Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực hiện pháp luật về công chứng – từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân do dân và vì dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Một trong những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là nhà nước mà trong đó các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm, mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của người dân đều bị nghiêm trị.

Để xây dựng nhà nước pháp quyền ngoài việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ thì một số vấn đề đặt ra là phải xây dựng cho được những cơ chế an toàn và hiệu quả, ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân.

Chính vì thế, từ lâu Nhà nước ta đã tồn tại một chế định pháp luật, cho phép ngăn ngừa những vi phạm pháp luật, phòng ngừa tranh chấp, khiếu kiện trong giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại đó là chế định công chứng thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Với chức năng mang lại tính xác thực, tính hợp pháp cho các giao dịch, hợp đồng, pháp luật công chứng được coi là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên tham gia giao dịch, mặt khác thông qua hoạt động công chứng, nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát của mình đối với các giao dịch dân sự, nhằm bảo đảm sự ổn định trong xã hội, đồng thời tạo ra sự cân bằng giữa nhu cầu tự do giao kết hợp đồng, giao dịch của các cá nhân, tổ chức và chức năng quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, trong quá trình tố tụng (khi có tranh chấp xảy ra), hoạt động công chứng còn đóng góp vai trò hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua việc cung cấp chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm cho hoạt động này được khách quan, nhanh chóng, chính xác, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Xuất phát từ việc nhận thức rõ được vai trò quan trọng của pháp luật công chứng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại góp phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc phát triển hoạt động công chứng và xây dựng pháp luật về công chứng ngày một hoàn thiện hơn. Cụ thể, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực công chứng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động công chứng, trong đó có Luật công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 06 năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Trong những năm qua, tại thành phố Hà Nội, việc thực hiện pháp luật công chứng đã được đông đảo người dân quan tâm khi thực hiện các giao dịch dân sự. Là một thành phố lớn, với mật độ dân số đông đúc nên có rất nhiều các công việc giao dịch liên quan đến hoạt động công chứng. Do vậy, việc ra đời các Văn phòng công chứng đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo sự chặt chẽ trong các giao dịch có tính pháp lý đối với người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động công chứng ở thành phố Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nảy sinh như: Trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ Công chứng viên, chuyên viên nghiệp vụ còn nhiều hạn chế; Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật công chứng chưa được chú trọng, sự hiểu biết về công chứng cũng như ý thức pháp luật của người dân, đặc biệt là người dân lao động hiểu biết về công chứng còn nhiều hạn chế. Hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực công chứng còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện hoạt động công chứng.

Xuất phát từ những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về công chứng   – từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hoạt động công chứng với tư cách là một chế định bổ trợ Tư pháp trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.Đồng thời hoạt động công chứng cũng có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Do vậy, trong thời gian qua đã có nhiều đề tài tập trung nghiên cứu và tìm hiểu về lĩnh vực này với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Cụ thể là một số công trình sau: “Những điều cần thiết về công chứng nhà nước”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1992 của tác giả Nguyễn Văn Yểu và Dương Đình Thành; “Giới thiệu vài nét xây dựng và hoàn thiện công chứng nhà nước ở thành phố Hà Nội”,Tạp chí thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, năm 1995.Đây là hai công trình rất có giá trị và được coi như là cuốn cẩm nang đối với những người nghiên cứu về công chứng cũng như những người trực tiếp làm việc trong lĩnh vực hoạt động công chứng. Ngoài ra, cũng cần đề cập đến một số công trình khác như: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng, chứng thực và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay”, của tác giả Đặng Văn Khanh, luận án tiến sỹ Luật học, (Hà Nội, năm 2000) [27]. Nội dung của đề tài luận án, tác giả đã tập trung luận giải một cách tường minh về bản chất và sự khác nhau của hai hoạt động công chứng và chứng thực xuất phát từ thẩm quyền thực hiện các hoạt động này. Tác giả cũng đã tập trung đề cập đến phạm vi của mỗi hoạt động và các giá trị pháp lý của văn bản công chứng; chứng thực, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện về quy định pháp luật trong hoạt động công chứng. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Đề cập về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực, tác giả Trần Ngọc Nga với đề tài “Quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực; công chứng nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta” luận văn thạc sĩ Luật học,Hà Nội, năm 1996 [30]. Công trình đã nghiên cứu một cách có hệ thống về quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng và chứng thực dưới góc độ luật học. Trong nội dung đề tài luận văn này tác giả đã luận giải về sự khác nhau mang tính bản chất giữa hai hoạt động công chứng và chứng thực theo thẩm quyền thực hiện và tính chất pháp lý của mỗi sự kiện. Tác giả cũng đã trình bày những nội dung cơ bản về quản lý nhà nước dưới góc độ lý luận và quản lý nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể đó là công chứng và chứng thực. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về công chứng và chứng thực như:Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công “Xây dựng nội dung cơ bản quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của Tác giả Nguyễn Minh Hợi, Tp. Hồ Chí Minh, năm 2006 [25]. Nội dung luận văn, tác giả đã nêu những vấn đề lý luận về công chứng, chứng thực,đưa ra khái niệm về công chứng, nguồn gốc ra đời hoạt động công chứng, chứng thực, nhu cầu công chứng, chứng thực của người dân; sự cần thiết khách quan phải quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng. Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống cung ứng dịch vụ công chứng, chứng thực trên địa bàn tỉnh Bình Phước, tác giả đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng những mô hình cung ứng dịch vụ công chứng trên phạm vi toàn quốc.

Tiếp đến, luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công với đề tài “Quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực trên địa bàn cấp quận” của tác giả Phan Hùng Nam, Học viện hành chính, Hà Nội, năm 2008 [29]. Ở đề tài này, tác giả đã tiếp cận vấn đề theo giác độ của hoạt động quản lý nhà nước, luận văn lấy thực tiễn từ hoạt động công chứng, chứng thực ở cấp quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội làm không gian tham khảo về công chứng, chứng thực. Tác giả Phan Hùng Nam đã rất thành công trong việc đề cập những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực với tư cách là một hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực hành chính – Tư pháp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó thì luận văn cũng có những hạn chế đó là luận văn mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, tìm hiểu về thực trạng hoạt động công chứng ở cấp Quận trong khi đó vào thời điểm này, việc chứng thực đã được chuyển phần lớn nội dung về cho cấp xã, còn công chứng được chuyển giao cho các Phòng công chứng, Văn phòng công chứng (trực thuộc Sở Tư pháp). Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Bên cạnh các công trình kể trên còn có các công trình nghiên cứu về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở địa phương cụ thể đó là đề tài về “Thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” – luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đoàn Xuân Sơn, Học viện chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2011. Nội dung luận văn đã tập trung tìm hiểu về thực trạng, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay.

Có thể nói, nhìn nhận một cách tổng quan cho thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu về hoạt động công chứng và chứng thực đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau trên cơ sở những lý luận về hoạt động công chứng và chứng thực.Các công trình cũng đã đưa ra những góc nhìn đa chiều về công tác công chứng.Đồng thời, việc nghiên cứu thực trạng về hoạt động công chứng ở một số địa phương cũng đã cho những người trực tiếp tham gia hoạt động công chứng có những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình tác nghiệp.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích khung lý thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về công chứng và thực hiện pháp luật về công chứng trong đó nêu lên khái niệm, phân tích đặc điểm, vai trò, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật công chứng;

Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật công chứng của các Văn phòng công chứng ở thành phố Hà Nội, làm rõ những thành tựu đạt được, những hạn chế yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế yếu kém đó;

Trên cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về công chứng, thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng ở thành phố Hà Nội, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, luận văn bước đầu đề xuất các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng ở thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

4.1.Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện pháp luật công chứng – từ thực tiễn của Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu

  • Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016,
  • Phạm vi không gian: thành phố Hà Nội.
  • Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu thực hiện pháp luật công chứng ở ba góc độ về tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên và thủ tục, hoạt động công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, cũng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp luật nói chung và về thực hiện pháp luật công chứng nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin theo quan điểm phát triển toàn diện, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng kết hợp các phương pháp như phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh…nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng; Nâng cao nhận thức của công dân đối với hoạt động công chứng; Đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện pháp luật về công chứng của các cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động công chứng hợp đồng giao dịch. Luận văn chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

Luận văn cũng nêu ra những yêu cầu khách quan của nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật công chứng, qua đó đề ra các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng ở Việt Nam trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về công chứng nói chung và thực tiễn hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung của thực hiện pháp luật về công chứng và làm phong phú lý luật chung về Nhà nước và pháp luật. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo của các tổ chức hành nghề công chứng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục nghiên cứu về công chứng của các cơ quan liên quan.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương bao gồm:

  • Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật công chứng của các văn phòng công chứng
  • Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội
  • Chương 3: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng- từ thực tiễn Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG

1.1.Công chứng và pháp luật về công chứng

1.1.1. Khái niệm công chứng

Công chứng do người Pháp đưa vào Việt Nam trong những năm 30 của thế kỉ XX. Nhưng mãi đến năm 1987, công chứng mới được đề cập đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại thời điểm này công chứng được hiểu là “Công quyền đứng ra làm chứng”, cụ thể là Nhà nước trao thẩm quyền cho một tổ chức hành nghề công chứng của Nhà nước được phép nhân danh Nhà nước để xác định các quan hệ giao dịch dân sự và thương mại.

Trước Luật Công chứng 2014, công chứng có nhiều định nghĩa được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Thông tư 574/QLTPK ngày 10 tháng 10 năm 1987 của Bộ Tư pháp là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nhà nước ta quy định về lĩnh vực công như sau: “Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước với mục đích giúp công dân, cơ quan tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó, làm cho văn bản sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó làm cho các văn bản sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Khái niệm này cũng có những hạn chế như:

Thứ nhất, là chưa xác định được chủ thể công chứng, đối tượng hoạt động của công chứng cũng như nội dung việc công chứng.

Thứ hai, là chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của cơ quan nhà nước khác.

Ngày 27 tháng 02 năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT đưa ra khái niệm Công chứng là: “Công chứng nhà nước là việc xác nhận tính xác thực của các Hợp đồng, giấy tờ theo quy định của Pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng cứ”. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

So với Thông tư 574/QLTPK ngày 10 tháng 10 năm 1987 của Bộ Tư pháp, thì khái niệm công chứng được quy định ở Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 02 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng được xác định cụ thể rõ ràng hơn tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như sau:

Chưa xác định được chủ thể của hoạt động công chứng.

Quy định “chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giấy tờ” ở Nghị định này còn nói quá chung chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng.

Ngày 18 tháng 05 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công chứng theo đó, khái niệm công chứng đã được những sửa đổi và được hiểu như sau: “Công chứng là việc xác nhận tính xác thực về các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật,

Nghị định số 31/NĐ-CP Ngày 18 tháng 05 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước, bước đầu có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. Quy định “chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ” ở Nghị định này còn quá chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng.

Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa học hơn. Theo Nghị định này, “Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của Hợp đồng được giao kết hoặc của giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này” (Khoản 1 Điều 2). Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã xác định được khái niệm chứng thực “là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y các giấy tờ hợp đông giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” (Khoản 2 Điều 2). Điểm mới quan trọng nữa của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã thay đổi tên gọi từ “Phòng công chứng nhà nước” ở các văn bản pháp lý trước đó thành “Phòng công chứng” đã xác định được chủ thể của hoạt động của công chứng là Phòng công chứng. Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận…” (Điều 2). Tuy nhiên, việc xác định như vậy cũng chưa chính xác vì thực chất hành vi chứng nhận trong hoạt động công chứng chính là hành vi của Công chứng viên, người Công chứng viên phải chịu trách nhiệm về hành vi công chứng của mình trước pháp luật cũng như trước tổ chức cá nhân có yêu cầu công chứng. Vì vậy, quy định chủ thể của hoạt động công chứng là Phòng công chứng là chưa làm rõ được bản chất của vấn đề, chưa xác định một cách đúng đắn vai trò, vị trí và trách nhiệm của người Công chứng viên trọng hoạt động nghề nghiệp.

Cùng với thời gian, khái niệm công chứng được các văn bản quy phạm pháp luật trên đưa ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, các khái niệm này vẫn chưa làm rõ được bản chất của công chứng do pháp luật công chứng ở nước ta là một ngành luật non trẻ, chưa tiếp cận nhiều và chưa hội nhập được với nền công chứng thế giới, các khái niệm công chứng nêu trên đều chưa trả lời thấu đáo vấn đề: Ai là chủ thể có thẩm quyền công chứng? Công chứng cho ai? hình thức công chứng là gì? Công chứng mang tính bắt buộc hay tự nguyện? phạm vi giới hạn của việc công chứng đến đâu?…Vì vậy, việc hoàn thiện về pháp luật công chứng một yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế Quốc tế. Trước yêu cầu đó Luật công chứng đã được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2007 theo đó khái niệm công chứng được xác định như sau:

Điều 2 Luật công chứng 2006 quy định: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Với khái niệm trên cho thấy, công chứng là hoạt động mang tính bắt buộc để áp dụng đối với cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch có tính chất quan trọng, phức tạp hoặc những giao dịch có giá trị lớn mà nhà nước đòi hỏi cần phải có sự định hướng và kiểm soát các giao dịch đó nhằm mục đích phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra cho các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các giao dịch dân sự thương mại, những lợi ích vật chất và phi vật chất được thể hiện trong những cam kết thỏa thuận diễn ra trong đời sống hàng ngày, là yêu cầu chính đáng và là mong muốn của người tham gia giao dịch. Vì vậy, công chứng còn được đặt ra nhằm phục vụ rộng rãi cho các đối tượng có nhu cầu tự nguyện công chứng các hợp đồng giao dịch.

Luật công chứng ra đời là một bước tiến mới của công chứng Việt Nam, làm thay đổi nhiều vấn đề về công chứng Việt Nam. Tuy về mặt nội dung của Luật Công chứng vẫn còn nhiều điều cần giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tiễn của hoạt động công chứng ở nước ta và theo sát được những mặt tiến bộ của công chứng thế giới, song cũng phải công nhận rằng Luật công chứng năm 2006 đã đưa ra khái niệm về công chứng tương đối hoàn thiện, thể hiện được bản chất của một nền công chứng đang trên con đường hoàn thiện và hội nhập quốc tế. Khái niệm công chứng trong Luật công chứng đã chỉ ra được chủ thể của hoạt động công chứng là Công chứng viên, điều đó thể hiện đúng bản chất của hoạt động công chứng. Vì vậy, ngay trong khái niệm này đã chỉ rõ nghĩa vụ của người Công chứng viên là phải chứng nhận tính xác thực tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch điều này có ý nghĩa khi ký tên vào văn bản công chứng việc giao kết các hợp đồng, giao dịch đó người Công chứng viên phải chịu trách nhiệm bảo đảm rằng sự giao kết đó là xác thực về thời gian và địa điểm giao kết, chủ thể giao kết và nội dung của hợp đồng, giao dịch được giao kết đó là hợp pháp.

Đứng trên phương diện lập pháp, Luật công chứng là đạo luật đầu tiên của nước ta về công chứng, sự ra đời của Luật công chứng đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất lượng công tác xây dựng pháp luật đối với lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Đặc biệt Luật công chứng năm 2006 đã thể hiện một số quan điểm mới, tiến bộ khi xây dựng và hoàn thiện chế định công chứng, tương thích với chế định khác trong hệ thống pháp luật nói chung và phù hợp với thông lệ quốc tế nói riêng như xây dựng mô hình công chứng hành nghề tự do. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Ngày 20/06/2014, Quốc hội đã ban hành Luật Công chứng số 53/2014/QH13 (Luật công chứng 2014) với 10 chương, 81 điều, quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Luật Công chứng 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Trong đó tại Khoản 1, Điều 2 quy định “Công chứng là việc Công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực hợp pháp của hợp đồng giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch), tính xác thực hợp pháp không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ Văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc ngược lại từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Khác với khái niệm công chứng được quy định trong Luật Công chứng năm 2006, Luật Công chứng năm 2014 đã quy định cụ thể hơn về khái niệm công chứng “công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng”.

Như vậy, qua nghiên cứu khái niệm công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công chứng thì có thể hiểu khái niệm công chứng như sau: “Công chứng là hoạt động nhà nước, được ủy quyền cho một tổ chức, đó là tổ chức hành nghề công chứng; Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ của công chứng viên theo quy định của pháp luật. Các hoạt động công chứng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các tổ chức khác; Các loại giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”

1.1.2. Pháp luật về công chứng

Từ khái niệm công chứng, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm pháp luật về công chứng như sau: Pháp luật về công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Nhà nước với tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên khi quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện hành nghề; giữa tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên với các cá nhân, tổ chức trong xã hội khi tiến hành hoạt động công chứng.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, pháp luật về công chứng được tiếp cận ở một số nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, về tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Khoản 5, Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định “Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Pháp luật về công chứng quy định về nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng, phòng công chứng, thành lập phòng công chứng, chuyển đổi, giải thể phòng công chứng; văn phòng công chứng, thành lập và đăng ký hoạt động văn phòng công chứng, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, cung cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, đăng báo nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, thay đổi thành viên hợp danh của văn phòng công chứng, hợp nhất sát nhập văn phòng công chứng, chuyển nhượng văn phòng công chứng, thu hồi quyết định cho phép thành lập, chấm dứt hoạt động văn phòng công chứng; quyền của tổ chức hành nghề công chứng, nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng. Nội dung về tổ chức hành nghề công chứng được quy định từ Điều 18 đến Điều 33 trong Chương III của Luật Công chứng số 53/2014/QH13. Luật quy định khuyến khích phát triển Văn phòng công chứng theo định hướng xã hội hóa, quy định việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, trong trường hợp không chuyển đổi được thì mới giải thể Phòng công chứng. Văn phòng công chứng phải do hai công chứng viên trở lên thành lập, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. Tên gọi của Văn phòng được đặt theo họ, tên của công chứng viên

Thứ hai, về công chứng viên.Luật Công chứng 2014 quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn công chứng viên, quy định thời gian đào tạo nghề công chứng là mười hai tháng; quy định người được miễn đào tạo nghề công chứng phải tham gia khóa bồi dưỡng trước khi đề nghị bổ nhiệm, được giảm một nửa thời gian tập sự và cũng phải tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; bổ sung quy định về bổ nhiệm lại; bổ sung một số quyền và nghĩa vụ đối với công chứng viên.

Nội dung pháp luật quy định về công chứng viên bao gồm:

Về tiêu chuẩn công chứng viên: Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Theo Điều 8 Luật Công chứng 2014: “Tiêu chuẩn công chứng viên. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên:

  1. Có bằng cử nhân luật;
  2. Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật;
  3. Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này;
  4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng;
  5. Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng”

Về thời gian đào tạo công chứng:Luật Công chứng năm 2014 tăng thời gian đào tạo công chứng từ 06 tháng lên 12 tháng.

Về những đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng

Bên cạnh việc kéo dài thời gian công tác thực tế đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư từ 3 năm lên 5 năm, Luật Công chứng 2014 cũng bổ sung quy định những đối tượng được miễn đào tạo này phải tham gia khóa bồi dưỡng với thời gian là 3 tháng về kỹ năng hành nghề công chứng và Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên.

