Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận Văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực tiễn áp dụng chế định án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1-THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ:

2.1.1. Những kết quả đạt được:

Trong 5 năm, từ năm 2000-2004, ngành Toà án tỉnh Quảng Trị trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự đã áp dụng biện pháp án treo đối với người bị kết án tương đối phổ biến, điều này được thể hiện qua bảng thống kê số liệu dưới đây:

Số liệu lấy từ kết quả xét xử của 9 Toà án huyện thị trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2000-2004:

Qua bảng thống kê số liệu về tỷ lệ người bị kết án được hưởng án treo so với các hình phạt khác của ngành Toà án tỉnh Quảng Trị trong 5 năm (2000-2004), chúng ta có thể thấy số lượng người bị kết án được hưởng án treo so với các hình phạt khác chiếm một tỷ lệ tương đối lớn (40,10%), đây là một kết quả đáng khích lệ, thấy được vai trò và tầm quan trọng của biện pháp án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. 456 người bị phạt tù được hưởng án treo chính là 456 người bị phạt tù không bị chấp hành hình phạt trong các trại cải tạo mà vẫn sinh sống, lao động cải tạo tại cộng đồng nơi cư trú hoặc nơi làm việc; điều này có một sự tác động rất lớn đến cuộc đời của người bị kết án cũng như đời sống của cộng đồng xã hội và gia đình của người được hưởng án treo. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Qua công tác thi hành án, theo dỏi, giám sát, giáo dục các đối tượng chấp hành án treo tại địa phương nơi cư trú, làm việc của họ thì thấy rằng phần lớn các đối tượng này cải tạo tốt tại địa phương, khoảng hơn 98% số người bị kết án được hưởng án treo không phạm tội mới trong thời gian thử thách. Đây có thể coi là hiệu quả của việc áp dụng chế định án treo trong hoạt động xét xử của ngành toà án nói chung và ngành Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị nói riêng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2. Những mặt hạn chế:

Bên cạnh những kết quả đạt được, các Toà án địa phương áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không đúng pháp luật xảy ra cũng đáng kể, mặc dù các Toà án cấp trên đã có sự nhắc nhở nhiều lần tại các báo cáo kết quả giám đốc kiểm tra án hàng quý, hàng tháng và các báo cáo tổng kết công tác xét xử của năm…nhưng tình trạng áp dụng sai chế định án treo vẫn còn tồn tại, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến nền pháp chế XHCN, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giảm tác dụng của biện pháp án treo; một số người phạm tội không đủ điều kiện cho hưởng án treo nhưng Toà án lại cho hưởng án treo, ngược lại có những người đủ điều kiện được hưởng án treo thì Toà án không cho hưởng án treo, điều đó làm mất đi ý nghĩa của án treo, không có tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng, dẫn đến có một số đối tượng vẫn chứng nào tật ấy, phạm tội trong thời gian thử thách của án treo hoặc hình phạt dành cho họ không nghiêm khắc, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Điều này đã làm giảm tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa của án treo, Bản án do Toà án tuyên ra không được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ, không đáp ứng được nhiệm vụ chính trị của địa phương, giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm.

Thực tiễn áp dụng các quy định về án treo cho thấy, những sai sót mà ngành Toà án thường gặp phải là Toà án cho người phạm tội hưởng án treo không có căn cứ, một số người phạm tội không đủ điều kiện cho hưởng án treo nhưng Toà án lại cho hưởng án treo, ngược lại có những người đủ điều kiện được hưởng án treo thì Toà án không cho hưởng án treo; tuyên thời gian thử thách không chính xác hoặc không tuyên cụ thể thời gian thử thách tính từ ngày nào; tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách không đúng, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không chính xác dẫn đến cho hưởng án treo sai, công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo chưa được chú trọng…Vậy, nguyên nhân là do đâu?. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH ÁN TREO KHÔNG CHÍNH XÁC:

2.2.1. Về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo:

Bộ luật hình sự năm 1999, tại Điều 60 không có quy định thời gian thử thách của án treo được tính từ khi nào, từ khi tuyên bản án cho hưởng án treo hay tính từ khi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật?.

Có ý kiến cho rằng: thời gian thử thách của án treo nên tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự 1985 (viết tắt là 01/1990/NQ-HĐTP) quy định về cách tính thời gian thử thách của án treo thì: thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo… kiến khác lại cho rằng: thời gian thử thách nên tính từ ngày bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật.

Tại khoản 5 Điều 5 Chương II của Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ “Quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo” quy định “…Thời gian thử thách được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án”.

Như vậy, Tòa án nhân dân tối cao thì quy định tính thời gian thử thách từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo, Chính phủ thì quy định tính thời gian thử thách từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án. Nhưng trong thực tiễn xét xử các Toà án địa phương vẫn áp dụng những quy định của Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Những bản án cho hưởng án treo tính thời gian thử thách không phải từ ngày tuyên án mà tính từ ngày bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật hoặc tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án được coi là không chính xác.

Để hiểu thêm vấn đề này thì chúng ta hãy nghiên cứu Công văn số 1327-NCPL ngày 4-11-1965 của Toà án nhân dân tối cao gửi Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây về cách tính thời gian thử thách của án treo:

“…Nên tính thời gian thử thách kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, có thể hợp lý hơn và có tác dụng thiết thực hơn, vì các lý do sau đây: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

(1). Phần lớn các bản án sơ thẩm đều được y án, do đó ít có khả năng xẩy ra tình trạng bắt thử thách một người vô tội. Phần lớn các bản án có kháng cáo, kháng nghị cũng đều được xử lại trong một thời gian tương đối không lâu, do đó cũng ít có trường hợp án phúc thẩm vừa tuyên xử đã bị xoá bỏ. Hơn nữa, trong trường hợp đặt biệt, thời gian chờ đợi xử phúc thẩm có thể bị kéo dài gần ngang thời gian thử thách đã được ấn định trong bản án sơ thẩm, vẫn có thể tránh tình trạng bất hợp lý này bằng cách Toà án khi xử phúc thẩm sẽ kéo dài thêm thời gian thử thách một cách thích đáng để duy trì hiệu lực của bản án phúc thẩm.

(2). Coi thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm sẽ có tác dụng thiết thực giáo dục, ngăn ngừa ngay đối với người bị kết án. Người bị kết án sẽ hiểu rằng nếu y lại phạm tội mới trong khi chờ đợi phúc thẩm xử lại, tức là y đã phạm tội trong thời gian thử thách, và như vậy, án treo đó sẽ bị thi hành trong trường hợp phúc thẩm y án.

(3). Nếu áp dụng nguyên tắc “tính thời gian thử thách của án treo kể từ ngày bản án trở thành nhất định” thì cũng sẽ có khả năng phát sinh tình trạng bất hợp lý là một bị can có thể phải thụ hình song song hai bản án: 1 án tù treo và 1 án tù ngồi, hoặc phải thu hút án tù treo vào án tù ngồi. (Ví dụ: án sơ thẩm xử X. 6 tháng tù treo, 1 năm thử thách về tội lừa đảo. Trong khi chờ đợi xử phúc thẩm lại, do một mình X kháng cáo, X lại can tội trộm quả tang và bị xử 1 năm rù ngồi. Không thể bắt thi hành án treo cũ sau khi phúc thẩm y án vì không phải là trường hợp phạm tội trong thời gian thử thách).

Ngược lại, nếu áp dụng nguyên tắc “tính thời gian thử thách của án treo ngay từ ngày tuyên án sơ thẩm” thì sẽ tránh được tình trạng bất hợp lý đó, vì trường hợp phạm tội mới trong thời gian chờ đợi xử phúc thẩm cũng coi như phạm tội mới trong thời gian thử thách, và nếu sau này phúc thẩm bản án treo đó thì án đó cũng sẽ phải thi hành cùng với án tù giam về tội mới. Như vậy, hợp lý hơn, không những đối với nhân thân của bị cáo đã tỏ ra bất chấp pháp luật mà cả đối với tác dụng phòng ngừa chung…

Tóm lại, nhằm mục đích nâng cao tác dụng giáo dục và phòng ngừa của án treo, nên tính thời gian thử thách ngay từ ngày tuyên án sơ thẩm” [25- 131]. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Theo chúng tôi, đây là một sự giải thích, lập luận rất hợp lý. Nếu thời gian thử thách tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo sẽ khắc phục được tình trạng người bị kết án nhưng cho hưởng án treo trong thời gian bản án kết tội của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật đã có hành vi phạm tội mới vẫn không thể xem là phạm tội mới trong thời gian thử thách, điều này đồng nghĩa với việc không thể bắt họ chấp hành hình phạt của bản treo đó. Nhưng công văn không làm rõ các trường hợp nếu bản án sơ thẩm cho hưởng án treo nhưng phúc thẩm không cho hưởng án treo, giám đốc thẩm lại cho hưởng án treo… thì tính thời gian thử thách từ khi nào?. Thời gian sau đó đã có nhiều sự giải thích khác nhau về cách tính thời gian thử thách của án treo nhưng sự giải thích hợp lý và chính thống nhất là Nghị quyết 01/1990/NQ – HĐTP.

Từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, thì chưa có một văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn việc áp dụng các quy định về án treo quy định tại Điều 60 BLHS, như: các căn cứ cho hưởng án treo; thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo; về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác trong thời gian thử thách (hành vi phạm tội có thể xảy ra trong thời gian thử thách hoặc trước khi có bản án cho hưởng án treo)…; mà các Toà án địa phương vẫn vận dụng, áp dụng một số quy định của Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự 1985. Điều này làm cho các Toà án địa phương khi áp dụng chế định án treo còn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc nhất định.

Xin nêu một vụ án cụ thể trong thực tiễn xét xử như sau:

Ngày 12/3/2001, Hoàng Quốc Dũng bị TAND huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thờ i gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án (12/3/2001), về tội “vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 BLHS .

Ngày 28/12/2001 Chánh án TAND tỉnh Quảng Trị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án sơ thẩm của TAND huyện Hướng Hoá, vì có căn cứ xác định rằng cấp sơ thẩm định tội danh không chính xác.

Ngày 18/2/2002 Hội đồng giám đốc thẩm TAND tỉnh Quảng Trị xét giám đốc thẩm vụ án nêu trên và quyết định huỷ bản án sơ thẩm của TAND huyện Hướng Hoá, giao về cho TAND huyện Hướng Hoá để xét xử lại từ đầu theo trình tự sơ thẩm đối với bị cáo Hoàng Quốc Dũng về tội “ buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 BLHS.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/HSST ngày 12/3/2002 TAND huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị đã tuyên phạt Hoàng Quốc Dũng 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án(12/3/2002) về tội “ Buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 BLHS. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Vậy, TAND huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị tính thời gian thử thách như vậy có chính xác không?

Để làm rõ vấn đề này chúng ta hãy tham khảo Công văn 267-NCPL ngày 20-4-1971 của Toà án nhân dân tối cao gửi Toà án nhân dân Hải Phòng về cách tính và định thời gian thử thách của một bản án treo thay thế một bản án treo trước đã bị tiêu huỷ qua trình tự giám đốc sau khi đã phát sinh hiêu lực:

“1. Án ngày 27-1-1970 xử V.V.P. 18 tháng tù treo, 2 năm thử thách đã bị tiêu huỷ (Quyết định số 19 ngày 26-10-1970 của Toà hình sự 2 Toà án nhân dân tối cao) do việc đánh giá lỗi hổn hợp chưa sát.

Toà án Hải Phòng đã xử sơ thẩm lại ngày 22-3-1971 và tuyên phạt V.V.P.12 tháng án treo, 2 năm thử thách kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Thời gian thử thách của án này không thể tính lùi trở lại từ ngày 27-1-1970 được vì án trước đã bị tuy hiểu và như vậy, về nguyên tắc thời gian thử thách phải được tính từ ngày xử sơ thẩm lại, tức là ngày 22-3-1971.

2.Tuy nhiên, án xử lần đầu ngày 27-1-1970 đã có thời gian phát sinh hiệu lực pháp luật cho đến ngày bị tiêu huỷ 26-10-1970. Đối với bị can, y đã thực sự chấp hành việc thử thách trong thời gian đó. Nếu không tính đến thời gian 9 tháng này cho bị can thì rõ ràng bị can sẽ bị thiệt thòi, thời gian thử thách trên thực tế sẽ bị kéo dài.

Đáng lý, khi xét xử lại lần sau, Toà án cần chú ý thích đáng đến tình hình đó, nhất là đối với một bị can mà án xử lần trước có phần hơi nặng, và có thể áp dụng lại biện pháp sau đây:

Hoặc tuyên xử trong bản án cho khấu trừ thời gian thử thách mà bị can đã thực sự chấp hành trước khi bản án xử tù treo lần đầu bị xử tiêu huỷ (trong vụ án này có thể là 9 tháng từ ngày 27-1-1970 đến 26-10-1970), ví dụ: Thời gian thử thách hai năm, trừ 9 tháng còn lại 15 tháng. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Hoặc tuyên xử một thời gian thử thách của án treo mới ngắn hơn một cách thích đáng (ví dụ: trong vụ án này, có thể tuyên xử 12 tháng tù treo, 12 tháng hoặc 15 tháng thử thách) [25-133].

Như vậy, từ năm 1971 Toà án nhân dân tối cao đã có sự giải thích và xem xét về vấn đề này, điều này sẽ hợp lý hơn và không gây thiệt thòi cho người bị kết án. Nhưng, từ khi có Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 đến nay thì mọi văn bản hướng dẫn trước đây đều bị Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP thay thế và không còn hiệu lực nữa. Nghị quyết quy định thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo; nếu có nhiều bản án cho hưởng án treo thì tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo…

Tại phần 2 mục III của Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự 1985, quy định về cách tính thời gian thử thách của án treo như sau:

“Để phát huy tác dụng phòng ngừa của án treo, tránh tình trạng người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm hoặc phạm tội mới trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà không bị coi là phạm tội trong thời gian thử thách, từ nay thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo; nếu có nhiều bản án cho hưởng án treo thì tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo. Nghĩa là nếu Toà án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; nếu Toà án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm; nếu cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án giám đốc thẩm; nếu Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm lại cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm”. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Như vậy, ở phần đầu của Nghị quyết 01/HĐTP quy định về việc tính thời gian thử thách là “…nếu có nhiều bản án cho hưởng án treo thì tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo. Nghĩa là nếu Toà án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm…”, điều này theo chúng tôi cũng được hiểu là “khi cùng một vụ án mà bị cáo bị xét xử sơ thẩm nhiều lần mà bản án sơ thẩm lần đầu và bản án sơ thẩm lần sau cùng đều cho bị cáo hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm lần đầu cho hưởng án treo”.

Vậy theo chúng tôi, thì TAND huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị tính thời gian thử thách như vậy là sai, thời gian thử thách trong vụ án này phải tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm lần đầu (12/3/2001), vì từ khi tuyên bản án sơ thẩm lần đầu đến khi tuyên bản án sơ thẩm lần hai là 12 tháng, bị cáo Hoàng Quốc Dũng vẫn chịu thời gian thử thách của bản án cho hưởng án treo trước, và trong thời gian đó bị cáo Dũng vẫn chấp hành tốt thời gian thử thách mà không có vi phạm gì. Toà án không xem xét thời gian thử thách đã chấp hành của bị cáo Dũng là chưa công minh, gây thiệt thòi cho bị cáo.

Theo chúng tôi, để việc áp dụng cách tính thời gian thử thách của án treo được thống nhất và chính xác đối với trường hợp như trên thì Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP cần phải quy định cụ thể thêm là: “…nếu một vụ án mà bị xét xử sơ thẩm nhiều lần mà bản án sơ thẩm lần đầu và bản án sơ thẩm lần cuối cùng đều cho người bị kết án hưởng án treo (do bản án sơ thẩm lần đầu… bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm huỷ án để xét xử lại ở cấp sơ thẩm) thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo”. Mặt khác, cũng cần bổ sung thêm vào cuối khoản 1 Điều 60 BLHS như sau: “Khi xử phạt tù…thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án”. Có như vậy thì việc áp dụng về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo mới được thống nhất và chính xác.

2.2.2. Về tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS thì đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 BLHS.

Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 BLHS thì (1): trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì toà án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 BLHS; (2): khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 BLHS.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo có thể bị xét xử về một tội phạm khác mà tội phạm này có thể được thực hiện trước khi có bản án treo hoặc thực hiện trong thời gian thử thách của án treo. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong những trường hợp này vấn đề tổng hợp hình phạt còn gặp phải một số khó khăn vướng mắc cần phải khắc phục và có sự hướng dẫn thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Dưới đây là hai trường hợp, khi tổng hợp hình phạt đối với người đang chấp hành án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách mà các Toà án địa phương còn gặp phải những sai sót, đó là:

Người đang chấp hành án treo bị xét xử về một tội phạm hình sự trong thời gian thử thách mà hành vi phạm tội được thực hiện trước khi có bản án cho hưởng án treo:

Ví dụ 1: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Nguyễn Văn Tân bị Toà án nhân dân huyện P xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án ngày 18/8/2002 về tội “trộm cắp tài sản” theo bản án số 16/HSST ngày 18/8/2002, nhưng trong thời gian thử thách Tân bị TAND huyện P xét xử về tội “cướp giật tài sản” mà hành vi phạm tội được thực hiện trước ngày có bản án cho hưởng án treo (phạm tội ngày 6/3/2001), bản án số 04/HSST ngày 5/1/2003. Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Q đã áp dụng khoản 5 Điều 60 BLHS để tổng hợp hình phạt đối với Tân; buộc bị cáo Tân phải chấp hành hình phạt của bản án trước (về tội trộm cắp tài sản) và tổng hợp với hình phạt của bản án mới (về tội cướp giật tài sản) theo Điều 51 BLHS.

