Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một trong những phạm trù cơ bản của lý luận giáo dục, là nội dung quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người Việt Nam. Đạo đức của người Việt Nam rất giản dị, tự nhiên, trong sáng, đã trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá, xem xét về phẩm chất nhân cách của mỗi người.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và nhân cách nói chung của con người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ.
Coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta đòi hỏi phải “tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước”. Từ đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc biệt là đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên trong nhà trường phổ thông. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa – nghệ thuật cũng như trong tâm lý – đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới sự suy thoái về đạo đức ở một bộ phận xã hội, ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh phổ thông. Điều đó có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề trọng tâm để tạo ra sức mạnh tổng hợp cải thiện tình hình. Vì vậy, tăng cường quản lý trong hoạt động giáo dục đạo đức là đòi hỏi khách quan trong giáo dục phổ thông hiện nay.
Thành phố Hồ Chí Minh có lịch sử trên 300 năm, nơi đang dẫn đầu cả nước về tốc độ, quy mô phát triển kinh tế. Trên địa bàn này, sự hội tụ những đặc điểm, những biểu hiện đạo đức của lớp trẻ, đồng thời thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu và giải quyết. Việc đánh giá đúng tình hình, nhận diện đúng các vấn đề và tình huống, phát hiện được những trở ngại và vướng mắc trong quản lý giáo dục để tìm ra các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong các trường trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ góp phần tạo nên những chuyển biến tích cực của đời sống đạo đức và giáo dục đạo đức hiện nay. Đó là một việc làm cần thiết để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thành phố và cho đất nước.
Những lý do trên đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Các nghiên cứu ở nước ngoài
Trong đời sống xã hội, giai đoạn lịch sử nào cũng coi trọng vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Điều đó xuất phát từ nhu cầu phân biệt cái tốt, cái xấu; cái thiện, cái ác trong hành vi ứng xử giữa con người với con người; giữa con người với thế giới xung quanh. Vì thế, phạm trù đạo đức và giáo dục đạo đức luôn được các nhà giáo và các nhà khoa học giáo dục quan tâm nghiên cứu. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã nhận thức được vai trò quan trọng của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội và của từng con người cụ thể. Ông chủ trương dùng đức trị để xây dựng và ổn định xã hội. Đó là một xã hội có các chuẩn mực đạo đức rõ ràng, vua có đức của vua, tôi có đức của tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, mọi người đều sống và làm việc đúng theo chính danh của mình. Cốt lõi trong quan điểm của Khổng Tử về đạo đức là “nhân”, “nghĩa”. Nhân nghĩa là cái tốt đẹp của con người thể hiện ở nguyên tắc xây dựng, cai trị quốc gia, ở việc trau dồi ý chí, tình cảm, hành vi trong các mối quan hệ xã hội.
Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức và giáo dục đạo đức lúc bấy giờ là một tiến bộ xã hội. Nó không chỉ góp phần bổ sung, phát triển lý luận giáo dục nhân cách mà còn là một giải pháp cho sự phát triển của xã hội Trung Hoa cổ đại. Những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đạo đức đã trở thành quan điểm chính thống của nền giáo dục nho học trong suốt cả thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế của hoàn cảnh lịch sử nên quan điểm của Khổng Tử về đạo đức vẫn mang tính đẳng cấp, phân biệt đạo đức của quân tử và tiểu nhân, giữa nam và nữ. Về phương pháp giáo dục đạo đức, Khổng Tử chưa nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người với xã hội, chưa kết hợp cải tạo con người với cải tạo xã hội. Ông coi đạo đức là sản phẩm của một cá nhân riêng biệt, được hình thành chủ yếu bằng con đường tu thân.
Ở phương Tây, thời kỳ cổ đại cũng xuất hiện nhiều quan điểm, nhiều học thuyết lớn về giáo dục đạo đức. Mặc dù các quan điểm và các học thuyết đó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục nho học ở nước ta trong thời kỳ phong kiến nhưng nó là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm giáo dục thời kỳ văn hóa phục hưng tỏa sáng khắp thế giới sau này.
Thời kỳ văn hóa phục hưng, giáo dục được xem như một lĩnh vực tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại sự câu kết, lũng đoạn của vương quyền và thần quyền trong trường học. Trong bối cảnh đó, nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ đã được xuất hiện.
Nhìn chung, các tư tưởng giáo dục thời kỳ này vẫn đề cao việc giáo dục đạo đức, nhưng đã có sự phát triển mới về chuẩn mực giá trị đạo đức của con người và xã hội. Về phương pháp giáo dục, bước đầu đã có sự gắn kết đức dục với trí dục, gắn giáo dục đạo đức với lao động sản xuất và các hoạt động khác. Tuy nhiên, các tư tưởng tiến bộ đó phần lớn chỉ mới dừng lại ở ý tưởng, việc tổ chức thực hiện hầu như chưa đem lại kết quả mong muốn. Chỉ từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời, thì những vấn đề lý luận về giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng mới được nghiên cứu một cách đầy đủ trên cơ sở khoa học thực sự.
