Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong xã Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn hiện nay xã hội Việt Nam có nhiều biến động do sự phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Sự phát triển kinh tế – xã hội đã làm thay đổi cuộc sống của con người. Bên cạnh những yếu tố tích cực, con người luôn phải đối mặt với những hiểm họa như ô nhiễm môi trường, thiên tai; các tệ nạn như ma tuý, mại dâm, bạo lực… Trong bối cảnh đó, mỗi người cần có những KNS để sống thành công và nâng cao chất lượng cuộc sống. Trước những tác động của xã hội hiện đại, các em học sinh THCS luôn phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, chịu nhiều áp lực trong cuộc sống và rất dễ bị thu hút, lôi cuốn vào các trào lưu, tệ nạn xấu do thiếu các kỹ năng cần thiết [8]. Do đó giáo dục KNS cho học sinh THCS lại càng trở nên cấp thiết. Các cơ sở giáo dục đã tiến hành giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhưng hiệu quả chưa cao.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám BCH Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” với 5 nhiệm vụ trọng tâm. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đó là tập trung chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục. Chú ý dạy đạo đức và giá trị của cuộc sống, rèn luyện kỹ năng sống, hiểu biết xã hội [14]. Với mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, nền giáo dục Việt Nam không chỉ tập chung trang bị kiến thức lý thuyết mà còn trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất đạo đức cho học sinh. Điều này cho thấy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có vai trò quan trọng và cần thiết. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Thực tế hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tuy không còn quá mới mẻ nhưng nó vẫn chưa mang tính chính thống. Do đó mà việc dạy và học kỹ năng sống các trường THCS mang tính tự phát, mỗi trường tổ chức một kiểu, có trường thuê trung tâm về dạy kỹ năng sống cho học sinh, có trường tự tổ chức cho giáo viên dạy kỹ năng sống vào các tiết Sinh hoạt, Chào cờ, có trường chỉ tích hợp vào các giờ dạy thường ngày. Vì vậy, để có được hoạt động giáo dục kỹ năng sống không những bài bản, hiệu quả, chất lượng mà còn tạo được chỗ đứng trong hàng loạt các loại hình học tập thì những biện pháp và chiến lược quản lý hoạt động này là vô cùng quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Song công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống cho HS trường THCS nói chung và trường THCS Nam Phong nói riêng cũng còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, cụ thể là hoạt động quản lý chưa phát huy tính năng động, sáng tạo của giáo viên, chưa gắn kết được vai trò của các lực lượng giáo dục trong việc tổ chức quản lý hoạt động hình thành kĩ năng sống học sinh THCS, chưa chú trọng đến việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hoạt động, phương pháp, nội dung hình thành kĩ năng sống cho HS THCS một cách hệ thống…
Trường THCS Nam Phong thuộc địa bàn xã Nam Phong Huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội là ngôi trường nằm ở trung tâm của huyện với 08 lớp học có hơn 200 học sinh. Học sinh nhà trường là đối tượng rất dễ dàng tiếp thu ảnh hưởng của những mặt tích cực cũng như tiêu cực đang xảy ra trong cơ chế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Do đó ngoài việc nâng cao chất lượng GD, nhà trường cần chú trọng tới công tác GDKNS cho HS. GDKNS cho HS trường THCS là một những nội dung GD quan trọng, có được KNS sẽ giúp các em học sinh tự tin bước vào cuộc sống tương lai. Tăng cường rèn luyện KNS cho học sinh chính là nâng chất lượng nguồn lực đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
Chính vì lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong xã Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội” làm hướng nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục, GD KNS nói chung và quản lý GDKNS cho HS nhà trường nói riêng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nghiên cứu về kĩ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
Kỹ năng sống là một thành phần quan trọng của nhân cách con người trong xã hội hiện đại, có ý nghĩa rất lớn đối với chất lượng cuộc sống cá nhân cũng như sự phát triển bền vững của xã hội. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về KNS và GDKNS cho con người nói chung và HS nói riêng. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Khái niệm kĩ năng sống lần đầu tiên được bàn đến trong Hiến chương Ottawa của WHO (1986) [35] về nâng cao sức khỏe, trong đó có nêu mục “các kỹ năng cá nhân” nhằm “hỗ trợ sự phát triển cá nhân và xã hội thông qua cung cấp thông tin, GD sức khỏe và nâng cao KNS. Bằng cách đó, nó gia tăng các cơ hội, giúp người dân có khả năng chọn lựa những điều có lợi cho sức khỏe và môi trường. Khái niệm này liên kết kĩ năng sống với việc ra quyết định liên quan tới trách nhiệm cá nhân và và năng lực để thực hiện các lựa chọn hành vi thích hợp cho một cuộc sống lành mạnh.
Từ những năm 1990, khái niệm KNS đã xuất hiện trong một số chương trình GD của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), trước tiên là chương trình “GD các giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản cần GD cho thế hệ trẻ. Trong chương trình đánh giá toàn cầu về GD kỹ năng sống, UNICEF (2012) [33] nhấn mạnh KNS đề cập đến một nhóm các kỹ năng tâm lý xã hội và cá nhân có thể giúp mọi người đưa ra quyết định, giao tiếp hiệu quả, phát các kỹ năng đương đầu và tự quản lý nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và hiệu quả. Các nghiên cứu về KNS trong giai đoạn này mong muốn thống nhất một khái niệm chung về KNS cũng như đưa ra được một bảng danh mục các KNS cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Các nghiên cứu của Buthelezi và cộng sự (2000) [24], Boler và Caroll (2003) [23], Meyers (2011) cho thấy việc giảng dạy KNS là một thách thức trong ngành GD. GV ở hầu hết các trường học thường thích dành thời gian vào việc giảng dạy kiến thức và chuẩn bị cho HS tham gia các kỳ thi. Vai trò của GV trong việc phát triển các năng lực tâm lý xã hội là rất quan trọng. GV hỗ trợ và khuyến khích trẻ thông qua việc thúc đẩy trẻ tăng cường sự chủ động. Sự hỗ trợ này là đặc biệt cần thiết đối với trẻ bước vào tuổi thiếu niên. Trong giai đoạn chuyển tiếp này, trẻ cần nhận được sự đồng cảm, chăm sóc và hỗ trợ từ phía GV. Abobo (2012) xác định những khó khăn liên quan đến GD KNS bao gồm thiếu sự đào tạo GV, thái độ của GV tiêu cực, thiếu tài liệu giảng dạy và học tập, thiếu các phương pháp giảng dạy phù hợp. Việc đào tạo GV giảng dạy các KNS chưa được coi là một phần trong chương trình đào tạo GV ở các trường đại học và cơ sở đào tạo GV. Về bản chất, GV không được trang bị đầy đủ các kỹ năng có liên quan để giảng dạy KNS, do đó họ không thể GD KNS một cách hiệu quả [21].
Theo MOE (2006), để GD KNS hiệu quả, GV cần sử dụng các phương pháp dạy và học trong đó tạo cơ hội cho những người học xác định các vấn đề của bản thân, thảo luận về các giải pháp, lập kế hoạch và thực hiện các chương trình hành động hiệu quả. Việc dạy và học KNS thông qua các phương pháp có sự tham gia của người học cho thầy việc học tập đạt kết quả tốt nhất khi người học phải tích cực tham gia trong giờ học [29]. Các phương pháp dạy và học có sự tham gia của người học được khuyến khích dùng trong GD KNS bao gồm: nghiên cứu trường hợp, động não, thăm thực địa, thảo luận phiên, kể chuyện, hát, thảo luận nhóm, tranh luận, áp phích, trò chơi đóng vai, các trò chơi, dự án, biểu diễn thơ và đóng kịch (KIE, 2008 [26]).
Kolosoa (2010) chỉ ra tình trạng GV tại các trường học thiếu năng lực giảng dạy KNS, các chương trình GD phải đối mặt với các thách thức phát sinh từ việc nhà trường không tuân thủ các nguyên tắc về chất lượng GD. Chẳng hạn, các trường học không giới thiệu các biện pháp đo lường, đánh giá và cấp chứng chỉ về GD KNS, điều này làm giảm giá trị và sự ghi nhận về vị trí của GD KNS trong nhà trường. Tương tự, người học cũng không có các khóa học được đánh giá một cách nghiêm túc, vì thế họ cũng không dành sự quan tâm xứng đáng cho GD KNS. Ngoài ra, tập quán văn hóa của người dân không khuyến khích người lớn và trẻ nhỏ tham gia các cuộc thảo luận liên quan đến tình dục và chủ đề sức khỏe sinh sản. Vì vậy, điều này tạo ra một số xung đột ở cả người học và GV; kết quả là không khuyến khích được người học tham gia, họ có thể cảm thấy khó chịu, miễn cưỡng và nhút nhát khi tham gia thảo luận về tình dục và chủ đề sức khỏe sinh sản (dẫn theo Kitimo,( 2014) [27].
Vì vậy, KNS đã được nghiên cứu, tích hợp vào GD thông qua chương trình GD KNS, được triển khai rộng rãi trên thế giới, cả trong GD chính quy và không chính quy và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Ở Việt Nam, thuật ngữ KNS được biết đến bắt đầu từ chương trình của UNICEF (1996), “GD KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” [32]. Khái niệm kỹ năng sống được giới thiệu này bao gồm những kỹ năng cốt lõi: tự nhận thức, giao tiếp, xác định giá trị, kiên định, đặt mục tiêu… Đối với ngành GD, việc GDKNS cho người học đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng đồng thời được nhiều nhà GD quan tâm nghiên cứu.
Thử nghiệm một số chủ đề GD KNS cho HS trung học phổ thông (THPT), Nguyễn Thanh Bình (2008) đã thiết kế và thử nghiệm 5 chủ đề để xác định giá trị, giao tiếp, đương đầu với căng thẳng, giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực và lựa chọn nghề với đối tượng HS này. Kết quả thử nghiệm khẳng định bổ ích, tính phù hợp của các chủ đề đã thiết kế, đồng thời cho thấy có sự thay đổi rõ về kiến thức, thái độ và định hướng hành vi của những HS tham gia thử nghiệm [3].
Bộ sách GDKNS trong môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Sinh học, GD công dân của trường THPT thử nghiệm của Bộ GD&ĐT do các tác giả Lưu Thu Thủy, Nguyễn Thị Hồng Vân, và các cộng sự (2010) biên soạn đã nêu ra một số vấn đề chung về KNS và GDKNS cho HS trong trường THPT, cụ thể là các quan niệm, phân loại, tầm quan trọng của kỹ năng sống, định hướng GD KNS cho HS THPT và GD KNS trong môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Sinh học, GD công dân… ở trường THCS. Đặc biệt, các hình thức tổ chức, cách tiếp cận và phương pháp GDKNS, các nguyên tắc và kỹ thuật dạy học hiện đại cũng được đề cập và hướng dẫn sử dụng vào các bài dạy để thực hiện việc rèn luyện các KNS cụ thể cần thiết cho HS [10].
Bộ tài liệu “Thực hành kỹ năng sống” dành cho cấp tiểu học và trung học cơ sở của tác giả Phạm Quốc Việt (2015) biên soạn nhằm tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, góp phần triển khai công tác giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW.
Tài liệu Khám phá các giá trị bản thân của tác giả Trần Thị Tuyết Mai, và các cộng sự (2018) Sách hướng dẫn giảng dạy kỹ năng sống dành cho giáo viên. Giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm, giáo viên phụ trách hoạt động văn hóa, hoạt động ngoại khóa, phụ trách công tác Đoàn, Đội tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng sống phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị.
Giáo dục kỹ năng sống ở cấp THCS để thực hiện mục tiêu sau: Chuyển dịch kiến thức (cái chúng ta biết), thái độ và giá trị (cái chúng ta nghĩ, cảm thấy hoặc tin tưởng) thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thực các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế (cái cần làm và cách thức làm) theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng.
Nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh tại các trường trung học tập trung vào các kỹ năng tâm lý – xã hội được áp dụng để tương tác với người khác và giải quyết hiệu quả các vấn đề của cuộc sống. Việc hình thành các KNS luôn gắn kết với việc hình thành các kỹ năng học tập và được vận dụng phù hợp với lứa tuổi, điều kiện sống,…
Xuất phát từ vai trò của hoạt động GD HS trường THCS và để nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy, GD HS, trong lĩnh vực quản lý GD đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý đối với các hoạt động khác nhau trong nhà trường có liên quan đến GD KNS. Sản phẩm của các hoạt động nghiên cứu thể hiện trong các giáo trình, các tài liệu chuyên sâu, các bài báo, báo cáo khoa học, các Luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ… ở cả cả hai khía cạnh lý thuyết và thực tiễn. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu sau về quản lý hoạt động GD và quản lý GD KNS cho HS trường THCS trong nhà trường nói chung và trường THCS Nam Phong nói riêng. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
2.2. Nghiên cứu về quản lý giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường
Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) (1998) đã tiến hành một dự án về cải thiện chất lượng GDKNS, trong đó xác định việc thực hiện thành công GD KNS trên bình diện quốc gia về cơ bản phụ thuộc vào môi trường quản lý mang tính khuyến khích ở các cấp độ trường học, địa phương và chính phủ [9, tr.58].
Ở cấp độ trường học, để thực hiện thành công các chương trình GDKNS, lãnh đạo nhà trường đóng một vai trò hết sức quan trọng. Việc áp dụng thành công các chương trình phần lớn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của nhà lãnh đạo. Một nhiệm vụ chính của người đứng đầu nhà trường là thực thi lãnh đạo cả tập thể hướng tới một tầm nhìn chung và quản lý sự thay đổi nhằm đảm bảo rằng nhà trường thành công trong việc thực hiện tầm nhìn. KNS là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình trao quyền cho các cá nhân tham gia cũng như để thích ứng thành công với những thách thức của cuộc sống (KICD, 2008 [11, tr.63]).
Theo Sullivan và Glanz (2000) [30], để áp dụng thành công các chính sách và chương trình mới trong trường học, ban quản lý nhà trường nên coi áp dụng cải tiến trường học như một động lực. Điều này có nghĩa rằng trong quá trình đưa ra các quyết định liên quan tới nhà trường, Hiệu trưởng phải luôn đặt vấn đề cải tiến trường trong tâm trí. Việc nâng cao GD KNS là một phần của sự cải tiến này. Theo tác giả, đặt cải tiến trường học vào nhiệm vụ trung tâm đòi hỏi công việc của nhà lãnh đạo phải dựa trên nền tảng sư phạm và GD, đồng thời gắn trực tiếp với hoạt động cốt lõi của nhà trường, cụ thể là hoạt động giảng dạy và học tập. Yêu cầu nhà lãnh đạo phải có sự am hiểu sâu sắc về quá trình học tập và các điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập của HS.
Để thực hiện GD KNS hiệu quả, theo tài liệu hướng dẫn áp dụng GD KNS cho trẻ từ cấp mẫu giáo tới trung học của tổ chức Alberta Learning (2002) [22], lãnh đạo và nhà trường cần tiến hành các bước: Thứ nhất, thiết lập điều kiện môi trường tích cực, bao gồm sự kết nối thông tin với CMHS, xây dựng văn hóa nhà trường lành mạnh, nâng cao điều kiện lớp học, thúc đẩy các giá trị bản thân, giải quyết các vấn đề tranh cãi, thu hút sự tham gia của các đối tác cộng đồng vào lớp học, kết nối lớp học với cộng đồng… Thứ hai, nhà trường cần xây dựng kế hoạch truyền tải kiến thức về kỹ năng sống, bao gồm các bước: Xác định người học cần biết gì; tổ chức và lựa chọn khung kiến thức truyền tải; lập kế hoạch cho từng năm, từng đơn vị, từng bài học; lập kế hoạch phối hợp các cấp học; điều chỉnh sự khác biệt giữa người học. Thứ ba, nhà trường cần có chiến lược truyền tải GD KNS với các phương pháp như: học tập hợp tác, thảo luận nhóm, nghiên cứu độc lập, trò chơi đóng vai, tổ chức sáng tạo. Thứ tư, nhà trường cần thu nhận kết quả, đánh giá quá trình học tập của HS. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Việt Nam, một số nghiên cứu tiêu biểu về quản lý GD KNS cho HS như sau:
Bàn về quản lý GD KNS cho HS, Trần Anh Tuấn (2012) đã phân tích thực trạng quản lý GD KNS cho HS hiện nay trong nhà trường phổ thông, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động GD KNS cho HS, từ đó nâng cao chất lượng GD KNS cho HS, giúp HS thích ứng được với cuộc sống nhà trường và cuộc sống xã hội. Trên cơ sở lý luận về quản lý sự phối hợp giữa GV và cán bộ quản lí trong công tác GD KNS cho HS tiểu học, Huỳnh Lâm Anh Chương (2015) cho rằng đây là vấn đề cần thiết cho cán bộ quản lí, đặc biệt là Hiệu trưởng nhà trường, để tham khảo và áp dụng trong quá trình quản lý công tác GD KNS cho HS. Để đảm bảo mục tiêu GD KNS cho HS thì cần có sự phối hợp giữa các lực lượng GD, trong đó GV và cán bộ quản lí là hai lực lượng chính. Tuy nhiên, sự phối hợp này không diễn ra tự phát mà cần được tổ chức theo định hướng thống nhất, dưới tác động chủ đạo của cán bộ quản lí GD. Theo đó, tác giả đề xuất các nhóm biện pháp quản lý GD KNS, bao gồm: Nâng cao nhận thức cho GV và cán bộ quản lí về những kiến thức và kỹ năng phối hợp trong công tác GD KNS cho HS; Ban hành các quy định về nhiệm vụ, quyền lợi của GV và cán bộ quản lí trong công tác GD KNS; Tổ chức xây dựng kế hoạch và chương trình giáo GD KNS cụ thể; Chỉ đạo giáo viên phối hợp với cán bộ quản lí thực hiện đúng tiến độ kế hoạch GD; Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch của GV và cán bộ quản lí.
Nghiên cứu về quản lý hoạt động GD giá trị sống và KNS cho HS THCS trong bối cảnh đổi mới GD, Phạm Thị Nga (2016) đã xây dựng cơ sở lý luận cho quản lý GD giá trị sống và kĩ năng sống cho HS THCS, nhấn mạnh GD giá trị sống và kĩ năng sống chỉ thành công nếu có sự tác động đồng bộ của ba chủ thể: nhà trường, gia đình và xã hội. Trên cơ sở khảo sát thực trạng, tác giả đề xuất 6 biện pháp quản lý bao quát hết các chức năng quản lý, kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, xuyên suốt mọi hoạt động trong nhà trường (giờ học, vui chơi, giải trí, sử dụng các hình thức, phương pháp GD…). Các biện pháp được xây dựng trên cơ sở tiếp cận hệ thống với mục đích cuối cùng là tập hợp các lực lượng tham gia GD giá trị sống và KNS cho HS liên kết trong một tổ chức thống nhất, với hạt nhân là một tập thể sư phạm mẫu mực có kế hoạch khoa học, chi tiết, khả thi.
Tóm lại: Việc nghiên cứu về các hướng dẫn giáo dục kĩ năng sống, quản lý giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường và trường THCS đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, giáo dục trên thế giới và trong nước. Hầu hết các nghiên cứu đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường, tuy nhiên thực tế nền giáo dục của các quốc gia đều đã triển khai giáo dục kỹ năng sống nên cơ sở lý luận về vấn đề này dù khá phong phú song chưa thật toàn diện và sâu sắc, thực tế cũng chỉ có rất ít quốc gia đưa kĩ năng sống vào giảng dạy thành một bộ môn cụ thể trong toàn hệ thống giáo dục, hầu hết mới chỉ lồng ghép vào các môn học và các hoạt động giáo dục. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về giáo dục kỹ năng sống và quản lý giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận làm nền tảng cho khung lý luận của luận văn, đó là: Hệ thống hóa lý luận về giáo dục kỹ năng sống(mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp…) và quản lý giáo dục kỹ năng sống (theo tiếp cận chức năng quản lý: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giáo dục kĩ năng sống). Ngoài ra, các nghiên cứu cũng đã tiến hành khảo sát thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng sống và quản lý giáo dục kỹ năng sống các đối tượng HS khác nhau từ đó đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường. Đây chính là nguồn tham khảo để luận văn chọn lọc và kế thừa, từ đó đề xuất các biện pháp phù hợp với đối tượng nghiên cứu là quản lý giáo dục kỹ năng sống cho HS trường THCS.
Các công trình nghiên cứu tập trung nhiều về vấn đề giáo dục kỹ năng sống (đứng góc độ giáo dục học), còn nghiên cứu về quản lý giáo dục kỹ năng sống (đứng ở góc độ quản lý giáo dục) còn mỏng, ít được nghiên cứu. Nhìn chung, trong mối tương quan với các hướng nghiên cứu còn lại thì vấn đề quản lý giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường vẫn còn hạn chế. Các nghiên cứu cũng chưa đưa ra hệ thống các tiêu chí đánh giá các hoạt động cũng như đánh giá công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống và các biện pháp quản lý hoạt động này, do đó hiệu quả giáo dục kỹ năng sống chưa cao. Đây là khoảng trống nghiên cứu mà luận văn sẽ giải quyết.
Trong nhà trường THCS, các nghiên cứu về quản lý các hoạt động giáo dục khác nhau, như: quản lý công tác xã hội hóa giáo dục, quản lý hoạt động chuyên môn đã được tập trung nghiên cứu nhiều, còn nghiên cứu quản lý giáo dục kỹ năng sống như một hoạt động cơ bản trong nhà trường còn ít được nghiên cứu.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong xã Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội” vừa có ý nghĩa thực tiễn, đồng thời cũng xác định được điểm mới trong nghiên cứu lý luận thuộc lĩnh vực quản lý giáo dục: “Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Nam Phong xã Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội” Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ tạo ra màu sắc riêng, đặc thù của trường THCS Nam Phong trong quản lý giáo dục kỹ năng cho học sinh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Luận văn chỉ ra thực trạng quản lý hoạt động giáo dục KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội và các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý hoạt động này trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
- Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý công tác GD KNS cho học sinh.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên,Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất những biện pháp quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên,Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên biện pháp quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên,Thành phố Hà Nội.
- Giới hạn thời gian nghiên cứu: Số liệu được thu thập từ năm học 2016 – 2017 đến năm học 2018 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Vìệt Nam, Luật GD, Nghị quyết, Chỉ thị, Hướng dẫn của các cấp về GD – đào tạo và quản lý GD – đào tạo nói chung và GD phổ thông nói riêng để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
5.1.1.Tiếp cận hệ thống:
Giáo dục là một bộ phận của kinh tế – xã hội. Do vậy, nghiên cứu giáo dục KNS và quản lý giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở thì phải đặt các hoạt động này trong bối cảnh kinh tế- xã hội của đất nước, của thời đại, cụ thể là yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của cả nước nói chung và của THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội nói riêng.
Mặt khác, giáo dục KNS và quản lý giáo dục KNS cho học sinh trung học cơ sở là một bộ phận của chương trình giáo dục tổng thể, có mối quan hệ với các mặt giáo dục khác, với các chủ thể khác – ngoài nhà trường – trong xã hội. Giáo dục KNS cho học sinh phải được kết hợp trong mọi hoạt động của quá trình dạy học, phải huy động sự tham gia của mọi thành phần trong nhà trường và ngoài nhà trường. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
5.1.2.Tiếp cận chức năng quản lý:
Giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở là một quá trình diễn ra liên thông qua thực hiện tốt 4 chức năng quản lý ( lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giáo dục kĩ năng sống) sẽ đảm bảo giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở đạt được chất lượng theo yêu cầu.