Việc tổng hợp hình phạt như trên là sai, vì trường hợp này Tân không phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo, Tân chỉ bị xét xử về một tội phạm hình sự trong thời gian thử thách mà hành vi phạm tội được thực hiện trước khi có bản án cho hưởng án treo, có nghĩa là trước khi phải chấp hành thời gian thử thách. Mặt khác, Điều 50, 51 BLHS không quy định trường hợp tổng hợp án treo với các hình phạt khác (lý do không thể tổng hợp được vì án treo không phải là một loại hình phạt trong hệ thống các loại hình phạt quy định trong BLHS (Điều 28), mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện), mà chỉ quy định trường hợp tổng hợp hình phạt tù với hình phạt tù, hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù với hình phạt cải tạo không giam giử (ba ngày cải tạo không giam giữ bằng một ngày tù) và các hình phạt cùng loại khác. Vì vậy không thể áp dụng khoản 5 Điều 60 BLHS để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo trong trường hợp này được mà phải buộc bị cáo chấp hành song song hai bản án. Có nghĩa là bị cáo vừa phải chấp hành hì nh phạt tù của bản án sau và vừa phải chấp hành thời gian thử thách của bản án cho hưởng án treo trước; Nếu trong thời gian chấp hành thời gian thử thách của bản án cho hưởng án treo đó mà bị cáo phạm tội mới thì buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo đó và tổng hợp tất cả các hình phạt chưa chấp hành của nhiều bản án theo quy định tại khoản 5 Điều 60 và Điều 50, 51 BLHS.

Trường hợp tội phạm bị xét xử sau (nhưng hành vi phạm tội xảy ra trước khi có bản án treo) Toà án cho bị cáo hưởng án treo thêm một lần nữa thì Toà án phải tổng hợp hai bản án treo đó nhưng với điều kiện hình phạt tù của cả hai bản án treo đó không quá 3 năm và thời gian thử thách của cả hai bản án treo không dưới 1 năm và không quá 5 năm và không ít hơn mức hình phạt tù chung, còn nếu không thoả mãn điều kiện này thì không thể cho bị cáo hưởng án treo thêm một lần nữa.

b) Hành vi phạm tội xảy ra trong thời gian thử thách của án treo. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Thực tiễn xét xử còn tồn tại một vấn đề là Toà án khi xét xử các bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo, đối với tội phạm mới đáng lẽ ra Toà án phải áp dụng hình phạt khác không phải là hình phạt tù (hình phạt cảnh cáo, phạt tiền) mới phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ khác… thì Toà án lại áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mà không áp dụng các hình phạt đó, vì cho rằng áp dụng các loại hình phạt đó(hình phạt cảnh cáo, phạt tiền) thì không thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước (hình phạt tù trong bản án treo) cho nên không thể tổng hợp hình phạt theo khoản 5 Điều 60 BLHS được, điều này dẫn đến sự bất lợi cho bị cáo mà đáng lẽ ra bị cáo được hưởng các loại hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS thì đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 BLHS.

Như vậy, bất kể người phạm tội phạm tội mới trong thời gian thử thách do lỗi cố ý hay vô ý (khoản 5 Điều 44 BLHS năm 1985 chỉ quy định là phạm tội mới do vô ý nhưng bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý), bất kể Toà án xử phạt người phạm tội về tội phạm mới là loại hình phạt gì thì Toà án đều quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt trong bản án treo đó, sau đó mới tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 và Điều

Ví dụ 2: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Hoàng Văn Khánh bị TAND huyện L tỉnh Q xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án (bản án số 07/HSST ngày 12/6/2002), trong thời gian thử thách Khánh phạm tội “buôn bán hàng cấm” và bị TAND huyện Đ tỉnh Q xử phạt 20 triệu đồng (bản án số 03/HSST ngày 16/3/2003), nhưng TAND huyện Đ không áp dụng khoản 5 Điều 60 BLHS đối với bị cáo Khánh vì cho rằng do Toà án xử phạt bị cáo hình phạt chính là hình phạt tiền nên không thể tổng hợp hình phạt theo Điều 50 BLHS được, vì vậy không áp dụng khoản 5 Điều 60 BLHS mà buộc bị cáo phải chấp hành song song hai bản án (giữ nguyên án treo của bản án trước và đồng thời bắt chấp hành hình phạt tiền đối với bản án sau). Trường hợp này, TAND huyện Đ không quyết định buộc bị cáo Khánh phải chấp hành hình phạt tù của bản cho hưởng án treo trước là sai, lẽ ra TAND huyện Đ phải quyết định buộc bị cáo Hoàng Văn Khánh phải chấp hành 24 tháng tù của bản án trước về tội “trộm cắp tài sản” và chấp hành hình phạt 20 triệu đồng của bản án mới về tội “buôn bán hàng cấm” mới chính xác. Khoản 5 Điều 60 BLHS năm 1999 không quy định hình phạt của bản án sau nhất nhất phải là hình phạt tù mà có thể áp dụng bất kỳ loại hình phạt nào trong hệ thống các loại hình phạt tuỳ theo từng vụ án (hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, hình phạt tù…) nhưng chỉ đặc biệt lưu ý là không cho bị cáo hưởng án treo thêm một lần nữa và trước khi tổng hợp hình phạt thì Toà án quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước, sau đó mới tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 51 BLHS. Nếu trường hợp không thể tổng hợp hình phạt được theo Điều 50 BLHS (ví dụ như hình phạt cảnh cáo, phạt tiền không tổng hợp được với hình phạt tù) thì Toà án buộc bị cáo phải chấp hành đồng thời hai bản án (bản án phạt tù cho hưởng án treo và bản án đối với tội mới).

Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Toà án không nên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội phạm mới này vì nếu toà án có áp dụng loại hình phạt này thì theo điểm b khoản 1 Điều 50 BLHS, Toà án vẫn phải chuyễn đổi loại hình phạt đó thành hình phạt tù để tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước mà người bị kết án được hưởng án treo. Cho nên, giả sử nếu hành vi phạm tội của bị cáo tương xứng với hình phạt cải tạo không giam giữ là 3 năm thì Toà án xử bị cáo 1 năm tù (bằng 1/3 hình phạt cải tạo không giam giữ) sau đó tổng hợp với hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo đang chấp hành. Làm như vậy Toà án khỏi mất thêm một công đoạn chuyễn đổi từ hình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù, sau đó mới tổng hợp hình phạt được.

Ví dụ 3: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Bản án số 08/HSST ngày 30/7/2002 của TAND huyện Triệu Phong xét xử hai bị cáo Nguyễn Hữu Hào sinh ngày 1/1/1984 và Bùi Ngọc Tài sinh ngày 15/12/1985 về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS. Vụ án như sau:

Đêm 30/12/2001 Nguyễn Hữu Hào và Bùi Ngọc Tài lợi dụng sơ hở đột nhập vào nhà khách Ngân hàng huyện Hướng Hoá chiếm đoạt 01 chiếc xe máy trị giá 10 triệu đồng của anh Lê Văn Thừa. Vì xe phải sửa lại mới tiêu thụ được nên Hào và Tài rủ nhau đến trường tiểu học số 1 Khe Sanh dùng kéo cắt sắt, cắt khoá vào phòng hiệu trưởng lấy 2 triệu đồng. Sau đó bọn chúng về thị xã Đông Hà tiêu xài hết số tiền trên. Tối 5/1/2002 Nguyễn Hữu Hào và Bùi Ngọc Tài đột nhập vào Trường THCS xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong, Quảng Trị phá cửa phòng hành chính lấy trộm 7.200.000đ tiền của nhà trường.

Bản án số 03/HSST ngày 16/4/2002 của TAND huyện Hướng Hoá tuyên phạt: Bùi Ngọc Tài 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng; Nguyễn Hữu Hào 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy của anh Thừa và chiếm đoạt 2.000.000đ của thầy hiệu trưởng Trường tiểu học số 1 Khe Sanh.

Bản án số 08/HSST ngày 30/7/2002 của TAND huyện Triệu Phong xử như sau:

(1)- áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm o,p khoản 1 Điều 46, điểm i, n khoản 1 Điều 48 và khoản 1,2 Điều 60 BLHS xử phạt: Nguyễn Hữu Hào 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 36 tháng kể từ ngày tuyên án. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

(2)- áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm o,p khoản 1 Điều 46; điểm i, n khoản 1 Điều 48, khoản 1,2 Điều 60; khoản 1 Điều 74 BLHS xử phạt Bùi Ngọc Tài 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 tháng”.

Về hành vi đột nhập vào Trường THCS xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong, Quảng Trị phá cửa phòng hành chính lấy trộm 7.200.000đ tiền của nhà trường.

Trong bản án này, TAND huyện Triệu Phong không đề cập đến việc tổng hợp hình phạt với Bản án số 03/HSST ngày 16/4/2002 của TAND huyện Hướng Hoá. Đây là một trường hợp vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng. Bản án này sau đó bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS thì khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 BLHS. Trường hợp trên, lẽ ra TAND huyện Triệu Phong phải tổng hợp hình phạt của hai bản án và ấn định một thời gian thử thách chung.

Theo quy định tại khoản 2, 3, 4 mục IV của Nghị quyết 01/HĐTP thì nếu trong thời gian thử thách, bị cáo bị phạt tù về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và được hưởng án treo thì tuỳ trường hợp, Toà án có thể cho hoặc không cho hưởng án treo một lần nữa. Nếu toà án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo. Nếu cho người bị kết án được hưởng án treo một lần nữa, thì toà án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án và ấn định thời gian thử thách chung cho cả hai bản án. Trong trường hợp này cần chú ý là chỉ khi hình phạt chung của hai bản án không vượt quá 5 năm( nay theo BLHS năm 1999 thì thời gian này là 3 năm) thì mới được cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung cũng không được dưới một năm, không vượt quá 5 năm và không được ít hơn mức hình phạt tù chung.

Trong trường hợp sau khi hết thời gian thử thách của án treo mới phát hiện được tội phạm đã được thực hiện trong thời gian thử thách, thì việc xét xử và tổng hợp hình phạt vẫn tiến hành như trong trường hợp tội phạm đó được phát hiện trong thời gian thử thách của án treo. Toà án nào đã cấp giấy chứng nhận xoá án cho người bị kết án, thì toà án đó phải ra quyết định huỷ giấy chứng nhận xoá án đã cấp sai, trừ trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 23 BLHS đối với hành vi phạm tội trong thời gian thử thách đó.

Trong trường hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà họ đã được hưởng án treo và nếu họ đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

2.2.3. Về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS chưa chính xác: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một căn cứ để xem xét có cho hay không cho người bị kết án hưởng án treo. Khoản 1 Điều 60 BLHS quy định “…căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ…”, điều này có nghĩa người bị kết án muốn được xem xét cho hưởng án treo thì phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trở lên. Vì vậy, khi bị cáo đã thoả mãn các điều kiện khác rồi (như về mức hình phạt tù, nhân thân…) thì Hội đồng xét xử xem xét bị cáo được hưởng mấy tình tiết giảm nhẹ. Nếu thực chất theo pháp luật bị cáo chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ nhưng Hội đồng xét xử đánh giá là bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ sau đó xét cho hưởng án treo, thì đây là trường hợp cho hưởng án treo thiếu căn cứ (sai); Ngược lại, nếu thực chất theo quy định của pháp luật bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ (có thể hơn) nhưng theo đánh giá của Hội đồng xét xử thì bị cáo chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ (hoặc không có tình tiết giảm nhẹ nào) và Hội đồng xét xử không cho bị cáo hưởng án treo, thì đây là trường hợp đáng được hưởng án treo nhưng Toà án không cho hưởng án treo do hiểu và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ không đúng.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết thể hiện sự nguy hiểm của hành vi phạm tội ở những mức độ khác nhau được xem xét dựa trên các yếu tố khách quan, chủ quan hoặc các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Tất cả các tình tiết này đều thuộc về các căn cứ để quyết định hình phạt. Việc Bộ luật hình sự đã cụ thể hoá các tình tiết này tại Điều 46 và Điều 48 BLHS là nhằm mục đích hướng dẫn cho các Tòa án khi xem xét, cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như cân nhắc đặc điểm nhân thân người phạm tội, tránh sự tuỳ tiện và thiếu thống nhất trong khi vận dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự vào việc xét xử các vụ án cụ thể. Trong phạm vi một khung hình phạt nhất định, những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt một cách chính xác; thể hiện tính nghiêm minh, nhân đạo của Nhà nước ta. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Vận dụng không đúng đắn các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ sẽ dẫn đến hậu quả là xử phạt bị cáo hoặc là quá nhẹ hoặc là quá nặng, không tương xứng với hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân người phạm tội. Việc áp dụng chính xác các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự giúp cho việc đánh giá tính chất vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và người phạm tội được chính xác, trên cơ sở đó mới có thể quyết định loại và mức hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Đồng thời việc vận dụng đúng đắn các tình tiết này đảm bảo cho việc thống nhất cách vận dụng chính sách hình sự của Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Để cho việc vận dụng những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự được đúng đắn cần phải quán triệt được đầy đủ nội dung, ý nghĩa pháp lý của từng tình tiết cụ thể được quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS và đồng thời phải chú ý đến các nguyên tắc sau:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 46 và khoản 2 Điều 48 thì: Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Dựa trên cơ sở nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa luật quy định khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi trong bản án (khoản 2 Điều 46). Ngược lại, ngoài các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS, Toà án không được coi các tình tiết khác là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

Việc xác định sự ảnh hưởng của từng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là rất quan trọng trong việc quyết định loại và mức hình phạt đối với người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý nghĩa pháp lý, xã hội, chính trị không đồng đều nhau. Có tình tiết thì ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội, nhưng có tình tiết thì ảnh hưởng ít hơn. Có tình tiết chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm, còn đối với những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa rất hạn chế; Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Có thể trong một vụ án có nhiều tình tiết , có thể vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cho nên, những tình tiết này không những cần đánh giá riêng lẽ mà còn phải được đánh giá tổng hợp trong mối liên hệ biện chứng và ảnh hưởng qua lại với nhau trong toàn bộ vụ án;

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ cho phép giảm nhẹ hoặc tăng nặng trong giới hạn của khung hình phạt nhất định. Dù có nhiều tình tiết tăng nặng, Toà án cũng không được quyết định cho người phạm tội một hình phạt cao hơn mức tối đa đã được quy định trong khung hình phạt đó. Nhưng Toà án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định cho tội phạm hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ (Điều 47 BLHS).

Khi một tình tiết giảm nhẹ đã quy định cụ thể trong khoản 1 Điều 46 BLHS, tình tiết đó chưa được giải thích hướng dẫn áp dụng cụ thể đối với từng tội phạm cụ thể thì các Toà án có quyền xem xét và đánh giá các tình tiết đó để giảm nhẹ cho bị cáo theo hướng có lợi cho bị cáo, đây là quyền hạn của Hội đồng xét xử mà luật đã quy định. Trường hợp này, chúng ta không nên hạn chế quyền suy đoán có lợi cho bị cáo của Hội đồng xét xử để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho họ. Chẳng hạn hiện nay, tình tiết “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS chưa có văn bản hướng dẫn nào của cơ quan có thẩm quyền rằng: thiệt hại như thế nào được coi là không lớn, nếu thiệt hại về sức khoẻ thì mấy phần trăm thì được coi là không lớn? hoặc nếu thiệt hại về tài sản thì bao nhiều tiền được coi là thiệt hại không lớn?…mà tuỳ thuộc vào sự xem xét đánh giá của Hội đồng xét xử tuỳ theo từng tội phạm cụ thể. Ví dụ: tài sản bị chiếm đoạt chỉ là 200.000đ nhưng ở tội phạm này thì Hội đồng xét xử cho hưởng tình tiết giảm nhẹ phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nhưng ở tội phạm khác thì Hội đồng xét xử có thể không cho người phạm tội được hưởng tình tiết này tuỳ theo mức độ hậu quả mà tội phạm gây ra (hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp).

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm giảm mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội theo hướng nhẹ đi trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm cho những trường hợp phạm tội cụ thể của một tội phạm khác nhau về mức độ nguy hiểm. Những tình tiết này có ý nghĩa về mặt lượng hình phạt để tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt trong một khung hình phạt nhất định, chứ không có tính chất bắt buộc như tình tiết định tội và tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, khi xét xử Toà án phải xác định tội danh và khung hình phạt trước, sau đó mới đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Khi xét xử các vụ án hình sự, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự được Hội đồng xét xử xem xét và đánh giá theo quy định của pháp luật. Có thể do cách đánh giá của Hội đồng xét xử mà đáng ra người phạm tội được hưởng tình tiết giảm nhẹ thì không được hưởng hoặc người phạm tội không đáng được hưởng tình tiết giảm nhẹ thì lại cho hưởng tình tiết giảm nhẹ, dẫn đến cho hưởng án treo không đúng pháp luật. Đặc biệt một số tình tiết giảm nhẹ thường đánh giá sai như sau: Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS);phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm h); phạm tội do lạc hậu (điểm k); người phạm tội là người già (điểm m); người phạm tội tự thú (điểm o); người phạm tội thần khẩn khai báo, ăn năn hối cải (điểm p)…và đặc biệt một số tình tiết giảm nhẹ Hội đồng xét xử có xem xét nhưng không được ghi trong bản án. Mặt khác, trong thực tiễn xét xử có một số tình tiết giảm nhẹ được hiểu và được áp dụng không được thống nhất và chính xác, có những trường hợp đáng được hưởng tình tiết giảm nhẹ thì Toà án không cho hưởng, trường hợp không đáng được hưởng tình tiết giảm nhẹ thì toà án lại cho hưởng tình tiết giảm nhẹ, và dẫn đến việc cho hưởng án treo hoặc không cho hưởng án treo không đúng đắn.

Chúng tôi xin đề cập đến một số tình tiết giảm nhẹ sau: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

(1). Tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đã nảy sinh các vấn đề như sau:

Vấn đề thứ nhất: Một người được hưởng toàn bộ tình tiết này “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” thì được coi là có nhiều tình tiết giảm nhẹ hay một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS?. Có ý kiến thì cho rằng bị cáo chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ vì nó chỉ được quy định tại một điểm (điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS). ý kiến khác thì cho rằng bị cáo được coi là có nhiều tình tiết giảm nhẹ (3 tình tiết) vì mặc dù được quy định chung trong một điểm nhưng chúng có tính độc lập với nhau, tình tiết này không liên quan với tình tiết kia. Chúng tôi thì đồng ý với quan điểm này.

Vấn đề thứ hai: Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại. Vậy, mức bồi thường bao nhiêu so với thiệt hại xảy ra thì được coi là tự nguyện bồi thường thiệt hại?. Có quan điểm cho rằng phải có mức bồi thường đáng kể so với thiệt hại xảy ra thì mới được hưởng tình tiết giảm nhẹ là tự nguyện bồi thường; ý kiến khác lại cho rằng không kể mức bồi thường là mấy phần trăm so với thiệt hại xảy ra nhưng bị cáo hoặc gia đình bị cáo có thiện chí bồi thường thì Toà án cho họ được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Tuy nhiên, nếu mức bồi thường lớn thì mức độ xem xét khi lượng hình phạt đáng kể hơn. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này.

Vấn đề thứ ba: Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại nhưng bồi thường vào thời điểm nào thì được Toà án xem xét và chấp nhận? Nếu bị cáo bồi thường tại giai đoạn xét xử phúc thẩm hoặc tại giai đoạn nghị án thì

Toà án có chấp nhận không?; Theo chúng tôi, các trường hợp nêu trên chúng ta đều phải ghi nhận là họ đã tự nguyện bồi thường thiệt hại. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

(2). Tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đã nảy sinh các vấn đề như sau:

Vấn đề thứ nhất: Thiệt hại bao nhiêu được coi là không lớn?, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại được hiểu như thế nào, nếu tài sản bị chiếm đoạt nhưng sau đó thu hồi lại được có được coi là phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại không? [42-37].

Vấn đề thứ hai: Trong tội cướp tài sản (các tội cấu thành hình thức nói chung) có được áp dụng tình tiết này không?.

(3 ). Tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp í t nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đã nảy sinh các vấn đề như sau: Trường hợp phạm tội lần đầu thì dễ hiểu và dễ áp dụng, nhưng thế nào được coi là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, một số ý kiến thì cho rằng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS về phân loại tội phạm, cụ thể “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù”; ý kiến khác thì cho rằng phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS mà căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, như thuộc thành phần a dua a tòng, bị lôi kéo rũ rê…

(4)Tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người già” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 46 BLHS. Vậy hiểu thế nào là người già?, người trên 60 tuổi hay trên 70 tuổi mới coi là người già…đặc biệt là áp dụng tình tiết này trong các tội “xâm phạm tình dục”, “cố ý gây thương tích”…

Tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự thú” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS. Tình tiết này cũng có nhiều nhận thức khác nhau trong thực tiễn xét xử, mặc dù tình tiết này đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 2/6/1990 của BNV, VKSNDTC, TANDTC, BTP hướng dẫn thi hành chính sách hình sự đối với người phạm tội tự thú (43-36).

Tại Thông tư liên ngành số 05 thì chỉ quy định chính sách hình sự đối với người phạm tội “tư thú”, Thông tư không có đưa ra khái niệm “đầu thú” nhưng tại Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của Toà án nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ thì chia ra thành “tự thú” và “đầu thú”. Điều này đã làm cho nhiều người băn khoăn và cho rằng TANDTC đã giải thích trái với Thông tư liên ngành 05/TTLN đã nêu. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Một vấn đề khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc áp dụng chế định án treo, đó là căn cứ để cho hưởng án treo quy định tại Điều 60 BLHS không đề cập đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ chú ý đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; ví dụ: cứ có hai tình tiết giảm nhẹ trở lên kết hợp với các điều kiện khác là có thể cho người phạm tội được hưởng án treo trong khi đó, họ phải chịu các tình tiết tăng nặng khác nhưng luật không đề cập đến. Khoản 1 Điều 60 BLHS không đề cập đến các tình tiết tăng nặng mà chỉ quy định là khi có các tình tiết giảm nhẹ… điều này tạo ra sự tuỳ tiện cho Hội đồng xét xử nói chung và Thẩm phán nói riêng khi quyết định cho người phạm tội hưởng án treo.

2.2.4. Về đánh giá nhân thân người phạm tội chưa chính xác.

Nhân thân của con người là một phạm trù xã hội rất rộng và phức tạp được nhiều ngành khoa học nghiên cứu như: ngành khoa xã hội, ngành tâm lý học, ngành khoa học pháp lý…

Trong khoa học luật hình sự, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt gắn liền với chủ thể của tội phạm, thể hiện tính chất chung của người phạm tội. Tuy nhiên, nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định TNHS đối với người phạm tội.

Việc cân nhắc nhân thân người phạm tội giúp cho Toà án không những hiểu được tính chất con người phạm tội mà còn đánh giá được khả năng giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội và từ đó áp dụng một hình phạt phù hợp; Ngoài ra, nó còn giúp cho Toà án đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện của việc thực hiện tội phạm…Trên cơ sở đó, Toà án thực hiện được nguyên tắc cá thể hoá hình phạt và bảo đảm nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Xét nhân thân người phạm tội là xét tổng hợp những quan hệ giữa người ấy với xã hội, tập thể, gia đình, với người khác và xét đến những đặc điểm bản thân. Nhân thân người phạm tội là một khái niệm rộng, phức tạp, nhưng khi cân nhắc nhân thân người phạm tội để quyết định hình phạt thì không được trừu tượng hoá và tách rời khỏi tội phạm do người đó thực hiện, bởi “hình phạt luôn luôn là hình phạt cho hành vi phạm tội đã được thực hiện chứ không phải cho nhân thân của người phạm tội. Xem xét nhân thân của người phạm tội khi quyết định hình phạt không có nghĩa là xem xét nhân thân nói chung mà chỉ xem xét những đặc điểm nhất định liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội cũng như liên quan đến mục đích của hình phạt” [18-384].

Thực tiễn xét xử cho thấy, chỉ những đặc điểm nhân thân sau đây được xem xét khi quyết định hình phạt:

Những đặc điểm nhân thân liên quan trực tiếp (hữu cơ) với việc thực hiện tội phạm, nói lên mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội cũng như của người phạm tội, làm sáng tỏ mặt khách quan và chủ quan của tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, khả năng giáo dục, tự cải tạo của họ. Đó là các đặc điểm: phạm tội lần đầu, phạm tội do trình độ lạc hậu, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội hoặc cải tạo tốt, tự thú, là người chưa thành niên hoặc phạm tội nhiều lần, đã có tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng…

Những đặc điểm nhân thân khác tuy không mang tính chất pháp lý, không liên quan đến việc thực hiện tội phạm, không phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và người phạm tội, nhưng khi quyết định hình phạt Toà án phải xem xét đến; vì các đặc điểm đó có quan hệ đến các đối tượng của các chính sách của Đảng và Nhà nước như: người phạm tội thuộc dân tộc ít người, những người làm nghề tôn giáo, những người có công với đất nước, thuộc gia đình liệt sỹ, nhân sỹ, trí thức có tên tuổi…

Ngoài ra, còn có những đặc điểm về nhân thân người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ mà Toà án cần phải xem xét để quyết định hình phạt như: người phạm tội bị mắc bệnh hiểm nghèo, là người già yếu, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, là người chưa thành niên, là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn…

Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS thì, nhân thân người phạm tội là một căn cứ để xét cho hưởng án treo hay không cho hưởng án treo. Mặc dù điều luật chỉ quy định là “Căn cứ vào nhân thân của người phạm tội…” mà không quy định cụ thể là căn cứ vào nhân thân của người phạm tội như thế nào, nhưng chúng ta hiểu đó là người phạm tội có một nhân thân tốt, đủ điều kiện để miễn chấp hành hình phạt cho người bị kết án mà không cần phải cách lý họ ra khỏi đời sống xã hội cũng tin tưởng là họ sẽ không là mối nguy hiểm cho xã hội nữa. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Vấn đề này tại Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 BLHS năm 1985 đã hướng dẫn: Nói chung người được hưởng án treo phải là người chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của bản thân, chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, đối với người có tiền án, tiền sự, nếu xét tính chất của tiền án, tiền sự đó cùng với tính chất của tội phạm mới thực hiện và các căn cứ khác thấy không cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù, thì cũng có thể cho họ được hưởng án treo, nhưng tinh thần chung là hạn chế và phải xét thật chặt chẽ. Người đã được xoá án thì không coi là có tiền án. Người đã được xoá kỷ luật, xoá việc xử phạt vi phạm hành chính (tức là đã được coi như chưa bị kỷ luật, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) thì không coi là có tiền sự. Đối với các quyết định xử lý của cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội mà pháp luật chưa quy định thời hạn để được coi như chưa bị xử lý, nếu tính từ ngày ra quyết định xử lý đến ngày phạm tội đã quá 1 năm, thì không coi là tiền sự nữa. Khi xét về nhân thân của người phạm tội cần xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân, đồng thời kết hợp với thái độ của họ sau khi phạm tội và đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa chung để xem có cần phải bắt họ chấp hành hình phạt tù hay không. Những người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã ăn năn hối lỗi và thần khẩn nhận tội thì có nhiều khả năng tự cải tạo hơn các đối tượng khác, nên cần được xem xét để cho hưởng án treo.

Thực tiễn xét xử cho thấy, còn nhiều vướng mắc khi đánh giá nhân thân người phạm tội để cho hưởng án treo, vì điều 60 không có quy định cụ thể hơn về nhân thân như thế nào thì có thể cho hưởng án treo nên các Toà án đánh giá theo ý thức chủ quan của mình.

Ví dụ một vụ án cụ thể như sau:

Bản án số 05/2005/HSST ngày 11/5/2005 của TAND huyên ĐaKrông tỉnh Quảng Trị xét xử Nguyễn Thị Vân và Lê Văn Hải về tội “ Buôn lậu” theo điểm a khoản 1 Điều 153 BLHS. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Nguyễn Thị Vân có năm tiền sự, cụ thể:

  • (1)-Ngày 30/6/2004 bị công an thi xã Đông Hà xử phạt hành chính 3 triệu đồng về hành vi vận chuyển, tiêu thụ hàng cấm, hàng ngoại nhập lậu trái phép.
  • (2)-Ngày 13/9/2004 bị phòng cảnh sát kinh tế công an tỉnh Quảng Trị xử phạt hành chính 3.200.000đ về hành vi buôn bán hàng cấm.
  • (3)-Ngày 18/11/2004 bị công an huyện Hướng Hoá xử phạt hành chính 1.000.000đ về hành vi vận chuyển hàng trái phép.
  • (4)-Ngày 25/11/2004 bị chi cục Hải quan khu thương mại Lao Bảo xử phạt hành chính 5.000.000đ về hành vi vận chuyển hàng nhập lậu trái phép.
  • (5)-Ngày 15/12/2004 bị Công an huyện Đakrông xử phạt hành chính 1.000.000đ về hành vi vận chuyển hàng trái phép.

Lê Văn Hải có 3 tiền sự, cụ thể:

  • (1)- Ngày 30/6/2004 bị công an thị xã Đông Hà xử phạt hành chính 2.000.000đ về hành vi vận chuyển tiêu thụ hàng cấm, hàng ngoại nhập trái phép.
  • (2)- Ngày 13/9/2004 bị phòng cảnh sát công an tỉnh Quảng Trị xử phạt 2.200.000đ về hành vi vận chuyển hàng nhập khẩu trái phép.
  • (3)-  Ngày 22/3/2004 bị công an huyện Cam Lộ xử phạt hành chính 2.000.000đ về hành vi vận chuyển hàng ngoại nhập lậu.

Ngày 16/12/2004 Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Bộ công an phối hợp với công an huyện Đakrông kiểm tra xe ôtô 74k-36-75 do Nguyễn Thị Vân quản lý, sử dụng vận tải hành khách, Lê Văn Hải điều khiển; phát hiện các loại hàng hoá nhập lậu trị giá 86.200.000đ (gồm rượu ngoại, mì chính, nước giải khát Goldlabel, gạo nếp…) trong đó Nguyễn Thị Vân chỉ nhận hàng của mình có trị giá 18.500.000đ còn lại là của những người đi trên xe mang theo nhưng Thị Vân không biết. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Với hành vi phạm tội nêu trên của Nguyễn Thị Vân và Lê Văn Hải cùng với nhân thân của Vân và Hải, TAND huyện Đakrông xử phạt Nguyễn Thị Vân 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng. Và xử phạt bổ sung 3 triệu đồng.

Xử phạt Lê Văn Hải 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng. Và cấm hành nghề lái xe 12 tháng đối với bị cáo.

Qua vụ án trên chúng ta thấy, Toà án cho hai bị cáo Vân và Hải hưởng án treo là thiếu căn cứ. Bị cáo Nguyễn Thị Vân có năm tiền sự, bị cáo Lê Văn Hải có ba tiền sự, đây là sự thể hiện về nhân thân của các bị cáo không tốt, đã có nhiều tiền sự cho nên theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS thì các bị cáo này không đủ điều kiện cho hưởng án treo. Vì vậy, Toà án cho các bị cáo hưởng án treo là sai.

2.2.5. Do nhận thức về án treo không đúng:

Bản chất pháp lý của án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nó không nặng hơn cũng không nhẹ hơn hình phạt tù đã tuyên trong bản án cho hưởng án treo mà, Toà án khi xem xét các căn cứ để cho hưởng án treo, thấy họ có đủ điều kiện nên đã miễn chấp hành hình phạt tù cho họ và ấn định một thời gian thử thách nhất định, nếu trong thời gian đó mà người được hưởng án treo phạm tội mới thì buộc họ phải chấp hành hình phạt của bản án treo đó.

Nhưng trong thực tiễn còn tồn tại suy nghĩ là xem án treo nhẹ hơn hình phạt tù. Nhận thức này cũng trùng với quan điểm trước đây của TANDTC giải thích, hướng dẫn về án treo: “…So sánh hậu quả phổ biến về mặt pháp lý cũng như hậu quả về mọi mặt khác của án tù giam và án tù treo (người bị án treo không bị cách ly khỏi xã hội, vẫn sống trong môi trường bình thường hàng ngày của họ mà cũng không bị một sự hạn chế gì, tất cả các quyền lợi của người công dân, người bị án treo đều được hưởng, nếu họ là công nhân viên chức, họ không bị buộc phải thôi việc, họ cũng chỉ bị án tích trong thời gian thử thách dài nhất là 5 năm) thì án treo phải được xem hình thức xử lý nhẹ hơn tù giam. Như vậy chuyển án tù treo sang án tù giam dù thời gian ngắn hơn cũng là tăng nặng hình phạt. Ngược lại, chuyển án tù giam sang án tù treo, dù thời gian dài hơn cũng là giảm nhẹ hình phạt” (21 -123). Do nhận thức như vậy dẫn đến, vì có ý định cho hưởng án treo từ trước nên đáng lẽ ra xử phạt người phạm tội với mức hình phạt thấp mới phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thì HĐXX lại tăng mức hình phạt lên để cho hưởng án treo; Ví dụ: đáng xử phạt 12 tháng tù thì HĐXX tăng mức hình phạt lên 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến áp dụng biện pháp án treo không không chính xác.

2.2.6. Do năng lực của HĐXX còn hạn chế: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Về đội ngũ Thẩm phán:

  • Về số lượng Thẩm phán:

Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao năm 2003, cho đến tháng 12/2003, đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân gồm 3543 người, trong đó Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là 97 người; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh là 932 người; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện là 2514 người. Toà án quân sự trung ương có 19 Thẩm phán; các Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực có 117 Thẩm phán, trong đó Toà án quân sự cấp quân khu đã có đủ số Thẩm phán được phân bổ. Cũng theo Toà án nhân dân tối cao, với số lượng thẩm phán như vậy, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.So với số lượng Thẩm phán được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân bổ năm 2003 thì số Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp còn chưa bổ nhiệm đủ là 1210 người, trong đó Toà án nhân dân tối cao còn thiếu 23 Thẩm phán, Toà án nhân dân cấo tỉnh thiếu 186 Thẩm phán, Toà án nhân dân cấp huyện thiếu 1001 Thẩm phán. Tình trạng thiếu Thẩm phán chủ yếu huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa và ở một số đơn vị mới tách lập. Tuy nhiên có Toà án cấp huyện do số lượng vụ án ít, mỗi tháng một Thẩm phán chỉ xét xử 1-2 vụ án. Như vậy là việc thiếu thẩm phán không phải nơi nào cũng bức xúc như nhau, mà mang tính cục bộ. Đây là vấn đề cần điều chỉnh trong mối quan hệ giữa chỉ tiêu biên chế với số lượng vụ án thực tế tại mỗi đơn vị Toà án yêu cầu phải có Thẩm phán để xét xử [51-5].

ngành Toà án tỉnh Quảng Trị, số lượng thẩm phán những năm trước đây thiếu một cách trầm trọng. Có Toà án cấp huyện trong hơn một nhiệm kỳ chỉ có một Thẩm phán xét xử (Toà án huyện Đakrông), có Toà án chỉ có hai Thẩm phán xét xử (Toà án huyện Triệu Phong), Toà án nhân dân huyện Cam Lộ, Toà án thị xã Quảng Trị, TAND huyện Gio Linh.

  • Về chất lượng của Thẩm phán: Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Những năm trước đây, chất lượng đội ngũ Thẩm phán của nước ta chưa được cao, phần lớn những Thẩm phán được trưởng thành từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Một số Thẩm phán là cán bộ chuyển ngành hoặc bộ đội phục viên. Những Thẩm phán này phần lớn chưa được đào tạo về Luật một cách cơ bản, thậm chí có rất nhiều đồng chí chưa qua các lớp phổ thông mà học bổ túc từ cấp 2 đến cấp 3…Nhưng với tính chất vừa học, vừa làm, các đồng chí Thẩm phán này đã cố gắng phấn đấu học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như bổ túc văn hoá.

Đội ngũ thẩm phán mặc dù trong những năm qua nhà nước ta đã chú trọng, đầu tư thích đáng đến việc cũng cố, xây dựng một đội ngũ Thẩm phán có phẩm chất, năng lực chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới nhưng phần lớn các Thẩm phán mới chỉ được trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật mà chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức về nghiệp vụ xét xử nên phải có sự đầu tư tích cực hơn nữa mới đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình hiện nay.

  • Theo dõi đánh giá chất lượng và số lượng
  • Thẩm phán qua bảng thống kê sau [51-6]:

Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy số Thẩm phán có trình độ “Luân huấn” chiếm tỷ lệ tương đối lớn (tính đến tháng 6/2003), trong đó: Thẩm phán Toà án cấp huyện chiếm tỷ lệ 28,6% (504/2.411), Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh chiếm tỷ lệ 12% (113/921). Đây cũng là một điểm yếu kém mà ngành Toà án không thể khắc phục một lúc mà phải giải quyết dần dần. Điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử của ngành Toà án nói chung và áp dụng chế định án treo nói riêng.

Tại ngành Toà án tỉnh Quảng trị, tình hình Thẩm phán thiếu về số lượng, yếu về chất lượng vẫn chưa thể khắc phục được, đơn cử như Toà án nhân dân huyện Đakrông chỉ có một Thẩm phán từ năm 1997 đến năm 2003; Toà án nhân dân huyện Triệu Phong và huyện Cam Lộ chỉ có hai Thẩm phán nhưng đều có trình độ luân huấn, Toà án nhân dân huyện Gio Linh có hai Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán chưa có bằng đại học Luật, một Thẩm phán mới tốt nghiệp đại học Luật tại chức; Toà án nhân dân huyện Hướng Hoá tính đến 2004 có ba Thẩm phán trong đó 1 thẩm phán có trình độ luân huấn, 1 Thẩm phán có trình độ Trung cấp pháp lý, 1 Thẩm phán mới tốt nghiệp Đại học Luật tại chức; Toà án nhân dân huyện Cam Lộ có hai Thẩm phán đều mới qua các khoá luân huấn, Toà án nhân dân thị xã Đ ông Hà có ba Thẩm phán thì có hai Thẩm phán qua lớp luân huấn và một Thẩm phán tốt nghiệp đại học Luật tại chức…đặc biệt toàn ngành Toà án của tỉnh (kể cả toà án cấp tỉnh) không có Thẩm phán nào có trình độ cử nhân Luật chính quy (tính đến 2004), mà đa số là những cán bộ chuyển ngành, bội đội phục viên hoặc những người học trái ngành xin vào ngành Toà án (sư phạm, nông nghiệp, tổng hợp…). Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử cũng như áp dụng chế định án treo trong những năm qua.

Một nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử đó là ngành Toà án chưa chú trọng đến công tác sát hạch Thẩm phán, công tác đào tạo, đào tạo lại…Một số Thẩm phán sau khi được bổ nhiệm rồi không chú ý đến việc nghiên cứu, học tập, cập nhật văn bản…mà cứ đến đâu hay chớ; Đặc biệt có một số Thẩm phán không đứng vững trước những cám dỗ của xã hội dẫn đến quyết định mang tính chủ quan, xét xử không khách quan vô tư, một số trường hợp không đủ điều kiện cho hưởng án treo nhưng Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Thẩm phán viện dẫn thêm một số tình tiết giảm nhẹ không có căn cứ để cho người phạm tội được hưởng án treo theo ý chủ quan của mình…, số thẩm phán này tuy chiếm tỷ lệ thấp nhưng làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và ngành Toà án nói riêng.

Ngành Toà án Quảng Trị đang khắc phục tình trạng này dần dần. Từ năm 2005 trở đi, ngành đã quán triệt chỉ thị của lãnh đạo TANDTC, chỉ tuyển những sinh viên học đại học Luật chính quy, ưu tiên cho những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, khá để bổ sung cho các đơn vị còn thiếu. Số Thẩm phán được bổ nhiệm mới được qua lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học Viện tư pháp nên chất lượng xét xử ngày được nâng lên, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, có bản lĩnh chính trị, tư tưởng, lập trường kiên định và vững vàng, đáp ứng được nhiệm vụ công tác của ngành và nhiệm vụ chính trị của địa phương.

  • Về đội ngũ Hội thẩm nhân dân:

Hội thẩm nhân dân, thời gian qua đã cùng với Thẩm phán có những đóng góp đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả của phiên toà xét xử nhưng cũng còn đôi điều đáng phải quan tâm. Đó là hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn lõng lẻo, không đồng đều, người thì tham gia xét xử đều đặn, người thì cả một nhiệm kỳ chỉ tham gia vài vụ án, thậm chí có người không tham gia vụ án nào, lý do đó là ngoài làm công tác Hội thẩm họ còn phải đảm đương công việc của đơn vị công tác, nên chủ yếu là các hội thẩm là cán bộ hưu trí tham gia xét xử đều và nhiều vì họ có nhiều thời gian để tham gia xét xử.

Mặc khác, trình độ hiểu biết pháp luật của Hội thẩm nhân dân còn yếu so với yêu cầu đặt ra, vì hầu hết họ không được trang bị kiến thức cơ bản về pháp luật mà chỉ sau khi được bầu làm Hội thẩm họ mới được tập huấn về nghiệp vụ một thời gian hết sức ngắn (khoảng trong vòng một tuần), nên việc xét các vấn đề đặt ra đối với họ chủ yếu là bằng kinh nghiệm sống chứ chưa hoàn toàn dựa trên cơ sở của pháp luật. Và như vậy, trình độ chuyên môn cũng ảnh hưởng phần nào đến tính độc lập xét xử của họ. Chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng cũng ảnh hưởng đến lòng nhiệt tình và tinh thần trác h nhiệm của họ.

  • Do tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chưa cao:

Theo quy định tại Điều 130 Hiến pháp năm 1992 thì “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Tại Điều 5 Luật Tổ chức Toà án nhân dân quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Như vậy, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một nguyên tắc hiến định. Toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi xét xử Toà án không nhân danh mình mà nhân danh Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Vì thế, Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do Toà án thực hiện. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện và đầy đủ; xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được thể hiện ở hai khía cạnh là độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong. Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tại phiên toà,Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào hồ sơ của vụ án hay chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Toà án tuyên ra chủ yếu căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các chứng cứ và ý kiến của đại diện viện kiểm sát, luật sư bào chữa và ý kiến của những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử dựa vào kết quả phiên toà, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát theo quy định của pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân luôn luôn ý thức được là một bản án khi đã tuyên ra thì chính họ phải chịu trách nhiệm về nội dung và hình thức của bản án đó chứ không phải ai khác.

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo và lắng nghe ý kiến của bất cứ ai nhưng trong hoạt động nghề nghiệp phải luôn luôn thể hiện bản lĩnh của mình để xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho các ý kiến của bên ngoài làm thay đổi quyết định của mình. Trong trường hợp cần phải thay đổi quyết định của mình thì phải khẳng định đó là việc cần làm và không còn con đường nào khác.

Toà án cấp trên hướng dẫn Toà án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử một vụ án cụ thể, buộc Toà án cấp dưới phải tuân theo. Khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu toà án cấp trên ra quyết định huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị để điều tra, xét xử lại với thành phần Hội đồng xét xử mới thì Hội đồng xét xử mới đó vẫn có quyền xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho phép bất cứ ai, cơ quan Nhà nước nào vì bất cứ lý do gì được can thiệp vào việc xét xử của Toà án, buộc Hội đồng xét xử phải xử theo ý muốn chủ quan của mình. Khi xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét , kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Chỉ các thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Khi nghị án, Thẩm phán có nhiệm vụ giải thích cho Hội thẩm nhân dân biết những quy định của pháp luật và đường lối xét xử cần được áp dụng trong việc xử lý vụ án, nhưng Thẩm phán phải tôn trọng ý kiến của Hội thẩm nhân dân, phải là người phát biểu và biểu quyết sau cùng. Việc đó sẽ chống lại tư tưởng tự ti, ỷ lại trong việc nêu quan điểm cá nhân của mình khi xét xử. Mặc dù vậy, các thành viên của Hội đồng xét xử có quyền bảo lưu ý kiến của mình, nếu ý kiến đó là thiểu số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được để vào hồ sơ. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là tách rời đường lối chính sách của Đảng. Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ thể nhưng Đảng chỉ ra đường lối xét xử trong từng giai đoạn. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái luật, mọi vi phạm đều đưa ra xử lý theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ, không làm theo kiểu phong kiến; dân thì phải chịu hình phạt, quan thì xử theo “lễ”. Phải nghiêm trị tất cả những kẻ phạm tội, bất kỳ ở cương vị nào và phải đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân”. Đảng ta đã xác định: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những đảm bảo cần thiết để nâng cao hiệu quả xét xử của Toà án đồng thời nó cũng là trách nhiệm nặng nề của Toà án. Vì vậy, mỗi Thẩm phán và Hội thẩm phải phấn đấu học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử.

Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tuỳ tiện mà độc lập trong khuôn khổ của pháp luật. Nó đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không một bước xa rời pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào. Đó là đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Như vậy, có thể nói hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân luôn luôn phải dựa trên cơ sở pháp luật.

Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thấm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử tuỳ tiện, độc đoán.

Nhưng trong thực tiễn hoạt động xét xử, đã nảy sinh nhiều vấn đề làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Toà án dẫn đến HĐXX cho hưởng án treo không có căn cứ pháp luật. Chẳng hạn thành viên của HĐXX bị tác động của những yếu tố bên ngoài, như : sự tác động của anh em, bạn bè, sự tác động của những người có chức quyền tại địa phương hoặc của Toà án cấp trên, tình trạng thỉnh thị án, chỉ đạo án cũng ảnh hưởng không nhỏ đến độc lập xét xử của Toà án.

Mặt khác, giữa các thành viên của HĐXX cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử. Do trình độ của HTND còn hạn chế, HTND tham gia xét xử không phải là chuyên trách, Toà án có mời thì họ mới được tham gia nên họ thường bị động, Thẩm phán chủ toạ phiên toà thường quyết định hết mọi vấn đề; khi nghị án Thẩm phán không để cho Hội thẩm phát biểu trước theo quy định của pháp luật mà thường đưa ra ý kiến nhằm gợi mở hoặc gợi ý để hội thẩm nghe theo làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Hội thẩm… Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Các Hội thẩm nhân dân có trình độ, kiến thức pháp lý thấp, và kiến thức pháp lý mà họ có được chủ yếu dựa vào công tác tập huấn nghiệp vụ xét xử của Toà án, nhưng Toà án chưa chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho hội thẩm, một số hội thẩm ngồi xét xử cho đủ thành phần, không tham gia xét hỏi và không phát huy hết trách nhiệm của mình. Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ, không chuẩn bị kế hoạch xét hỏi trước nên thường hỏi những câu lặp lại câu hỏi của Thẩm phán hoặc hỏi những câu không liên quan đến việc giải quyết vụ án. Hội thẩm thường bị động hoàn toàn, họ lệ thuộc hoàn toàn vào Thẩm phán, họ tin tưởng Thẩm phán là người có kiến thức pháp lý chuyên sâu, thông thạo tác nghiệp, vì vậy Thẩm phán thường xử theo ý mình, ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của HĐXX.

2.3. CÔNG TÁC GIÁM SÁT, GIÁO DỤC, QUẢN LÝ CÁC ĐỐI TƯỢNG CHẤP HÀNH ÁN TREO:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 60 BLHS thì “Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dọc. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó”.

Thực tiễn xét xử cho thấy, khi tuyên án, Toà án thường tuyên “giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi thường trú của bị cáo (nếu bị cáo không phải là cán bộ, công nhân, viên chức) hoặc giao cho cơ quan, tổ chức nơi bị cáo làm việc ( nếu bị cáo là cán bộ, công nhân, viên chức) giám sát, giáo dục.

Đến khi ra quyết định thi hành án hình sự thì Toà án gửi hồ sơ thi hành án kèm theo bản sao bản án cho chính quyền địa phương nơi thường trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc của bị cáo để các cơ quan, tổ chức này thực hiện việc giám sát, giáo dục người bị phạt tù nhưng được hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

Một sai sót mà các Toà án thường mắc phải là sau khi kết án bị cáo, Toà án không gửi bản sao bản án cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan tổ chức nơi bị cáo làm việc để họ được biết. Vì vậy kết quả xét xử thế nào chính quyền địa phương không hề biết, thậm chí có địa phương không biết Nguyễn Văn X là công dân của địa phương mình bị Toà án huyện Y kết án. Điều này dẫn đến việc quản lý, theo dõi con người của chính quyền địa phương không sát; sự phối kết hợp giữa cơ quan Toà án và chính quyền địa phương không được tốt, điều đó làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Một thực tế cho thấy, các Toà án sau khi ra quyết định thi hành bản án treo và thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, Toà án gửi các quyết định đó cho cơ quan chính quyền địa phương nơi cư trú của người được hưởng án treo thì coi như là xong trách nhiệm, thậm chí có một số địa phương phản ánh là chưa nhận được quyết định thi hành án kèm theo bản sao bản án của Toà án. Do vậy, một số đối tượng chấp hành án treo tại địa phương không bị ai quản lý, giám sát, giáo dục; họ làm gì, ở đâu không ai hề biết. Có một số trường hợp sau khi được hưởng án treo họ bỏ đi làm ăn nơi khác mà không báo lại với chính quyền địa phương, một số đối tượng do không có ai quản lý, giáo dục nên đã phạm tội mới trong thời gian thử thác h, tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

Theo quy định tại Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ “Quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo” thì trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo thuộc về cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục người bị án treo và gia đình người bị án treo. Còn công tác kiểm tra, kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giám sát, giáo dục người bị án treo thuộc thẩm quyền của cơ quan Viện Kiểm sát.

Thực tiễn công tác trong việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, có một số Toà án có quan tâm đến việc đốc thúc chính quyền địa phương và gia đình người bị kết án trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, cấp sổ theo dỏi người được hưởng án treo, và kiểm tra sự theo dỏi đó. Đồng thời Toà án còn nhắc nhở chính quyền địa phương trong việc báo cáo kết quả lao động cải tạo tại địa phương của người được hưởng án treo và làm hồ sơ đề nghị giảm thời gian thử thách để Toà có cơ sở giảm thời gian thử thách của án treo theo quy định của pháp luật. Điều 6 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định “ Người được hưởng án treo có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục đề nghị Toà án nhân dân cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực nơi mình đang chịu thử thách xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách, khi đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ”. Điều này nhằm khuyến khích người được hưởng án treo tự lao động, cải tạo tốt để sớm hoà nhập với cộng đồng, trở thành một công dân có ích cho xã hội. Nhưng không phải Toà án nào cũng chú trọng công tác này vì Luật chưa quy định cụ thể trách nhiệm của Toà án trong công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, sau khi ra quyết định thi hành án. Luận văn: Thực tiễn chế định án treo trong luật hình sự.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY: 

===>>> Luận văn: Kiến nghị chế định án treo trong luật hình sự

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993