Trên cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số quan điểm về đạo đức và giáo dục đạo đức trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tiến bộ của các chế độ xã hội trước. Hai ông đã đưa ra những quan điểm của mình về đạo đức. Đạo đức không thể tách rời cuộc sống của con người. Đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của đời sống con người trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Con người bằng hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh nghiệm lịch sử của mình để xây dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị đạo đức. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ bản chất của đạo đức không phải là cái gì có sẵn hoặc thiên định. Đạo đức được hình thành từ con người và xã hội loài người. Ph. Ăngghen viết: “Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [01, tr. 157].
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành trên cơ sở tồn tại xã hội, tác động tới xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội, những giá trị đạo đức; những quy tắc, nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đều được định ra trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị của chính xã hội ấy.
Những tư tưởng về đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen đã được V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển hoàn chỉnh thành học thuyết mácxít về đạo đức cộng sản và hiện thực hóa trong cách mạng tháng Mười Nga.
V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và trong tập thể; giáo dục lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
Con đường phấn đấu trở thành người có đạo đức cộng sản đó là mỗi người phải tích cực tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng nhân loại cần lao và tham gia lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng công nhân và nông dân. Đạo đức cộng sản là “cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thiện chủ nghĩa cộng sản”. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống lại mọi sự bóc lột, mọi chế độ tư hữu…” [17, tr. 369].
Đạo đức cộng sản còn là khả năng tổ chức, tính tổ chức, ý thức làm chủ, lòng dũng cảm, không sợ gian khổ hy sinh, trung thực, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình. Đặc biệt, đạo đức cộng sản là phải có khả năng tự đánh giá, rút ra mạnh, yếu, tìm rõ nguyên nhân để không ngừng rèn luyện, tự hoàn thiện về mọi mặt để trở thành con người phát triển toàn diện.
V.I.Lênin cũng chỉ rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng sản là của toàn xã hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm của nhà trường Xô Viết, của Đoàn thanh niên tiền phong, của các tổ chức đảng, đoàn, cán bộ đảng, đoàn và các thế hệ cách mạng lớn tuổi, các lão thành cách mạng, của đội ngũ thầy, cô giáo. Muốn giáo dục đạo đức cộng sản cho thế hệ trẻ có kết quả tốt thì bản thân những người làm công tác giáo dục phải là người gương mẫu, trong sáng, phải là người tiêu biểu để thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào và học tập; làm được như vậy, đạo đức cộng sản mới thực sự trở thành đời sống tinh thần, mang tính giáo dục cao cho mỗi cá nhân và toàn xã hội. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
2.2 Các nghiên cứu ở trong nước
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm Lịch sử oai hùng. Trong quá trình đó đã hình thành và phát triển giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trên nền tảng của truyền thống quá trình đấu tranh dựng nước và bảo vệ, phát triển đất nước. Theo Nguyễn Thế Kiệt, vai trò của các hệ tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là Nho giáo đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam. Mỗi học thuyết tôn giáo đã giải thích được một khía cạnh của cuộc sống. Do đó, tư tưởng triết học đạo đức Việt Nam, giá trị đạo đức ưu trội, cốt lõi trong các giá trị truyền thống dân tộc trở thành phẩm chất nhân cách đặc trưng con người Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nền giáo dục phong kiến bị thay đổi toàn bộ. Hệ thống giáo dục nhà trường chú trọng đến nội dung giảng dạy kiến thức khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm đào tạo lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân Pháp cho việc chinh phục thuộc địa.
Sau cách mạng tháng tám (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, nền giáo dục Việt nam với mục đích giáo dục con người phục vụ “Kháng chiến, kiến quốc” đã luôn gắn chặt hai mặt đức và tài trong mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy Đức làm gốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa vô cùng quý báu trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [19, tr. 283]. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém” [19, tr. 452]; Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng. Đức và tài phải thống nhất với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới bao gồm:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Hai là, yêu thương con người. Đây là một trong những phẩm chất đẹp nhất của con người Việt Nam. Tình thương yêu con người được hình thành trong lịch sử và đã trở thành truyền thống của dân tộc.
Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là tình yêu thương của người cộng sản. Không phải thuần túy là sự đồng cảm tâm lý, không phải sự thương hại, sự xót xa của tình thương tôn giáo. Tình yêu thương ở đây là phải giải phóng con người, tạo cơ hội cho con người được phát triển hoàn toàn.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất chung của con người, là phẩm chất đạo đức mới, thể hiện mối quan hệ rộng lớn vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam là phải bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người.
Theo Hồ Chí Minh: đạo đức cách mạng không phải điều gì xa lạ mà thực chất đạo đức cách mạng được hình thành từ thực tiễn hoạt động rèn luyện hàng ngày trong công tác, chiến đấu của mỗi người.