Về bổ nhiệm công chứng viên: Pháp luật công chứng quy định tất cả các đối tượng muốn được bổ nhiệm công chứng viên đều phải trải qua thời gian tập sự hành nghề công chứng. Tất cả các đối tượng đề nghị bổ nhiệm đều phải tuân thủ một trình tự chung sau khi đã đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự. Cụ thể là người đề nghị bổ nhiệm lập hồ sơ đề nghị gửi Sở Tư pháp địa phương nơi đăng ký tập sự; Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm đối với những trường hợp đáp ứng yêu cầu hoặc trả lời bằng văn bản trong trường hợp từ chối đề nghị. Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên trong thời hạn hai mươi ngày làm việc sau khi nhận được văn bản đề nghị kèm theo hồ sơ của Sở Tư pháp. Người bị Sở Tư pháp từ chối đề nghị bổ nhiệm hoặc bị Bộ Tư pháp từ chối bổ nhiệm đều có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Về bổ nhiệm lại công chứng viên: Để phù hợp với thực tế, pháp luật công chứng quy định về bổ nhiệm lại công chứng viên trong một số trường hợp cụ thể như công chứng viên đã được miễn nhiệm theo nguyện vọng cá nhân hoặc chuyển làm công việc khác, công chứng viên đã bị miễn nhiệm do không còn đủ tiêu chuẩn công chứng viên, do bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, do kiêm nhiệm công việc khác hoặc do không hành nghề công chứng trong thời hạn quy định khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn công chứng viên và lý do miễn nhiệm không còn thì được xem xét bổ nhiệm lại công chứng viên. Đồng thời, pháp luật công chứng cũng quy định rõ những trường hợp không được xem xét bổ nhiệm lại công chứng viên, bao gồm công chứng viên đã bị miễn nhiệm do bị xử phạt hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc, do bị kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Về quyền và nghĩa vụ của công chứng viên: Pháp luật công chứng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của công chứng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, trong đó có các quyền và nghĩa vụ mới như quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng, quyền tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng, được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này và các nghĩa vụ mới như giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng, giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh; đặc biệt, công chứng viên có trách nhiệm tham gia tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên; và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Về các hành vi công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng bị nghiêm cấm:

Đáng lưu ý là không cho phép công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài phạm vi hoạt động đã đăng ký; ép buộc người khác sử dụng dịch vụ của mình hay quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công chứng viên và tổ chức mình; công chứng viên cũng không được phép tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện hoạt động môi giới, đại lý; tham gia chia lợi nhuận trong hợp đồng, giao dịch mà mình nhận công chứng hay đồng thời hành nghề tại 02 tổ chức hành nghề công chứng trở lên hoặc kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác.

Thứ ba, về thủ tục và hoạt động công chứng

Thủ tục công chứng là trình tự, thủ tục thực hiện các quy định về công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn, công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, thẩm quyền công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản, thời hạn công chứng, địa điểm công chứng, chữ viết trong văn bản công chứng, ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng, việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng, sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng, công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch, người được đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, phạm vi áp dụng, công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản, công chứng di chúc, công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, công chứng văn bản khai nhận di sản, công chứng văn bản từ chối nhận di sản, nhận lưu giữ di chúc. Nội dung về thủ tục công chứng được quy định từ Điều 40 đến Điều 61 trong Chương III của Luật Công chứng số 53/2014/QH13.

Hoạt động về công chứng là tất cả những hành vi mà công chứng viên và các bên tham gia công chứng phải thực hiện nhằm xem xét tính hợp pháp của hợp đồng, văn bản giao dịch từ đó, đảm bảo cho công chứng viên đi đến việc quyết định công chứng hay từ chối công chứng đối với hợp đồng, văn bản giao dịch đó, các nội dung cụ thể mà công chứng viên phải thực hiện là rất rộng lớn từ việc xem xét tư cách chủ thể tham gia các hợp đồng, giao dịch khác, đối tượng tài sản giao dịch, cho đến các thỏa thuận cam kết của các bên trong hợp đồng, giao dịch, có thể nhận thấy các nội dung thực hiện pháp luật công chứng mà công chứng viên và các tổ chức, cá nhân tham gia công chứng phải tiến hành. Tuy vậy có thể khái quát nội dung thực hiện pháp luật công chứng gồm các vấn đề cơ bản sau:

1.2. Thực hiện pháp luật về công chứng Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về công chứng

Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích nhằm làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật [18;tr.349].

Tuy vẫn còn những điểm khác nhau về việc đưa ra khái niệm về thực hiện pháp luật, nhưng về bản chất đều có một số điểm chung là thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế của chủ thể pháp luật có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Trên cơ sở khái niệm thực hiện pháp luật, chúng tôi đi sâu nghiên cứu khái niệm thực hiện pháp luật về công chứng. Qua nghiên cứu cho thấy đối với lĩnh vực công chứng hợp đồng và các giao dịch khác, trên cơ sở các quy định của pháp luật các tổ chức, cá nhân hành nghề công chứng hiện thực hóa nó bằng những quy trình, các bước tiến hành cụ thể, với những yêu cầu, những điều kiện rõ ràng để hiểu rõ có ý thức tuân theo. Yêu cầu đặt ra đối với tổ chức, cá nhân hành nghề công chứng không chỉ là việc thực hiện công chứng hợp đồng các giao dịch theo thẩm quyền chuyên môn, theo thủ tục luật định khi tổ chức, cá nhân có nhu cầu công chứng, mà yêu cầu quan trọng hơn, ý nghĩa thiết thực hơn là các tổ chức, cá nhân hành nghề công chứng phải hiện thực hóa được các quy định của pháp luật hiện hành trở thành những nhu cầu tự thân của các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch dân sự, nghĩa là bằng những hành động thực tiễn, tổ chức cá nhân hành nghề công chứng phải làm cho các bên tham gia quan hệ nhận thức được rằng: Công chứng hợp đồng, các giao dịch không còn là sự bắt buộc, sự gượng ép phải thực hiện khi họ ký kết hợp đồng, mà nó trở thành điều mà họ mong muốn được làm, được Nhà nước hỗ trợ và cung ứng dịch vụ này để đảm bảo cho sự an toàn cho họ trong suốt quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Với ý nghĩa này, thực hiện pháp luật công chứng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hiện thực hóa định hướng của Nhà nước về quản lý và kiểm soát hoạt động công chứng. Mặt khác, trên cơ sở thực hiện việc công chứng của công chứng viên, hợp đồng văn bản đó trở thành tôn chỉ mục đích, thành nguyên tắc để cho các chủ thể tham gia quan hệ, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên và đảm bảo trật tự chung mà pháp luật quy định. Công chứng viên phải là người lính bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, là người chốt chặn các rủi ro có thể xảy ra cho các bên tham gia giao dịch dân sự. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Thực hiện pháp luật về công chứng là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực có phạm vi khá rộng, nên thực hiện pháp luật về công chứng không chỉ bó hẹp trong phạm vi pháp luật về hình thức (pháp luật công chứng), mà còn trải rộng trong đó có nhiều mảng pháp luật về nội dung khá đồ sộ (như pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, pháp luật về giao dịch bảo đảm, về hôn nhân gia đình, doanh nghiệp…). Vai trò của công chứng viên không chỉ là làm theo những gì mà pháp luật nêu trên quy định, mà còn có trách nhiệm to lớn là đưa pháp luật đó vào thực thi trong thực tế cuộc sống một cách có hiệu quả. Đảm bảo những vấn đề đó bằng những biểu hiện cụ thể như: Thông qua việc công chứng hợp đồng công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của loại hợp đồng này, tạo ra một văn bản công chứng có giá trị thi hành buộc các bên tham gia và hợp đồng phải tự giác thực hiện những trách nhiệm và nghĩa vụ đã cam kết, thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu không thực hiện, bằng quyền uy và sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước buộc các chủ thể phải thực hiện, trong trường hợp cố tình không thực hiện, các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải chịu những biện pháp chế tài của pháp luật. Mặt khác, khi hợp đồng và các văn bản giao dịch khác đã được công chứng viên thực hiện công chứng, chúng trở thành giá trị chứng cứ để cơ quan tố tụng áp dụng giải quyết khi có tranh chấp, mâu thuẫn và bất đồng sảy ra. Khẳng định như vậy là vì những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh trừ trường hợp bị Tòa án tuyên vô hiệu.

Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu thực hiện pháp luật về công chứng như sau: Thực hiện pháp luật về công chứng là hoạt động có mục đích của các công chứng viên, các tổ chức, các nhân nhằm hiện thực hóa các quy phạm pháp luật về công chứng và các quy phạm pháp luật khác có liên quan, để làm cho các quy phạm pháp luật này trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ công chứng và tạo cho các loại hợp đồng, các văn bản đưa ra công chứng có giá trị thi hành và giá trị chứng cứ.

1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về công chứng Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Thứ nhất, thực hiện pháp luật về công chứng mang tính chất là hoạt động bổ trợ tư pháp.

Cùng với các hoạt động như: Luật sư, Giám định tư pháp…Công chứng cũng là một trong những hoạt động được sắp xếp vào nhóm công tác bổ trợ tư pháp. Đây là những hoạt động không chỉ liên quan đến lợi ích của khách hàng mà còn có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.Bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, Công chứng viên (cũng như luật sư, giám định viên…) có thể gây ảnh hưởng đến công lý, tác động đến cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Hay nói cách khác, việc sử dụng dịch vụ pháp lý từ các hoạt động bổ trợ tư pháp nêu trên của người dân giúp họ có thể tiếp cận công lý một cách dễ dàng hơn.Hoạt động công chứng là quá trình tác nghiệp của công chứng viên trong việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp, hợp hiến và không trái với đạo đức và các quy tắc ứng xử của xã hội. Sự xác nhận này vừa như là một sự định hướng, vừa như là một sự kiểm định lại những cam kết, những thỏa thuận trong hợp đồng có tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hiện hành hay không. Điều này góp phần vào việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong việc tôn trọng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm lẫn nhau trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, không bên nào vì bất kỳ hành vi nào trái pháp luật gây phương hại hay cản trở việc hưởng quyền của phía bên kia. Đồng thời đó cũng là cơ sở để các chủ thể tuân thủ và chấp hành nghĩa vụ và trách nhiệm trước Nhà nước. Không chỉ thế, thông qua sự xác nhận của công chứng viên về tính xác thực của hợp đồng bằng văn bản, nó trở thành “bằng chứng sống” phục vụ cho các cơ quan hữu quan trong quá trình tố tụng. Nó có tác dụng bổ sung và hỗ trợ quan trọng cho các cơ quan chức năng khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Vì vậy, thực hiện pháp luật về công chứng thực chất là hoạt động bổ trợ tư pháp.

Thứ hai, thực hiện pháp luật về công chứng đề cao tính độc lập, chủ động, sáng tạo của công chứng viên và tính tự chịu trách nhiệm của người yêu cầu công chứng.

Tính độc lập của người công chứng viên thể hiện rõ nét trong nguyên tắc hành nghề công chứng, công chứng viên phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng do mình chứng nhận. Trong quá trình tác nghiệp, công chứng viên có quyền lựa chọn phương án giải quyết nếu cho rằng cách giải quyết đó là phù hợp với quy định của pháp luật. Đây cũng chính là điều kiện cho phép công chứng viên chủ động, sáng tạo trong áp dụng pháp luật vào việc thực hiện nghiệp vụ chuyên môn. Các hợp đồng giao dịch được yêu cầu công chứng rất đa dạng đòi hỏi vai trò chủ động, linh hoạt và tính chịu trách nhiệm của công chứng viên. Vì vậy, chỉ một thái độ thờ ơ, bất cẩn của công chứng viên cũng có thể gây ra hậu quả khôn lường.Nếu không xem xét một cách kỹ lưỡng thì không ai có thể khẳng định chắc chắn sẽ không có rủi ro xảy ra. Chính vì tính chất đặc biệt đó, vai trò của công chứng viên là hết sức quan trọng trong việc phối hợp với các cơ quan liên quan, để phục vụ cho quá trình thực hiện công chứng. Trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, công chứng viên có quyền từ chối không công chứng hợp đồng giao dịch mà khi nhận thấy rằng không đầy đủ cơ sở pháp lý, thậm chí công chứng viên có quyền từ chối không công chứng hợp đồng ngay cả khi nhận thấy sự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ có dấu hiệu mờ ám, không minh bạch, không rõ ràng, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, các giấy tờ pháp lý có dấu hiệu giả mạo… Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Tuy nhiên, chỉ nâng cao năng lực, trách nhiệm của công chứng viên, sẽ không thể đảm bảo cho sự trung thực, chính xác về thông tin đối với tài sản và các yếu tố khác, cũng sẽ không thể đảm bảo độ an toàn cho giao dịch đó, nếu như không quy định trách nhiệm và nghĩa vụ cho người yêu cầu công chứng. Khẳng định điều đó bởi lẽ, hoạt động công chứng của công chứng viên về hợp đồng, về giao dịch cụ thể nào đó trước tiên phải dựa trên những thông tin, những bằng chứng mà chủ thể yêu cầu công chứng cung cấp. Trên cơ sở thông tin đó, công chứng viên mới đối chiếu với pháp luật để kiểm định tính đúng đắn và hợp pháp của những thông tin đó.Vì vậy, pháp luật hiện hành cũng quy định những yêu cầu đối với chủ thể có yêu cầu công chứng. Không chỉ dừng lại ở việc xuất trình các giấy tờ, chủ thể tham gia giao kết còn phải cam kết trước công chứng viên về tính hợp pháp của các giấy tờ đó và chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết đó.Các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cũng phải chứng minh tư cách pháp lý của mình trước công chứng viên.Trên cơ sở cam kết của chủ thể, công chứng viên bằng những chuyên môn nghiệp vụ của mình sẽ kiểm định và xác nhận hợp pháp của những cam kết đó.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về công chứng phải tuân theo các trình tự thủ tục được pháp luật quy định.

Công chứng viên là người hoạt động trong lĩnh vực vừa mang tính chất công quyền, lại vừa mang tính chất dịch vụ công. Tính chất công quyền thể hiện ở chỗ Công chứng viên là chức danh tư pháp và do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật khi đã hội tủ đầy đủ các điều kiện được quy định tại Khoản 2, Điều 2và Điều 8 Luật công chứng 2014 như là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật… Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Tính chất dịch vụ công tức là công chứng viên thực hiện một loại dịch vụ của Nhà nước, nhưng được Nhà nước giao cho tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Với tính chất nêu trên, khi thực hiện pháp luật về công chứng, công chứng viên phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch được quy định tại chương V Luật Công chứng năm 2014. Bên cạnh đó, ở mỗi loại hợp đồng mỗi loại giao dịch với tính chất và đặc điểm khác nhau, công chứng viên cần phải nắm rõ tính chất đặc thù của mỗi loại hình giao dịch, các hợp đồng giao dịch rất đa dạng được khách hàng yêu cầu công chứng. Vì vậy, đòi hỏi người công chứng viên khi thực hiện pháp luật về công chứng không chỉ chấp hành các quy định của pháp luật về quy trình, thủ tục của một công chứng viên đơn thuần, thực hiện các thao tác nghiệp vụ các quy trình, trình tự và thủ tục của pháp luật khác có liên quan đến lĩnh vực công chứng như luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; (Bộ luật dân sự năm 2015, luật các tổ chức tín dụng, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, luật doanh nghiệp, luật hôn nhân gia đình, luật cư trú…đòi hỏi người công chứng viên phải am tường, phải thông suốt tất cả những quy trình, thủ tục đó của pháp luật hiện hành, đòi hỏi người công chứng viên buộc phải biết, phải nắm rõ. Bỏ qua bất kỳ một quy trình, công đoạn hoặc thủ tục nào nêu trên do sự lơ là, tắc trách hoặc thiếu hiểu biết của công chứng viên, đều có thể xảy ra những hậu quả khó lường.

Thứ tư, thực hiện pháp luật về công chứng được triển khai trên phạm vi rộng lớn.

Thực hiện pháp luật về công chứng có phạm vi rất rộng lớn, như về không gian các yêu cầu công chứng hợp đồng và các văn bản giao dịch khác được cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng không chỉ diễn ra trên phạm vi một địa phương mà diễn ra trên mọi miền đất nước. Kể từ khi nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì các giao dịch giữa các tổ chức và cá nhân ngày càng nhiều lên, pháp luật về công chứng cũng ngày càng được hoàn thiện, việc thực hiện pháp luật về công chứng cũng được thực hiện đồng bộ từ cơ quan nhà nước, tổ chức, người dân. Do đó, tại các tỉnh, thành phố trên cả nước đến nay đều đã thành lập được các tổ chức hành nghề công chứng để đám ứng tốt các yêu cầu công chứng hợp đồng và các văn bản giao dịch khác của tổ chức cá nhân.

Thứ năm, thực hiện pháp luật về công chứng được thể hiện thông qua các hình thức khác nhau, do các chủ thể khác nhau (Nhà nước, tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên, cá nhân, tổ chức xã hội) tiến hành.

Hình thức thực hiện pháp luật về công chứng là cách thức mà các chủ thể tiến hành các hoạt động có mục đích, làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật về công chứng có thể xác định các hình thức thực hiện pháp luật về công chứng như sau: Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Tuân thủ pháp luật về công chứng: Là hình thức thực hiện pháp luật về công chứng trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những quy định cấm của pháp luật về công chứng và các văn bản pháp lý khác liên quan đến công chứng. Trong hoạt động công chứng, công chứng viên và người yêu cầu công chứng do động cơ vụ lợi cá nhân mà không thực hiện đúng về trình tự, thủ tục dẫn đến vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia và hoạt động công chứng thì đều phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước. Trong hình thức này, đòi hỏi các chủ thể tham gia thiết lập hợp đồng giao dịch và công chứng viên được chỉ định thực hiện hành vi công chứng đối với hợp đồng đó chỉ được thực hiện những gì mà pháp luật cho phép. Các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm cấm thì tuyệt đối các chủ thể không được phép làm.

Thi hành pháp luật về công chứng: Là một hình thức thực hiện pháp luật về công chứng, trong đó các chủ thể pháp luật tự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Theo đó, trên cơ sở các quy định của pháp luật đã quy định rõ, nếu chủ thể nao tham gia quan hệ pháp luật thì phải có nghĩa vụ thực hiện một số yêu cầu mà pháp luật đã đặt ra.Nghĩa vụ đó không chỉ là nghĩa vụ lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia quan hệ, mà còn là nghĩa vụ giữa các chủ thể đó trước Nhà nước.

Sử dụng pháp luật về công chứng: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện các quyền trong hoạt động công chứng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ, chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Ở hình thức này được hiểu, quyền chủ động, linh hoạt và quyền tự quyết thuộc về các chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về công chứng trên cơ sở pháp luật không cấm. Các hành vi thực hiện của các chủ thể khi thực hiện công chứng, phù hợp với quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. So với hai hình thức nêu trên thì hình thức này pháp luật dành quyền tự chủ và mở rộng hơn cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Chẳng hạn, để bảo đảm việc thực thi pháp luật về công chứng nói chung chấp hành nghiêm minh, cũng là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các công chứng viên và người yêu cầu công chứng.

Áp dụng pháp luật về công chứng Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao thì tất cả những quy định của pháp luật hiện hành đều được thực hiện chính xác, triệt để. Nhưng nếu chỉ thông qua các hình thức tuân theo, thi hành và sử dụng pháp luật thì sẽ có nhiều các quy phạm pháp luật không được thực hiện, bởi nó còn tùy thuộc vào sự nhận thức, ý thức chấp hành của các chủ thể thực hiện pháp luật hoặc họ không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đó cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật.Trong lĩnh vực pháp luật công chứng muốn các quy phạm pháp luật về công chứng được thực hiện triệt để thì cũng cần phải thể hiện bằng hình thức áp dụng pháp luật.

Áp dụng pháp luật công chứng là một hình thức thực hiện pháp luật về công chứng, trong đó Nhà nước thông qua các tổ chức hành nghề công chứng (Phòng Công chứng và Văn phòng công chứng) và Công chứng viên căn cứ vào quy định của pháp luật về công chứng và pháp luật khác có liên quan để ra văn bản chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc các cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng tạo cho văn bản công chứng có giá trị thi hành và có giá trị chứng cứ.

Như vậy, thực hiện pháp luật về công chứng được thực hiện thông qua bốn hình thức: tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về công chứng. Tuy nhiên, hình thức áp dụng pháp luật về công chứng có sự khác biệt với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật về công chứng. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật về công chứng là hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật về công chứng luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước bằng cách tham gia hoạt động của các công chứng viên hành nghề trong lĩnh vực vừa mang tính chất công quyền lại vừa mang tính chất dịch vụ công thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật có thể áp dụng hoặc không áp dụng thực hiện công chứng cho một số chủ thể không thuộc phạm vi pháp luật cho phép.

1.2.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về công chứng Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Tính chất quan trọng của việc thực hiện pháp luật công chứng không chỉ thể hiện quan điểm và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự an toàn cho các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại của công dân và các tổ chức, mà còn hướng đến việc tạo lập hành lang pháp lý cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam, các quy phạm pháp luật công chứng không tồn tại một cách riêng biệt, đơn lẻ, mà gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất với các quy phạm pháp luật dân sự, kinh tế, đất đai, hôn nhân gia đình…Việc thực hiện pháp luật công chứng không chỉ là phương tiện Nhà nước sử dụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân, mà còn là chỗ dựa cho nhân dân thực hiện các quyền lợi hợp pháp của mình.Có thể nói các giá trị về công bằng xã hội mà thực hiện pháp luật công chứng mang lại là chỗ dựa cho nhân dân và là điều kiện để công lý được duy trì. Xem xét một cách tổng thể thực hiện pháp luật về công chứng có những vai trò sau:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật về công chứng có vai trò hỗ trợ cho công dân, tổ chức và bảo đảm an toàn cho các bên trong quan hệ dân sự, kinh tế bằng cách tạo lập văn bản công chứng (có giá trị chứng cứ không phải chứng minh theo quy định của pháp luật công chứng) bằng việc quy định trình tự thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt trong quá trình tạo lập văn bản công chứng, kết hợp với sự tinh thông nghề nghiệp của công chứng viên, thực hiện pháp luật về công chứng bảo đảm sự bình đẳng, tự nguyện, tự do ý chí của các bên trong giao kết hợp đồng, giao dịch tránh bị lừa dối, đe dọa, tránh sự nhầm lẫn về chủ thể, đối tượng nội dung của các hợp đồng giao dịch.

Không chỉ hỗ trợ công dân và tổ chức trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, thực hiện pháp luật về công chứng còn là biện pháp phòng ngừa có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt tạo cho công dân và tổ chức khi giao kết hợp đồng có ý thức thận trọng hơn, có trách nhiệm hơn trong việc thể hiện ý chí của mình phù hợp với pháp luật đạo đức xã hội.

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do định đoạt được khẳng định thì vai trò của thực hiện pháp luật về công chứng ngày càng được tằng cường. Trong điều kiện hiện nay thực hiện pháp luật về công chứng còn là một trong những thiết chế đảm bảo quyền dân chủ, góp phần đảm bảo trật tự, ổn định xã hội, làm lành mạnh hóa đời sống dân sự, tạo điều kiện để công dân và các tổ chức thực hiện tốt hơn quyền tự do sở hữu, tự do định đoạt, đảm bảo các nguyên tắc của kinh tế thị trường.

Như vậy, thực hiện pháp luật về công chứng chính là một trong những phương tiện, công cụ tạo ra khả năng để công dân và các tổ chức tự bảo vệ các quyền tự do và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời góp phần nâng cao dân trí pháp lý, mở rộng dân chủ, đề cao trách nhiệm của công dân trong giao lưu dân sự, kinh tế, tạo môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Thứ hai, thực hiện pháp luật về công chứng góp phần hỗ trợ tích cực cho Nhà nước trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật.Thực hiện pháp luật về công chứng là phương tiện hữu hiệu để Nhà nước thực hiện việc quản lý hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên, đồng thời nêu cao vai trò tự quản của tổ chức hành nghề công chứng. Nhà nước thực hiện việc quản lý hoạt động thông qua việc ban hành pháp luật và chính sách, nhằm tạo ra khuôn mẫu xử sự chung, quy định các biện pháp, các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thông qua thực hiện pháp luật về công chứng Nhà nước đảm bảo cho các công chứng viên có năng lực, thực hiện được việc hành nghề chuyên nghiệp mà không bị cản trở hoặc can thiệp không đúng, không bị đe dọa truy tố hoặc bị xử lý bằng biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác vì bất kỳ một hành động nào do công chứng viên thực hiện phù hợp với trình tự thủ tục thực hiện công chứng và tiêu chuẩn đạo đức của công chứng viên đã được pháp luật quy định.

Mặt khác, thực hiện pháp luật về công chứng chính là hoạt động hành nghề độc lập của công chứng viên, duy trì tính tự quản cao trong hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên. Thực hiện pháp luật về công chứng cũng đã phát huy vai trò của công chứng viên trong các mặt của đời sống kinh tế xã hội và đối với bản thân hệ thống chính trị, góp phần xây dựng và tổ chức vận hành có hiệu lực các thiết chế dân chủ của hệ thống chính trị, làm cho các thiết chế ấy thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về công chứng có vai trò đưa chủ trương quan điểm của Đảng đi vào cuộc sống nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm công bằng xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế. Thực hiện pháp luật về công chứng chính là một trong những phương tiện công cụ tạo ra khả năng để công dân và các tổ chức tự bảo vệ các quyền tự do và lợi ích chính đáng của mình khi thực hiện các giao dịch dân sự, đồng thời có điều kiện tham gia giám sát việc thực hiện các chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước và công chức, viên chức nhà nước được trao quyền.

Thứ tư, thực hiện pháp luật về công chứng có vai trò quan trọng trong việc phục vụ nhân dân và xã hội.Thực hiện pháp luật về công chứng một mặt để công chứng viên cung cấp các dịch vụ pháp lý chất lượng cho người dân, mặt khác công chứng viên có thể tham gia vào các nhu cầu đa dạng của đời sống kinh tế xã hội. Thực hiện pháp luật về công chứng góp phần bảo vệ và phát triển các giá trị đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, bảo vệ sự công bằng xã hội, lòng tin vào công lý của con người. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

1.2.4. Nội dung thực hiện pháp luật về công chứng

Các quy phạm pháp luật về công chứng của nước ta hiện nay được ghi nhận trong rất nhiều văn bản (Luật, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư, Quyết định…) của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, liên quan đến tất cả các mặt về công chứng. Trên cơ sở phân tích các nội dung của pháp luật công chứng trên thì nội dung thực hiện pháp luật về công chứng bao gồm:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng Thứ hai, thực hiện pháp luật về công chứng viên

Thứ ba, thực hiện pháp luật về thủ tục và hoạt động công chứng Thực hiện pháp luật về thủ tục và hoạt động công chứng bao gồm;

Thực hiện pháp luật đối với hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất;

  • Thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, thuê tài sản;
  • Thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng mua bán, tặng cho góp vốn bằng tài sản khác;
  • Thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng vay tiền, thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, hợp đồng bảo lãnh;
  • Thực hiện pháp luật về công chứng di chúc và các giao dịch thừa kế khác;
  • Thực hiện pháp luật về công chứng văn bản bán đấu giá bất động sản;
  • Thực hiện pháp luật về công chứng về hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền;
  • Nhận lưu giữ di chúc, cấp bản sao văn bản công chứng;
  • Thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng giao dịch khác.

Như vậy, thực hiện pháp luật về công chứng là những hoạt động của các chủ thể tham gia công chứng làm cơ sở lý luận đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng.

1.2.5.Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về công chứng Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Để đảm bảo việc thực hiện pháp luật về công chứng cần phải quan tâm đến nhiều yếu tố, từ chất lượng văn bản pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực công chứng; các yếu tố liên quan đến việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật cho đến các yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật, trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, kinh tế, vật chất bảo đảm thực hiện pháp luật. Cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng là yếu tố đầu tiên, quyết định đến việc thực hiện pháp luật về công chứng. Một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công chứng đồng bộ, chính xác, chất lượng cao sẽ giúp việc thực hiện pháp luật về công chứng được kịp thời nhanh chóng đúng pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như công việc quản lý nhà nước.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công chứng và việc thực hiện pháp luật về công chứng có mối quan hệ biện chứng, trong đó hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công chứng là yếu tố tiền đề, quyết định đến hiệu quả thực hiện pháp luật về công chứng. Ngược lại, thực hiện pháp luật về công chứng góp phần thực hiện hóa các văn bản quy phạm pháp luật góp phần vào hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công chứng.

Thực tiễn công tác công chứng ở nước ta những năm qua cho thấy những bất cập, hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công chứng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật công chứng. Do đó, việc thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công chứng là rất cần thiết, tạo điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về công chứng.

Thứ hai, cơ sở vật chất trang thiết bị và nguồn lực tài chính Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Ở mỗi vùng, miền với điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau thì việc thực hiện pháp luật về công chứng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trình độ phát triển kinh tế, xã hội tạo ra tác phong, lối sống tuân thủ pháp luật, tạo ra cơ sở vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng. Do đó, để đảm bảo pháp luật về công chứng chúng ta phải đầu tư phát triển kinh tế ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số. Việc xóa đói, giảm nghèo và đầu tư phát triển kinh tế là điều kiện quan trọng để đảm bảo việc thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về công chứng nói riêng.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực tài chính cho hoạt động thực hiện pháp luật về công chứng, cũng là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng thực hiện pháp luật về công chứng. Các yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về công chứng như chất lượng văn bản pháp luật, trình độ năng lực, phẩm chất của cán bộ làm công tác công chứng… đều phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn lực tài chính. Nếu thiếu yếu tố vật chất thì các hoạt động đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về công chứng sẽ thiếu hoặc không hiệu quả. Do đó, để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về công chứng thì phải quan tâm đến cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực tài chính phục vục cho công tác thực hiện pháp luật về công chứng.

Thứ ba, yếu tố văn hóa

Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống.

Đảm bảo thực hiện pháp luật về công chứng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hóa của người dân. Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp do thiếu hiểu biết pháp luật về công chứng đã vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có một số người có trình độ văn hóa nhất định nhưng do lợi ích cá nhân, ý thức pháp luật chưa cao nên vẫn cố tình vi phạm pháp luật về công chứng. Mặt khác chính sự đa dạng dân tộc đã tạo ra những bản sắc văn hóa đặc trưng riêng có của các dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta đang bảo tồn, phát huy thì cũng còn lưu giữ, tồn tại những phong tục, tập quán lạc hậu cần xóa bỏ nhưng vẫn chưa thực hiện được. Như vậy, để đảm bảo thực hiện tốt pháp luật về công chứng cần phải nâng cao trình độ văn hóa của người dân.

Thứ tư, trình độ, năng lực, phẩm chất của công chứng viên Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

Trình độ, năng lực quản lý và phẩm chất chính trị đạo đức của viên chức là những yếu tố quyết định bảo đảm thực hiện pháp luật đúng đắn, có hiệu quả.Trình độ, năng lực yếu kém, lại thiếu trách nhiệm, thiếu tính chủ động trong việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì pháp luật dù có đúng đắn cũng chỉ nằm trên giấy.Trình độ, phẩm chất chính trị, đạo đức của chuyên viên và công chứng viên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật về công chứng. Như vậy, để bảo đảm việc thực hiện pháp luật về công chứng ngoài yêu cầu người làm công chứng phải có trình độ chuyên môn, am hiểu bản sắc dân tộc biết vận dụng linh hoạt pháp luật cần phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, trong quá trình thực thi công vụ phải tích cực chủ động, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về công chứng.

Tiểu kết chương 1

Từ việc phân tích khái niệm công chứng qua các văn bản quy phạm pháp luật trong từng thời kỳ cho thấy, bản chất công chứng là một hoạt động xã hội nghề nghiệp mang tính dịch vụ công. Dịch vụ công là những hoạt động nhằm phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ chức. Như vậy, cung ứng dịch vụ công là một chức năng – chức năng xã hội của Nhà nước, là yếu tố quan trọng đảm bảo duy trì, củng cố chứng năng quản lý của Nhà nước.

Thực hiện pháp luật về công chứng là một dạng quan hệ mà khi được thiết lập chúng có mối quan hệ đan xen của nhiều lĩnh vực pháp luật như đất đai, nhà ở, dân sự, kinh tế, thương mại, ngân hàng, công chứng…Vì vậy, yêu cầu tất yếu khách quan đối với Công chứng viên khi thực hiện công chứng không chỉ tuân thủ đúng pháp luật những vấn đề mang tính thủ tục, nghiệp vụ chuyên môn của một Công chứng viên như: trung thực, thật thà, khách quan, công tâm và độc lập, mà đòi hỏi Công chứng viên phải am tường các lĩnh vực pháp luật có liên quan bao gồm cả pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành để có đủ khả năng kiểm định, thẩm tra tính hợp pháp của giao dịch. Có như vậy, các văn bản công chứng do Công chứng viên thực hiện mới đảm bảo sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại đảm bảo hợp đồng, giao dịch có giá trị thi hành và có giá trị chứng cứ. Từ đây, chúng ta nhận thức được rằng, thực hiện pháp luật về công chứng là sự hiện thực hóa các quy định của pháp luật về công chứng vào đời sống thực tiễn, cũng là quá trình làm cho các hành vi của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự được đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Luận văn: Thực hiện pháp luật về công chứng tại Hà Nội.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh Đắk Lắk

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993