5.1.3.Tiếp cận thực tiễn:
Tiếp cận thực tiễn trong luận văn được sử dụng nhằm làm sáng tỏ thực trạng KNS hiện nay của học sinh, thực trạng giáo dục KNS trong nhà trường và thực trạng quản lý giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở Nam Phong, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay như thế nào.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và các phương pháp nghiên cứu định tính. Cụ thể gồm các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm;
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
6.Ý nghĩa của luận văn
Đề tài tìm hiểu sự cấp bách và thực trạng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong trường trung học cơ sở hiện nay.
Góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận QLGD từ thực tiễn quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp các cấp quản lý trường THCS vận dụng đề ra các biện pháp quản lý GD KNS ở các trường THCS nói chung, THCS Nam Phong nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục, Bảng danh mục chữ viết tắt và Danh mục các bảng, biểu đồ, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý GD KNS cho HS các trường THCS
- Chương 2: Thực trạng quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
- Chương 3: Biện pháp quản lý GD KNS cho HS trường THCS Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Trường trung học cơ sở và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở
1.1.1.1. Trường trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trung học cơ sở (THCS) là một bậc trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, trên Tiểu học và dưới Trung học phổ thông. Trung học cơ sở kéo dài 4 năm (từ lớp 6 đến lớp 9). Thông thường, độ tuổi học sinh ở trường THCS là từ 11 đến 15. Theo quy định của Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học [19]
1.1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở
Học sinh THCS bao gồm học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, từ 11 đến 15,16 tuổi. Đây là độ tuổi vị thành niên, độ tuổi đặc biệt quan trọng trong thời kỳ phát triển của các em; là một sự chuyển đổi từ thời thơ ấu sang tuổi thiếu niên và được và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”.[39]
Đây là một thời kỳ có bước phát triển cả về thể chất và tinh thần, các em đang bị tách khỏi thời thơ ấu để tiến lên giai đoạn phát triển cao hơn (người lớn) tạo ra nội dung cơ bản khác trong tất cả các khía cạnh của sự phát triển: thể chất, trí tuệ, cảm xúc, đạo đức … của thời kỳ này.
Ở độ tuổi của trẻ em học sinh trung học cơ sở tồn tại song song “cả trẻ con và người lớn”, điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, điều kiện sống và sinh hoạt. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Hành động cụ thể. Ngoài ra, ở cùng độ tuổi nhưng do điều kiện sống, sinh hoạt, sinh hoạt khác nhau, họ có mức độ phát triển khác nhau trong quá trình trưởng thành.
Nhiều phụ huynh có xu hướng yêu cầu các con chỉ tập trung vào việc học, không đòi hỏi các nghĩa vụ khác, không cho con tham gia vào các hoạt động, của vụ gia đình, trường học và xã hội nên có nhiều yếu tố kìm hãm sự phát triển để trở thành người lớn của các con. Ngoài các yếu tố ức chế, các con còn được tác động của nhiều yếu tố tích cực, thúc đẩy sự phát triển thành người lớn đó là sự gia tăng về thể chất, học vấn. Nhiều phụ huynh bận rộn, gia đình gặp khó khăn trong cuộc sống đòi hỏi họ phải làm việc chăm chỉ để sống, điều đó khiến con của họ sớm độc lập hơn, tự chủ hơn, tự khẳng định hơn …
Quá trình phát triển ở độ tuổi học sinh trung học cơ sở có thể xảy ra theo các hướng sau:
Một số em, kiến thức sách giúp chúng mở rộng kiến thức, nhưng có nhiều vấn đề khác trong cuộc sống thực, các em bị hạn chế, thậm chí rất ít, chưa được định hình.
Có những học sinh ít quan tâm đến việc học ở trường, nhưng chỉ quan tâm đến các vấn đề cuộc sống, sở thích cá nhân, làm thế nào để phù hợp với “thời trang”, coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với những người lớn tuổi hơn để thảo luận, trao đổi với người lớn về các vấn đề cuộc sống thể hiện mình là người trưởng thành, một số học sinh khác, chúng không thể hiện tính cách người lớn, nhưng thực tế chúng đang cố gắng rèn luyện bản thân để có những phẩm chất của người lớn như: dũng cảm, tự lập, độc lập, tự tin, …
Độ tuổi của học sinh trung học cơ sở là tuổi giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển của nhân cách. Đó là giai đoạn từng bước hình thành quan điểm xã hội và đạo đức làm cơ sở cho sự phát triển hơn nữa trong thời kỳ phát triển.
Với bản chất tự nhiên, sinh lý của nhóm tuổi học sinh trung học cơ sở, được đặt trong điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội với các tác động đa chiều, cả tích cực và tiêu cực đang đặt ra. đối với bạn, bạn phải có kỹ năng sống cần thiết; Trước yêu cầu của xã hội các trường học, các nhà quản lý phải tổ chức tốt việc dạy kỹ năng sống cho học sinh. Phải chuẩn bị cho học sinh các kỹ năng cần thiết nhất để các em có thể làm chủ bản thân trong xã hội rất biến động ngày nay.
1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm kỹ năng sống Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Kỹ năng sống (life skills) là cụm tự được sử dựng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động. “Kỹ năng” gợi lên khả năng thao tác, thực hiện chính xác một hoạt động nào đó. Hiện nay, xung quanh khái niệm KNS, còn có nhiều định nghĩa khác nhau.
Từ năm 1996, khái niệm KNS xuất hiện ở nước ta trong một số chương trình GD của UNICEF tại Việt Nam, với “chương trình GD KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AISD cho thanh thiếu niên trong và ngoài trường”. Từ đó đến nay, khái niệm KNS được đề cập trong nhiều chương trình, tài liệu của ngành GD và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) “Kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” [38].
WHO dựa trên lý thuyết học tập xã hội của Bandura (1977), tức là nhấn mạnh sự học tập qua quá trình trải nghiệm của con người, qua sự tích lũy kinh nghiệm sống, cấu trúc kinh nghiệm và chủ động nắm lấy kinh nghiệm, đã định nghĩa: “KNS là những năng lực giao tiếp đáp ứng những hành vi tích cực của cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày [25]. Cụ thể hơn thì KNS là một nhóm các nhận thức, khả năng cá nhân có thể giúp con người tạo ra những quyết định đúng đắn. giải quyết vấn đề, suy nghĩ một cách sáng tạo và có phê phán, giao tiếp hiệu quả, xây dựng các mối quan hệ làmh mạnh, biết thông cảm với người khác, biết sắp xếp cuộc sống của mình theo cách khỏe mạnh và hiệu quả.
Theo quan niệm của WHO [34] các KNS được phân loại thành 3 nhóm:
- Nhóm các KN nhận thức gồm KN tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, ra quyết định, giải quyết vấn đề …
- Nhóm các KN xã hội gồm KN giao tiếp, KN cảm thông, KN hợp tác, KN làm việc nhóm,…
- Nhóm các KN cảm xúc gồm KN ứng phó với cảm xúc, KN ứng phó với căng thẳng, tự giám sát và điều chỉnh cảm xúc…
UNICEF quan niệm: “KNS là những KN tâm lý xã hội có liên quan đến tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống” [33]. GD dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào).
Quan niệm của UNICEF [33] chỉ rõ KNS đưọc phân thành 3 nhóm:
Nhóm KN xã hội gồm: KN giao tiếp (Truyền thông bằng lời và không bằng lời; lắng nghe tích cực; Biểu lộ cảm xúc, phản hồi; KN quan hệ, tương tác liên nhân cách), KN đàm phán, thương lượng, từ chối (Thương lượng và xử lý mâu thuẫn; KN tự khẳng định; KN từ chối), KN quan hệ xã hội, KN làm việc nhóm, hợp tác, KN thấu cảm, KN động viên (KN ảnh huởng và thuyết phục; KN tạo mạng lưới và động vìên). Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Nhóm KN phát triển nhận thức gồm: KN ra quyết định và giải quyết vấn đề, KN thu thập thông tin (Đánh giá hệ quả tương lai của những hành động hiện tại với bản thân và người khác; Xác định các giải pháp khác nhau cho vấn đề; KN phân tích ảnh hưởng của các giá trị, thái độ, động cơ của bản thân và người khác), KN suy nghĩ có phán đoán, KN tư duy sáng tạo.
Nhóm KN đối phó với cảm xúc và làm chủ bản thân gồm: KN quản lý căng thẳng (Quản lý thời gian; Tư duy tích cực; Kỹ thuật cơ bản) KN quản lý cảm xúc (Làm chủ sự tức giận; Xử lý những đau buồn và lo âu; Đối phó với những mất mát, chấn thưong), KN tự điều chỉnh (Ý thức về giá trị bàn thân, KN xây dựng sự tự tin; Ý thức về bản thân, bao gồm ý thức về quyền, ảnh hưởng, giá trị, thái độ, mặt mạnh, mặt yếu của bản thân).
Có sự khác nhau về quan niệm KNS, nhưng các tổ chức UNESCO, WHO và UNICEF đều đã thống nhất 10 KNS cơ bản, được xem như cần thiết nhất cho tất cả mọi người, trong đó có HS trường THCS: KN ra quyết định; KN giải quyết vấn đề; KN tư duy sáng tạo; KN tư duy phê phán; KN truyền thông có hiệu quả; KN giao tiếp giữa người và người; KN tự nhận thức bàn năng; Khả năng thấu cảm; KN ứng phó với cảm xúc; KN ứng phó với stress.
Khái niệm KNS chỉ thật sự được hiểu thấu đáo sau hội thảo “Chất lượng giáo dục và KNS” do UNESSCO tài trợ tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. KNS được tiếp cận trên bốn trụ cột của giáo dục bao gồm: Học để biết (Learning to know), Học để làm (Learning to do), Học để tự khẳng định (Learning to be) và Học để cùng chung sống (Learning to live together). Theo quan niệm của UNESCO [31], KNS gồm:
Các KN cơ bản: KN đọc, viết, tính toán cho các chức năng hàng ngày. Những KN này không mang đặc trưng tâm lý mà là nền tảng cho những năng lực thực hiện các chức năng của cuộc sống.
Các KN chung: (KN nhận thức, KN cảm xúc, KN xã hội) như các KN ra quyết định, KN tư duy phê phán, KN làm việc nhóm, KN giao tiếp…
Các KN trong tình huống, ngữ cảnh, vấn đề cụ thể của đời sống xã hội như, các vấn đề về giới, giới tính; các vấn đề về phòng chống HIV/AIDS, ma túy, rượu, thuốc lá; các vấn đề về môi trường, phòng chống bạo lực; các vấn đề về gia đình, trường học; các vấn đề về sức khỏe và dinh dưỡng…
Mỗi cá nhân phải có đầy đủ 3 nhóm kỹ năng thành tố nói trên trong sự thống nhất và tính chỉnh thể chặt chẽ.
Hiện nay, ở trong nước cũng có nhiều quan niệm khác nhau về KNS. Trong cuốn “KNS cho vị thành niên “, tác giả Nguyễn Thị Oanh quan niệm: “KNS tư cách là đổi tượng của GD KNS là năng lực tâm lý xã hội đế đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: “KNS là những KN tinh thần hay những KN tâm lý. KN tâm lý-xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc sống” [15]. Tác giả cho rằng, KNS nhìn dưới góc độ năng lực tâm lý là những KN giúp con người tồn tại về mặt thể chất và mặt tâm lý.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình [2] quan niệm “KNS nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức” – “cái chúng ta biết” và thái độ, các giá trị – “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành vi thực tế – “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xã hội. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng, “KNS là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các KN nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện công việc và quan hệ với bản thân, với người khác, với xã hội có kết quả trong những điều kiện xác định của cuộc sống” [20].
Từ những phân tích trên cho thấy, KNS luôn cần thiết cho mọi người. Song, với mỗi đối tượng cụ thể, xuất phát từ đặc điểm cá nhân, nhu cầu cuộc sống, đòi hỏi của công việc và môi trường sống cụ thể mà yêu cầu KNS cũng có sự khác nhau. Các em HS trường THCS, với công việc chính là học tập và rèn luyện để trở thành những người con ngoan, trò giỏi, bạn tốt và sau này là những công dân có ích cho xã hội thì KNS cần có phải phù hợp với điều kiện thực tế cuộc sống của gia đình, nhà trường và môi trường xung quanh.
KNS chính là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói một cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Như vậy luận văn xác định quan niệm của tác giả Đặng Minh Sự (2013) là phù hợp nhất: “KNS của HS trường THCS là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các KN phản ánh năng lực sống của các em, giúp các em thực hiện việc học tập và tham gia vào các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của gia đình, nhà trường và môi trường xung quanh một cách có hiệu quả”.
Quan niệm trên đã chỉ rõ: KNS của các em HS trường THCS gồm 3 nhóm KN chính
- Nhóm KN nhận biết và sống với chính mình.
- Nhóm KN nhận biết và sống với những người xung quanh.
- Nhóm KN ra các quyết định.
Trên cơ sở các nhóm KN chính, cần phải xuất phát từ thực tiễn KN và rèn luyện KNS của các em đề lựa chọn nội dung, hình thức biện pháp GD cho phù hợp. Đó là trách nhiệm của các nhà quản lý, các lực lượng tham gia GD KNS cho HS các trường THCS.
1.1.2.2. Khái niệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở
GD KNS cho HS là một vấn đề xã hội, là trách nhiệm của nhiều lực lượng, từ gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội; phải tuân thủ nghiêm ngặt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; phải tuân theo những quy định, quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện thực tại của từng nhà trường, từng đối tượng và phải đạt được mục tiêu xác định.
Việc GD KNS chính là sự bổ sung về kiến thức và năng lực cần thiết cho các em HS đề các em có thể hoạt động độc lập và chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế cuộc sống. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Đối với các em HS, nhất là các em HS bậc THCS, GD KNS là môn học trang bị những tri thức giúp các em hình thành những KNS cần thiết, phù hợp với từng giai đoạn phát triền và điều kiện sống cụ thể. Thông qua hoạt động GD KNS sẽ trang bị thêm cho các em những KN tự chủ, KN nói không, khả năng tự đưa ra quyết định và thích nghi, biết chấp nhận, hóa giải được những tác động tiêu cực trong cuộc sống xung quanh [1].
GD KNS là hoạt động giúp cho các em HS có khả năng về mặt tâm lý xã hội để phán đoán và ra quyết định tích cực, nghĩa là đề “nói không với cái xấu [15], Nhưng GD KNS cho các em không phải là đưa ra những lời giải đơn giản cho những câu hỏi thông thường mà GD KNS phải nhằm hướng đến thay đổi hành vi. GD KNS cho HS chỉ đạt đưọc kết quả tốt khi có sự tác động đồng thời của các LLGD: Nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội.
Đồng thời GD KNS cho HS có hiệu quả cao khi các lực lượng tham gia GD, QLGD nhận thức đúng đắn đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi; xác định chính xác mục tiêu, nội dung GD KNS, phối hợp với các hình thức GD phong phú.
Tóm lại: “Giáo dục kĩ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến các em HS trường THCS nhằm giúp các em có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mọi quan hệ xã hội như quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và với chính mình, giúp các em HS phát triển nhân cách đứng đắn, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện”.
1.1.2.3. Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở
Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28 thảng 02 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ rõ:
Hoạt động GD KNS trong quy định này được hiểu là hoạt động GD giúp cho người học hình thành và phát triển những thói quen, hành vi, thái độ tích cực, lành mạnh trong việc ứng xử của mỗi cá nhân trong đời sống xã hội, qua đó hoàn thiện nhân cách và định hướng phát triển bản thân tốt hơn dựa trên nền tảng các giá trị sống.
Theo hướng dẫn số 463/BGD ĐT-GDTX ngày 28/01/2015 của Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên;
Giáo dục cho người học những kỹ năng cơ bản, cần thiết, hướng tới hình thành những thói quen tốt giúp người học thành công, đảm bảo vừa phù hợp với thực tiễn và thuần phong mỹ tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước. Nội dung giáo dục KNS phải phù hợp với từng lứa tuổi và tiếp tục được rèn luyện theo mức độ tăng dần. Đối với từng nhóm đối tượng, việc giáo dục KNS cho HS THCS cần tập trung vào những nội dung sau: Tiếp tục rèn luyện những kỹ năng đã được học ở tiểu học, tập trung giáo dục những KNS cốt lõi, có ý nghĩa thiết thực cho người học như: kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện và sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và hợp tác, kỹ năng tự nhận thức và cảm thông, kỹ năng quản lý cảm xúc và đương đầu với áp lực, kỹ năng tự học. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Công văn số 4026/BGD ĐT-GDCTHSSV ngày 01/09/2017 của Bộ GD&ĐT về tăng cường giáo dục KNS cho học sinh.
Các cơ sở giáo dục tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua việc tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học các môn học Đạo đức, Giáo dục công dân, tích hợp, lồng ghép trong các môn học liên quan; các hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa, hoạt động trải nghiệm và các hoạt động giáo dục khác đảm bảo thiết thực, hiệu quả, nội dung giáo dục dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp lứa tuổi.
Công văn số 3964/BGD ĐT- GDCTHSSV ngày 04/09/2018 của bộ GD&ĐT về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên năm học 2018 – 2019;
Tăng cường công tác tổ chức và quản lí các hoạt động giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh, sinh viên.
Các sở GDĐT chủ trì, phối hợp tham mưu, xây dựng kế hoạch của địa phương về công tác giáo dục kỹ năng sống trong các cấp học trên địa bàn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. Các cơ sở giáo dục, đào tạo nghiên cứu lựa chọn các nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi, tập trung vào một số kỹ năng cần thiết như: kỹ năng ứng phó với tình huống nguy hiểm, phòng chống đuối nước và tai nạn thương tích, phòng chống xâm hại tình dục trẻ em, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên; kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng học tập hiệu quả, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm..
Thực hiện Chỉ thị số 2919/CT-BGDĐT ngày 10/8/2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2018-2019
Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử trong nhà trường; thực hiện tốt hoạt động chào cờ, hát quốc ca trong các cơ sở giáo dục; chú trọng giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc; xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học đường hiệu quả; bố trí học sinh, sinh viên trực tiếp tham gia hoạt động vệ sinh và ý thức bảo quản nhà vệ sinh, đảm bảo trường lớp sạch, đẹp; củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả, đổi mới công tác y tế trường học, bảo đảm chăm sóc sức khỏe cho học sinh.
Chỉ thị Số: 2268/CT-BGDĐT Hà Nội, ngày 08 tháng 8 năm 2019 của bộ giáo dục và đào tạo về nhiệm vụ và giải pháp năm học 2019 – 2020 của ngành Giáo dục
Nâng cao chất lượng giáo dục, triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; đẩy mạnh định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; đổi mới quản lý và nâng cao hiệu quả của giáo dục thường xuyên; tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên, bảo đảm an toàn trường học; nâng cao hiệu quả giáo dục dân tộc
Hoạt động GD KNS là HĐ GD góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỳ năng, GD nhân cách cho người học có nội dung phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của người học, phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong xã hội hiện đại là hình thành cho học sinh hệ thống những hành vi lành mạnh và thay đổi những thói quen không phù hợp trên cơ sở trang bị những kiến thức, thái độ, kỹ năng thích hợp. Điều đó có nghĩa là giúp học sinh dịch chuyển kiến thức( cái mà học sinh biết)và thái độ, giá trị (cái mà học sinh có nhu cầu, tin tưởng và mong muốn có được) thành hành động thực tế( làm gì và làm bằng cách nào). Như vậy mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống không chỉ dừng lại ở việc trang bị nhận thức bằng cách cung cấp thông tin tri thức mà còn tập trung vào việc xây dựng hoặc làm thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Qua đó làm thay đổi hành vi từ thụ động tiêu cực sang hành vi tích cực, mang tính xây dựng góp phần nâng cao chất lượng sống cho học sinh. Việc hình thành những kỹ năng sống cốt lõi giúp học sinh hướng tới một cuộc sống lành mạnh có hành vi tích cực để giải quyết vấn đề trong cuộc sống, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và tập thể. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Vậy mục tiêu của hoạt động GD KNS là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm, biết cách phân biệt đúng, sai; biết cách ra quyết định và chịu trách nhiệm, biết đối đầu với áp lực và biết vượt qua các thử thách.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống: KNS là những KN mang tính cá nhân và xã hội cần thiết đối với các em HS, giúp các em có khả năng học tập tốt hơn, ứng xử một cách tự tin hơn, phù hợp với điều kiện các em sống, qua đó góp phần hoàn thiện bản thân trước những đòi hòi của cuộc sống. Theo đó nhóm KN chính sau đây cần được giảng dạy và rèn luyện cho các em:
- Nhóm KN nhận biết và sống với chính mình.
KN tự nhận thức: Là KN đòi hỏi mỗi em HS, trước hết, cần phải tự nhận biết và hiểu rõ bản thân, hiểu rõ những tiềm năng, tình cảm, những xúc cảm cũng như vị trí của các em trong cuộc sống và xã hội, cả những mặt mạnh và mặt yếu của các em nữa. Khi các em nhận thức được khả năng của mình, các em có khả năng sử dụng các KNS khác một cách có hiệu quả và có khả năng lựa chọn những gì phù hợp với các điều kiện sẵn có với bản thân, với xã hội mà các em sống và với khả năng của bản thân các em nữa. Các em cũng cần có sự hiểu biết rõ ràng về bản sắc dân tộc và nền văn hóa mà từ đó các em đã được sinh ra và cũng chính nền văn hóa đó đã tạo nên con người các em.
Lòng tự trọng: Sự tự nhận thức đưa đến sự tự trọng. Khi các em tự nhận thức được năng lực tiềm tàng của bản thân và vị trí của mình trong cộng đồng thì lòng tự trọng được mô tả như là ”sự nhận thức những điều tốt đẹp của bản thân”. Nó còn đề cập đền việc các em cảm nhận như thế nào những khía cạnh mang tính cá nhân như diện mạo, khả năng và hành vi… và các em sẽ phát triển như thế nào trên cơ sở những kinh nghiệm bản thân đề trở nên thành thạo và thành công khi làm những điều mà các em dự định.
Tuy nhiên, lòng tự trọng bị ảnh hưởng một cách mạnh mẽ bởi mối quan hệ của các em với những người khác. Những người lớn tuổi có ảnh hưởng đến các em như bố mẹ, các thành viên trong gia đình, thầy cô giáo và cà bạn bè đồng lứa có thể hoặc trợ giúp nhằm phát triển hoặc làm mất sự tự trọng của các em qua những mối quan hệ, tiếp xúc của họ đối với các em.
Sự kiên quyết: Sự kiên quyết hay tính kiên định có nghĩa là nhận biết được những gì bản thân các em muốn và tại sao lại muốn, đồng thời là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì bản thân các em muốn trong những hoàn cảnh cụ thể bao gồm một loạt các tình huống khác nhau như: từ chối sự tán tỉnh, cám dỗ; thuyết phục người khác đồng thuận theo mình; nêu gương, kêu gọi, hướng dẫn mọi người làm những việc có lợi cho cộng đồng… Tuy nhiên, cách thể hiện tính kiên định có liên quan đến văn hóa và việc lắng nghe, đánh giá những điều người khác cảm nhận và mong muốn bởi vì kiên định là biết được nhu cầu và quyền của các em, cũng như điều các em mong muốn và thực hiện những điều đó có xét tới nhu cầu, quyền và mong muốn của người khác. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Đương đầu với cảm xúc: Xúc cảm là sự phản ánh rõ nét bản chất của mỗi em HS. Những cảm xúc như sợ hãi, yêu thích, e thẹn, phẫn nộ, mong muốn được thừa nhận… hoàn toàn mang tính chủ quan và thường có là do đáp ứng một cách tức thời đối với tình huống. Vì thế mà chúng không thể đoán trước được và có thể dễ dàng đưa các em đến những hành vi mà sau này sẽ phải hối tiếc.
Do vậy, việc xác định và sau đó là đối phó với những cảm xúc là khả năng cho thấy rằng các em có thể nhận thấy và phải tính đến những xúc cảm của các em cùng nguyên nhân cụ thể của chúng để có những quyết định chế ngự, không để cho những cảm xúc của bản thân chi phối.
Đương đầu với căng thẳng (KN ứng phó với stress): Căng thẳng là một phần hiển nhiên của cuộc sống. Những vấn đề trắc trở của bản thân, của bạn bè thân thiết, của các thành viên trong gia đình; những mối quan hệ bị đổ vỡ… là những minh họa các tình huống gây căng thẳng trong cuộc sống của các em. Trong những mức độ hữu hạn, khi các em có khả năng đương đầu với sự căng thẳng thì căng thắng lại có thể là một nhân tố tích cực bởi vì chính những sức ép của sự căng thẳng đó buộc các em phải tập trung vào công việc của mình và hưởng ứng một cách thích hợp. Tuy nhiên, sự căng thắng còn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống của các em nếu sự căng thẳng đó quá lớn và không giải toả nổi. Do đó, cũng như KN đối phó với cảm xúc, các em HS cần phải có khả năng nhận biết sự căng thẳng, nguyên nhân và hậu quả cũng như biết cách khắc phục nó.
- Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với những người xung quanh
Mối quan hệ giữa các cá nhân: Các mối quan hệ là bản chất của cuộc sống. Chúng có hình thái và quy mô khác nhau. Khi các em lớn lên, các em phải phát triển các mối quan hệ với những người lớn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của các em như bố mẹ, họ hàng, láng giềng, thầy cô giáo… với những con người mà các em gặp gỡ trong cuộc sống như bạn bè của bố mẹ, những người bản hàng, những nhà lãnh đạo địa phương… với bạn bè đồng lứa trong và ngoài trường lớp. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể là bạn bè tốt, thân thiết, ngang hàng được. Các em cần phải biết cách đối xử một cách phù hợp trong từng mối quan hệ để chúng có thể phát triển tối đa tiềm năng sẵn có trong môi trường của chúng.
KN thiết lập tình bạn: Mỗi em HS cần có nhiều bạn để cùng chia sẻ các hoạt động, niềm hy vọng, sự sợ hãi, chia sẻ cuộc sống và cả tham vọng. Việc thiết lập tình bạn bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất của cuộc đời. Vì vậy, các em cần phải nhận biết rằng tình bạn được hình thành như thế nào và phải thiết lập, phát triển tình bạn ra sao để cả hai bên cùng đạt được những lợi ích chân chính.
Các em cần phải có khả năng nhận biết, để khi cần thiết, mạnh dạn khước từ kiểu tình bạn có thể đưa các em đến những hành vi nguy hiểm hoặc phạm tội như hành vi sử dựng ma túy, trộm cắp..
Sự cảm thông (KN thấu cảm): là khả năng tự đặt mình vào vị trí của người khác khi các em phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng do hoàn cảnh hoặc do những hành động của chính bản thân các em gây ra để hiểu được tình cảnh của các em và tìm ra cách giảm bớt gánh nặng bằng sự chia sẻ chân tình với người đó thay vì lên án, thương hại hoặc coi khinh họ với bất kỳ lý do nào. Cảm thông cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự quyết định và đứng vững trên đôi chân của họ một cách nhanh chóng nhất. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè: Đối với các em HS trường THCS, sức ép để bản thân được giống như các thành viên khác trong nhóm bạn là rất lớn. Vì vậy, đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè cùng lứa là một KN rất quan trọng. Nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những việc làm trái ngược của bạn bè cùng lứa khi họ gây ảnh hưởng và thói quen xấu của bản thân cần phải dũng cảm khước từ, phản đối, dừng ngay những đề xuất không thể chấp nhận được đó, kiên quyết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân, cho dù có thể bị chế nhạo, để dọa hoặc ghẻ lạnh từ nhóm bạn đó.
KN thương lượng: là một KN quan trọng trong mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. KN này có liên quan đến tính kiên định, sự cảm thông và mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân cũng như khả năng thoả hiệp những vấn đề không có tính nguyên nhân tắc của bản thân. KN thương lượng còn liên quan đến khả năng đương đầu với những áp lực, sự để dọa của hoàn cảnh, những rủi ro tiềm tàng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau kể cả sức ép của bạn bè. Cần phải nhận định rõ vị trí của cá nhân và thiết lập sự hiểu biết lẫn nhau trong các mối quan hệ để có KN thương lượng tốt.
KN giải quyết xung đột không dùng bạo lực: là KN có liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, KN thương lượng và các KN đương đầu với xúc cảm, với căng thẳng, lo âu. Xung đột là điều không thể tránh khỏi và đôi khi lại là điều cần thiết, KN giải quyết xung đột không dùng bạo lực sẽ giúp cho những xung đột trở nên có tính xây dựng.
KN giao tiếp có hiệu quả: Giao tiếp là bản chất của các mối quan hệ của con người. Do vậy, một trong những KNS quan trọng nhất là khả năng giao tiếp một cách có hiệu quả với mọi người. Khả năng này bao gồm cả KN lắng nghe và hiểu được người khác thực hiện việc giao tiếp của họ như thế nào cũng như nhận biết được nhiều cách giao tiếp của họ khác nhau ra sao.
- Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả
Tư duy phê phán: Như đã nêu, các em lớn lên trong thế giới ngày nay phải đối đầu với nhiều vấn đề, sự mong đợi, những đòi hỏi đa dạng, phức tạp và trái ngược của bố mẹ, thầy cô, bạn bè… phải tiếp nhận, đáp ứng nhiều thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng, của các nhà lãnh đạo, của quảng cáo, của âm nhạc, tôn giáo… Vì thế, các em cần phải có khả năng phân tích, gạn lọc, phê phán để có được quyết định phù hợp.
Tư duy sáng tạo: Trong cuộc sống, các em thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ và bất thường. Do vậy, các em cần phải có tư duy sáng tạo nghĩa là có khả năng tiếp cận với sự việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới để có thể có một hoặc nhiều phương cách đáp ứng lại những hoàn cảnh đó một cách phù hợp.
KN ra quyết định: Mỗi ngày, mỗi người đều phải đứng trước những lựa chọn để ra những quyết định. Có những quyết định tương đối đơn giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm trọng đến định hướng cuộc sống nhưng cũng có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, đến tương lai cuộc đời. Do đó, khi không thể đáp ứng liền một lúc những nhu cầu khác nhau, các em cần có khả năng lựa chọn để ra một quyết định có hiệu quả, đồng thời phải ý thức được các tình huống có thể xảy ra, phải lường được những hậu quả trước khi ra quyết định từ sự lựa chọn của mình.
KN giải quyết vấn đề: là khả năng xem xét tình hình một cách cẩn thận, phân tích những vấn đề gì đang tồn tại và xác định các bước nhằm cải thiện tình hình. Đây là KN có liên quan đến KN ra quyết định và nhiều KN khác. Chỉ khi trải qua thực hành việc ra quyết định và giải quyết vấn đề thì các em mới có thể xây dựng được những KN cần thiết để có thể có những lựa chọn tốt nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà các em phải đương đầu. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
- Phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở.
Có 2 cách tiếp cận trong GD kỹ năng:
- Thứ nhất, các hoạt động tập trung vào KNS cốt lõi, theo cách này và bằng các hoạt động với chủ đề theo mục tiêu rèn những kỹ năng cụ thể người học sẽ được trải nghiệm và hiểu và dần hình thành các kỹ năng cần thiết, vận dụng có hiệu quả trong quá trình xử lý các vấn đề gặp phải trong cuộc sống hàng ngày.
- Thứ hai, mỗi kỹ năng đều gắn với một vấn đề hay nảy sinh trong cuộc sống và giải quyết những vấn đề đó cần phải vận dụng những KNS khác nhau.
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động GD KNS cho HS THCS mỗi người GV cần thực hiện linh hoạt các phương pháp sau:
Phương pháp động não: Là phương pháp giúp cho người học trong thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Phương pháp nghiên cứu tình huống: Nghiên cứu tình huống thường là những câu chuyện được viết ra nhằm tạo tình huống thật để từ đó chứng minh cho một ví dụ cụ thể.
Phương pháp trò chơi: Là tổ chức cho HS chơi trò chơi nào đó để qua đó tìm hiểu một vấn đề, thể hiện thái độ đồng tình hoặc không đồng tình về một hành động hoặc việc làm nào đó.
Phương pháp nhóm: Là tổ chức để mọi người cùng tham gia trao đổi hay cùng chia sẻ công việc trong một nhóm người nhỏ để tạo cơ hội cho mỗi thành viên biết cách hợp tác, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến.
Phương pháp đóng vai: Là phương pháp tổ chức cho HS thực hành đóng vai một nhân vật nào đó để đưa ra những giải pháp trong một tình huống giả định được đưa ra.
Phương pháp trải nghiệm sáng tạo: Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà GD, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường
Phương pháp trải nghiệm sáng tạo: Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
- Hình thức, biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở.
GD KNS cho HS trường THCS cần phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương. Có thể nêu một số hình thức biện pháp sau: lồng ghép vào chương trình học tập và rèn luyện chính khoá; tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong nhà trường và ở các địa phưong; tổ chức các hoạt động của Đoàn, Đội; thông qua các hoạt động thực tế ở gia đình; hướng dẫn, giúp đỡ của người thân, thầy cô giáo…
- Giáo dục trong nhà trường:
GD KNS được tích hợp nội dung GD vào chương trình giảng dạy các môn thông qua dạy học ở trên lớp. Tùy nội dung chương trình môn học, từng loại hoạt động, GV có thể lựa chọn các kỳ năng phù hợp để tích hợp lồng ghép.Tổ chức dạy học trên lớp theo hướng lồng ghép, tích hợp nội dung GS KNS trong chương trình dạy học trên lớp với các môn học trong chương trình không chỉ thực hiện được các mục tiêu bài học gắn với môn học mà còn giúp học sinh hiểu, trải nghiệm được kỹ năng gắn với bài học. Trên cơ sở đó HS THCS hình thành được các kỹ năng cần thiết cho bản thân.
Để dạy học tích hợp đáp ứng động cơ nội tại của HS thì yêu cầu GV phải có năng lực, kỹ năng thiết kế bài giảng theo hướng lồng ghép, tích hợp; biết cách xác lập mục tiêu bài giảng và nội dung GD KNS dự kiến đưa vào bài giảng; GV cần có những phản hồi tích cực đối với HS, giúp học sinh có nhiều cơ hội học tập và thể hiện các kỹ năng giải quyết vấn đề.
Giáo dục thông qua HĐGD NGLL là hình thức GD vừa củng cố, vừa phát triển quan hệ giao tiếp và hoạt động giữa các lớp trong trường và cộng đồng xã hội, vừa thu hút sự tham gia vào quá trình GD HS của các lực lượng xã hội và gia đình nhằm nâng cao chất lượng GD HS. Trong HĐ GD KNS cần phát huy tốt vai trò tổ chức Đoàn, Đội mà nhất là giáo viên tổng phụ trách trong việc rèn luyện các KNS cho HS THCS qua các phong trào, các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm của Đội TNTP. Hoạt động của Đoàn, Đội rất phù hợp với lứa tuổi HS THCS nên có sức cuốn hút HS tham gia tích cực và hiệu quả GD sẽ nâng lên.
HĐGD NGLL tạo điều kiện cho HS thực hành và tăng cường những kỹ năng tâm lý xã hội, giúp HS củng cố, mở rộng tri thức, hình thành thái độ tình cảm, có những hành vi đúng, có kỹ năng cần thiết để phát triển nâng cao chất lượng cuộc sống và ngăn ngừa các vấn đề tiêu cực của xã hội. HĐGD NGLL giúp HS THCS bổ sung những tri thức được học trên lớp, rèn luyện, thực hành các kỹ năng và hoàn thiện bản thân.
Tổ chức các HĐ ngoại khóa, tích hợp GD KNS: Các hoạt động ngoại khóa như tham gia các hoạt động tình nguyện, thăm quan, du lịch; thăm các khu di tích lịch sử, truyền thống; làng nghề; tìm hiểu về các danh nhân; các nhà khoa học… có ý nghĩa rất quan trọng trong việc GD KNS cho HS. Các HĐ này giúp cho HS tiếp cận với thực tế giải quyết tình huống thực tiễn trong đời sống, qua đó rèn luyện tính kỷ luật, phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong hoạt động, cách làm việc độc lập, cách làm việc theo nhóm. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
- Giáo dục ngoài nhà trường:
Ngoài thời gian ở trường, HS có một khoảng thời gian dài ở gia đình, chịu sự tác động rất lớn từ gia đình, do vậy những KNS cũng sẽ hình thành nhiều từ gia đình. Mặt khác, những KNS được tiếp thu, hình thành từ gia đình sẽ được củng cố, vận dụng khá lớn trong môi trường gia đình. Như vậy trong GD KNS, nhà trường, GV cần có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình, phát huy vai trò của CMHS trong quá trình rèn luyện kỹ năng cho HS ở phạm vị ngoài nhà trường.
Ngoài việc kết hợp với gia đình, hoạt động GD KNS bên ngoài nhà trường còn được phối hợp với với các tổ chức đoàn thể xã hội và các cá nhân nhằm tạo mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc GD học sinh góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, GD nhân cách cho người học có nội dung phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của người học, phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
1.2. Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở
1.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Lịch sử phát triển của loài người từ khi có sự phân công lao động đã xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù, đó là tổ chức, điều khiển các hoạt động lao động theo những yêu cầu nhất định đó là hoạt động quản lý.
Ngày nay, thuật ngữ “Quản lý” trở nên phổ biến, mọi hoạt động của tổ chức, xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý là một hoạt động diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên quan đến mọi người. Quản lý trở thành một khoa học, một nghệ thuật và là một nghề trong xã hội hiện đại – nghề quản lý. Chính vì vậy mà lý luận về quản lý ngày càng phong phú và phát triển.
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý, cụ thể như sau:
Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có ghi: “Quản lý là phụ trách việc chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức” [11, tr.555].
Còn theo Nguyễn Ngọc Quang (1989), nhà sư phạm, người góp phần đổi mới lý luận dạy học, đã nêu về khái niệm quản lý trong tập bài giảng “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục” như sau: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động để đạt được mục tiêu” [16, tr.130]
Trần Kiểm (1997), trong giáo trình “ Quản lý giáo dục và trường học” dùng cho học viên cao học chuyên ngành Giáo dục học đã viết: “ Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội” [9, tr.15] Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Còn Nguyễn Bá Sơn (2000), trong tác phẩm “ Một số vấn đế cơ bản về khoa học quản lý” đã viết: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động” [ 18, tr.15].
Nhà sư phạm Nguyễn Ngọc Quang (1989), trong tác phẩm của mình đã nêu: “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [16, tr.131].
Như vậy, có thể nói: “ Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức( chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”.
Tóm lại, quản lý là một khoa học vì nó nghiên cứu, phân tích về công việc quản lý, các quan hệ quản lý trong các tổ chức. Nó tổng quát hóa các kinh nghiệm tốt thành các nguyên tắc và lý thuyết áp dụng cho mọi hình thức quản lý tương tự. Nó cung cấp khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc nghiên cứu các môn học về quản lý. Để quản lý cho hiệu quả, nhà quản lý phải linh hoạt vận dụng các lý thuyết vào những tình huống cụ thể. Nó đòi hỏi sự khôn khéo tinh tế cao để đạt tới mục tiêu. Nghệ thuật này chủ yếu phải được học ngay trong thực tiễn.
Hoạt động của quản lý về bản chất là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách thực hiện các chức năng quản lý. Chức năng của quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý. Những chức năng cơ bản của quản lý gồm:
Lập kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS: là công việc hoạch định, gồm xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và xác định con đường, biện pháp, cách thức và các điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đó.
Tổ chức quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS: Là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và nguồn lực cho các bộ phận, các thành viên của tổ chức để họ có thể hoạt động và đạt được các mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả. Ứng với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc tổ chức của đơn vị cũng khác nhau. Người quản lý cần lựa chọn cấu trúc tổ chức cho phù hợp với những mục tiêu và nguồn lực hiện có. Chức năng của tổ chức bao gồm trong nó việc lập kế hoạch, chỉ đạo thực hiện và việc kiểm tra, nó xuyên suốt từ đầu đến cuối quá trình quản lý.
Lãnh đạo, điều hành quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS: Là quá trình tác động, huy động và giúp đỡ những cán bộ dưới quyền thực hiện những nhiệm vụ được phân công. Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người làm cho họ tự nguyện và nhiệt tình tự giác, nỗ lực phấn đấu đạt các mục tiêu của tổ chức.
Kiểm tra, đánh giá quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS: Kiểm tra là chức năng của quản lý nhằm đánh giá, phát hiện và điều chỉnh kịp thời giúp cho tổ chức vận hành tối ưu, đạt mục tiêu đề ra. Đó là những hoạt động của chủ thể quản lý nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch trên thực tế, tìm ra những mặt ưu điểm, mặt hạn chế, phát hiện những sai lệch, đề ra biện pháp điều chỉnh kịp thời. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Tóm lại, các chức năng quản lý kế tiếp và độc lập với nhau chỉ là tương đối mà các chức năng của quản lý mối quan hệ biện chứng chặt chẽ tùy theo thời điểm, nội dung mà một số chức năng có thể tiến hành đồng thời, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau.
1.2.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở.
Quản lý GD KNS là hoạt động của CBQL nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV, HS và các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực xã hội để nâng cao chất lượng GD KNS cho các em trong nhà trường.
Quản lý GD KNS chính là những công việc của nhà trường mà người CBQL trường học thực hiện những chức năng quản lý để tổ chức, thực hiện công tác GD KNS. Đó chính là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động GD KNS cho các em HS trong nhà trường nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà tiêu điểm là quá trình GD và dạy KNS cho các các HS.
Tác giả Đặng Minh Sự [17] chỉ rõ: “Quản lý GD KNS trong nhà trường là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS, các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động GD KNS cho các em HS nhằm hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD và rèn luyện KNS phù hợp với yêu cầu công việc học tập, điều kiện sống cụ thể của từng em”.
Quản lý GD KNS cho HS trường THCS là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp được hình thành có chọn lọc theo từng nhóm HS và mang tính cá thể hóa rất cao. Để việc quản lý GD KNS cho HS có hiệu quả, đội ngũ CBQL, trước hết là BGH nhà trường cần tổ chức phối hợp chặt chẽ các LLGD: Hội đồng sư phạm, tổ chức Đoàn, Đội, ban đại diện cha mẹ HS, và các LLGD khác ngoài cộng đồng và xã hội. Nhà trường phải là chiếc cầu nối giữa gia đình và xã hội để GD HS, trên cơ sở xác định cụ thể những giá trị và mức độ phù hợp với tâm, sinh lý, độ tuổi của HS trường THCS. Hiện nay, khi Bộ GD&ĐT chưa có chương trình GD kỹ năng sống thống nhất cho toàn quốc, mỗi nhà trường cần thống nhất chương trình GD theo từng cấp độ ở các khối lớp, quy định thời lượng, nội dung GD riêng cho từng khối lớp. Hiệu trưởng cần đặc biệt quan tâm đến nội dung, hình thức giờ chào cờ, giờ, sinh hoạt lớp để tích hợp GD giá trị sống thích hợp; xây dựng kế hoạch GD giá trị sống cho từng đối tượng trong nhà trường, đồng thời thường xuyên điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp trong quá trình thực hiện; lấy đội ngũ GV làm nòng cốt để đề xuất, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện sao cho nhà trường luôn ở thế chủ đạo và quyết định, còn HS luôn giữ vai trò chủ động, tự tin trong học tập, tu dưỡng.
1.2.1.3.Vai trò của hiệu trưởng trong quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Quản lý giáo dục KNS cho HS trường THCS là tác động có mục đích, định hướng của các nhà quản lý (hiệu trưởng) thông qua quản lý đầu vào, quá trình, đầu ra trong một bối cảnh cụ thể đến đối tượng quản lý (quá trình giáo dục cùng giáo viên và học sinh) nhằm đạt được mục tiêu quản lý giáo dục KNS cho HS trường THCS đã đặt ra.
Quản lý kế hoạch GD KNS cho HS trường THCS: Quản lý kế hoạch GD KNS bao gồm quản Ịý việc xây dựng kế hoạch hoạt động thường xuyên, kế hoạch hoạt động theo chủ điểm, kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ GV, Giáo viên chủ nhiệm (GVCN), GV bộ môn…, cộng tác vìên GD KNS, kế hoạch đầu tư và sử dựng cơ sở vật chất (CSVC) cũng như các điều kiện thực hiện, kế hoạch phối hợp các LLGD, kế hoạch kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động GD KNS;
Quản lý về chương trình nội dung GD KNS: việc quản lý chương trình nội dung GD KNS bao gồm quản lý từ việc chỉ đạo đội ngũ xây dựng chương trình nội dung cho đến việc tổ chức thực hiện những nội dung đó và kiểm tra kết quả đạt được như thế nào;
Quản lý đội ngũ thực hiện GD KNS: Quản lý đội ngũ CBQL, đội ngũ GV, đội ngũ cán bộ Đoàn, Đội và các lực lượng thực hiện hoạt động GD KNS cho các em HS trường THCS; Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Quản lý sự phối hợp của các lực lượng thực hiện các hoạt động GD KNS: Các hoạt động GD KNS diễn ra trong nhà trường và ngoài nhà trường, các LLGD ảnh hưởng tới hoạt động đó là: các đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội trong nhà trường và ngoài nhà trường, phụ huynh, cộng đồng xã hội, các trung tâm bồi dưỡng KNS cho HS.
Quản lý việc kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động GD KNS: Cách đánh giá chất lượng GD đúng đắn, đầy đủ sẽ giúp nâng cao chất lượng GD, đáp ứng mục tiêu GD đề ra. Vì vậy, các sản phẩm giáo dục của con người phải được đánh giá trên các khía cạnh sau: chất lượng tri thức (văn hoá), chất lượng kỹ năng (kỹ năng sống), chất lượng thái độ (đạo đức). Kết quả cuối cùng của giáo dục được đánh giá qua hành vi, kỹ năng của HS.
Quản lý việc đầu tư, phát triển và sử dụng CSVC, trang thiết bị phục vụ cho quá trình GD KNS trong nhà trường cũng như của từng tổ chức, từng hoạt động cụ thể. Cần nắm rõ mức độ đáp ứng, khả năng tăng cường và tính hiệu quả của từng loại công cụ, phương tiện.
1.2.2. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở cần tập trung vào các nội dung sau:
1.2.2.1. Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở. -Xác định các căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn cho việc lập kế hoạch GD KNS. Đảm bảo kế hoạch được xây dựng dựa trên những căn cứ chắc chắn làm cơ sở cho quá trình tổ chức thực hiện.
Xác định thực trạng nhiệm vụ GD KNS của nhà trường: về nội dung đang thực hiện, cách thức thực hiện, cơ sở lý luận, kiến thức của đội ngũ GV về vấn đề GD KNS; các cơ sở vật chất cần thiết (máy vi tính, máy chiếu, bảng biểu, kết nối Internet..)
Xác định các nội dung nhiệm vụ cần thực hiện đế làm tốt công tác GD KNS cho HS. Với mỗi nhiệm vụ xác định chính xác đối tượng tham gia thực hiện, công việc cần thực hiện, các điều kiện về tài liệu, CSVC cần thiết để thực hiện công việc đó cũng như tiến độ thời gian cần thiết để hoàn thành công việc.
Dự kiến trước các chi phí vật chất phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch đối với nhà trường, các cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện và cả đối với tập thể, cá nhân học sinh. Xác định nguồn kinh phí huy động.
Thiết lập hệ thống chuẩn để kiểm tra đánh giá hoạt động, các quy định, quy chế cần thiết để đảm bảo kế hoạch được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả.
Nhiệm vụ lập kế hoạch được thực hiện chủ yếu bởi Phó hiệu trưởng nhà trường và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường. Quá trình thực hiện cần đảm bảo các vấn đề sau:
Có sự thống nhất chỉ đạo của Chi bộ đảng trường học, thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của hiệu trưởng.
Các thông tin cần thiết phải được thu thập từ thực tế nhà trường, do sự đóng góp của tất cả các thành viên trong nhà trường.
Phó hiệu trưởng nghiên cứu tìm hiểu nội dung chương trình sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kỹ năng ở các bộ môn, mục đích yêu cầu của nhiệm vụ GD KNS cho HS THCS. Đối chiếu các vấn đề trên với thực trạng hoạt động GD KNS của nhà trường để lập kế hoạch một cách khoa học, hợp lý và khả thi. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Kế hoạch cần được công khai để nhận được sự đóng góp của các thành viên hội đồng và được sự phê duyệt của hiệu trưởng trước khi triển khai thực hiện.
1.2.2.2. Tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở.
Tổ chức thực hiện kế hoạch tức là hiện thực hóa kế hoạch. BGH nhà trường căn cứ vào kế hoạch đã được xây dựng để bố trí, sắp xếp một cách hợp lí, tạo ra các mối quan hệ trên – dưới; quan hệ đồng đẳng hợp tác cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu đã định.
Mục đích: Triển khai kế hoạch, đưa kế hoạch vào thực tiễn.
Huy động và sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý nhất nhằm đảm bảo hiệu quả công tác giáo dục KNS.
Thống nhất cách thức thực hiện, nhiệm vụ cần thực hiện, các định hướng đạo thực hiện đối với mỗi cá nhân tại từng thời điểm khác nhau của năm học. Cụ thể:
Trước hết BGH nhà trường công khai kế hoạch “Nâng cao chất lượng công tác giáo dục KNS” tới từng cá nhân qua cả ba con đường: Bản tin nội bộ; họp triển khai trực tiếp và gửi email. Thời điểm thực hiện việc này là ngay trong tuần đầu tiên của năm học. Trong cuộc họp triển khai trực tiếp, BGH cần thông báo công khai chi tiết nhiệm vụ của các đối tượng có liên quan Phó hiệu trưởng: Cùng với các lực lượng giáo dục lập kế hoạch và trực tiếp tổ chức thực hiện kế hoạch. Xây dựng các cơ chế giám sát, kiểm tra cần thiết. Xây dựng các nội dung, chương trình phù hợp để giáo dục KNS cho học sinh trong trường và triển khai các tài liệu đó tới các GV.
Giáo viên chủ nhiệm các lớp: Là những thành viên chủ chốt thực hiện công tác giáo dục KNS cho học sinh. Là những người thiết kế các hoạt động và điều khiến học sinh thực hiện các hoạt động đó, qua đó truyền tải đến học sinh các thông điệp cần thiết và rèn luyện cho các em các KNS cần thiết. Các giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường, học sinh và gia đình học sinh, cung cấp những thông tin cần thiết cho việc điều chỉnh, bổ sung cho kế hoạch.
GV bộ môn, đặc biệt là môn giáo dục công dân: thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn của mình, đổi mới cách soạn bài, áp dụng tốt hơn các phương pháp dạy học tích cực, tiến hành tích hợp các địa chỉ giáo dục KNS trong môn học, phối hợp với các lực lượng giáo dục khác để làm tốt công tác giáo dục KNS cho các em học sinh.
1.1.2.3. Chỉ đạo quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở.
Trong chu trình quản lý hoạt động, người quản lý phải vừa thực hiện tổ chức thực hiện kế hoạch vừa đảm bảo rằng quá trình đó đi đúng hướng để đạt tới mục tiêu đã định, đó là nhiệm vụ của việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
Giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ của các GV và của chính người lập kế hoạch, đảm bảo rằng công tác GD KNS cho HS đang được thực hiện đúng kế hoạch đã định, hướng tới các mục tiêu xác định trước.
- Hướng dẫn các thành viên của nhà trường thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của mình. Giải thích, tìm hướng giải quyết đối với các vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch.
- Nhận các thông tin ngược để từng bước đánh giá hiệu quả của kế hoạch có sự điều chỉnh hợp lý.
- Thúc đẩy hoạt động của các cá nhân từ đó thúc đẩy hoạt động của nhà trường trong công tác GD KNS cho HS.
- Yêu cầu và phối hợp với hai tổ chuyên môn để có định hướng cho việc tích hợp GD KNS vào các môn học.
- Đưa vấn đề GD KNS vào nội dung đánh giá rút kinh nghiệm giờ dạy trong các giờ thao giảng.
Tổ chức các hoạt động ngoại khóa tập trung vào vấn đề GD KNS, các hoạt động chuyên đề có tích hợp GD KNS. Nhiệm vụ tổ chức các nội dung này thực hiện ít nhất 2 lần trong một học kỳ và lần lượt giao cho các tổ chuyên môn hướng vào các dịp kỷ niệm lớn trong năm học.
Tiến hành các buổi họp đánh giá rút kinh nghiệm từng giai đoạn của quá trình thực hiện kế hoạch, trong đó tổng hợp được các mặt mạnh hay các hạn chế đã thực hiện, rút kinh nghiệm bố sung điều chỉnh kế hoạch. Biếu dương cũng như nhắc nhở các GV một cách phù hợp với kết quả công việc của họ.
Phó hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ GD KNS phải bám sát nội dung nhiệm vụ, nắm vững từng bước thực hiện công việc, hiểu rõ ưu nhược điểm của từng cá nhân. Kịp thời nắm bắt thông tin và xử lý vấn đề đúng nguyên tắc quản lý và phù hợp với tính chất của từng vấn đề. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Từng cá nhân GV làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tìm hiểu nội dung công việc, tìm ra phương pháp thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình. Có ý thức phối hợp, hợp tác, kịp thời phản ánh thông tin chính xác về các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ với BGH.
GV tích cực áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, vừa nâng cao chất lượng dạy học, vừa có tác dụng giúp học sinh rèn luyện các nhóm KNS tự khẳng định giá trị bản thân và kỹ năng làm việc hợp tác.
Huy động và sử dụng hợp lý, đúng mục đích các nguồn lực.
1.1.2.4. Kiểm tra quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở.
Giám sát, kiểm tra: Kiểm tra trình độ chuyên môn – nghiệp vụ của GV, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm thông qua dự giờ trên lớp các tiết HĐ NGLL và các hoạt động GD trong nhà trường.
- Kiểm tra việc thực hiện chương trình HĐ NGLL, các hoạt động ngoại khóa theo sự phân công của BGH nhà trường.
- Xem xét cụ thể việc thực hiện nhiệm vụ và kết quả thực hiện của giáo viên, đối chiếu với những yêu cầu, tiêu chuẩn, những quy định để xem giáo viên đạt hay chưa đạt, làm tốt hay chưa tốt các nhiệm vụ được giao.
- Dự giờ các tiết GD HĐNGLL và các hoạt động ngoại khóa khác để đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp ở những tiết sau, những buổi ngoại khóa sau.
- Kiểm tra hồ sơ chuyên môn để đánh giá nề nếp hoạt động thường của GV, việc thực hiện quy chế chuyên môn. Trình độ nghiệp vụ sư phạm.
Đánh giá: Khi đánh giá giáo viên phải lưu ý thực hiện bằng hai hình thức:
- Nhận xét những ưu điểm, nhược điểm, thiếu sót của GV khi trao đổi và ghi tóm tắt vào hồ sơ kiểm tra.
- Đánh giá việc nắm vững chương trình, nội dung kiến thức, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của các lực lượng tham gia GD KNS cho HS.
- Đánh giá việc vận dụng các phương pháp để tổ chức các HĐ GD KNS.
Điều chỉnh
Đánh giá chính xác và khách quan là một biện pháp giúp đỡ đối tượng, nhưng để giúp đỡ có hiệu quả hơn thì không chỉ dừng lại ở việc đánh giá, người kiểm tra cần có nhiệm vụ tư vấn cho GV, chỉ ra cho họ các biện pháp để nâng cao chất lượng GD KNS. Cần chỉ cho GV thấy những vấn đề hiểu chưa đúng, làm chưa được, trong việc thực hiện nhiệm vụ, những chỗ chưa hợp lý trong việc sử dụng những phương pháp tổ chức các hoạt động GDKNS.
Để đạt được kết quả tư vấn cao thì khi trao đổi phải trên tinh thần đồng nghiệp, chân tình. Nội dung tư vấn phải dựa trên thực tế đã quan sát được khi kiểm tra; phải trân trọng những thành tích, những sáng kiến, mặt tiến bộ của GV, những nội dung góp ý phải đúng với thực tế, không mang tính áp đặt, phải có tính khả thi, phù hợp với hoàn cảnh công tác của GV, giải đáp được những băn khoăn, thắc mắc của GV. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Tóm lại: Quản lý GD KNS là công việc mà người quản lý trong nhà trường thực hiện chức năng quản lý để tổ chức, thực hiện công tác GD KNS một cách có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới các GD KNS trong nhà trường nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ GD toàn diện của nhà trường.
Quản lý GD KNS trong nhà trường được hiểu như là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS, các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm huy động và phối hợp sức lực và trí tuệ vào mọi HĐ GD KNS của nhà trường hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD và rèn luyện KNS cho HS theo mục tiêu đã đề ra hay có thể nói quản lý GD KNS chính là quản lý kế hoạch, nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức, hình thức kiểm tra, đánh giá, sự phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện các nhiệm vụ GD KNS cho HS.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở
- Tác động của các yếu tố về chủ trương chính sách, cơ chế quản lý của nhà nước với giáo dục trung học cơ sở
Chủ trương, chính sách và cơ chế quản lý của nhà nước đối với loại hình trường trung học cơ sở là yếu tố khách quan có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động giáo dục ở trường THCS trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Sự phát triển của trường trung học cơ sở nói chung và các hoạt động giáo dục ở trường THCS Nam Phong huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội nói riêng luôn gắn liền và chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ các văn bản pháp quy của nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bản pháp quy về giáo dục THCS bao gồm các thông tư về việc tổ chức và hoạt động ở trường trung học cơ sở, các quy chế quản lý hoạt động, quản lý đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, quy chế về giáo dục KNS ở trường THCS và các thông tư hướng dẫn về một số vấn đề về tài chính, sử dụng tài chính ở trường THCS. Tất cả các văn bản quy chế, thông tư này đều mang tính pháp lý để các trường THCS tổ chức và thực hiện. Các văn bản pháp lý của nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo có tác động, ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình giáo dục KNS ở trường trung học cơ sở. Thiếu các văn bản đó hoặc hiểu chưa đúng sẽ dẫn đến việc tổ chức hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục KNS nói riêng ở trường trung học cơ sở đi không đúng hướng.
- Tác động của yếu tố kinh tế-xã hội trong giai đoạn hiện nay
Điều kiện kinh tế văn hóa, xã hội ở địa phương; sự ủng hộ và mối quan hệ gắn kết của các cấp chính quyền địa phương với trường THCS; trình độ dân trí của cộng đồng dân cư là các yếu tố khách quan trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của trường trung học cơ sở, trong đó có giáo dục KNS cho học sinh. Đặc biệt, bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay có tác động rất lớn đến thay đổi quan niệm GDKNS cho học sinh.
Đặc trưng của giai đoạn hiện nay là sự phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin vào các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quản lý giáo dục KNS ở trường THCS vì Internet đang tác động đến nhận thức, lối sống và hành vi đạo đức của học sinh cả về mặt tích cực lẫn về mặt tiêu cực. Công nghệ thông tin cũng tạo thuận lợi quản lý các chương trình giáo dục chính khóa và ngoại khóa, đem lại các tác động trực tiếp cho học sinh, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn và vận dụng được các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Nhờ vậy việc quản lý giáo dục KNS sẽ có chất lượng và hiệu quả hơn. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
- Mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục
Mục tiêu giáo dục THCS là yếu tố đầu tiên có tính định hướng cho công tác giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh THCS. Nếu không bám sát mục tiêu giáo dục ở bậc THCS và không xác định được yêu cầu của việc giáo dục KNS cho học sinh thì các hoạt động giáo dục KNS cho học sinh sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Luật Giáo dục năm 2005, điều 27 đã nêu rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Yêu cầu về nội dung và phương pháp giáo dục THCS nói chung và của THCS Nam Phong nói riêng được đặt ra như sau:
Về nội dung giáo dục: Bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp, có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, đáp ứng mục tiêu ở mỗi cấp học.
Về phương pháp giáo dục: Giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
- Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trường trung học cơ sở
Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý giáo dục KNS cho học sinh. Vì muốn quá trình quản lý đạt được mục tiêu thì chủ thể quản lý phải hiểu được tâm sinh lý lứa tuổi của đối tượng quản lý.
Lứa tuổi học sinh trường trung học cơ sở bao gồm những em ở độ tuổi từ 11, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường trung học cơ sở. Các em sinh ra vào thời điểm đổi mới của đất nước. Thế hệ các em là sản phẩm của thời kỳ đổi mới. Các em bước vào cuộc sống lập thân, lập nghiệp, trở thành nguồn lực chủ yếu của Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa trong những thập kỷ đầu của thế kỉ XXI. Do đó, những nhà quản lý, người làm công tác giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở phải đặc biệt coi trọng giáo dục truyền thống dân tộc và cách mạng để giáo dục KNS cho trẻ em.
Học sinh ở lứa tuổi này phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể. Các em phát triển rất nhanh. Trọng lượng cơ thể và các hệ xương phát triển nhanh, tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng), thường dẫn đến rối loạn của hệ thần kinh. Ở lứa tuổi này, hành vi của các em dễ có tính tự phát, tính cách của các em thường có những biểu hiện thất thường. Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cơ hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển: Thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức,.của thời kỳ này. Cho nên các nhà quản lý, các lực lượng tham gia giáo dục KNS cho học sinh trường trung học cơ sở cần phải chú ý tới những đặc điểm đó của học sinh cả về mặt tích cực lẫn mặt hạn chế, nhược điểm để hướng dẫn, giáo dục các em học sinh không để học sinh rơi vào sư phát triển tự phát. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn – điều này do hoàn cảnh sống và hoạt động khác nhau của các em tạo lập nên. Như vậy sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của thiếu niên ở trong gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên. Các em ý thức được sự thay đổi và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự thay đổi đó.
Do đó, đặc điểm tâm sinh lý, nhân cách của học sinh trường trung học cơ sở được hình thành và phát triển phong phú hơn so với lứa tuổi trước (tiểu học). Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên, giúp chúng ta cách đối xử đúng đắn và giáo dục để các em có một nhân cách tốt.
Học sinh trường trung học cơ sở không chỉ nhận thức cái tôi của mình trong hiện tại mà lại nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai; có thể nhận thức được những phẩm chất nhân cách được bộc lộ rõ. Việc tự phân tích những phẩm chất nhân cách của bản thân là dấu hiệu cần thiết của một nhân cách đang chuẩn bị trưởng thành và là tiền đề của sự tự giáo dục. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý giáo dục cần biết đến sự ảnh hưởng của tâm lí lứa tuổi học sinh để tôn trọng ý kiến của học sinh, biết lắng nghe ý kiến của các em, đồng thời phải đưa ra các hình thức, sử dụng các phương pháp khéo léo để giáo dục KNS cho các em học sinh.
- Trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ giáo viên dạy ở trường THCS đều có trình độ tốt nghiệp từ cao đẳng sư phạm trở lên. Giáo viên đều được đào tạo kiến thức về giáo dục học, nghiệp vụ sư phạm, được tiếp xúc làm quen với các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Với yêu cầu của xã hội, trong thời kỳ đổi mới của đất nước, đội ngũ giáo viên luôn tích cực trau dồi kiến thức và nghiệp vụ sư phạm, học tập về công nghệ thông tin, biết khai thác tài nguyên phục vụ dạy học trên Internet và sách báo, yêu nghề mến trẻ, yên tâm với công việc, gắn bó với lớp, với trường. Điều này được thể hiện trong các bài giảng còn thiếu tính thực tiễn, cứng nhắc trong việc xử lý tình huống sư phạm, thiếu sự quan tâm uốn nắn hành vi của học sinh, ngại trong việc tham gia các hoạt động chung của nhà trường mà nhất là hoạt động giáo dục KNS cho học sinh. Vì thế, các nhà quản lý giáo dục nói chung, ban giám hiệu nhà trường nói riêng cần phải có kế hoạch, chương trình và các yêu cầu trong công tác giáo dục tư tưởng, trình độ nhận thức của giáo viên về nghề nghiệp, nhất là về giáo dục KNS cho học sinh. Việc “dạy chữ, dạy người” là những yêu cầu cần phải được thực hiện liên tục và xuyên suốt, mọi nơi, mọi lúc trong tư tưởng của mỗi người thầy. Chỉ khi nào đội ngũ giáo viên nhận thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc dạy học và giáo dục học sinh thì công tác giáo dục KNS mới đạt hiệu quả như mong muốn. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
- Nhận thức của các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục KNS cho học sinh trung học cơ sở
Nhận thức của các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục KNS cho học sinh là một trong những điều kiện quan trọng chi phối hoạt động giáo dục KNS cho học sinh. Nhận thức của các lực lượng tham gia giáo dục KNS cho học sinh THCS được đánh giá bởi các vấn đề sau: Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên về sự cần thiết phải giáo dục KNS cho học sinh; Hiểu thế nào là KNS? Ý nghĩa, vai trò của giáo dục KNS cho học sinh THCS trong giai đoạn hiện nay, nhất là trước sự phát triển và hội nhập của đất nước; Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, Đội TNTP HCM, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên các bộ môn; Vai trò, trách nhiệm của gia đình, của các tổ chức xã hội và mối quan hệ giữa nhà trường – gia đình – các tổ chức xã hội trong việc giáo dục KNS cho học sinh THCS.
Tuy nhiên, trình độ nhận thức của các lực lượng tham gia quản lý và giáo dục KNS cho học sinh không đồng đều, do đó sự tham gia của các lực lượng trong các hoạt động giáo dục sẽ khác nhau. Vì vậy, đòi hỏi hiệu trưởng trường THCS tổ chức các hoạt động cần có sự tuyên truyền vận động, hướng dẫn, động viên khuyến khích kịp thời tới các lực lượng tham gia giáo dục KNS thì công tác giáo dục KNS cho học sinh mới được nâng tầm và đạt hiệu quả như mục tiêu giáo dục đề ra.
- Các điều kiện cơ sở vật chất và tài chính
Song song với việc tạo dựng “môi trường sư phạm thân thiện” nhà trường còn cần đến cơ sở vật chất đầy đủ, cảnh quan nhà trường “xanh- sạch – đẹp”, đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu giáo dục, rèn luyện phát triển nhân cách học sinh.
Cơ sở vật chất và các thiết bị trường học là điều kiện, là phương tiện thiết yếu để tổ chức quá trình giáo dục. Nhà trường có đủ diện tích mặt bằng theo quy định, có quang cảnh môi trường sạch sẽ, phòng học xây dựng đúng quy cách, có trang thiết bị kĩ thuật đồng bộ để phục vụ cho dạy và học ở tất cả các môn học, thư viện đủ sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo, có sân chơi, bãi tập, vườn trường … đó là một trường học có đầy đủ cơ sở vật chất. Cùng với các hoạt động giáo dục khác, giáo dục KNS cho học sinh phải có đủ điều kiện tổ chức và phương tiện tốt để tổ chức các hoạt động. Thiết bị tối thiểu để tổ chức các hoạt động là: âm ly, loa đài, đầu video, đàn, dụng cụ thể thao và kinh phí hoạt động. Nhà trường cần đảm bảo các điều kiện vật chất để tập thể giáo viên và học sinh hoàn thành các nhiệm vụ của mình với chất lượng cao.
- Những yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay
KNS của người học là một biểu hiện của chất lượng GD. Trong mục tiêu 6 của kế hoạch hành động về GD cho mọi người KNS được coi là một khía cạnh của chất lượng GD, đánh giá chất lượng GD cần tính đến những tiêu chí đánh giá KNS của người học. Điều đó có nghĩa là tiến hành GD KNS để nâng cao chất lượng GD. Giáo dục KNS là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt đáp ứng nhu cầu của người học là có năng lực để đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân.
Tiểu kết chương Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
Công tác GD KNS cho HS hiện nay là một nhiệm vụ hết sức quan trọng cần thiết trong nhà trường phổ thông. Đây là một công tác có tính đặc biệt, yêu cầu nhà GD phải xác định được mục tiêu, nội dung GD và có kế hoạch cụ thể, rõ ràng để thực hiện. Việc thực hiện phải trong một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi sự công phu, kiên trì, liên tục; thực hiện có sự thống nhất, có sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng trong và ngoài nhà trường như đã nêu trên cơ sở nắm vững các đặc điểm tâm lý, cá tính, hoàn cảnh của từng HS. Đồng thời, tất yếu phải có sự phối hợp chặt chẽ, sự tác động đồng thời của ba môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội.
Quản lý hoạt động GD KNS cho HS ở nhà trường là quản lý hoạt động GD toàn diện cho HS bao gồm: hoạt động học tập và các hoạt động phong trào, sinh hoạt đoàn thể. Để quản lý GD KNS cho HS cần thực hiện tốt các chức năng quản lý trong hoạt động GD và biến quá trình GD thành quá trình tự GD. Trong quá trình quản lý giáo dục KNS, những người làm công tác quản lý giáo dục phải hiểu sâu sắc tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là nắm chắc lý luận của khoa QLGD, đánh giá một cách đúng mực thực trạng quản lý giáo dục KNS trong nhà trường để từ đó lập kế hoạch, chỉ đạo triển khai kế hoạch giáo dục KNS cho học sinh. Trong quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh phải tác động đến cả tập thể sư phạm và tập thể học sinh và sự tham gia đóng góp của lực lượng xã hội góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Đặc biệt, đối với những trường trung học cơ sở, để quản lý giáo dục KNS cho học sinh thành công thì các nhà quản lý phải có kinh nghiệm quản lý, có kế hoạch xây dựng nội dung, chương trình, hình thức, giải pháp và tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục KNS một cách khoa học và hợp lý nhất.
Chương 1 của luận văn đã trình bày cơ sở lý luận về hoạt động GD KNS HS trong nhà trường phổ thông nói chung, đối với lứa tuổi HS ở THCS nói riêng. Lý luận ở chương 1 này làm cơ sở cho việc khảo sát, đánh giá thực trạng ở chương 2 và đề xuất các giải pháp phù hợp ở chương 3. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hà Nội […]