Thực chất của giáo dục đạo đức chính là hình thành ở con người đức tính tốt, lòng nhân ái, nổi trội ở đó là tinh thần yêu nước, lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm loại bỏ những thói hư, tật xấu, tư tưởng lạc hậu, trì trệ, sự ích kỷ cá nhân, tính vô nhân đạo. Vì theo Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho lòng tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng” [15, tr. 558].
Từ việc xác định rõ thực chất của vấn đề giáo dục đạo đức, xác định rõ mục tiêu của giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Đây là nguyên tắc rèn để rèn luyện, là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng với đạo đức không cách mạng.
Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Đây là nguyên tắc có tính quy luật trong giáo dục đạo đức mới. Muốn xây dựng đạo đức mới thì nhất thiết phải chống lại các tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất, chống là nhằm mục đích để xây và lấy xây làm chính.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức không phải là từ trên trời rơi xuống mà được đào tạo, rèn luyện bền bỉ hàng ngày để phát triển và củng cố: “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức không thường xuyên tu dưỡng sẽ bị hoen ố.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức là một cơ sở lý luận xuyên suốt, luôn hướng dẫn, chỉ đường cho Đảng, quân đội, nhân dân ta học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến năm 1979 Bộ chính trị và Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra nghị quyết vế cải cách giáo dục và Ủy ban cải cách giáo dục Trung ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học, đã ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều bác Hồ dạy”.
Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức như:
- Thứ trưởng Vũ Đình Nho “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học” (Báo Nghiên cứu giáo dục số 6/ 1980).
- Tác giả Trần Quang “Dạy đạo đức trong trường học” (Báo giáo dục thời đại số 18/1999).
- Tác giả Lê Châu “Cần xác định đúng môn Giáo Dục Công Dân trong trường trung học phổ thông” (Báo Giáo dục thời đại ngày 25/5/2001). Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Giáo sư Đặng Vũ Hoạt “Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm với việc giáo dục đạo đức cho học sinh” Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 8/1992.
- PGS- TS Hà Nhật Thăng “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên- học sinh- sinh viên” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 39/2002).
Về công tác quản lý giáo dục đạo đức trong những năm qua cũng có nhiều tác giả nghiên cứu như:
- PGS-TS Đặng Quốc Bảo có bài “Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục” 1998.
- Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo” 1998.
Nghị quyết của hội nghị lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1996) có nêu: “Mục tiêu chủ yếu là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” .
Với tư tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách mới mà thời đại mới yêu cầu là “Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành, có khả năng thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần”. Đặc biệt là, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sau 5 năm thực hiện cuộc vận động đã tạo ra phong trào phấn đấu tu dưỡng đạo đức trong mọi tầng lớp xã hội, mang lại hiệu quả tốt. Do đó, Bộ Chính trị khóa XI tiếp tục có Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những văn kiện này là tài liệu đặc biệt quan trọng và có giá trị cao đối với giáo dục đạo đức xã hội nói chung, tổ chức quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngành giáo dục- đào tạo đã quan tâm và có nhiều văn bản chỉ đạo giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong nhà trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm về công tác phòng chống tệ nạn xã hội và ma túy xâm nhập học đường. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho các đối tượng, cho học sinh đã được nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu trình bày. Nhưng vấn đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức còn ít tài liệu, công trình đề cập. Do đó, nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề mới mẻ và cần thiết. Đặc biệt là, ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ở quận Bình Tân nói riêng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục cũng như quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông chưa được thực hiện một cách có hệ thống.
Vì vậy chúng tôi hy vọng đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” sẽ góp phần giúp cho các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân có thể nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn của giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học phổ thông, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đã thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình Tân;
Nghiên cứu thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức ở 5 trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân (An Lạc, Vĩnh Lộc, Nguyễn Hữu Cảnh, Bình Hưng Hoà, Bình Tân);
Đề xuất một số biện pháp chủ yếu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân.
Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân.
Số liệu khảo sát được thực hiện trên đội ngũ cán bộ quản lý, các lực lượng tham gia giáo dục đạo đức, giáo viên và học sinh từ năm 2008 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông là nội dung cơ bản của quản lý giáo dục trong nhà trường, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Bình Tân còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Nếu phát huy được vai trò chỉ đạo, điều hành; tổ chức tốt nâng cao nhận thức về giáo dục đạo đức cho cán bộ giáo viên và học sinh; tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp giáo dục, đồng thời phát huy vai trò của nhà trường trong phối hợp với các lực lượng giáo dục trên địa bàn thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh sẽ đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; quán triệt những tư tưởng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng về giáo dục, nhất là các quan điểm trong các văn kiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IX, X, XI. Sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc trong xem xét, phân tích các đối tượng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
6.2 Các phương pháp cụ thể
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: khái quát các tài liệu lý luận và thực tiễn để xây dựng những quan niệm, khái niệm, xây dựng những quy trình, những nguyên tắc nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng những phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn, đàm thoại…để thu thập các tài liệu về thực trạng giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
Phương pháp chuyên gia: Chúng tôi sẽ hỏi ý kiến các chuyên gia am hiểu về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức về thực trạng và các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của học sinh trên địa bàn quận Bình Tân.
