.1.5. Đặc trưng của du lịch nông thôn
- Điều kiện tự nhiên: Các vùng nông thôn còn đậm đà hồn quê, là những nơi có không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng. Du khách đến với các vùng nông thôn nước ta vì vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên và văn hoá nguồn cội không lai tạp. Vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên hoặc vẻ đẹp văn hoá mà bị suy giảm thì khó thu hút được họ.
- Điều kiện về môi trường: Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về việc hạn chế hoặc tuyệt đối không dùng các loại thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp đối với cây trồng cũng như chất phụ gia trong thức ăn dành cho gia súc, gia cầm.
- Điều kiện con người: Người dân ở các làng quê hiền lành, cởi mở và hiếu khách.
- Điều kiện an ninh: Khách du lịch đặc biệt coi trọng vấn đề an toàn trong quá trình du lịch. Vì vậy những làng quê họ lựa chọn làm điểm đến du lịch của mình phải là vùng có tình hình an ninh trật tự tốt.
- Các yếu tố khác: Đến làng quê, du khách không chỉ hoà mình vào cuộc sống của người nông dân mà còn có thể tham gia các lễ hội và tham quan các di tích lịch sử của địa phương vừa là nghỉ dưỡng vừa là khám phá.
1.1.6. Các hình thức du lịch nông thôn
5 hình thức du lịch nông thôn: ( Nguyễn Thị Bích Huyền – Phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình – Luận văn thạc sĩ Du lịch 2020 – Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn)
- Du lịch tự nhiên, mang tính giải trí.
- Du lịch văn hoá, quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa phương.
- Du lịch sinh thái quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cũng như phúc lợi, giá trị văn hoá của người dân địa phương.
- Du lịch làng xã, trong đó du khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng được hưởng các lợi ích kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại.
- Du lịch nông nghiệp, trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống, không phá hoại, hay làm giảm năng suất cây trồng của địa phương.
1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Ở Việt Nam, tính đến năm 2018, có 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 90% diện tích lãnh thổ Việt Nam. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Người dân Việt Nam dù sống khắp nơi trên thế giới vẫn giữ được nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam.
Nông nghiệp là hoạt động chính của kinh tế nông thôn, chiếm 68% tổng giá trị sản phẩm ở nông thôn. Nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất gạo hiện nay đang đóng góp nhiều cho xuất khẩu. Tuy nhiên thu nhập bình quân của người nông dân vẫn còn rất thấp. Các ngành dịch vụ tương đối yếu ở nông thôn do khó khăn trong vận chuyển và nhu cầu của địa phương thấp.
Làng quê Việt Nam ngày nay tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhiều làng vẫn giữ được những nét truyền thống lâu đời. Nhắc đến làng quê Bắc Bộ là ta nhớ ngay đến hình ảnh của luỹ tre, đình làng, cây đa, cổng làng. Những hình ảnh đó đã in đậm trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam.
Bất kỳ một làng quê nào trên đất nước Việt Nam cũng có một ngôi đình. Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi thay đổi trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc đình làng mang đậm dấu ấn văn hoá, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống. Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung là đình chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hoá. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh hưởng văn hoá Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa; còn đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam, là nơi để thờ Thành Hoàng làng và những người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi cân bằng phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng. Vào những ngày lễ, tết, dân làng lại thắp hương tế lễ cầu mong Thành Hoàng làng và trời đất cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Đây là lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Tuy đình là của dân làng nhưng thần không hẳn là người của làng. Vì người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thuỷ, nên thờ và tôn kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần nước (thần Tản Viên)…, ở Phù Ninh (Phú Thọ) thờ thần Đá Trắng, vùng đồng bằng thờ thần cá, thần rắn… Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối tạo thành một nền văn hoá hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin, một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng xã cộng đồng Việt Nam. Có lẽ những đình cổ nhất nước ta vẫn là những ngôi đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như: đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh. Riêng đình Lỗ Hạnh, nguyên xưa là chữ Nhất nhưng qua các đời sau tu bổ đã thêm hậu cung nên đình thành chữ Đinh. Theo quan niệm kiến trúc, đình là một công trình kiến trúc công cộng, rộng mở chào đón bất kỳ người con nào của đất Việt. Với ý nghĩa như thế, đình làng Việt Nam chính là nơi không phân biệt giàu sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ nhất văn hoá hiện thực của đời sống nhân dân. Mái cong của đình không giống bất cứ mái cong nào của vùng Đông Nam Á, kể cả Nhật, Trung Hoa và Thái Lan, vì góc đao của đình uốn cong và vút cao do một hệ thống cấu trúc đặc biệt có tên gọi riêng là tâu đao lá mái, không do vôi vữa đắp thành. Nhìn lại các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Cao Thương (Hà Bắc), Phù Lão, Chu Nguyên, đình Hương Lộc, Phùng Thượng, đình Thổ Tang, Ngọc Canh để thấy rằng, đình là một khối điêu khắc trong không gian, đầy chi tiết tinh tế, nhưng cũng đầy tính khoa học kiến trúc. Nói về đường nét, đình là nơi hội tụ những mô típ trang trí tuyệt hảo, gồm nhiều xu hướng: hiện thực, cách điệu, cách điệu và đồ hoạ. Sân đình là nơi tổ chức hội làng, trong hội làng dân làng thường diễn Hèm. Theo từ điển Tiếng Việt, Hèm có nghĩa là trò diễn lại sinh hoạt sự tích của vị thần thờ trong làng, những điều kiêng kỵ của thần… Việc Việt hoá, dân dã hoá vị “Thành Hoàng” bằng cách triều đình “tấn phong” cho các thần linh của thôn xã chức Thành Hoàng làng đã góp phần thúc đẩy ngôi đình dần chiếm địa vị trung tâm sinh hoạt trong xã hội nông thôn Việt Nam để tới nay đình được coi là biểu tượng quê hương. Nhìn chung văn hoá đình Việt Nam có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã hội biết tổng hợp dung hoà mọi nền văn hoá khác thành một nét văn hoá riêng nhằm phục vụ an ninh cho dân tộc mình, trong đó yếu tố chủ yếu vẫn là thờ cúng những người có công với xã, người anh hùng dựng lập nước và bảo vệ đất nước.
Từ bao đời nay, người Việt cũng coi cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là “cây đa, cây đề”, biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi khi là cả một vòng đời người.
Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ thường ở đầu làng, cuối làng, giữa làng và ở bên cạnh các di tích. Cuộc sống sinh hoạt của làng diễn ra sôi động xung quanh gốc đa. Với người dân quê, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không có sự phân biệt ngôi thứ. Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái trong làng. Không chỉ có vậy, cây đa làng Việt còn là biểu tượng tâm linh của con người. Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều vị trí khác nhau nhưng hầu như nó không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Tục ngữ có câu:
- “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề” Hay:
- “Cây thị có ma, cây đa có thần”
Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn, con người khi bước đến di tích cũng cảm thấy được thư thái hòa đồng hơn với thiên nhiên. Cây đa được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường được dân chúng thắp hương chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu cho những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân làng.
Như vậy, cây đa luôn là biểu tượng đẹp với hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực của biểu tượng: vừa hiện hữu, vừa tiềm ẩn, huyền bí, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa mang đậm yếu tố tâm linh. Phải chǎng chính sự kết hợp này đã tạo nên biểu tượng cây đa có sức sống bền lâu trong vǎn học dân gian, vǎn thơ bác học và trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Ở những làng quê Việt Nam, đặc trưng với những cây đa, bến nước, con đò, hay với những cánh cổng làng đơn sơ cổ kính. Mỗi cái cổng làng đều có một nét văn hoá riêng, tùy theo đặc điểm làng đó. Có làng giàu, có làng khoa bảng, có làng nghề… tất cả những cái hay cái đẹp đều được các vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng. Những cánh cổng ấy thường được gọi với cái tên làng, và tên làng được lấy theo đặc trưng của làng đó, hay một sự kiện, một di tích lịch sử …. Ví dụ: làng lụa Vạn Phúc ( Quận Hà Đông – Hà Nội ). Ở mỗi làng thường chỉ để một hoặc hai lối ra vào và cổng làng thường được dựng ở đây để làm ranh giới giữa các làng. Đối với những người xa quê đã lâu, khi về quê hương, còn cách khoảng 2, 3km là đã có thể nhìn thấy vòm cây đa và biết rằng mình đã sắp sửa về đến làng. Nhưng về tới gần hơn, qua cổng làng mới chính thức bước vào mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình, và coi như đã về tới nhà mình vì người trong làng thường đối xử với nhau như trong một gia đình. Cổng làng thường thấy nhiều ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình…, chủ yếu là những vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã. Đối với mỗi người dân Việt Nam, cổng làng đã trở nên rất thân thuộc.
Cổng làng thường là nơi hẹn hò của các đôi trai gái. Và với mỗi người con gái khi về làm dâu, bước qua cổng làng về nhà chồng, trở thành một thành viên trong cộng đồng dân cư của làng.Với niềm tin, suy nghĩ giữ làng tức là giữ nước, cổng làng là nơi đã chứng kiến biết bao thế hệ thanh niên đã không tiếc hi sinh than mình để gìn giữ cánh cổng làng. Cánh cổng làng là bộ mặt những làng quê Bắc bộ ngày nay đã biến đổi nhiều trước làn sóng đô thị hóa ồ ạt. Những cánh cổng làng có vẻ như không còn phù hợp với những con đường bê tông mở rộng. Nhưng trong một góc tâm thức nào đó của mỗi người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một biểu tượng thân thuộc và là đặc trưng của mỗi làng quê, làng nghề của miền đồng bằng bắc bộ. Hơn nữa, cổng làng là một trong những biểu tượng văn hoá, bản sắc văn hoá của làng quê ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam.
Các làng xã ở vùng đồng bằng Nam Bộ khác hẳn so với các làng xã ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam Bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây:
- Làng không có lũy tre như là sự phân cách giữa làng này và làng khác nữa.
- Làng không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi, có làng được lập một cách nhanh chóng, nhưng cũng có làng tan rã nhanh chóng.
- Giao thương buôn bán phát triển không còn bị gò bó ở tình trạng tự cung tự cấp.
- Tính tình người dân Nam bộ cũng phóng khoáng hơn, dễ chấp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài.
Chính vì những đặc điểm đó mà trong thời kỳ kinh tế thị trường, người dân ở các tỉnh miền Nam nhanh chóng thích nghi và phát triển kinh tế nhanh hơn các tỉnh miền Bắc.
1.3. Sự ra đời và phát triển Du lịch nông thôn Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
1.3.1. Sự ra đời và phát triển Du lịch nông thôn trên thế giới
Ở Pháp, Bộ Du lịch đã phát triển đa dạng hóa các loại hình du lịch (như du lịch bãi biển và du lịch nông thôn) để thu hút du khách nước ngoài. Trong thời gian tới, tại Pháp có khoảng 300 điểm ở các vùng nông thôn sẽ được lựa chọn để thực hiện các dự án lắp đặt các thiết bị, phát triển các phương tiện giao thông công cộng nhằm thu hút khách du lịch quốc tế.
Ở Trung Quốc, từ năm 1990, chính phủ đã tuyên bố một chương trình du lịch nông thôn nhằm mục đích chống đói nghèo tại một số tỉnh như Vân Nam, Quảng Đông… Các điểm du lịch tại những khu vực nông thôn rộng lớn của Trung Quốc hằng năm tiếp đón 300 triệu khách du lịch, đạt doanh thu 40 tỉ NDT (5,13 tỉ USD). Theo các số liệu chính thức của Tổng cục Du lịch Trung Quốc, 30 điểm du lịch nông thôn quanh Thượng Hải đã đón 3,91 triệu khách du lịch trong năm 2015, tăng 86% so với năm 2014; hằng năm có khoảng 60 triệu du khách từ khu vực thành thị chọn đến các vùng nông thôn trong “3 tuần nghỉ vàng” vào tháng 5, tháng 10 và thời gian diễn ra Lễ hội Mùa xuân.
Ở Nhật Bản, từ năm 1995, Bộ Nông Lâm Thủy sản đã thiết lập chương trình nhà nghỉ nông thôn khắp trên đất nước. Các nhà nghỉ nông thôn này chủ yếu do các nông hộ cá thể hay dựa vào trang trại. Du khách được phục vụ các dịch vụ ăn nghỉ tại các nhà nghỉ nông thôn hoặc tham gia các hoạt động hằng ngày ở đây như trồng trọt, gặt hái, câu cá.
Ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn bắt đầu vào năm 1984 từ một dự án của chính phủ nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Nhiều làng quê Hàn Quốc trước đây vốn nghèo nàn, nhờ chương trình này mà bộ mặt đã thay đổi hẳn, thu nhập của nông dân tăng lên đáng kể. Có đất đai màu mỡ và khí hậu phù hợp cho canh tác, dân làng đồng lòng chung sức với ý tưởng xây dựng một vùng nông thôn theo đúng nghĩa của nó. “Chương trình trải nghiệm thực tế ở nông thôn” cứ thế được truyền miệng từ người này sang người khác và bắt đầu cuốn hút du khách thành thị. Trưởng ban tài vụ làng Lee Sang-taek cho biết: “Khách tới thăm làng năm ngoái là khoảng 28 nghìn người. Nhiều người đã trở thành khách quen. Có người một năm tới đây những mấy lần. Gần như 30-40% là khách thăm lại nhiều lần. Chương trình trải nghiệm canh tác nông nghiệp được nhiều người biết đến, đặc biệt là thu hoạch nông sản. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
- Buraemi luôn được xếp vào Top 5 trong các làng trải nghiệm trên toàn quốc.
Canh tác thân thiện với môi trường cũng như các chương trình trải nghiệm theo mùa đã trở thành nguồn thu nhập ổn định cho dân làng ở đây. Người phụ trách các chương trình này không ai khác chính là những bậc cao niên trong làng. Ông Lee Gi-yeol giải thích tiếp: “Chúng tôi lên kế hoạch làm nông nghiệp, người trồng dâu, người trồng cà chua, rồi ngô, khoai tây, khoai lang… để tránh bị trùng nhau. Người không theo được các việc này thì nuôi con chạch, hay mùa đông thì làm ở bãi trượt tuyết ván… Các bà già sống một mình thì chúng tôi khuyên trồng khoai lang. Chúng tôi phân bổ công việc có thu nhập đều cho tất cả mọi người.
Thái Lan, từ lâu chính phủ đã có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển du lịch nông thôn theo mô hình các trang trại hoặc các khu làng khép kín, có đầy đủ các dịch vụ phục vụ du khách. Từ năm 1997, du lịch nông thôn đã phát triển khá nhanh, thu hút nhiều du khách nội địa và quốc tế.
Ngoài ra, du lịch nông thôn còn có ở hầu hết các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ca-na-đa, Lat-vi-a, Tây Ban Nha, In-đô-nê-xi-a, Nê-pan, Ấn Độ…
Đáng chú ý là Anh, Pháp, Đức và Áo là những quốc gia thống trị thị trường du lịch nông thôn toàn cầu với hàng ngàn doanh nghiệp kinh doanh loại hình du lịch này ở mỗi nước.
Do những điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên khác nhau, nên hình thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh thổ. Chẳng hạn, ở Ôxtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu dựa vào các trang trại lớn; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn; ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại nhỏ; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm sở thích của cộng đồng; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng. Phát triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường; giảm nghèo thông qua phát triển kinh kế nông thôn, phát triển ngành, nghề; giúp phát triển du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và sử dụng sản phẩm địa phương, giúp phát triển nông nghiệp sinh thái.
1.3.2 Bài học từ mô hình Du lịch nông thôn thành công ở một số nước Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Mô hình DLNT trên thế giới hiện nay phát triển khá mạnh mẽ, song để thực sự thành công và mang lại lợi ích cho cộng đồng thì không phải là nhiều.
Người Pháp làm giàu từ nông thôn, nông nghiệp tìm được chỗ đứng trong văn hóa – du lịch, khiến nông thôn thực sự trở nên sống động… Nông dân Pháp đang tham gia mạnh mẽ vào việc đa dạng hóa du lịch. Họ quan tâm tới môi trường, xã hội, văn hóa tín ngưỡng thuộc đời sống tinh thần cộng đồng… Các nông trại đón khách dưới mọi hình thức, thể hiện một nền nông nghiệp mở cửa cho các thành phần xã hội khác, thường khao khát không gian và phát minh, đồng thời góp phần bảo tồn di sản và tham gia vào sinh hoạt kinh tế, văn hóa – xã hội của nông thôn. Những địa phương có tham vọng phát triển du lịch phải cung cấp được nhiều kiểu ăn ở và hoạt động đa dạng có thể thu hút các kiểu khách hàng khác nhau. Họ xây dựng các làng – nghỉ ngơi, các nhà ở mang tính truyền thống lưu truyền nhiều thế hệ ở nông thôn, các hiệu ăn, các nông trại -quán ăn, các khách sạn, các nơi cắm trại… Khung cảnh khác nhau của các địa phương tăng thêm tính đa dạng của du lịch nông thôn.
Ở Pháp có nhiều mạng lưới du lịch nông thôn như Mạng lưới Nhà ở nước Pháp (Gites de France), Mạng lưới Đón tiếp nông dân (Acceuil paysan), Chào đón ở nông trại (Bienvenue à la ferme)… Mạng lưới này ở khắp nước Pháp. Ngoài ra phải kể đến sự kết nối của các Hội nghề nghiệp, Hội Ái hữu giữa Pháp và một quốc gia khác, Tổ chức quan hệ quốc tế của các chủ trang trại… cũng tham gia vào việc quảng bá du lịch- văn hóa Pháp, văn hóa địa phương.
Việc gắn bó mật thiết với văn hóa, kinh tế – xã hội, môi trường, du lịch nông thôn Pháp có nhiều tác dụng (kể cả việc nâng cao đời sống tinh thần nông thôn) mà Việt Nam có thể tham chiếu trong việc tổ chức du lịch văn hóa bài bản ở nước mình. Tại Việt Nam, quy trình du lịch – văn hóa – con người địa phương – thiên nhiên, nếu phát triển đúng hướng sẽ làm giàu cả đời sống vật chất lẫn văn hóa tinh thần ngay chính đa số vùng nông thôn.
Hàn Quốc phát triển nông thôn qua phong trào Saemaul Undong. Khi cư dân nông thôn giảm đi, lao động nông thôn già đi cộng với chi phí sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng và khoảng cách thu nhập nông thôn – thành thị ngày càng nới rộng, nhu cầu phát triển nông thôn đứng trước thách thức vô cùng lớn. Hàn Quốc giải bài toán này bằng giải pháp phát triển du lịch làng – du lịch nông thôn, kéo gần thành thị với cuộc sống nông thôn. Dareng-I và Buraemi là 2 trong tổng số 141 làng mà Cơ quan Phát triển Nông thôn Hàn Quốc (RDA) thực hiện thí điểm thông qua dự án Khám phá làng nông thôn truyền thống. Mục đích của dự án là lôi kéo người dân thành phố về khám phá cuộc sống nông thôn. Dù đơn vị nào tổ chức thì các chương trình khám phá cuộc sống làng, trải nghiệm đời sống nông thôn đều có nội dung giống nhau. Khách du lịch cùng ăn cùng ở với nông dân, cùng tay cày tay cuốc ra đồng, cùng trồng cây ươm giống… Đến các làng nghề, họ cùng tay kim tay chỉ may quần áo truyền thống, cùng nhào đất nặn bình nặn tượng với nghệ nhân làng nghề… Việt Nam có nhiều làng nông nghiệp, nhiều nghề truyền thống ở nông thôn, việc tạo ra trải nghiệm cho du khách là một nét cần khai thác để phát triển du lịch nông thôn ở đây.
Tờ “Nông dân Nhật báo” của Trung Quốc cho biết, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trung Quốc Cao Hồng Tân vừa qua đã có chuyến khảo sát tình hình phát triển du lịch nông thôn kết hợp nghỉ dưỡng tại tỉnh Hà Bắc và thành phố Bắc Kinh. Ông Cao nói rằng, phát triển du lịch nông thôn kết hợp nghỉ dưỡng có ý nghĩa quan trọng đối với mở rộng chức năng nông nghiệp, thúc đẩy tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới.
Loại hình du lịch nông thôn kết hợp với nghỉ ngơi, thư giãn ở Trung Quốc xuất hiện tại tỉnh Hà Bắc và ngoại ô Thủ đô Bắc Kinh từ những năm 90 của thế kỷ trước. Hiện loại hình du lịch này đã trải qua 4 giai đoạn, như tự phát, phát triển bước đầu, phát triển khá nhanh và đi vào nền nếp. Đến nay, du lịch nông thôn kết hợp nghỉ dưỡng đang trong xu thế phát triển nhanh chóng.
Nhìn ra thế giới, mô hình DLNT ở các nước đều thành công và mang lại lợi ích kinh tế cao cho cộng đồng, Việt Nam cần học hỏi và tiếp thu đồng thời cũng kết hợp những biện pháp sao cho phù hợp với tiềm năng của đất nước mình: như khuyến khích sự đa dạng hóa môi trường – không gian ở mỗi vùng nông thôn; kết hợp du lịch nông thôn với nghỉ dưỡng hay gia tăng trải nghiệm thực tế cho du khách… Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
1.3.3. Sự xuất hiện của DLNT tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong gần 30 năm qua, nông nghiệp, nông dân, nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên.
Những năm qua, ngành nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, giá trị và giá trị sản lượng nông nghiệp liên tục tăng, chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng gia tăng sản phẩm đã qua chế biến, giảm cung cấp sản phẩm thô, từ đó an ninh lương thực trong nước được đảm bảo, nhiều sản phẩm nông nghiệp trở thành những hàng hóa xuất khẩu chủ đạo, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như gạo, thủy hải sản, cà phê, cao su… Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nông dân được cải thiện, công bằng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát triển. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại, hệ thống kết cấu hạ tầng cũng như mạng lưới các tổ chức kinh tế hoạt động nông thôn ngày càng phát triển.
Song, cũng như các nước thực hiện quá trình công nghiệp hóa, ở nước ta, quá trình này thường đi kèm những thay đổi không nhỏ về các mặt kinh tế-xã hội; và nông nghiệp, nông dân, nông thôn thường bị thiệt thòi, chịu nhiều hy sinh. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn là khu vực chậm phát triển.nhất trong nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính chất của nền sản xuất nhỏ, manh mún, sử dụng không hiệu quả dẫn đến gây lãng phí các nguồn lực quý giá cho phát triển nông nghiệp. Thu nhập của người nông dân tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với khu vực thành thị, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi diện nghèo đói, nhưng thực tế thu nhập chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo đói không đáng kể. Người dân nông thôn không có nhiều cơ hội tiếp cận với các thành tựu của phát triển, các dịch vụ cơ bản như vệ sinh, môi trường, y tế, giáo dục… cũng chưa được cung cấp đầy đủ. Hệ thống hạ tầng nông thôn còn lạc hậu, chất lượng xuống cấp nghiêm trọng,…
Thật ra, ở nông thôn, có rất nhiều việc để làm nhưng không ai giúp nông dân làm, không ai hướng dẫn cho họ cả. Du lịch nông thôn ở Việt Nam đã xuất hiện từ lâu song hưởng ứng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Chiến lược phát triển du lịch 2010 – 2019 thì mô hình được nhân rộng ra ở nhiều vùng: đồng bằng sông Cửu Long, Nam trung bộ… nhưng hình thức vẫn chưa r ràng, mới chỉ dừng lại ở loại hình nghỉ dưỡng, khám phá….
1.4. Thực trạng phát triển Du lịch nói chung và Du lịch nông thôn ở nước ta hiện nay Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
1.4.1. Thực trạng phát triển của ngành du lịch Việt Nam.
Ở nước ta, nhờ thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế, trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt nam đã khởi sắc và ngày càng có tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
- Số lượng khách tăng nhanh trong giai đoạn từ năm 2019 đến 2023.
- Bảng 1: Số lượng khách du lịch hàng năm (nội địa, quốc tế)
Biểu đổ gia tăng số lượng khách du lịch Việt Nam
Trong vòng 05 năm, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng từ 5,000,000 (năm 2019) đến 7,874,312 (năm 2023) tăng gấp 1,57 lần. Theo các chuyên gia, sở dĩ khách quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh; trong đó lượng khách Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, khách đến từ các nước ASEAN… tăng rõ rệt là nhờ các chính sách xúc tiến du lịch vào các thị trường trọng điểm của ngành du lịch Việt Nam đã phát huy tác dụng.
Bên cạnh đó, nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và nhiều sự kiện trọng đại khác của đất nước, các công ty du lịch đã có nhiều chương trình quảng bá du lịch, khuyến mại ấn tượng nhằm thu hút khách du lịch đến với Việt Nam và Hà Nội.
Đặc biệt, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng đột biến là nhờ lợi thế năm 2019 Việt Nam là nước chủ nhà ASEAN; nhiều hội nghị quan trọng trong ASEAN đã được tổ chức tại Việt Nam trong năm 2019. Hệ thống di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận ngày càng phong phú. Nhiều điểm du lịch được các tổ chức uy tín bình chọn là địa chỉ yêu thích của đông đảo du khách quốc tế. Trong đó, điển hình như Vịnh Hạ Long được trang web BuzzFeed của Mỹ bình chọn là 1 trong 25 địa danh có vẻ đẹp khó tin nhất trên thế giới; Hà Nội được TripAdvisor bình chọn là 1 trong 10 thành phố thu hút khách du lịch hàng đầu trên thế giới năm 2023; Việt Nam được Tạp chí du lịch Travel & Leisure của Mỹ bình chọn đứng thứ 6 trong số 20 điểm đến tốt nhất dựa trên độ an toàn và thân thiện của người dân dành cho khách du lịch lẻ; Hang Sơn Đoòng được Tạp chí du lịch Business Insider của Mỹ bình chọn là 1 trong 12 hang động ấn tượng nhất thế giới và Tạp chí National Geographic phiên bản tiếng Nga bình chọn là tour du lịch mạo hiểm đẳng cấp nhất thế giới của năm 2023; Tuyến du lịch trên sông Mê Kông (đoạn Việt Nam-Campuchia) được báo Telegraph (Anh) xếp thứ 4/5 tuyến du lịch trên sông hàng đầu châu Á… Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lữ hành, khách sạn của Việt Nam cũng đã được các tổ chức, website tiêu dùng vinh danh do chất lượng dịch vụ xuất sắc của mình. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Thu nhập du lịch mang lại cho xã hội ngày càng lớn. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập: năm 2019 thu nhập du lịch mới đạt khoảng 96 ngàn tỷ đồng thì đến năm 2023, con số đó đạt 230 ngàn tỷ đồng, gấp trên 2,39 lần.
- Bảng 2. Thu nhập du lịch
- Nhân lực cho ngành du lịch:
- Bảng 3. Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam
Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã có những cố gắng trong hình thành đội ngũ cán bộ, quản lý, tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường kiểm tra chuyên ngành và liên ngành đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Quy mô tuyển sinh ngày càng tăng, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế; mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng (khoảng gần 40 trường), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề (hơn 30 trường) và nhiều trung tâm dạy nghề được hình thành và phát triển nhanh, đang được định hướng, quy hoạch và điều chỉnh hợp lý. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch được nâng cấp, xây dựng mới, trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại. Đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên – nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng đào tạo – tăng nhanh về số lượng, nâng dần về kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ và có trách nhiệm với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng từng bước được chuẩn hóa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên một bước, lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đã được hình thành; nguồn lực trong nước đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được tăng cường; nguồn lực bên ngoài được thu hút ngày một tăng, đến nay đã thu hút được trên 30 triệu USD cho phát triển nguồn nhân lực du lịch và sử dụng ngày một hiệu quả.
Những tiến bộ và cố gắng nêu trên của công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đội ngũ lao động của Ngành. Năm 2019, toàn ngành mới có khoảng 460,000 lao động trực tiếp, đến năm 2023 đã tăng lên khoảng 550,000 lao động trực tiếp (tăng 1,19 lần). Lao động gián tiếp là khoảng 1,012,000 (năm 2019) tăng lên là 1,200,000 (năm 2023) tăng gấp 1,18%.
Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của cả 6 thành phần kinh tế (nhà nước; tập thể; cá thể, tiểu chủ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước; 100% vốn nước ngoài). Trước Đại hội Đảng lần thứ IX, trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành chỉ có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được phép hoạt động, nay mở rộng cho cả doanh nghiệp tư nhân. Các địa phương có số doanh nghiệp lữ hành quốc tế nhiều nhất là Hà Nội (148), Thành phố Hồ Chí Minh (144), Quảng Ninh (17), Đà Nẵng (14) và Hải Phòng (8); hơn 10 nghìn doanh nghiệp lữ hành nội địa. Số lượng cơ sở kinh doanh vận chuyển du lịch (tư nhân, cổ phần và hợp tác xã chiếm tỷ trọng lớn) chưa có số liệu thống kê, nhưng xu hướng phát triển rất mạnh. Ngoài ra còn có khoảng hàng nghìn hộ tư nhân kinh doanh du lịch hoạt động ở hầu hết các địa phương cả nước.
Về dịch vụ lưu trú cũng có sự gia tăng mạnh mẽ.
Bảng 5. Số lượng cơ sở lưu trú Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch Việt Nam – Hà Văn Siêu khẳng định: “Mục tiêu của Dự thảo chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là xây dựng một nền du lịch xanh, bền vững và có trách nhiệm, hạn chế tối đa tình trạng bề nổi của 10 năm thực hiện chiến lược du lịch 2010-2019, khắc phục những thiếu sót, hạn chế sự thiếu đồng bộ về cơ sở vật chất, quy mô đầu tư manh mún, quy hoạch chồng chéo, liên kết lỏng léo, nhân lực yếu kém, thiếu nhận thức du lịch của người dân, không chú trọng bảo vệ môi trường, sản phẩm du lịch thiếu đặc thù, không đáp ứng được yêu cầu…
Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành Du lịch còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập; nhiều khó khăn, trở ngại vẫn chưa được giải quyết thoả đáng; chưa có bước phát triển đột phá để khẳng định thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn; hiệu quả phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước, phát triển nhưng vẫn ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu bền vững. Xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu, giao lưu mở rộng và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nền kinh tế tri thức trên thế giới đang tạo những cơ hội to lớn đồng thời cũng là thách thức đối với phát triển Du lịch Việt Nam.
Chất lượng dịch vụ: Lâu nay ngành du lịch Việt Nam thường đánh giá sự phát triển của mình dựa trên số lượng du khách gia tăng mà chưa chú ý đánh giá việc tăng chất lượng dịch vụ. Trong khi chất lượng mới là yếu tố giúp ngành du lịch phát triển bền vững và đạt được doanh thu cao. Để 70% du khách đến Việt Nam không có ý định quay lại như điều tra mới đây của Tổng cục du lịch, thì khi yếu tố may mắn qua đi, ngành du lịch Việt Nam sẽ khó giữ được lượng khách tăng như hiện nay, thậm chí là trở lại mức cũ.
Qua việc khảo sát mức độ hài lòng của du khách, có thể thấy chất lượng du lịch của chúng ta còn ở mức rất thấp. Vẫn biết việc cải thiện chất lượng không phải là việc ngày một ngày hai, nhưng với xuất phát điểm thấp như thế mà tốc độ tăng trưởng chất lượng không có gì bứt phá thì bao giờ ta mới cạnh tranh được với các nước trong khu vực?
Quảng bá chưa được rộng rãi: Lâu nay đầu tư vào du lịch Việt Nam vẫn bị đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng, chẳng hạn như ngân sách nhà nước dành cho việc quảng bá du lịch một năm chưa đến hai triệu USD, trong khi ở Thái Lan con số này là 150 triệu USD, Malaysia là 120 triệu USD.
Chưa có sự đầu tư: Riêng khu vực dịch vụ, giải trí, khu vực thu hút du khách tiêu tiền nhiều nhất lại thu hút ít khách như vậy quả là đáng tiếc bởi vì mức độ hài lòng của du khách về truyền thống văn hóa rất cao, mà truyền thống văn hóa phong phú là nguồn sáng tạo cho các sản phẩm lưu niệm, các chương trình biểu diễn nghệ thuật dân tộc, là vốn để khai thác trong lĩnh vực dịch vụ giải trí, mua sắm. Các điệu múa dân tộc, các truyền thuyết lịch sử của nước ta nếu được dàn dựng công phu trong một sân khấu hoành tráng thì chắc chắn hấp dẫn không kém chương trình Alangkarn của Thái. Vấn đề ở đây là không có ai đầu tư. Du lịch Việt Nam chỉ có thể là con gà đẻ trứng vàng nếu được đầu tư đúng mức và đúng cách.
Người làm du lịch chưa thực sự tâm huyết, cần phải nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của người làm du lịch là việc làm rất cần thiết, nhất là khi mức độ hài lòng của du khách đối với nhân sự quản lý và thực hiện trong ngành du lịch quá thấp.
1.4.2. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, khái niệm du lịch nông thôn vẫn chưa được nhắc đến trong các văn bản pháp lý mặc dù nước ta có tiềm năng lớn để phát triển du lịch nông thôn: Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Với phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm đồi, sông suối, biển đảo, hang động, hệ động, thực vật phong phú, vùng nông thôn với những làng quê cổ kính vùng Bắc Bộ, những nét văn hoá truyền thống đặc sắc, những vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn hoá tập tục của người xưa, những cánh đồng bát ngát, phì nhiêu ở Nam Bộ…là những điều kiện để nước ta phát triển du lịch nông thôn.
Người Việt Nam nhân hậu, thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình và giàu lòng mến khách cùng với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh, nhạy bén và giàu lòng quả cảm đã làm nên những nét văn hoá truyền thống đặc sắc Việt Nam từ chính tâm hồn mộc mạc ấy của mình.
Một tiềm lực đáng kể ở nhiều vùng nông thôn là truyền thống làm hàng thủ công, như sản xuất đồ gốm sứ, hàng dệt, đồng, da, sơn mài, mây tre và nón… Các mặt hàng này tuy có tiềm năng phát triển nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức.
Du lịch đã được thiết lập như là một nguồn thu nhập và là công việc đáng kể ở một vài vùng nông thôn cụ thể. Du lịch có tiềm năng mang lại lợi ích trên phạm vi rộng hơn nếu được phát triển một cách bền vững.
Ở Việt Nam, du lịch nông thôn đã xuất hiện ở Sa-Pa (Lào Cai), Khánh Hoà, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ nhưng mới chỉ dưới dạng những hoạt động mang dáng dấp du lịch nông thôn, rất lẻ tẻ.
Có thể kể một số trường hợp như Khu du lịch “Một thoáng làng nghề” tại Củ Chi – TP.HCM, hay khu du lịch nhà vườn của ông Huỳnh Đức Huệ ở huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai. Đây là vùng bưởi Tân Triều trù phú nổi tiếng, nhưng nông dân ở đây phần lớn vẫn nghèo. Thấy được thế mạnh của địa phương, ông Huệ quyết tâm làm du lịch tìm cách tiêu thụ sản phẩm của địa phương mình. Sau 5 năm nỗ lực, một khu du lịch sinh thái đã ra đời mang tên Làng bưởi Tân Triều thu hút khách quanh năm.[35]
Một số tỉnh như Bình Dương, Đồng Nai cũng đã phát huy được thế mạnh du lịch sinh thái của địa phương. Từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm là mùa trái cây chín rộ, du khách không những được tận hưởng không khí trong lành của vườn cây trái Bình Dương dài tít tắp mà còn được thưởng thức các loại trái cây ngon như măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, mít tố nữ, vú sữa. Lợi thế của vùng này là ở sát cạnh TP.HCM, chỉ cách chừng 20km, có diện tích cây ăn quả lớn trong khu vực miền Đông Nam Bộ, lại biết kết hợp với làng gốm và các xưởng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ để làm du lịch. Do đó, người nông dân được hưởng lợi về mặt kinh tế nhờ mô hình liên kết này.
Tại An Giang, sau 2 năm chuẩn bị, ngày 12/4/2018, tour du lịch nông nghiệp đầu tiên đã được khai trương. Trong ngày khai trương, tour du lịch này đã phục vụ 30 du khách quốc tế với lộ trình khu lưu niệm Bác Tôn (TP.Long Xuyên) – xem đua ghe ngo (thị xã Châu Đốc) – xem lễ hội truyền thống nhân Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào dân tộc Khmer (huyện Tri Tôn) – tham quan Núi Cấm (huyện Tịnh Biên), chỉ với giá 300.000 đồng/người. Tour du lịch này nằm trong dự án du lịch nông nghiệp do Hà Lan tài trợ thông qua Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Dự án được thực hiện trong 3 năm(2016-2018), với tổng kinh phí 300.000 euro. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Du khách tham gia tour du lịch nông nghiệp ở An giang
Khách du lịch cùng làm ruộng với cư dân bản địa là một phần trong chương trình tham quan, du lịch trong chuyến trải nghiệm đến An Giang, thu hút đông khách du lịch. Khách được đưa về Bảy Núi – nơi được mệnh danh là Thất Sơn huyền bí. Một số ít người Khmer bản địa vẫn còn làm ruộng theo phương pháp thủ công là điều hấp dẫn đối với khách du lịch. Buổi sáng, khách được đưa ra đồng ruộng để cắt gặt, gánh lúa… cùng nông dân. Sự xuất hiện của khách du lịch dù làm vướng bận việc đồng áng nhưng tạo được sinh khí lao động và thân thiện giữa người dân và khách phương xa. Khi nắng vừa gắt, khách được đưa vào vườn ao của các nhà dân làm du lịch để tát đìa bắt cá, kéo lưới. Những chàng trai, cô gái công sở, tay g phím nhưng trong trang phục nông dân lội sình, tát nước rất thú vị. Ai nấy cũng hào hứng vì tận tay mình bắt được con cá, con ốc, thu hoạch được hạt lúa… những việc làm rất xa vời đối với cuộc sống thường nhật. Thú vị nhất là khi tóm được con cá trong tay, tiếng hò hét và cả tiếng gào rú vang lên inh ỏi, làm nhộn nhịp cả phum sóc, làng xóm. Những công việc rất đỗi bình thường đối với người dân nông thôn lại là điều thú vị đối với khách du lịch.
Một số công ty như Saigontourist, Bến Thành Tourist, Vietravel, Lửa Việt, Fiditour, Dấu Ấn Việt, Hòn Ngọc Viễn Đông, v.v… đã khai thác rất hiệu quả các tour: “Tát mương bắt cá”, “Tham quan làng nghề”, “Một ngày làm nông dân Nam bộ”… Với những tour du lịch này, du khách được khám phá chính mình và sống trong cảm giác mới lạ bằng việc chủ động tham gia vào các hoạt động sinh hoạt, lao động hàng ngày với người dân bản địa.
Những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam phát triển đa dạng các loại hình du lịch, nhưng du lịch nông thôn chưa phát triển bởi các lý do sau:
- Chưa có quy hoạch cụ thể cho từng địa phương để phát triển du lịch nông thôn, cụ thể là chưa có khung lý thuyết chung cho các khái niệm về loại hình du lịch này.
- Du lịch phát triển, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Sự phát triển của du lịch đã tác động đến đời sống con người, thiên nhiên và môi trường ở nông thôn về cả hai hướng tích cực lẫn tiêu cực, mà phần nhiều là tiêu cực.
- Phát triển du lịch chưa gắn kết với địa phương nên các tài nguyên thiên nhiên được ngành du lịch khai thác chưa hiệu quả và bền vững. Trong khi đó, người nông dân ở nông thôn vẫn đứng bên lề các quá trình vận động của ngành du lịch, những hoạt động du lịch chỉ mới mang lợi cho Nhà nước và khu vực tự nhiên.
- Chưa có sự chuẩn bị tốt về nhận thức cho cấp uỷ, chính quyền các cấp và người dân địa phương có tài nguyên du lịch nông thôn để họ sẵn sàng tham gia hoạt động này, từ đó giảm bớt được những tệ nạn thường gặp như chèo kéo khách, cung ứng sản phẩm và dịch vụ kém chất lượng, dần làm mất đi bản sắc văn hoá của địa phương.
- Nông dân là những người đưa di sản sinh thái và văn hoá của mình tham gia hoạt động du lịch nông thôn, nhưng trong thực tế lại thu được rất ít lợi từ hoạt động này.
- Nhân lực phục vụ du lịch vừa thừa, vừa thiếu. Các công ty du lịch và khách sạn thiếu lực lượng hướng dẫn viên cho khách quốc tế giỏi nghiệp vụ và ngoại ngữ, nhưng lại thừa lao động phổ thông không qua đào tạo.
- Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường sá, cung cấp nước tưới, tiêu, cung cấp điện và thông tin của khu vực hạ tầng còn yếu kém. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Khi tham gia các tour về nông thôn ở Việt Nam, ban đầu, nhiều du khách có ấn tượng tốt nhưng rất ít người có ý định quay trở lại lần thứ hai.Vì một trong những điều khiến họ không muốn quay lại là tình trạng giao thông ở nước ta quá tệ. Điển hình như, từ TP. Hồ Chí Minh xuống các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chỉ có con đường độc đạo là Quốc lộ 1A nên chuyện kẹt xe, kẹt phà xảy ra thường xuyên khiến tốc độ của xe thực tế chỉ còn 30 – 40km/giờ. Việc thiếu đường giao thông kết nối giữa các tỉnh làm cho khách phải đi lại quá nhiều lần trên cùng một tuyến đường, nên rất khó thu hút họ đến được các tỉnh xa mất cả ngày đường như Bạc Liêu, Cà Mau… Ngoài đường bộ, không thể không nói tới giao thông đường thủy là thế mạnh của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng tìm được chuyến tàu cao tốc chạy ổn định cũng không phải dễ. Ngoài đường bộ, đường thủy, chúng ta còn có đường hàng không nhưng đường hàng không thì chỉ có những chuyến bay nhỏ đến Cà Mau, Rạch Giá và đảo Phú Quốc, trong khi sân bay Cần Thơ (Trà Nóc) mới chuẩn bị đưa vào sử dụng.
Các tỉnh ở nước ta rất thiếu các tour riêng biệt, nhưng lại thừa những sản phẩm trùng lặp. Ví du như một tuor du lịch nông thôn miền Tây Nam bộ, khách đến Tiền Giang đã vào thăm vườn, ngồi ăn trái cây hái sẵn, nghe đờn ca tài tử, thì sang Vĩnh Long, Cần Thơ hay đi Sóc Trăng cũng vẫn thấy các món này. Cách làm đơn điệu, thiếu sức hấp dẫn và không có điểm nhấn khiến các tour du lịch nông thôn không thể thuyết phục khách du lịch ở lại lâu hơn.
Dịch vụ du lịch ở nông thôn vẫn còn ít lại không đạt tiêu chuẩn về chất lượng. Cơ sở lưu trú ở các làng quê đa phần có chất lượng trung bình, không có các khu nghỉ dưỡng cao cấp nên ít khi đón được khách sang ở lâu, có rất ít các loại hình vui chơi giải trí đặc sắc.
Có thể khẳng định, du lịch nông thôn phát triển chậm, chắc chắn không phải vì thiếu tài nguyên, cũng chưa hẳn vì thiếu tiền, mà là thiếu cách làm phù hợp với cái khách cần. Lượng khách biết và đặt tuor du lịch nông thôn rất ít. Một phần do chưa được phổ biến quảng cáo rộng rãi, phần khác do điều kiện của nước ta chưa đủ, dù là nước nông nghiệp nhiều tiềm năng.
1.5. Một số tác động và ảnh hưởng của du lịch nông thôn đến đời sống kinh tế – xã hội của cư dân địa phương
1.5.1. Một số tác động tích cực Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Khi các tour du lịch nông thôn được thực hiện sẽ có những tác động ảnh hưởng đến cộng đồng địa phương. Du lịch nông thôn sẽ giúp cho địa phương có thêm công ăn việc làm, thu hút lao động tại địa phương. Ngoài việc tham gia sản xuất trên đồng ruộng, trong công việc hàng ngày thì người dân có thể là những hướng dẫn viên du lịch tại điểm, giúp cho các chương trình du lich nông thôn. Họ sẽ là những hướng dẫn viên du lịch lành nghề nhất, những người hướng dẫn tốt nhất về công việc của chính mình. Hơn nữa nhà người dân cũng là nơi lưu trú tuyệt vời nhất cho khách lưu trú qua đêm. Cư dân địa phương cũng là những người đầu bếp phục vụ cho khách những bữa ăn mang đặc trưng của quê hương mình, nhà mình. Chính những công việc thường ngày ấy sẽ giúp cho người dân địa phương tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống của chính mình, đồng thời góp phần vào phát triển kinh tế địa phương khi họ tham gia vào các chương trình du lịch nông thôn.
Mặt khác khi muốn chương trình du lịch nông thôn được thực hiện dễ dàng hơn thì các công ty du lịch chính quyền địa phương, các doanh nghiệp sẽ bỏ vốn đầu tư nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kĩ thuật tại các làng quê nơi diễn ra hoạt động du lịch nông thôn. Chính điều này sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn và tạo ra những bước phát triển mới.
Đối với công ty du lịch đây cũng là loại hình du lịch mới có khả năng hấp dẫn du khách. Nếu đầu tư phát triển, các công ty du lịch có thể tạo ra sự phong phú cho các sản phẩm du lịch của mình. Một thị trường sẽ được mở ra để khai thác làm mới những hoạt động của công ty. Đồng thời điều đó cũng giúp cho các công ty du lịch tạo ra dấu ấn trên thị trường về khả năng của chính mình trong việc tổ chức những chương trình du lịch nông thôn nghe có vẻ đơn giản nhưng lại khó lấy lòng du khách.
Không chỉ mang lại những mặt tích cực cho cộng đồng địa phương và các công ty du lịch, du lịch nông thôn còn thỏa mãn một lượng không nhỏ các du khách luôn muốn khám phá những nét văn hóa cổ truyền của Việt Nam. Họ có thể được thẩm nhận sâu sắc hơn cuộc sống của con người sau lũy tre làng. Đồng thời họ có thể trực tiếp tham gia vào công việc sản xuất của người nông dân. Họ được thử công việc của một người gánh mạ, cấy lúa, gặt lúa kể cả là cày ruộng. Họ có thể thử làm một người thợ thêu, chạm khắc đồ bạc, đục gỗ…Và sau những giờ làm việc căng thẳng được giải trí bằng những điệu chèo truyền thống thấm đẫm tình dân tộc, được ăn những món ăn tuy thanh đạm đơn giản nhưng mang dấu ấn của quê lúa thân thương. Thoát khỏi những lo toan của cuộc sống hàng ngày, những công việc trí óc căng thẳng để tiếp xúc với một cuộc sống mới, làm những công việc chân tay mà du khách đã bỏ quên hay chưa từng làm. Điều đó sẽ mang lại cho du khách những cảm giác khác lạ và thư giãn bên ngoài cuộc sống hối hả của họ.
1.5.2. Một số tác động tiêu cực
Khi du lịch làng quê phát triển nó sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia hoạt động này tuy nhiên nó cũng mang lại những ảnh hưởng tiêu cực. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
Trước hết cuộc sống của người dân sẽ bị xáo trộn nhiều khi các chương trình du lịch được thực hiện. Du khách sẽ đến mang theo văn hóa của họ. Họ sẽ làm cho người dân tò mò và đôi khi là học dòi theo lối sống đó. Điều này sẽ báo hiệu cho sự mất dấn nét truyền thống, bản sắc riêng trong các làng quê. Du khách về thăm làng không phải vì họ muốn nhìn thấy một nét văn hóa cũ mà họ đã biết, họ đã quen thuộc. Đồng hóa văn hóa của mình với của du khách là người dân địa phương đang đánh mất dần đi sự thu hút hấp dẫn của chính mình. Hơn nữa nó cũng làm mất dần những nét truyền thống của làng Việt, của văn hóa Việt của cả dân tộc. Bởi vậy giữ gìn văn hóa dân tộc là điều cần thiết và quan trọng khi muốn phát triển du lịch tại nông thôn.
Mặt khác khi thấy du lịch nông thôn là loại hình du lịch có khả năng thu hút và hấp dẫn khách du lịch, mang lại một nguồn lợi ích kinh tế lớn thì sẽ có rất nhiều sự cạnh tranh của các công ty du lịch. Cạnh tranh là yếu tố dẫn đến sự phát triển trong nền kinh tế thị trường nhưng nó cũng mang lại nhiều tiêu cực trong môi trường nông thôn bình dị. Sự dồn dập chạy đua trong việc khai thác tài nguyên cũng như trong việc thực hiện tour sẽ tạo nên sự quá tải, ảnh hưởng không tốt đến môi trường cũng như đời sống của cư dân địa phương.
Một lượng khách thiếu ý thức trong du lịch sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến cuộc sống nơi thôn quê. Điều này có thể tạo nên ấn tượng không tốt với người dân cũng như chính quyền địa phương.
Mỗi sự khám phá đều có 2 mặt tích cực và tiêu cực. Điều quan trọng là phải nhận thấy những mặt tiêu cực để từ đó hạn chế và khắc phục đồng thời phát triển những mặt tích cực của hoạt động đó.
Tiểu kết chương 1
Du lịch nông thôn là một loại hình du lịch đã ra đời từ lâu, tuy nhiên lại chưa được chú trọng phát triển. Du lịch nông thôn đã thành công ở một số quốc gia như Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc…, để lại cho chúng ta những bài học về sự thành công cũng như những hạn chế để học hỏi, rút kinh nghiệm. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều tiềm năng để phát triển loại hình du lịch này, tuy nhiên, du lịch nông thôn ở Việt Nam lại chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Với cư dân 80% sống ở nông thôn, làm nông nghiệp cộng với những tài nguyên sẵn có ở các vùng quê, đây sẽ là nguồn lực dồi dào cho sự nở rộ của loại hình du lịch nông thôn, Sự phát triển của du lịch nông thôn sẽ đem lại những mặt tích cực như tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương và các công ty du lịch, du lịch nông thôn còn thỏa mãn một lượng không nhỏ các du khách luôn muốn khám phá những nét văn hóa cổ truyền của Việt Nam. Tuy nhiên kéo theo đó là những xáo trộn về văn hoá, sự xung đột về ứng xử của du khách với cộng đồng địa phương, sự cạnh tranh của các công ty du lịch. Vì vậy, muốn phát huy các tiềm năng, khắc phục hạn chế, phát triển thành công loại hình du lịch nông thôn ở từng vùng quê nhất định, chúng ta phải nghiên cứu kĩ tiềm năng và thực trạng phát triển loại hình du lịch này để có hướng đi đúng đắn nhất. Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở huyện Ba Vì

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội […]