Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm gần đây với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật đã đem lại rất nhiều lợi ích to lớn cho con người. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại thì vấn đề ô nhiễm môi trường (MT) cũng nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của nhân loại. Cùng với sự phát triển kinh tế ồ ạt, dưới tác động của khoa học – kĩ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh, con người đã khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tàn phá Môi trường, gây nên những tác động nặng nề đến môi trường trên nhiều phương diện. Có thể nói, Môi trường ngày nay đang thực sự lâm vào khủng hoảng với quy mô toàn cầu và trở thành nguy cơ trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống hiện tại và sự tồn vong của xã hội loài người trong tương lai. Nguyên nhân sâu xa và trực tiếp đều do tác động của con người. Vì vậy việc giáo dục bảo vệ Môi trường cũng như trang bị kiến thức về bảo vệ Môi trường cho thế hệ trẻ là điều cấp thiết.

Việt nam, vấn đề ô nhiễm Môi trường cũng đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng đòi hỏi cần phải có sự hợp tác rộng rãi trên nhiều phương diện của tất cả các tổ chức, cá nhân và của cả cộng đồng để bảo vệ Môi trường – cái nôi sinh thành của nhân loại. Từ đó có thể đảm bảo cho sự phát triển bền vững, nghĩa là thoả mãn những nhu cầu trong hiện tại mà không xâm phạm đến khả năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Từ hàng chục năm nay, chúng ta bằng cách này hay cách khác, bằng con đường này hay con đường khác, đã cố gắng bảo vệ Môi trường, song kết quả còn nhiều hạn chế. Có lẽ, chính thực trạng ô nhiễm Môi trường hiện nay buộc chúng ta phải có nhiều cách làm mới, nghĩa là chúng ta không thể chỉ dừng lại ở mức độ bảo vệ Môi trường về mặt kĩ thuật mà phải đặt ra vấn đề đạo lí, ý thức trách nhiệm và tình cảm vì môi trường, bởi vì ý thức và tình cảm vì Môi trường sẽ giúp con người tự giác, tích cực bảo vệ Môi trường bằng mọi cách, coi đó là đạo lí, là lương tâm của mình. Để đạt được điều này, chúng ta phải thực hiện hàng loạt các biện pháp phức tạp, trong đó, giáo dục môi trường (GDMT) được coi là biện pháp có hiệu quả nhất. Chính thông qua Giáo dục môi trường sẽ cung cấp cho mỗi cá nhân một năng lực biết suy xét và xử lí thông tin dựa trên các khía cạnh sinh thái, xã hội, thẩm mỹ, đạo đức, kinh tế; để đạt được hệ thống kĩ năng, tức là, thấy được vấn đề và biết cách giải quyết vấn đề đó. Điều quan trọng hơn, Giáo dục môi trường thúc đẩy mạnh mẽ những sự thay đổi trong hành vi, giúp họ biết quyết định, biết tham gia bảo vệ Môi trường một cách tự giác và tích cực.

Vấn đề tích hợp Giáo dục môi trường đã được thực hiện trong hoạt động dạy và học, hoạt động trải nghiệm, giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh song vẫn còn mới mẻ và cũng chưa được tổ chức một cách có hệ thống đúng với tầm quan trọng của nó. Mặt khác, theo Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục thì sau năm 2018 chương trình giáo dục phổ thông sẽ dạy theo phương án tích hợp và phân hóa, lồng ghép các vấn đề như môi trường, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản,… vào các môn học và hoạt động giáo dục. Vậy giáo dục Môi trường thông qua chương trình giáo dục phổ thông như thế nào? Quản lý giáo dục Môi trường thông qua chương trình giáo dục phổ thông ra sao? Giải quyết vấn đề này ngành giáo dục cần có sự chung tay góp sức của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể khác để công tác Giáo dục môi trường đạt hiệu quả cao.

Thị xã Quảng Yên đã và đang phát triển với nhiều ngành công nghiệp, nhiều nhà máy, xí nghiệp hàng ngày đã thải ra Môi trường số lượng khói, bụi, chất thải với số lượng khó có thể xác định được, do vậy Môi trường sống bị ô nhiễm, bị tàn phá bởi khí thải, chất thải,… Vậy mà Giáo dục môi trường chưa thực sự trở thành nhiệm vụ cấp bách, việc quản lý Giáo dục môi trường chưa được các cấp lãnh đạo quan tâm đúng mức; việc tổ chức thực hiện Giáo dục môi trường cho học sinh còn nhiều hạn chế; nhận thức, thái độ, hành vi của của người dân, của học sinh về bảo vệ Môi trường còn rất mờ nhạt và có nhiều biểu hiện không phù hợp nhất là học sinh trung học cơ sở.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý Giáo dục môi trường ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1 Khách thể nghiên cứu

Quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở.

3.2 Đối tượng nghiên cứu

Các biện pháp quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên.

4. Giả thuyết khoa học

Giáo dục môi trường đang được đặt ra như một vấn đề cấp bách hiện nay Việt Nam. Tuy nhiên hiệu quả Giáo dục môi trường ở một số nhà trường nói chung và các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên nói riêng còn rất thấp. Vì vậy nếu sử dụng các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng Giáo dục môi trường cho học sinh phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và địa phương theo một quy trình chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất thì sẽ hình thành cho học sinh thái độ, kỹ năng và thói quen Bảo vệ môi trường, qua đó làm cho chất lượng Giáo dục môi trường của các nhà trường được tăng lên.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • 5.1. Xác định cơ sở lý luận của quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở.
  • 5.2. Khảo sát làm rõ thực trạng quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên.
  • 5.3. Đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu

6.1. Địa bàn và khách thể điều tra

Đề tài nghiên cứu ở 5 trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên trong 3 năm học (từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2017 – 2018). Khảo sát trên 40 cán bộ quản lý, giáo viên, 100 học sinh.

6.2. Nội dung nghiên cứu

Tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt động Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

  • Nghiên cứu các tài liệu lí luận, các văn kiện Đảng, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, của Ngành, của địa phương có liên quan đến đề tài để phân tích và tổng hợp lý thuyết.
  • Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết.
  • Phương pháp giả thuyết.
  • Phương pháp mô hình hóa lí thuyết.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

  • Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (bằng ankét).
  • Phương pháp quan sát.
  • Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
  • Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
  • Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.

7.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ

Phương pháp thống kê toán học, phương pháp dự báo, phương pháp so sánh.

8. Cấu trúc dự kiến của luận văn Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận văn được cấu trúc trong 3 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở.
  • Chương 2: Thực trạng quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh
  • Chương 3: Biện pháp quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Giáo dục môi trường trên thế giới

Thực trạng môi trường hiện nay đang ngày càng trở thành vấn đề gay gắt của toàn nhân loại. Ngày nay con người đang phải đối mặt với sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Do đó bảo vệ môi trường là vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, vì sự phát triển bền vững toàn cầu. Con người là một bộ phận của thiên nhiên, do đó con người sẽ không sống nổi nếu thiếu thiên nhiên. Nói cách khác, bảo vệ thiên nhiên chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.

Trên thế giới, việc giáo dục môi trường (GDMT) được tiến hành từ những năm đầu của thập niên 70 thế kỷ XX, và từ đó đến nay, dưới sự hướng dẫn và theo dõi của các tổ chức môi trường (MT) của Liên Hiệp Quốc nó đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng.

Năm 1970, Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (IUCN) đã định nghĩa: Giáo dục môi trường là quá trình nhận biết các giá trị và làm sáng tỏ các khái niệm nhằm phát triển các kỹ năng và quan điểm cần thiết để hiểu và đánh giá được sự quan hệ tương tác giữa con người, nền văn hoá, thế giới vật chất bao quanh môi trường đồng thời cũng thực hiện quyết định đưa ra bộ quy tắc ứng xử với những vấn đề liên quan tới đặc tính môi trường.

Ngày 5/6/1972 LHQ đã tổ chức “Hội nghị quốc tế về Môi trường và Con người” tại Stockholm (Thụy Điển) với sự tham gia của 113 đại diện của Chính phủ các nước trên thế giới. Có thể nói đây là Hội nghị đầu tiên của nhân loại về vấn đề phát triển và môi trường. Hội nghị đã ra bản Tuyên bố Stockholm về Môi trường và Con người gồm 7 điểm và 26 nguyên tắc, trong đó nguyên tắc thứ 19 đã chỉ rõ: “GDMT cho thế hệ trẻ cũng như người lớn tuổi, quan tâm thích đáng tới những người tàn tật là một việc làm hết sức cần thiết”. Đến ngày15/12/1972 chương trình nghiên cứu của LHQ về môi trường (UNEP) được thành lập. Sau Hội nghị Stockholm, hàng loạt các hội nghị sau đó của các tổ chức quốc tế diễn ra tại nhiều nước trên thế giới đều dành sự quan tâm rất lớn đến vấn đề bảo vệ môi trường và giáo dục môi trường trong giai đoạn hiện nay.

Tháng 9/1980 Hội thảo khu vực châu Á Thái Bình Dương về Giáo dục môi trường họp tại Băngkok (Thái Lan) với 17 nước tham dự. Mục đích của hội thảo nhằm trao đổi kinh nghiệm trong DGMT ở từng nước. Tại đây Hội thảo đã kiến nghị đưa DGMT vào các cấp học và cho các đối tượng khác nhau (Đại học, giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp; giáo dục trung học, tiểu học, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, giáo dục người lớn,…) và các chủ đề cần ưu tiên là: Bảo vệ tài nguyên; Sự ô nhiễm và các thiệt hại; Dinh dưỡng và sức khoẻ; Môi trường đô thị; Vấn đề tai biến thiên nhiên. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Để thực hiện chương trình hành động Giáo dục môi trường cho thập niên 90, tháng 10/1990 UNESCO và UNEP phối hợp tổ chức Hội nghị quốc tế về Giáo dục môi trường lần 2 tại Pari (Pháp). Hội nghị này đã trao đổi về trách nhiệm của từng tổ chức quốc tế trong lĩnh vực giáo dục môi trường và một lần nữa UNEP lại nhấn mạnh nhiệm vụ Giáo dục môi trường cho tất cả mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ và việc bồi dưỡng kiến thức, năng lực Giáo dục môi trường cho giáo viên các cấp.

Tóm lại trên bình diện quốc tế Giáo dục môi trường đã được đề cập ở những góc độ sau:

  • Các nhà khoa học đều khẳng định vai trò quan trọng của Giáo dục môi trường và sự cần thiết phải Giáo dục môi trường cho các đối tượng khác nhau, đặc biệt là cho thế hệ trẻ.
  • Các hội nghị quốc tế cũng đi đến thống nhất mục tiêu của Giáo dục môi trường là nhằm giúp cho mọi người có được nhận thức, tri thức, ý thức trách nhiệm, khả năng đánh giá các vấn đề nảy sinh về môi trường, có thói quen trong hành vi và tự giác tham gia vào các hoạt động bảo vệ, cải thiện môi trường.
  • Nội dung Giáo dục môi trường cũng được xác định tập trung ở một số chủ đề như: mối quan hệ tương hỗ trong thiên nhiên, sự cân bằng trong thiên nhiên, hậu quả của sự mất cân bằng trong thiên nhiên, sự cần thiết phải bảo tồn thiên nhiên.
  • Khẳng định Giáo dục môi trường cần phải đưa vào trường học ở tất cả các bậc học và cho mọi đối tượng. Cần phải có những biện pháp và xây dựng những chương trình về Giáo dục môi trường một cách hợp lý để đưa những nội dung Giáo dục môi trường vào các trường học, nâng cao và bồi dưỡng năng lực Giáo dục môi trường cho giáo viên các cấp…

1.1.2. Giáo dục môi trường ở Việt Nam

Ở nước ta, việc Giáo dục môi trường mới được bắt đầu từ những năm cuối của thập niên 70, còn việc Giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông mới được thực hiện vào đầu năm 1981 cùng với kế hoạch cải cách giáo dục. Để thực hiện nhiệm vụ Giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông, ngay thời kì này, hai đề tài cấp Nhà nước về Giáo dục môi trường thuộc chương trình Nhà nước 52.02 đã đề xuất các cải tiến về nội dung chương trình và một số hoạt động ở các trường phổ thông và một số trường đại học, cao đẳng chủ yếu ở môn Sinh học và Địa lí [24].

Các hoạt động tìm hiểu tự nhiên và xã hội, chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn đã được các cấp học thực hiện một cách sáng tạo. Các phong trào trồng cây gây rừng, dọn dẹp chất thải trong khu vực sống, đổ rác đúng qui định, được đông đảo các nhà trường và học sinh hưởng ứng, góp phần không nhỏ trong việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc và bảo vệ môi trường (BVMT) sống. Trong 5 năm 1985-1990 đã trồng được 94 triệu cây, gây trồng 8.600 ha rừng, tạo ra sản phẩm hàng trăm tỉ đồng. Theo thống kê của Bộ Lâm Nghiệp, ở nước ta từ năm 1986 đến 1992, tổng diện tích rừng bạch đàn đã trồng được là 320.000 ha, từ năm 1988 đến 1992 đã trồng được 65.000 ha keo [18]. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Năm 1994, với sự hỗ trợ của Cục Môi trường, Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã nghiên cứu đề tài “Thiết kế và thử nghiệm nội dung Giáo dục môi trường ở bậc tiểu học”. Các tác giả tham gia nghiên cứu đề tài đã bước đầu xác định những nội dung chính cần được triển khai ở bậc tiểu học và biên soạn mẫu về Giáo dục môi trường ở một số môn học như: Đạo đức, Giáo dục sức khoẻ, Tự nhiên – xã hội. Năm học 1996 – 1997, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tiếp tục nghiên cứu đề tài “Phương thức hoạt động giáo dục môi trường ở mẫu giáo và tiểu học”. Đề tài này đã đưa ra những kiến nghị về các phương thức DGMT và điều kiện cần thiết để tiến hành các phương thức Giáo dục môi trường có hiệu quả.

Năm 1994 – 1996, Sở Giáo dục – Đào tạo Quảng Ninh đã triển khai nghiên cứu đề tài: “Thực nghiệm giáo dục môi trường cho học sinh trung học cơ sở”. Đề tài đã xây dựng được tài liệu về nội dung Bảo vệ môi trường vùng mỏ và rừng ngập mặn của địa phương. Báo cáo kết quả nghiên cứu về phương thức Giáo dục môi trường, trường phổ thông của tác giả Nguyễn Văn Khang (Hải Dương) đã đưa ra những kinh nghiệm tốt để tổ chức Giáo dục môi trường. Theo tác giả, muốn đưa Giáo dục môi trường vào trường phổ thông, trước hết cần tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên về nội dung và phương pháp Giáo dục môi trường như giới thiệu các hướng chính về giáo dục môi trường trong các quyển: nêu lên một số khái niệm thông thường về Giáo dục môi trường, gợi ý các hình thức lồng ghép chủ yếu để Giáo dục môi trường cho học sinh. Ngoài ra tác giả còn đề xuất một số hình thức giáo dục cụ thể cho từng bậc học.

Tuy nhiên, hiện tại nhận thức và hành động tiêu cực của đông đảo quần chúng, trong đó có rất nhiều học sinh vẫn còn là trở lực lớn cho việc bảo vệ Môi trường và thiên nhiên ở nước ta. Do đó, việc nâng cao nhận thức cho nhân dân và học sinh về Môi trường và bảo vệ Môi trường cần được quan tâm hơn. Kiến thức về Môi trường và phát triển bền vững phải đưa dần từng bước giúp học sinh có ý thức tự giác từ nhỏ cho đến hết đời mình. Khái quát cho thấy, công tác Giáo dục môi trường ở nước ta những năm qua tuy đã thu được một số kết quả bước đầu nhưng đang còn nhiều tồn tại và thiếu sót. Theo đánh giá của các tác giả Dương Tiến Sỹ: “Tài liệu phục vụ Giáo dục môi trường còn thiên về cung cấp kiến thức chưa đề cập đến phương pháp, hình thức Giáo dục môi trường, thiếu phương pháp, biện pháp giáo dục kĩ năng, thái độ, hành vi Bảo vệ môi trường, dẫn tới việc khai thác tri thức Môi trường và Bảo vệ môi trường lồng ghép tích hợp trong nội dung môn học còn gặp nhiều lúng túng và mức độ thực hiện còn hạn chế” [24].

Để khắc phục những thiếu sót trên và thực hiện mục tiêu Giáo dục môi trường trong quá trình dạy học, cần phải triển khai đồng bộ các hướng nghiên cứu khoa học lấy Giáo dục môi trường làm định hướng và cơ sở thực hiện. Bên cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu khai thác các nội dung Giáo dục môi trường được lồng ghép tích hợp trong các môn học, thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh, các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy được tính tích cực sáng tạo của học sinh, đảm bảo Giáo dục môi trường sát với yêu cầu thực tiễn.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục

1.2.1. Quản lý

Quản lý là một hoạt động có từ rất lâu, nhà sử học Daniel A.Wren đã từng nhận xét “Quản lý cũng xưa cũ như chính con người vậy”, có nghĩa là hoạt động quản lý xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện loài người. Do vậy, có rất nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm “quản lý”, theo quan niệm của một số tác giả nước ngoài:

F.W.Taylor (1856 – 1915), người được coi là cha đẻ của Thuyết quản lý khoa học đã định nghĩa: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [dẫn theo 10, tr.28].

H.Fayol (1841 – 1925), tác giả của Thuyết quản lý tổng quát, định nghĩa như sau: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [dẫn theo 10, tr. 30].

M.P.Follett (1868 – 1933), đại diện của Thuyết quan hệ con người cho rằng: “Quản lý là một quá trình động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại. Bởi một vấn đề đã được giải quyết, thì trong quá trình giải quyết nó, người quản lý sẽ phải đương đầu với những vấn đề mới nảy sinh” [dẫn theo 10, tr. 39].

Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc khi nghiên cứu về

Cơ sở khoa học quản lý cho rằng:

Khái niệm hoạt động “quản lý” được coi là kinh điển nhất được hiểu là “quá trình tác động có chủ hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể (người bị quản lý) trong một tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10]. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Hiện nay hoạt động “quản lý” được định nghĩa rõ hơn: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”.

Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về “quản lý”, song khái niệm quản lý đã được lột tả qua một số nội dung sau: Quản lý là một loại hoạt động xã hội, luôn gắn liền với một nhóm người hay một tổ chức xã hội nào đó. Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các chức năng quản lý là kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra giúp cho hệ thống ổn định, thích ứng, tăng trưởng và phát triển, được minh hoạ trong sơ đồ 1.1 dưới đây.

Trong đó các chức năng của quản lý có liên hệ mật thiết với nhau, chúng luôn được thực hiện liên tiếp, đan xen với nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình quản lý. Trong chu trình này, yếu tố thông tin luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn, nó vừa là điều kiện vừa là phương tiện không thể thiếu khi thực hiện chức năng quản lý.

Quản lý được xem như một “khoa học”, sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân văn khác nhau như toán học, thống kê, tâm lý học, xã hội học… Đồng thời quản lý được xem như một “nghệ thuật”, do đó đòi hỏi người quản lý trong quá trình quản lý phải luôn chủ động, khéo léo, linh hoạt, tổ chức, điều khiển, hướng dẫn mọi thành viên trong tổ chức của mình cùng hướng tới mục tiêu xác định.

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu: Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã đề ra.

1.2.1.2. Quản lý giáo dục

Giáo dục là một loại hình, lĩnh vực hoạt động xã hội rộng lớn được hình thành do nhu cầu phát triển, tiếp nối các thế hệ của đời sống xã hội thông qua quá trình truyền thụ tri thức và kinh nghiệm xã hội của các thế hệ trước cho các thế hệ sau. Cũng như bất kỳ một hoạt động xã hội nào, hoạt động giáo dục cần được tổ chức và quản lý với cấp độ khác nhau (nhà nước, nhà trường, lớp học…) nhằm thực hiện có hiệu quả mục đích và các mục tiêu giáo dục phù hợp với từng giai đoạn phát triển của các thể chế chính trị – xã hội ở các quốc gia. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

P.V Xukhômlinxky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ em” [dẫn theo 13, tr.341].

Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em” [19].

Theo Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch phù hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy – học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [22].

Bản chất của quản lý giáo dục được biểu hiện ở các chức năng quản lý. Các công trình nghiên cứu về khoa học quản lý trong những năm gần đây đã đưa đến một kết luận tương đối thống nhất về 5 chức năng cơ bản của quản lý là: kế hoạch hóa; tổ chức; kích thích; kiểm tra; điều phối.

  • Kế hoạch hóa: Lập kế hoạch, phổ biến kế hoạch.
  • Tổ chức: Tổ chức triển khai, tổ chức nhân sự, phân công trách nhiệm.
  • Kích thích: Khuyến khích tạo động cơ.
  • Kiểm tra: Kiểm soát, kiểm kê, hạch toán, phân tích.
  • Điều phối: Phối hợp, điều chỉnh.

Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội dung của quá trình quản lý, nội dung làm việc của chủ thể quản lý, phương pháp quản lý và là cơ sở để phân công lao động quản lý.

Vậy có thể khái quát hoạt động quản lý giáo dục qua sơ đồ sau:

1.2.2. Môi trường

Khái niệm Môi trường đã được đưa ra tranh luận từ lâu và được hiểu theo nhiều cách khác nhau, không thống nhất, vì nó phụ thuộc vào quá trình nhận thức và cách nhìn nhận vấn đề theo các góc độ chuyên môn khác nhau.Ví dụ như:

Các nhà khoa học nhấn mạnh: Môi trường là điều kiện cần thiết cho sự di truyền những tính chất đặc biệt của sinh vật và ngược lại đó cũng là nơi và điều kiện để tạo ra những biến dị mới, những loài mới.

Các nhà địa lý thì cho rằng Môi trường mà cụ thể là Môi trường địa lí là một bộ phận tự nhiên của bề mặt trái đất bao quanh xã hội loài người, bị thay đổi bởi xã hội loài người ở mức độ này hay mức độ khác, ở những thời điểm nhất định có quan hệ trực tiếp với bộ phận đó trong thời gian sinh sống và hoạt động sản xuất của mình.

Vì vậy nếu hiểu theo nghĩa khái quát nhất: Môi trường của một vật thể hoặc một sự kiện là tổng hợp tất cả các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp tới vật thể hay sự kiện đó.

Đối với con người, Môi trường sống là Môi trường quan trọng nhất và nó chứa nội dung rộng hơn. Đó là tổng hợp các điều kiện vật lí, hoá học, sinh học, xã hội bao quanh có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của các cá nhân và cộng đồng con người.

Tuỳ theo nội dung nghiên cứu mà môi trường sống của con người được phân thành Môi trường tự nhiên, Môi trường nhân tạo, Môi trường xã hội. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

MT tự nhiên bao gồm các nhân tố tự nhiên tồn tại khách quan ngoài ý muốn con người và ít chịu sự chi phối của con người.

MT xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người tạo nên sự thuận lợi hoặc trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân và của cộng đồng con người.

MT nhân tạo bao gồm tất cả những nhân tố vật lí, sinh học, xã hội do con người tạo nên và chịu sự chi phối của con người. Chúng sẽ tự huỷ nếu không có sự tác động của con người.

Tuy nhiên sự phân chia này chỉ để phục vụ nghiên cứu, phân tích các hiện tượng phức tạp trong môi trường. Trong thực tế ba loại Môi trường trên cùng tồn tại, xen lẫn vào nhau, tương tác với nhau hết sức chặt chẽ. Vì vậy, Môi trường là một khái niệm rộng lớn chứa đựng nội dung phong phú và đa dạng.

Hiện nay khái niệm Môi trường được tổ chức thế giới sử dụng, đó là khái niệm của UNESCO đưa ra năm 1981. Môi trường con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội do con người tạo ra, trong đó con người sống và bằng lao động của mình, khai thác những tài nguyên tự nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người [23].

Theo Điểm 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật [20].

Như vậy, dưới các góc độ khác nhau thì có cách nhìn nhận về Môi trường khác nhau. Nếu khái quát hoá lại ta có thể hiểu khái niệm Môi trường như sau: Môi trường là toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống xã hội do con người tạo ra, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, bao xung quanh con người và ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.

1.2.3. Hoạt động trải nghiệm Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Theo Тлегенова Т. Е cho rằng hoạt động trải nghiệm được hiểu là kết quả của sự tương tác giữa con người với thế giới khách quan. Sự tương tác này bao gồm cả hình thức và kết quả các hoạt động thực tiễn trong xã hội, bao gồm cả kỹ thuật và kỹ năng, cả những nguyên tắc hoạt động và phát triển thế giới khách quan. Nhà triết học vĩ đại người Nga Solovyev V.S. quan niệm rằng trải nghiệm là quá trình tích lũy kiến thức kinh nghiệm thực tế; bao gồm kiến thức và kỹ năng mà người học tích lũy qua thực tiễn, hoạt động. Trải nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa con người và thế giới, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Qua nghiên cứu các tài liệu, ta có thể thấy được một số cách để định nghĩa về trải nghiệm:

Trải nghiệm là một phạm trù, được đúc rút từ toàn bộ các hoạt động của con người ở mọi mặt, như một thể thống nhất giữa kiến thức, kỹ năng, tình cảm và ý chí. Đặc trưng bằng cơ chế kế thừa di sản xã hội, lịch sử, văn hóa.

Trải nghiệm là một phạm trù của nhận thức luận, được đúc kết từ sự thống nhất của hoạt động tình cảm – nhận thức.

Trải nghiệm là kiến thức mà ngay lập tức cho chủ thể ý thức được và có cảm giác tiếp xúc trực tiếp với thực tế, cho dù đó là một thực tế bên ngoài của các đối tượng và tình huống (nhận thức), hoặc các thực tại của trạng thái ý thức (quan niệm, những kỷ niệm, xúc động…).

Trong các nghiên cứu tâm lý học, kinh nghiệm thường được coi là năng lực của cá nhân, ví dụ Platon K.K. nhận định trải nghiệm cũng như sự tích lũy của hiểu biết và năng lực (cá nhân, nhóm) hình thành trong quá trình hoạt động, đào tạo và giáo dục, trong đó tổng hợp những kiến thức, kỹ năng, khả năng và thói quen. Dưới góc độ của tâm lý học giáo dục, A. N. Leontiev đã giải quyết được vấn đề trải nghiệm của nhân loại: “Trong cuộc đời mình, con người đã đồng hóa kinh nghiệm của nhân loại, kinh nghiệm của những thế hệ trước. Nó diễn ra dưới hình thức nắm vững kiến thức và ở mức độ làm chủ kiến thức”. Trong các tài liệu sư phạm học, lý thuyết về trải nghiệm trở thành đối tượng nghiên cứu.

Trải nghiệm dưới góc nhìn sư phạm được hiểu theo một vài ý nghĩa sau:

Trải nghiệm trong đào tạo là một hệ thống kiến thức và kỹ năng có được trong quá trình giáo dục và đào tạo chính quy.

Trải nghiệm là kiến thức, kỹ năng mà trẻ nhận được bên ngoài các cơ sở giáo dục: thông qua sự giao tiếp với nhau, với người lớn, hay qua những tài liệu tham khảo, không được giảng dạy trong nhà trường hoặc thông qua hoạt động thực tiễn…

1.2.4. Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

GDMT là tiền đề của sự phát triển bền vững. Vì Giáo dục môi trường là làm cho từng người và cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của Môi trường tự nhiên và nhân tạo, có được tri thức thái độ và kĩ năng thực tế để tham gia có hiệu quả và có trách nhiệm vào việc tiên đoán và giải quyết các vấn đề Môi trường và quản lí chất lượng Môi trường.

GDMT thông qua hoạt động trải nghiệm là quá trình củng số, khắc sâu cho người học những hiểu biết, tri thức về Môi trường và các vấn đề Môi trường liên quan đã được học trên ghế nhà trường, thông qua đó giúp cho người học hiểu được mối quan hệ giữa con người với Môi trường tự nhiên và Môi trường xã hội bao quanh, nhận thức được các vấn đề dân số, ô nhiễm, bảo toàn thiên nhiên, kĩ thuật phát triển đô thị và nông thôn… có ảnh hưởng đến Môi trường con người như thế nào.

Không những thế Giáo dục môi trường còn hình thành cho học sinh những thái độ và hành động giải quyết các vấn đề Môi trường, bảo vệ và cải thiện Môi trường. Hơn nữa, Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cũng đòi hỏi hình thành ở học sinh khả năng quyết định và những hành động có liên quan tới chất lượng Môi trường.

Như vậy, việc Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cần phải được tiến hành thường xuyên, qua đó con người nhận thức được môi trường của họ và thu được kiến thức, giá trị, kĩ năng, kinh nghiệm cùng quyết tâm hành động giúp họ giải quyết các vấn đề môi trường hiện tại và tương lai, để đáp ứng yêu cầu của thế hệ hiện nay mà không vi phạm khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

1.2.5. Quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Từ khái niệm quản lý giáo dục, hoạt động trải nghiệm và khái niệm giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm, ta có thể hiểu quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục môi trường đến kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất.

Về bản chất, quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục môi trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục môi trường. Như vậy, quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm là hoạt động điều hành công tác giáo dục môi trường.

1.3. Những vấn đề cơ bản về Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở

1.3.1. Vai trò ý nghĩa của Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Đối với Giáo dục- Đào tạo, một trong những quan điểm chỉ đạo chiến lược là: Phát triển Giáo dục và Đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh, trong đó có nhu cầu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Chỉ thị 36/CT/TW của Bộ Chính trị – Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII , ngày 25/4/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh những giải pháp cơ bản để thực hiện các mục tiêu bảo vệ môi trường là “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân” [3]. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Với tinh thần đó, Giáo dục môi trường là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của hệ thống Giáo dục – Đào tạo nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong chiến lược Giáo dục môi trường ở Việt Nam, giai đoạn đầu tiên là tập trung vào học sinh ở trường phổ thông. Vì thế Giáo dục môi trường thông qua hoạt động TN cho học sinh không chỉ đạt kết quả trước mắt mà còn đạt kết quả lâu dài vì thế hệ trẻ vẫn ở trong quá trình phát triển nhận thức, thái độ và hành vi. Họ là thành viên trong nhóm dân cư lớn nhất. Sự thành đạt của họ trong tương lai phụ thuộc vào phát triển bền vững hơn bất kỳ nhóm nào khác. Và một trong những con đường để Giáo dục môi trường cho thế hệ trẻ một cách hiệu quả nhất đó là thông qua hệ thống trường học. Vì trường học có khả năng thực hiện chương trình học tập theo khuôn khổ chính quy, có cấu trúc và được hỗ trợ chính thức.

Trong nhà trường phổ thông hiện nay, đặc biệt là ở trường trung học cơ sở, Giáo dục môi trường được coi là một nội dung trong công tác giáo dục toàn diện học sinh bao gồm: Giáo dục đạo đức, Giáo dục trí tuệ, Giáo dục thẩm mỹ, Giáo dục lao động, Giáo dục dân số và sức khoẻ sinh sản, Giáo dục kĩ năng sống, Giáo dục văn hoá hoà bình, Giáo dục quốc tế…

GDMT là một nội dung quan trọng có tác động tương hỗ qua lại với các mặt Giáo dục khác. Qua Giáo dục môi trường làm tăng giá trị đạo đức, quan niệm thẩm mỹ, thói quen và ý thức lao động, làm tăng cường kỹ năng sống… cho thế hệ trẻ. Mặt khác Giáo dục môi trường là một phần quan trọng của kết quả các mặt Giáo dục khác. Và nó thực sự cần thiết đối với tất cả các lứa tuổi, các bậc học.

Đối với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, Giáo dục môi trường là một trong những nội dung giáo dục cực kỳ quan trọng và cần thiết, bởi ở lứa tuổi này con người đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, toàn bộ nhân cách, năng lực, trí tuệ, thế giới quan có những bước biến đổi lớn… Tất cả những gì các em tích luỹ được giai đoạn này này sẽ trở thành hành trang để các em bước vào cuộc sống tự lập một cách vững tin, chắc chắn. Những kiến thức về môi trường và bảo vệ môi trường mà các em được tiếp nhận ở giai đoạn này không chỉ có tác dụng thay đổi nhận thức về môi trường mà còn có tác dụng định hướng hành động cho các em khi tham gia giải quyết các vấn đề về môi trường nhằm xây dựng môi trường phát triển bền vững. Đối với một số em, thì những kiến thức về Giáo dục môi trường mà các em tích luỹ được ở giai đoạn này có thể trở thành động cơ thúc đẩy việc lựa chọn hướng đi nghề nghiệp trong tương lai của các em.

Chính vì vậy, Giáo dục môi trường là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong nhà trường phổ thông nói chung và trường trung học cơ sở nói riêng. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

1.3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Xuất phát từ mục tiêu chung về Giáo dục môi trường trong hiến chương Belgrade (1975), các nước sẽ xây dựng mục tiêu riêng cho nước mình, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, trình độ nhận thức và khả năng hành động của từng cấp học, dựa trên tiêu chuẩn quan trọng nhất là hành động tích cực của cá nhân và tập thể trong việc cải thiện chất lượng Môi trường. Thông qua chỉ thị 36/CT-TƯ đưa ra ngày 25/6/1998 của Bộ chính trị về “tăng cường công tác Bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” ở đó nêu công tác Giáo dục môi trường là giải pháp đầu tiên: “Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong trào quần chúng Bảo vệ môi trường”. Vì vậy, mục tiêu Giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông nhằm: “Mỗi trẻ được trang bị một ý thức trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của Trái đất, một khả năng biết đánh giá vẻ đẹp của thiên nhiên và một giá trị nhân cách được khắc sâu bởi một nền tảng đạo lí về môi trường”[3].

Trên cơ sở mục tiêu chung, Giáo dục môi trường ở các cấp học, bậc học cũng được xây dựng với những mục tiêu cụ thể. Đối với bậc trung học cơ sở thì Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm nhằm đạt đến những mục tiêu sau:

  • Về kiến thức: Trang bị và giúp học sinh hiểu biết rõ và khắc sâu những kiến thức về môi trường bao gồm:
  • Khái niệm môi trường, hệ sinh thái, các thành phần của môi trường và mối quan hệ giữa chúng.
  • Nguồn tài nguyên thiên nhiên, khai thác, sử dụng và vấn đề môi trường.
  • Ô nhiễm môi trường: nguyên nhân, tác hại và các biện pháp giảm thiểu nhiễm môi trường.
  • Một số vấn đề gay cấn của môi trường.
  • Mối quan hệ giữa con người và môi trường: Tác động của con người đến môi trường và tài nguyên.
  • Luật bảo vệ môi trường và những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về Bảo vệ môi trường.

Về thái độ – tình cảm

  • Xây dựng ở học sinh những tình cảm tích cực đối với môi trường và vấn đề bảo vệ môi trường, yêu quý và tôn trọng thiên nhiên
  • Có thái độ thân thiện với môi trường và ý thức được hành động trước các vấn đề môi trường nảy sinh.
  • Có ý thức về tầm quan trọng của môi trường trong sạch đối với sức khoẻ con người, về bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ rừng, bảo vệ đất đai, bảo vệ nguồn nước… ủng hộ các hoạt động bảo vệ môi trường, phê phán hành vi gây hại cho môi trường.

Về kỹ năng – hành vi Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

  • Trang bị và phát triển ở học sinh những kỹ năng cơ bản để bảo vệ và gìn giữ môi trường, kỹ năng dự đoán, phòng tránh và giải quyết những vấn đề môi trường nảy sinh, biết ứng xử tích cực đối với những vấn đề môi trường cụ thể.
  • Giúp cho mỗi học sinh trở thành những tuyên truyền viên tích cực trong gia đình, nhà trường và địa phương về bảo vệ môi trường và tham gia tích cực vào các hoạt động khôi phục, bảo vệ và gìn giữ môi trường.

Những mục tiêu trên là cơ sở để xây dựng và triển khai các nội dung Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm, phù hợp với từng khối, từng đối tượng học sinh và điều kiện để tiến hành Giáo dục môi trường của các nhà trường, đồng thời mục tiêu đó cũng là một trong những căn cứ để đánh giá kết quả và chất lượng Giáo dục môi trường trong nhà trường trung học cơ sở hiện nay.

1.3.3. Nội dung Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Xuất phát từ mục tiêu Giáo dục môi trường, nội dung Giáo dục môi trường đã được UNEP (1995) nhấn mạnh 5 đặc điểm:

  • Có tính liên ngành rộng, do Giáo dục môi trường phải xem xét môi trường như một tổng thể hợp thành bởi nhiều thành phần: Thiên nhiên và các quan hệ sinh thái của nó; Kinh tế, dân số, xã hội, công nghệ, văn hoá…
  • Nhấn mạnh nhận thức về giá trị nhân cách trong thái độ ứng xử và hành động trước các vấn đề về môi trường.
  • Cung cấp cho người học không chỉ những kiến thức cụ thể về môi trường mà còn bao hàm cả kỹ năng thực hành, phương pháp phân tích và đánh giá chi phí – lợi ích để họ có thể hành động độc lập, ra những quyết định phù hợp, hoặc cùng cộng đồng phòng ngừa xử lý các vấn đề môi trường một cách hiệu quả.
  • Phải đề cập đến các vấn đề môi trường và phát triển bền vững của địa phương, vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế.
  • Phải xem xét các vấn đề môi trường hiện nay và quan hệ với các vấn đề môi trường tương lai.

Để đạt được mục tiêu đào tạo nên những con người giác ngộ về môi trường, nội dung cơ bản của Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm trong nhà trường trung học cơ sở bao gồm những vấn đề cụ thể sau đây:[23].

  • Khái niệm cơ bản về môi trường, hệ sinh thái, các thành phần của môi trường và quan hệ giữa chúng.
  • Nguồn tài nguyên thiên nhiên, khai thác, sử dụng và phát triển bền vững.
  • Ô nhiễm môi trường: Nguyên nhân, tác hại và các biện pháp giảm thiểu nhiễm môi trường.
  • Một số vấn đề cấp bách của môi trường.
  • Mối quan hệ giữa con người và môi trường: Tác động của môi trường đến sinh vật và con người; tác động của con người đến môi trường và tài nguyên.
  • Luật bảo vệ môi trường và chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về bảo vệ môi trường.
  • Các biện pháp để bảo vệ môi trường.
  • Kỹ năng – hành vi bảo vệ môi trường.
  • Ý thức – thái độ đối với các vấn đề Môi trường, trong việc tham gia Bảo vệ môi trường. Trong nhà trường phổ thông nói chung và trung học cơ sở nói riêng hiện nay, chưa có bộ môn riêng về Giáo dục môi trường, cho nên các nội dung về Giáo dục môi trường thường được lồng ghép trong các hoạt động trải nghiêm, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hoặc được xây dựng theo hướng tích hợp, lồng ghép vào nội dung các môn học như: Sinh học, Công nghệ, Địa lý, Hoá học, Ngữ văn,…

1.3.4. Nguyên tắc và phương pháp Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

1.3.4.1. Nguyên tắc Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Thứ nhất: Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm trong nhà trường phổ thông cần thực hiện theo nguyên tắc vì môi trường, về môi trường và trong môi trường.

  • Giáo dục vì môi trường khêu gợi sự quan tâm thực sự đối với chất lượng môi trường chúng ta đang sống và thừa nhận trách nhiệm của con người phải chăm sóc môi trường.
  • Giáo dục về môi trường cung cấp những kiến thức hiểu biết về môi trường, các mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa con người và giới tự nhiên trên cơ sở khai thác triệt để các tri thức về môi trường hiện có trong nhà trường phổ thông.
  • Giáo dục trong môi trường là sử dụng môi trường như một nguồn lực cho dạy học, một phòng thí nghiệm tự nhiên cung cấp những kiến thức, kỹ năng cần thiết về giữ gìn và bảo vệ môi trường.

Thứ hai: Đảm bảo các điều kiện và hình thức phù hợp về Giáo dục môi trường cho tất cả học sinh ở tất cả các cấp học, bậc học trong nhà trường phổ thông. Nội dung Giáo dục môi trường được lồng ghép vào những môn học của chương trình chính khoá và các hoạt động trải nghiệm tiến hành trong và ngoài nhà trường. Bảo đảm sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các nội dung giáo dục môi trường với các nội dung khác có liên quan như: giáo dục dân số, giáo dục pháp luật, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên…

Thứ ba: Thực hiện Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở nhà trường phổ thông phải phù hợp với đặc trưng địa lý sinh thái của môi trường địa phương. Những vấn đề trọng tâm của Giáo dục môi trường phải liên quan trực tiếp đến môi trường địa phương và trên cơ sở đó mở rộng sự hiểu biết, quan tâm của học sinh đến vấn đề môi trường quốc gia, khu vực và quốc tế.

Thứ tư: Đảm bảo tính bền vững của Giáo dục môi trường GDMT thông qua hoạt động trải nghiệm cần được thực hiện phù hợp với các xu hướng và phương pháp giáo dục hiện đại, phải lôi cuốn các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý giáo dục mọi cấp, giáo viên, học sinh, các bậc cha mẹ học sinh và các thành viên trong cộng đồng. Tổ chức Giáo dục môi trường bằng chính các hoạt động do học sinh thực hiện dưới sự hướng dẫn của GV và thông qua đó mà thu được hiệu quả thực tiễn. Thực hiện phương châm “Học thông qua hành động”. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Thứ năm: Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm trong nhà trường phổ thông phải góp phần nâng cao nhận thức và sự hiểu biết cho giáo viên và học sinh. Nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên phổ thông về tầm quan trọng và nhu cầu giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông. Ban giám hiệu nhà trường và hiệu trưởng là những người đầu tiên có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo hoạt động này. Đội ngũ GV là lực lượng nòng cốt triển khai thực hiện các mục tiêu, nội dung, phương pháp…GDMT thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường phổ thông là hình thành giá trị đạo đức mới về môi trường cho học sinh. Việc Bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên phải thể hiện trong ý thức và hành động của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh nhà trường.

Thứ sáu: Đảm bảo sự phối hợp liên ngành, đa cấp trong Giáo dục môi trường.

Để Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm đạt được hiệu quả cần có sự hợp tác liên ngành giữa Bộ Giáo dục&ĐT, các bộ ngành liên quan, tổ chức kinh tế – xã hội, các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư.

1.3.4.2. Phương pháp Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Phương pháp Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm là cách thức, con đường nhanh nhất để đạt được mục tiêu giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông. Hội nghị về Giáo dục môi trường ở Tbilisi (1977) đã khẳng định: Giáo dục môi trường đạt hiệu quả tốt nhất là phải thông qua hoạt động trải nghiệm của người học. Do đó phương pháp giảng dạy cũng như giáo dục phải huy động đến mức tối đa sự tham gia đóng góp của học sinh vào thực tiễn bảo vệ môi trường. Dựa trên tinh thần đó, trong tài liệu về Giáo dục môi trường trong trường phổ thông của UNESCO đã đưa ra một hệ thống các phương pháp sau: (Sơ đồ 1.3) [23].

  • Phương pháp giải quyết vấn đề trong Giáo dục môi trường:

Giải quyết vấn đề trong Giáo dục môi trường là phương pháp yêu cầu học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, luyện tập, xây dựng và tiến hành giải pháp đối với vấn đề môi trường, các kỹ năng giải quyết vấn đề được thực hiện chủ yếu qua trải nghiệm. Hệ phương pháp giải quyết vấn đề có các phương pháp sau:

Phương pháp khám phá, tìm tòi, điều tra: Đây là phương pháp dễ kích thích hứng thú và sự ham hiểu biết của học sinh trong học tập. Giáo viên là người hướng dẫn, chỉ đạo, gợi ý để học sinh tự khám phá, điều tra. Sau khi vấn đề được xác định, học sinh tìm các biện pháp giải quyết. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

  • Phương pháp thực nghiệm và nghiên cứu tổng quan:

Thực nghiệm được sử dụng trong Giáo dục môi trường nhằm minh hoạ những kiến thức đã học hoặc tìm lời giải đáp cho một vấn đề đặt ra. Thực nghiệm thường được tiến hành cùng với phương pháp thảo luận để tìm lời giải đáp đúng nhất.

Nghiên cứu tổng quan: là cách tập hợp thông tin về một vấn đề môi trường nào đó được tiến hành bằng hình thức phỏng vấn. Phương pháp này dùng để tìm hiểu quan điểm của những người được hỏi đối với các vấn đề môi trường, qua đó xác định phương hướng đề xuất các dự án về môi trường.

Phương pháp thảo luận: Vừa là hình thức, vừa là phương pháp trong hệ phương pháp giải quyết vấn đề. Mục đích của thảo luận là luyện tập cho học sinh phân tích một vấn đề, khuyến khích các thành viên trong lớp bày tỏ ý kiến, quan điểm khác nhau và trong những trường hợp nhất định nó có mục đích giáo dục thái độ cho học sinh. Cuộc thảo luận cũng có mục đích là đề ra kế hoạch hành động trên cơ sở các ý kiến đã trình bày. Phương pháp này có thể sử dụng hình thức trò chơi câu hỏi về một vấn đề ghi sẵn trong phiếu rồi trình bày thảo luận.

Trò chơi đóng vai: Đây là hình thức biểu lộ quan điểm, tình cảm của người chơi. Dựa vào tình thế của cuộc sống, tuỳ theo vấn đề lựa chọn để dựng thành một câu chuyện, vở kịch. Giáo viên phân công hoặc học sinh tự nhận vai trong vở kịch, số còn lại quan sát diễn biến. Sau đó cả lớp thảo luận, trao đổi làm sáng tỏ các ý kiến và giải pháp của những người đóng vai.

Phương pháp dự án trong Giáo dục môi trường: Phương pháp này yêu cầu cá nhân và nhóm học sinh thử thiết lập và thực hiện một dự án nào đó về cải thiện môi trường như:

Cải tạo đất, cải tạo điều kiện vệ sinh trường lớp, địa phương… Phương pháp này kích thích tính sáng tạo của học sinh.

Mục đích của “Dự án” là mang lại sự thay đổi trong môi trường nhà trường và địa phương. Cũng như các phương pháp trên, phương pháp này đòi hỏi học sinh phải mạnh dạn phát biểu ý kiến một cách có lý.

Phương pháp trải nghiệm thực địa: Phương pháp trải nghiệm thực địa là phương pháp học tập ngoài lớp, nó giúp cho học sinh quan sát các mối quan hệ trong môi trường tự nhiên và quan hệ giữa hoạt động của con người và môi trường thực địa. Vì vậy trải nghiệm thực địa cũng được coi là phương pháp có tác dụng lớn trong việc Giáo dục môi trường cho học sinh.

Nói chung các phương pháp Giáo dục môi trường nói trên có nhiều ưu điểm, ưu điểm nổi bật của chúng là khuyến khích sự phát triển năng lực nhận thức các vấn đề về môi trường ở học sinh và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Tuy nhiên, việc vận dụng các phương pháp trên như thế nào thì phải tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức của học sinh, vào điều kiện cụ thể của nhà trường bao gồm: năng lực của giáo viên, học sinh; phương tiện và thiết bị dạy học; thời gian tổ chức dạy học…

1.3.5. Hình thức tổ chức Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Thực tế giáo dục nói chung và giáo dục môi trường nói riêng chỉ đạt hiệu quả cao nhất khi học sinh được trải nghiệm kiến thức mình đã học trong nhà trường. Do vậy việc Giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông nói chung thường được tiến hành theo các hình thức tổ chức sau đây: Hình thức thực nghiệm trên lớp, ngoài lớp và các hoạt động trải nghiệm:

Hình thức thực nghiệm trên lớp thường được tiến hành qua các tiết học. Đây là hình thức chủ yếu để học sinh lĩnh hội được một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống những kiến thức cơ bản về môi trường và bảo vệ môi trường. Ở nước ta, chưa có bộ môn riêng mà Giáo dục môi trường được tiến hành thông qua sự lồng ghép, tích hợp các nội dung về Giáo dục môi trường trong một số tiết học của các môn học như: Sinh vật, địa lý, hoá học, công nghệ, giáo dục công dân, văn,… Ở hình thức này, các vấn đề môi trường được lựa chọn lồng ghép vào nội dung chương trình môn học ở chỗ thích hợp mà không ảnh hưởng lớn đến lôgíc môn học. Các vấn đề này được đưa vào chương trình và sách giáo khoa theo các mức độ khác nhau: có thể chiếm một chương hay 1 bài toàn vẹn hoặc có thể chiếm 1 mục, một đoạn hay một vài câu trong 1 bài học.

Thuộc về các hình thức tổ chức ngoài lớp có các tiết ngoài lớp, các buổi hội thảo, các cuộc tham quan, điều tra và tìm hiểu môi trường địa phương có ghi trong chương trình và kế hoạch dạy học.

Riêng các hoạt động trải nghiệm về môi trường thì có nhiều hình thức phong phú như: tổ chức các câu lạc bộ hoặc nhóm ngoại khoá về môi trường, tổ chức các buổi dạ hội, triển lãm về chủ đề môi trường như: trình bày các mẫu vật tự nhiên của địa phương, trưng bày các tranh ảnh, biểu đồ, sơ đồ, các bài viết và sáng tác của học sinh về môi trường, tổ chức các buổi cắm trại, các buổi giao lưu văn nghệ, thi tìm hiểu về môi trường và bảo vệ môi trường…

Tất cả các hình thức nói trên đều có vị trí và chức năng nhất định trong quá trình giáo dục môi trường cho học sinh, chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhưng không thay thế được nhau. Người giáo viên cần căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ giáo dục để tác động đến học sinh bằng những hình thức giáo dục khác nhau để đạt hiệu quả cao trong công tác Giáo dục môi trường.

1.4. Quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường trung học cơ sở

Tổ chức hoạt động giáo dục dục trong đó có Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm là hoạt động quan trọng, cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Để có thể quản lý tốt hoạt động này thì hiệu trưởng phải thực hiện tốt các công việc sau: Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

1.4.1. Lập kế hoạch quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động TN

Lập kế hoạch là một chức năng cơ bản của quản lý, trong đó phải xác định những vấn đề như nhận định và phân tích tình hình, bối cảnh; dự báo các khả năng; lựa chọn và xác định các mục tiêu, mục đích và hoạch định con đường, cách thức biện pháp để đạt được mục tiêu, mục đích của quá trình. Trong mỗi kế hoạch thường bao gồm các nội dung như xác định hình thành mục tiêu, xác định và đảm bảo về các điều kiện, nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu và cuối cùng là quyết định xem hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu đặt ra. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh, người Hiệu trưởng cần dựa trên những cơ sở sau:

Thứ nhất là: Phân tích thực trạng hoạt động Giáo dục môi trường thông qua hoạt động đã trải nghiệm trong năm học. Thực trạng này thể hiện rõ trong bảng tổng kết năm học. Qua đó thấy được ưu và nhược điểm của công tác này, những vấn đề gì còn tồn tại, từ đó xếp ưu tiên từng vấn đề cần giải quyết.

Thứ hai là: Phân tích kế hoạch chung của ngành, trường, từ đó xây dựng kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm. Kế hoạch này là kế hoạch cụ thể về một mặt giáo dục quan trọng của nhà trường, trong đó thể hiện sự thống nhất Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm với các mặt giáo dục khác phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường.

Thứ ba là: Tìm hiểu đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương. Vì quá trình Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm thống nhất biện chứng với quá trình hoạt động của xã hội, với môi trường sống của địa phương.

Thứ tư là: Tìm hiểu các đặc điểm môi trường tự nhiên của nước ta, của địa phương nơi trường đóng hiện nay và đặc điểm môi trường trên thế giới để xây dựng nội dung Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh.

Thứ năm là: Xác định điều kiện giáo dục như: cơ sở vật chất, tài chính, quỹ thời gian, sự phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trường và ngoài trường để thực hiện Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm đạt hiệu quả.

Những yêu cầu khi xây dựng kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm:

  • Kế hoạch phải thể hiện được tính khoa học, kế thừa, toàn diện, cụ thể và trọng tâm trong từng thời điểm, phù hợp với nội dung từng môn học. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.
  • Kế hoạch phải phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu kém, củng cố ưu điểm, vạch ra được chiều hướng phát triển trong việc hình thành hành vi, thói quen bảo vệ môi trường ở học sinh.
  • Kế hoạch phản ảnh được mối quan hệ giữa mục đích, mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, thời gian, hình thức tổ chức, biện pháp, kiểm tra, đánh giá.
  • Kế hoạch thể hiện được sự phân cấp quản lý của Hiệu trưởng, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và cụ thể, chi tiết.
  • Kế hoạch phối hợp các lực lượng tham gia: Cán bộ giáo viên, học sinh trong trường có thể mời thêm các chuyên gia, cha mẹ học sinh, địa phương, các tổ chức có liên quan.

1.4.2. Tổ chức thực hiện kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Tổ chức thực hiện việc Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trung học cơ sở có liên quan mật thiết đến việc tổ chức hoạt động học tập văn hoá trong nhà trường.

Quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch gồm:

  • Giải thích mục tiêu, yêu cầu, của kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm. Thảo luận biện pháp thực hiện kế hoạch.
  • Sắp xếp bố trí nhân sự, phân công trách nhiệm quản lý, huy động cơ sở vật chất, kinh tế. Khi sắp xếp bố trí nhân sự, Hiệu trưởng phải biết được phẩm chất và năng lực của từng người, mặt mạnh, mặt yếu, nếu cần có thể phân công theo từng “ê kíp” để công việc được tiến hành một cách thuận lợi và có hiệu quả.
  • Định rõ tiến trình, tiến độ thực hiện. Thời gian bắt đầu, thời hạn kết thúc. Trong việc tổ chức thực hiện, Hiệu trưởng cần tạo điều kiện cho người tham gia phát huy tinh thần tự giác, tích cực, phối hợp cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
  • Bồi dưỡng năng lực tổ chức Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho giáo viên nếu thấy cần thiết, huy động và phân phối các nguồn lực để tiến hành tổ chức thực hiện Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh. Việc huy động các nguồn tài chính để tổ chức Giáo dục môi trường cho học sinh bằng nhiều nguồn tài chính khác nhau như: nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, nguồn tài chính từ cha mẹ học sinh đóng góp, nguồn tài chính từ các tổ chức ngoài trường tài trợ từ cá nhân và tổ chức ngoài trường,…
  • Phối hợp các lực lượng trong và ngoài trường để thực hiện Giáo dục môi trường

Hoạt động Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh có thể diễn ra trong nhà trường và ngoài nhà trường, các lực lượng giáo dục có ảnh hưởng tới hoạt động đó là: các đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường và ngoài nhà trường, phụ huynh, GV, Cán bộ quản lý và học sinh.

Đối với học sinh trung học cơ sở, lứa tuổi năng động, cơ thể bắt đầu phát triển… nên việc lĩnh hội kiến thức, kỹ năng đối với học sinh cần chuyển tải những kiến thức, kỹ năng đúng, đủ, được phát triển một cách “nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả”, tránh nặng nề, gây cho học sinh những áp lực tinh thần, phản tác dụng giáo dục.

Việc giáo dục học sinh không chỉ có nhà trường và gia đình mà phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội. Các lực lượng tham gia phối hợp bao gồm: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội TNTP Hồ Chí Minh, GVCN, GVBM, nhân viên, Hội cha mẹ học sinh, các tổ chức xã hội: Đoàn phường, xã, Công an, Phụ nữ, các đơn vị kết nghĩa… Mỗi lực lượng giáo dục đều có thế mạnh riêng, vì vậy quản lý tốt việc phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để tổ chức tốt Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm chính là thực hiện XHH giáo dục, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho học sinh.

1.4.3. Chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Chỉ đạo thực hiện kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm trong nhà trường phổ thông là chỉ huy, ra lệnh cho các bộ phận trong nhà trường thực hiện những nhiệm vụ để bảo đảm việc Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp và phối hợp các lực lượng giáo dục sao cho đạt hiệu quả.

Việc chỉ đạo Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm sẽ đạt hiệu quả cao nếu trong quá trình chỉ đạo Hiệu trưởng biết kết hợp giữa sử dụng uy quyền và thuyết phục, động viên khích lệ, tôn trọng, tạo điều kiện cho người dưới quyền được phát huy năng lực và tính sáng tạo của họ.

Cụ thể việc chỉ đạo thực hiện Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm trong trường trung học cơ sở được tiến hành như sau:

  • Chỉ đạo giáo viên xây dựng chương trình, kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm.
  • Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm.
  • Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nội dung, chương trình Giáo dục môi trường.
  • Chỉ đạo việc tăng cường cơ sở vật chất, tài chính phục vụ cho Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm.
  • Chỉ đạo giáo viên nhận xét đánh giá kết quả hoạt động Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm.

Tóm lại, chỉ đạo Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm không chỉ sau khi lập kế hoạch có tổ chức thì mới có chỉ đạo, mà là quá trình đan xen. Nó thấm vào và ảnh hưởng quyết định đến các chức năng quản lý, điều hòa, điều chỉnh các hoạt động Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm của nhà trường trong quá trình quản lý.

1.4.4. Quản lý việc kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm

Kiểm tra là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý của Hiệu trưởng trong công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch tổ chức Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm của giáo viên, học sinh trong nhà trường, đồng thời mở ra một chu trình quản lý mới. Công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm giúp Hiệu trưởng kịp thời phát hiện và điều chỉnh những lệch lạc, sai sót trong quá trình thực hiện kế hoạch từ đó đưa ra những uốn nắn, sửa chữa cần thiết. Để làm tốt công tác này Hiệu trưởng cần:

Xây dựng được các tiêu chí đánh giá kết quả Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm sát với mục đích yêu cầu của từng hoạt động, trong từng thời điểm. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Xây dựng lực lượng đánh giá có uy tín đối với từng hoạt động, việc đánh giá phải được thực hiện thường xuyên, liên tục trực tiếp hoặc gián tiếp để kịp thời phát hiện và điều chỉnh những lệch lạc, sai sót trong quá trình thực hiện kế hoạch từ đó đưa ra những uốn nắn, sửa chữa cần thiết.

Sử dụng nhiều hình thức đánh giá như: Sử dụng phiếu khảo sát, quan sát thực tế, trao đổi trực tiếp, hỏi ý kiến giáo viên, học sinh hoặc chuyên gia.

Kiểm tra hoạt động học tập của học sinh về các nội dung đã được trải nghiệm để biết được mức độ thu nhận và vận dụng kiến thức chung cũng như các kiến thức mà các em lĩnh hội được từ các hoạt động Giáo dục môi trường, cung cấp cho học sinh những phản hồi thông tin, giúp cho học sinh điều chỉnh hoạt động của mình.

Kiểm tra hoạt động dạy học, giáo dục của GV đối với việc thực hiện các mục tiêu giáo dục về môi trường. Đồng thời hiệu trưởng thường xuyên kiểm tra, xem xét việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên (thông qua việc kiểm tra bài soạn của GV, dự giờ giảng của GV ở những bài học có nội dung liên quan đến Giáo dục môi trường,…) để đảm bảo hiệu quả công việc đã đề ra, từng bước nâng cao chất lượng Giáo dục môi trường trong nhà trường.

Kiểm tra đánh giá về tinh thần thái độ, ý thức tham gia hoạt động trải nghiệm của học sinh và mức độ đạt được về kiến thức, kỹ năng hành vi của học sinh.

Sau khi kiểm tra đánh giá phải tổ chức rút kinh nghiệm, chỉ ra được những mặt đạt được và chưa được của hoạt động, qua đó công nhận những giá trị và những đóng góp của các tập thể và cá nhân đối với hoạt động Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm. Do vậy việc kiểm tra, đánh giá Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm phải khách quan, chính xác, toàn diện, hệ thống, công khai, kịp thời, vừa sức và bám sát vào yêu cầu của chương trình, mục tiêu giáo dục cấp học. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ thực trạng để điều chỉnh quá trình giáo dục, dạy học sao cho hợp lý và cuối cùng là thông tin kết quả này đến địa chỉ có nhu cầu.

Tóm lại quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm của học sinh ở trường trung học cơ sở là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra được tiến hành bởi hiệu trưởng và Cán bộ quản lý trường học trong sự phối hợp và phân công rõ ràng và đặc biệt phát huy vai trò của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nhà trường. Việc xác định các chức năng trong quá trình quản lý Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm không thể rạch ròi, riêng biệt từng chức năng mà là quá trình đan xen, kết hợp để thực hiện mục tiêu cuối cùng của một chu trình quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường Trung học cơ sở Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Có nhiều yếu tố chi phối việc quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm ở trường phổ thông nói chung và ở trường trung học cơ sở nói riêng nhưng chủ yếu vẫn là các yếu tố sau:

Nhận thức của của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Để quản lý tốt công tác Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm thì trước hết Cán bộ quản lý các nhà trường phải nhận thức được đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc về mục tiêu, vị trí, vai trò, tác dụng của Giáo dục môi trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở đó mới tuyên truyền nâng cao nhận thức cho Cán bộ giáo viên, Phụ huynh học sinh và các lực lượng giáo dục khác. Đồng thời Cán bộ quản lý cũng là người tập hợp, thuyết phục mọi lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường tích cực triển khai thực hiện nội dung chương trình Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm.

Có nhận thức đúng thì cán bộ giáo viên trong nhà trường mới xác định rõ chức trách và nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức thực hiện. Khi Phụ huynh học sinh có nhận thức đúng tầm quan trọng của Giáo dục môi trường thì họ sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình tham gia vào hoạt động và có thể ủng hộ cả vật chất cho việc tổ chức các hoạt động của lớp, của trường.

Năng lực quản lý, tổ chức, lãnh đạo của Hiệu trưởng. Năng lực của Hiệu trưởng có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả quản lý và sự phát triển của toàn trường. Nhà trường có thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của mình hay không một phần quyết định quan trọng là tùy thuộc vào những phẩm chất và năng lực của người Hiệu trưởng.

Năng lực của người tổ chức Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm cho học sinh. Con người là yếu tố quan trọng nhất cho thành công của mọi công việc; Để quản lý, tổ chức tốt công tác Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm thì năng lực của đội ngũ giáo viên trực tiếp phụ trách các hoạt động trải nghiệm cho học sinh sẽ là yếu tố quyết định.

Điều kiện Cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính phục vụ cho công tác Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm.

Để tổ chức tốt các hoạt động trên thì ngoài nhân tố con người ra thì có một yếu tố khác cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đó là yếu tố Cơ sở vật chất, tài chính phục vụ cho hoạt động. Thực tế hiện nay kinh phí dành cho hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở nói chung và nhất là ở các trường vùng nông thôn, miền núi, dân tộc nói riêng là rất hạn chế, việc huy động nguồn lực tài chính từ các tổ chức kinh tế, xã hội, các nhà hảo tâm, Phụ huynh học sinh sẽ góp phần đem lại kết quả cho Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm ở các nhà trường.

Sự phối kết hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường trong việc tham gia tổ chức trải nghiệm cho học sinh GDMT thông qua trải nghiệm là các hoạt động được tổ chức trong nhà trường, ngoài xã hội. Vì vậy nhà trường cần phối hợp với các lực lượng giáo dục khác ngoài nhà trường như: Các đoàn thể chính trị xã hội ở địa phương; tổ chức chính quyền địa phương; các đơn vị kinh tế xã hội; hội cha mẹ học sinh…

Tiểu kết chương 1 Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

Giáo dục môi trường trong nhà trường trung học cơ sở hiện nay chưa được xây dựng thành môn học riêng mà chủ yếu được thực hiện thông qua việc lồng ghép, tích hợp nội dung Giáo dục môi trường vào các môn học có nội dung liên quan đến môi trường, và thông qua các hoạt động trải nghiệm. Do đó việc xác định nội dung, phương pháp, phương tiện để tiến hành Giáo dục môi trường trong nhà trường trung học cơ sở cần tuân theo những nguyên tắc nhất định, cần bám sát vào mục tiêu Giáo dục môi trường cho học sinh trung học cơ sở đã được xác định, đảm bảo và tạo ra những điều kiện tốt, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh để tổ chức Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm cho học sinh đạt hiệu quả cao.

Quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá thực hiện. Để thực hiện tốt hoạt động này hiệu trưởng và người quản lý phải thấy được những tác động, mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng như: trình độ năng lực của Cán bộ giáo viên, học sinh trong nhà trường, nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, sự phối kết hợp giữa các tổ chức trong và ngoài nhà trường, điều kiện kinh tế, văn hóa, sự quan tâm của các cấp để thực hiện tốt công tác Giáo dục môi trường thông qua trải nghiệm.

Việc nghiên cứu, phân tích các cơ sở lý luận có liên quan đến Hoạt động trải nghiệm, quản lý Hoạt động trải nghiệm, các điều kiện cần thiết và vai trò của người hiệu trưởng trong việc quản lý tổ chức thực hiện Hoạt động trải nghiệm là những cơ sở lý luận cơ bản để tác giả đánh giá thực trạng công tác quản lý Hoạt động trải nghiệm ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh và từ đó đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường ở các chương tiếp theo.

Với ý nghĩa đó, chương 1 là nền tảng lý luận để tìm hiểu thực trạng công tác quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh tại các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên, qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý Giáo dục môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong trường trung học cơ sở thời gian tới. Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục môi trường ở trung học

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Luận văn: Quản lý giáo dục môi trường ở các trường trung học […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993