Phương pháp toán thống kê: Sử dụng để tính toán và xử lý các số liệu điều tra thực trạng đã thu được từ đó rút ra nhận xét cần thiết cho đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác quản lý và nghiên cứu giáo dục đạo đức của các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân.
Nội dung các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân do đề tài đề xuất có thể ứng dụng nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân.
8. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và trích dẫn, các phụ lục, luận văn có 3 chương:
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN
1.1. Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.1.1. Hoạt động giáo dục đạo đức Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Đạo đức là khái niệm luân thường đạo lý của con người được sử dụng để phân biệt tốt- xấu, đúng – sai, cái thiện – cái ác … trong cuộc sống, được sử dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và sự trừng phạt. Trong đời sống xã hội, nói đến đạo đức là nói đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Những quan niệm về các giá trị và chuẩn mực đạo đức có tính lịch sử – xã hội và gắn liền với các tư tưởng về triết học, về văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử; chịu sự chi phối của các tư tưởng tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, và những luật lệ của một xã hội, phản ánh trong cách đối xử của con người với môi trường xung quanh, với cộng đồng với người khác và với bản thân mình.
Theo quan niệm trước đây, đạo đức được hiểu đồng nghĩa với luân lý, đó là những chuẩn mực, hành vi được xã hội quy định, được nhiều người thừa nhận và tự giác thực hiện. Đó là những quy ước cộng đồng xã hội qua thời gian được thừa nhận và trở thành truyền thống đạo lý trong ứng xử giữa người với người, người với tự nhiên, xã hội.
Ngày nay, trong hoàn cảnh xã hội luôn vận động, phát triển, quan niệm về đạo đức được mở rộng phạm vi. Đạo đức không chỉ là phạm trù luân lý, những quy định đối nhân xử thế giữa người với người trong mọi phạm vi từ nhỏ đến lớn. Đạo đức còn được mở rộng đến vấn đề ý thức, trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ hòa bình, biết hợp tác phát triển cùng với các dân tộc khác, giáo dục trách nhiệm, xã hội lành mạnh, giáo dục việc thực hiện nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tinh thần cảnh giác cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với ý nghĩ đó, có thể hiểu đạo đức một là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nhằm hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, chuẩn mực quan trọng nhất làm cơ sở để con người có thể lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội; biết tự đánh giá, tự suy ngẫm về hành vi, cách ứng xử của mình. Vì thế, giáo dục đạo đức là thực hiện hình thành và phát triển nhân cách cho con người tương ứng với từng giai đoạn phát triển trong cuộc sống.
Giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt viết: “Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”. Đó là quá trình tác động tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là hình thành cho họ thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà trường giữ vai trò chủ đạo định hướng “ Giáo dục đạo đức cho học sinh là bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa” [07, tr. 128].
Giáo dục đạo đức là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người theo chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục đạo đức là con đường chủ yếu để hình thành cho con người những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất. Cùng với quá trình giáo dục và hoạt động tích cực của mình, con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự và các phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng đồng, từ đó tham gia có ý thức, có trách nhiệm vào thúc đẩy tiến bộ xã hội
Nói đến hoạt động giáo dục đạo đức là nhấn mạnh xem xét giáo dục đạo đức theo cấu trúc hoạt động, tức là phải xem xét động cơ, mục đích, phương tiện cũng như hệ thống các hành động, thao tác tương ứng của hoạt động đó. Mặt khác, quản lý được thực hiện bằng những công việc cụ thể như xác định mục tiêu; xác định quyết tâm và xây dựng kế hoạch; tổ chức lực lượng, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch; tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã đề ra; kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được, điều chỉnh việc thực hiện để kết quả đạt được như mong muốn. Đây là những tư tưởng cơ bản để làm rõ khái niệm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.1.2. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… thông qua các luật lệ, các chính sách, các quy định theo những nguyên tắc, phương pháp nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự vận động của đối tượng theo đúng yêu cầu của chủ thể quản lý, đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
Mọi người trong xã hội đều hoạt động trong những tổ chức xã hội, những nhóm và cộng đồng. Trong khi đó, mỗi người là một nhân cách độc đáo, không lặp lại. Vì thế, khi cần hướng đến một mục tiêu chung, mong muốn đạt được kết quả chung thì phải có sự phối hợp thống nhất trong suy nghĩ, trong hành động của tất cả các thành viên trong tổ chức, nhóm hay cộng đồng đó. Đúng như một nhà tư tưởng đã nói: “Một người độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, còn một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Có thể khái quát, quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện quản lý làm cho đối tượng quản lý nỗ lực tự giác thực hiện các hành vi và hoạt động theo ý định của nhà quản lý để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Xét về lịch sử thì khoa học Quản lý giáo dục xuất hiện sau khoa học quản lý kinh tế. Hiện nay, quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra những cách định nghĩa khác nhau, tương ứng là các quan điểm khác nhau về quản lý giáo dục. Có thể nêu một số quan niệm tiêu biểu:
Theo M.I. Kondacop thì “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm cho sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục vào sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em” [29, tr. 17]. Quan niệm này chỉ rõ nơi tác động là tất cả các khâu của hệ thống; xác định rõ cách tác động của chủ thể quản lý là vận dụng nhưng quy luật xã hội và quy luật giáo dục; mô tả rõ mục tiêu hướng tới của tác động quản lý là sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em. Nhưng quan niệm này chưa tính đến sự chi phối của các yếu tố chính trị xã hội đối với quản lý, do đó quản lý giáo dục không có định hướng chính trị rõ rệt.
Tác giả Phạm Minh Hạc khái quát: “Quản lý giáo dục là quản lý trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh đường lối chính trị mà công tác quản lý phải quán triệt khi tác động vào đối tượng quản lý. Tuy nhiên, cách thức, phương tiện tác động chưa được đề cập.
Một số tác giả khác cũng có những cách định nghĩa riêng. Mỗi cách định nghĩa quản lý giáo dục đều quan tâm làm nổi bật những khía cạnh nhất định liên quan đến mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chúng tôi thấy, bản chất của quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức của chủ thể quản lý và các thành tố khác trong hệ thống quản lý bằng những công cụ, phương tiện nhất định, nhằm làm cho kết quả quá trình giáo dục đạt mục tiêu đã định, phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng và nhà nước về giáo dục. Đây là một công việc rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đầy đủ kiến thức và kỹ năng, phẩm chất để đảm nhận các chức năng xã hội.
Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay bộ máy quản lý giáo dục. Trong trường đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ máy giúp việc của Hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên, các tổ chức đoàn thể.
Khách thể quản lý giáo dục bao gồm trường học hoặc là hoạt động giáo dục trên một địa bàn (cơ quan quản lý giáo dục các cấp), trong đó có bốn thành tố của một hệ thống xã hội: Tư tưởng (quan điểm đường lối, nguyên lý chính sách chế độ, giáo dục…) con người ( giáo viên, cán bộ công nhân viên và các hoạt động của họ…) quá trình giáo dục ( diễn ra trong không gian và thời gian ), vật chất, tài chính ( trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho giáo dục, ngân sách, ngân quỹ…).
Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý một cách có ý thức nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra và chính sự thực hiện thành công mục tiêu quản lý giáo dục lại bảo đảm cho thực hiện được các mục tiêu giáo dục nói chung của nhà trường. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là bộ phận của quản lý giáo dục nói chung trong nhà trường hướng vào mục tiêu cụ thể là giáo dục đạo đức cho học sinh. Mục tiêu giáo dục cụ thể này trong mối quan hệ với các mục tiêu quá trình giáo dục bộ phận khác như giáo dục phát triển trí tuệ, giáo dục phát triển thể chất, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, giáo dục đạo đức…
Trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch quản lý là phân tích đánh giá tình hình giáo dục đạo đức đang tiến hành trong nhà trường, thấy được vai trò thực tế của từng lực lượng tham gia hoạt động giáo dục đạo đức thực hiện nhiệm vụ theo chức trách của mình thế nào, mối quan hệ, hợp tác phối hợp của các lực lượng với nhau thực hiện hiệu quả các tác động giáo dục; thấy được những điều kiện phương tiện, tài chính, quỹ thời gian bảo đảm… để từ đó đề ra mục tiêu mới về nhận thức và hành vi đạo đức của học sinh cần phải đạt được; kịp thời có những chủ trương và quyết tâm hành động đạt được mục tiêu; xác định những yêu cầu mới đối với các thành phần và lực lượng; những điều kiện, phương tiện và tương ứng để thực hiện mục tiêu.
Về tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, nhiệm vụ của quản lý trước hết là, quán triệt rõ mục tiêu giáo dục đạo đức cho các lực lượng giáo dục, cho học sinh, nhằm tạo ra sự thống nhất trong nhận thức; làm cho họ nắm chắc nội dung các biện pháp tiến hành, các điều kiện và thời gian thực hiện, các kết quả phải đạt được qua giáo dục đạo đức cho học sinh. Từ đó bố trí lực lượng, phân công trách nhiệm, giao chỉ tiêu, xác định yêu cầu thực hiện cho từng đối tượng, từng bộ phận theo kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh đã xác định.
Quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức, các quyết định quản lý được ban hành dưới dạng các mệnh lệnh, chỉ thị bằng các văn bản hoặc lời nói yêu cầu các lực lượng, cá nhân thực hiện theo nhiệm vụ, chức trách đã được phân công. Tùy theo phân cấp trách nhiệm, chức trách nhiệm vụ của từng cá nhân và tổ chức, các quyết định quản lý trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông có thể do Hiệu trưởng, các thầy cô trong Ban Giám hiệu ban hành; các yêu cầu, các hướng dẫn chỉ đạo của cán bộ đoàn đội, của thầy cô giáo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo mệnh lệnh của Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu, theo chương trình kế hoạch giáo dục đạo đức đã ban hành.
Công tác kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức chủ yếu là xem xét nội dung các hoạt động giáo dục và rèn luyện đạo đức đang thực hiện so với kế hoạch, đối chiếu với chương trình đặt ra có đúng không, sai lệch như thế nào; đánh giá mức độ nghiêm trọng ảnh hưởng của các sai lệch đến mục tiêu giáo dục đạo đức, ảnh hưởng đến kết quả và chất lượng giáo dục đào tạo nói chung. Những phát hiện này là căn cứ quan trọng để chủ thể quản lý chủ trương, biện pháp điều chỉnh kịp thời về lực lượng, về tổ chức, về biện pháp, phương tiện thực hiện, bảo đảm cho kết quả giáo dục đạo đức đạt được phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Đây một chức năng quan trọng của quản lý, đồng thời cũng là một khâu cơ bản của toàn bộ quá trình quản lý đặt ra. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trên đây là những vấn đề cơ bản trong khái niệm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức. Khi xem xét quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho một đối tượng cụ thể, những chủ thể, đối tượng quản lý được xác định; những mục tiêu, cách thức tổ chức tiến hành được cụ thể hóa cho đối tượng đó.
Vậy, có thể khái quát Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một bộ phận do lãnh đạo nhà trường tổ chức điều khiển các lực lượng giáo dục thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức đã đề ra trong điều kiện kinh tế xã hội quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
1.1.3. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể, thực hiện được mục đích đề ra. Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý viết: “Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Biện pháp quản lý là cách làm của chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý tác động vào từng khâu, từng yếu tố trong hệ thống quản lý, làm cho hệ thống quản lý vận động, biến đổi tạo ra kết quả đáp ứng mục đích quản lý đã đề ra. Chủ thể quản lý sử dụng các biện pháp để theo dõi sát công việc đang diễn ra; kiểm tra chặt chẽ phát hiện kịp thời các sai lệch để uốn nắn; tổ chức tốt việc tự kiểm tra, tự giám sát của các bộ phận để hệ thống thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ đã xác định.
Vậy, có thể khái quát: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh là tổng hợp các cách thức quản lý của Ban giám hiệu, các tổ chuyên môn và cán bộ nhà trường tác động đến quá trình giáo dục đạo đức nhằm làm cho quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh thực hiện tốt kế hoạch và đạt mục tiêu giáo dục đạo đưc đã đề ra.
Khái quát trên đã chỉ ra rằng, mục đích cơ bản của các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông quận Bình Tân là làm cho cán bộ nhà trường, các thầy cô giáo và học sinh ý thức rõ ý nghĩa, vai trò của giáo dục đạo đức, tích cực huy động mọi sức lực và cố gắng; khai thác mọi điều kiện phương tiện hiện có để trang bị nhận thức, hình thành thái độ hành vi đạo đức đúng đắn cho học sinh. Các biện pháp được thể hiện ở các hành động, việc làm của các thầy cô Ban Giám hiệu và giáo viên tích cực hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động giáo dục đạo đức, từ xây dựng mục tiêu, xác định nội dung giáo dục đạo đức, tìm phương pháp phương tiện giáo dục có hiệu quả trong giáo dục đạo đức để làm chuyển biến nhận thức và hành vi đạo đức của học sinh. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Để các biện pháp thực hiện có hiệu quả trên thực tiễn, Ban Giám hiệu và đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường cần làm tốt các yêu cầu sau:
- Phải bảo đảm thống nhất nhận thức trong đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường về mục đích, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục. Đây là điều kiện bên trong tạo ra sức mạnh quản lý trong suốt quá trình giáo dục;
- Làm tốt công tác xây dựng kế hoạch giáo dục bảo đảm tính khả thi của kế hoạch. Quá trình thực hiện kế hoạch phải phát hiện những sai lệch, kịp thời bổ sung, điều chỉnh phù hợp;
- Cần có biện pháp, lực lượng và công cụ đánh giá kết quả giáo dục một cách khách quan, chính xác, từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp quản lý hiệu quả cao;
- Có biện pháp thích hợp phát huy cao độ tính chủ động, tích cực tự quản lý của các lực lượng tham gia và học sinh là đối tượng được giáo dục;
- Kết hợp nhiều kết quả hoạt động giáo dục khác nhau để đánh giá hiệu quả quản lý.
1.2. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân
Xác định nội dung quản lý giáo dục là việc làm quan trọng bảo đảm cho quá trình quản lý thực hiện được mục tiêu quản lý đặt ra. Nội dung quản lý được xác định trên cơ sở quán triệt sâu sắc mục tiêu quản lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nhà trường. Sau đây là những nội dung chủ yếu cần thực hiện nghiêm túc trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
1.2.1. Quản lý mục tiêu và kế hoạch giáo dục đạo đức Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trong mọi hoạt động của con người, vấn đề xác định đúng và quán triệt sâu sắc mục tiêu trong quá trình thực hiện là điều kiện quyết định cho kết quả hoạt động. Giáo dục đạo đức là hình thành phẩm chất tâm lý cơ bản, có tính chất nền tảng cho đời sống con người thì việc xác định đúng và thực hiện nghiêm túc mục tiêu giáo dục đó đòi hỏi phải có nhận thức đúng, có biện pháp tổ chức thực hiện kiên trì bền bỉ mới thành công.
Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh phải bắt đầu từ xây dựng mục tiêu một cách phù hợp. Đó là những phẩm chất cần có và có thể đạt được của học sinh trong môi trường giáo dục nhà trường, phù hợp với đặc điểm học sinh và điều kiện kinh tế – xã hội địa phương. Khi xây dựng mục tiêu giáo dục đạo đức trước hết phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về nguồn lực con người, về những chủ trương phát triển giáo dục, nhất là những quan điểm về đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo đã được đề cập trong Nghị quyết đại hội lần thứ X và XI của Đảng. Trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng, căn cứ quan trọng khác trong xây dựng mục tiêu giáo dục đạo đức phải là mục tiêu giáo dục quốc gia đã được xác định cho từng cấp học, bậc học, được các cơ quan quản lý giáo dục đào tạo địa phương triển khai. Khi cụ thể hóa mục tiêu giáo dục của mỗi trường cần phải tính đến các điều kiện thực hiện, những đặc điểm kinh tế xã hội địa bàn để phản ánh được nét độc đáo của địa phương, vừa thuận lợi cho tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục của nhà trường. Như vậy, quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh vừa phấn đấu đạt được các tiêu chí chung của cả nước, vừa chứa đựng những giá trị riêng, phản ánh điều kiện và đặc điểm riêng của nhà trường.
Trên cơ sở xác định và cụ thể hóa mục tiêu giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động giáo dục là nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của quản lý. Đây là việc xác định những nhiệm vụ, những công việc cụ thể để đạt được mục tiêu. Từng công việc, nhiệm vụ giáo dục phải xác định rõ người chủ trì, lực lượng tham gia, các mốc thời gian hoàn thành, điều kiện, phương tiện bảo đảm cho các hoạt động giáo dục. Trong kế hoạch cần xác định cả những cách thức và tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục từng giai đoạn nói chung cũng như đánh giá mức độ hoàn thành từng công việc, nhiệm vụ.
1.2.2. Tổ chức quá trình thực hiện kế hoạch đạt mục tiêu đề ra Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức là hoạt động giáo dục cơ bản trong mối quan hệ với các hoạt động giáo dục đào tạo chung của nhà trường. Thực tế cho thấy, các thầy cô thường chú trọng trang bị kiến thức, quan tâm nhiều đến kết quả nắm kiến thức, kỹ năng theo chương trình đào tạo nhiều hơn. Trong khi đó, giáo dục phẩm chất, trong đó có giáo dục đạo đức phải hướng vào rèn luyện biến kiến thức, kỹ năng thành thế giới qua, niềm tin, phẩm chất nhân cách ổn định của học sinh thì chưa được chú trọng. Vì thế, vai trò của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là phải làm cho các thầy cô thực sự hiểu “dạy chữ để dạy người”, luôn có ý thức và có biện pháp tiếp tục kết quả tiếp thu kiến thức thành phẩm chất đạo đức của học sinh một cách hiệu quả. Cùng với nhận thức đúng yêu cầu giáo dục đạo đức, công tác quản lý phải bố trí lực lượng phù hợp, phân công trách nhiệm rõ ràng; bảo đảm các điều kiện về môi trường tự nhiên và xã hội; bảo đảm các phương tiện, kinh phí để các hoạt động giáo dục diễn ra đúng kế hoạch đã xác định.
Cần lưu ý vấn đề môi trường trong giáo dục đạo đức rất quan trọng, tác động ảnh hưởng mạnh mẽ, có khi làm sai lệch kết quả giáo dục. Do đó cần quan tâm đúng mức đến xây dựng và tổ chức môi trường giáo dục. Trước hết, môi trường sư phạm trong nhà trường phải thân thiện với học sinh, luôn hướng học sinh đến các giá trị thẩm mỹ, hình thành ý thức bảo vệ môi trường sống, có tình yêu nhà trường, kính trọng thầy cô sâu sắc. Công tác quản lý còn phải có những biện pháp hiệu quả xây dựng và duy trì mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình học sinh, với các tổ chức xã hội trên địa bàn để môi trường mà các em học sinh được tiếp xúc đều có tác động giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.2.3. Tổ chức quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho học sinh
Học sinh không chỉ là đối tượng của các tác động giáo dục mà còn là chủ thể của quá trình hình thành, rèn luyện các phẩm chất đạo đức. Tổ chức tốt hoạt động tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học sinh là đề cao vai trò chủ thể, là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Công việc này không chỉ đòi hỏi các thầy cô giáo phải có những biện pháp sư phạm hiệu quả mà còn đỏi hỏi công tác tổ chức quản lý phải có cách làm hiệu quả.
Để giúp học sinh có ý thức và tích cực tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, công tác quản lý phải làm cho thầy cô thực sự tôn trọng nhân cách học sinh, luôn tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội và có đủ điều kiện tự thể hiện mình trước tập thể. Các nội dung giáo dục đạo đức phải được phân tích kỹ càng, thấy rõ những nội dung nhận thức lý luận cần thầy cô chỉ bảo hướng dẫn; những nội dung cần trải qua thực hành trong cuộc sống để tổ chức cho học sinh trải nghiệm. Từ đó, xây dựng kế hoạch giáo dục đan xen và luân phiên giữa nâng cao nhận thức với trải nghiệm hành động thực tiễn.
Để phát huy có hiệu quả vai trò chủ thể của học sinh trong giáo dục đạo đức, công tác quản lý còn phải đặc biệt chú trọng xây dựng tập thể học sinh. Giáo viên các môn học là lực lượng phối hợp; giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp tổ chức các hoạt động tập thể học sinh. Đặc biệt là, vai trò của Đoàn thanh niên trong nhà trường. Công tác quản lý cần thông qua các tập thể lớp học sinh, thông qua tổ chức các hoạt động đoàn để rèn luyện tính tập thể, lồng ghép các nội dung giáo dục đạo đức vào các hoạt động thập thể một cách hiệu quả.
1.2.4. Tổ chức và quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh trong giáo dục đạo đức Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Kiểm tra và điều chỉnh trong mọi hoạt động giáo dục đều là khâu chủ yếu để phát hiện kịp thời, điều chỉnh một cách hiệu quả mọi sai lệch của quá trình giáo dục đối với mục tiêu đã đề ra ban đầu. Trong giáo dục đạo đức, công tác kiểm tra đánh giá là một nhiệm vụ khó khăn của công tác quản lý vì, đánh giá thái độ, phẩm chất của một con người là một quá trình lâu dài, thông qua nhiều biểu hiện trong thực tiễn cuộc sống. Không giống như kiểm tra, đánh giá kiến thức của thầy cô, đánh giá kết quả giáo dục đạo đức là đánh giá giá tiếp thông qua những biểu hiện. Do đó không thể dựa vào đánh giá chủ quan của cá nhân; không thể căn cứ vào một vài biểu hiện bên ngoài đơn giản và nhất là không được kết luận phiến diện vội vàng. Cần có chiến lược tổ chức chu đáo, có sự phân công theo dõi thường xuyên, đồng thời có sự phân tích xem xét mỗi hiện tượng, kết luận về từng con người một cách thấu đáo. Người được phân công kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức học sinh phải được lựa chọn, huấn luyện về kỹ năng, phương pháp đầy đủ. Mặt khác, cần có biện pháp xây dựng những tiêu chí đánh giá một cách khoa học, bảo đảm tính công bằng, công khai và khách quan.
Các kết quả kiểm tra đánh giá kết quả cần phải được xem xét trong điều chỉnh nội dung, phương pháp giáo dục. Đây không chỉ là công việc của thầy cô mà quan trọng là các biện pháp triển khai của công tác quản lý. Thầy cô có thể kịp thời điều chỉnh những tác động cụ thể của từng học sinh, của một nhóm. Nhưng công tác quản lý phải quan tâm tình hình chung. Trên cơ sở những thông tin thu thập được qua kiểm tra, đánh giá tình hình, công tác quản lý cần phân tích kỹ, phát hiện những dấu hiệu chung, tìm ra nguyên nhân của tình hình để có nhận định khái quát mới có thể có quyết định quản lý phù hợp nhằm điều chỉnh, bổ sung, tăng cường về nội dung, về phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của đất nước ta đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước ta coi trọng vấn đề con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trường học có đóng góp rất lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Nội dung của giáo dục đạo đức là góp phần hướng tới sự phát triển con người, phát triển nhân cách của từng học sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng giáo dục đạo đức có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục của các nhà trường đặc biệt là trường trung học phổ thông – nơi đào tạo nguồn nhân lực cơ bản cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn đưa ra được những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thì trước tiên cần phải làm sáng tỏ, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng. Chính vì vậy ở chương 2 của luận văn chúng tôi sẽ tập trung làm rõ thực trạng biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trên địa bàn quận Bình Tân . Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: hotrovietluanvan24@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh […]